e. Xuất hiện thành phần mới trông cơ cấu biên
đội chiến thuật đảm bảo tăng thêm số lượng và chủng loại máy bay đột
phá tuyến phòng không của biên đội đột kích. Khi đột phá phòng không,
phương án tiêu chuẩn đảm bảo hoạt động của máy bay biên đội đột kích là
: Sử dụng rộng rãi mọi hoạt động thu hút địch, do vậy trong biên đội
chiến thuật đột kích được biên chế một biên đội chuyên thu hút địch.
Mục đích là : Đánh lừa nhân viên trực chiến sở chỉ huy và ra đa phòng
không, làm phức tạp tình hình trên không; hút hoả lực về phía mình và
xác định vị trí trận địa phòng không, để dẫn dắt máy bay của biên đội
kiềm chế. Ngoài ra còn xây dựng một biên đội đặc biệt. có 1 máy bay
trinh sát và 4 máy bay đột kích. biên đội này được gọi là "Bàn tay
sắt”, có nhiệm vụ phát hiện và phá hủy trận địa tên lửa phòng không,
kiềm chế hệ thống phòng không mặt đất. Đây là lần đầu tiên Mỹ. thực
hiện biên chế biên đội thu hút địch và biên đội kiềm chế, thực hiện
nhiệm vụ riêng biệt vào biên đội chiến thuật. Như vậy một biên đội
không tập, khi tiến hành công kích một mục tiêu được bảo vệ bằng hỏa
lực phòng không mạnh sẽ có đến hơn 50 máy bay. kể cả máy bay bảo vệ.
Trong biên chế của nó có 12 đến 16 máy bay chiến đấu ném bom, mang bom
và tên lửa kiềm chế lực lượng phòng không, 16 chiếc F105 hoặc F4 cảnh
giới, đề phòng máy bay tiêm kích phòng không tập kích, ngoài ra để đảm
bảo sự hoạt động của biên đội đột kích, còn có 2 chiếc EB66 chuyên rải
nhiễu, 2 chiếc ECI21 rà soát trên không bằng ra đa. Để tiếp dầu trên
không, còn đưa thêm 8 đến 10 chiếc máy bay tiếp dầu KCI85. Sau cùng, để
hộ tống cả biên đội còn có máy bay tuần tiễu, cứu hộ và máy bay trực
thăng. Trong chiến dịch "Hậu vệ” là theo tính toán, một máy bay công
kích phải có 5 chiếc kèm theo, mỗi chiếc có nhiệm vụ riêng, rải sợi kim
loại chống nhiễu, yểm hộ, kiềm chế tên lửa đất đối không và cao xạ
phòng không, phát nhiễu điện tử và tuần tiễu cứu hộ v.v... Điểm này cho
thấy rõ, biên đội đột kích là chủ lực và cốt cán của biên đội chiến
thuật không tập, nhưng so với trước kia nó càng cần chi viện và yểm
trợ, việc hoàn thành nhiệm vụ oanh tạc cuối cùng phải dựa vào máy bay
công kích, nhưng sự phụ thuộc vào các máy bay bảo trợ ngày càng lớn
f. Máy bay Mỹ khi bắn phá miền Bắc Việt Nam, đường bay vào ra tương
đối cố định. Máy bay không quân công kích các mục tiêu thuộc khu vực
Thái Nguyên: Hà Nội. Bắc Giang, có hai đườn.. vào : Phía Đông. cất cánh
từ Thái Lan qua Huế. Quảng Trị. đảo Bạch Long Vĩ, từ vùng Hòn Gai. Cán
Hoa vào đất liền. Phía Tây từ Thái Lan, sau khi qua khu vực Sầm Nua.
Lào, xâm nhập qua ba ngả Châu Yên - Nghĩa Lộ; Mộc Châu - Hòa Bình hoặc
Hồi Xuân - Đông Sơn. Khi công kích mục tiêu tuyến Yên Bái Lào Cai thì
vào theo đường bay phía Tây. Máy bay hải quân công kích mục tiêu trên
tuyến Thái Nbuyên-hà Nội-hữu Nghị cất cánh từ hàng không mẫu hạm, qua
Bạch Long Vĩ, vào cửa sông Hồng, sông Thái Bình. Sau khi không tập xong
thường theo đường bay trở về.
g. Chủ yếu sử dụng phương pháp bổ nhào và lướt xuống, sử dụng vũ khí
tấn công tùy theo tính chất mục tiêu và ném bom với số lượng rất lớn.
Theo thống kê của Viết Nam, trong 8 năm chiến tranh phá hoại, Mỹ ném
xuống Đông Dưỡng 7.405.155 tấn bom; gấp ba lần số bom hai nước Anh và
Mỹ ném xuống châu âu Lrong chiến tranh thế giới thứ hai; gấp 46 lần số
bom ném xuống Nhật trong chiến tranh Thái Bình Dương. Cách ném bom chủ
yếu là bổ nhào, góc độ thường là 30-40 độ, độ cao bắt đầu : 1500 - 1600
m, độ cao ném bom : 1000- 1400 m, độ cao kéo lên : 500-800 m. Cự li ném
bom : 1500-2500m. thời gian bổ nhào : 7-12 giây. Tốc độ bổ nhào :
180-200 mét/giây với A4, F8; 220-240 mét/giây với F4, F105. Có khi góc
bổ nhào là 50-60 độ, độ cao 3000-5000 m, ném bom : 2000-3000 m, kéo lên
: 800-1500 m. Có bốn cách chuẩn bị bổ nhào : trực tiếp; Leo lòng trong
còn gọi là kẻo xiên; về sau sử dụng đan chéo và bằng đầu... Máy bay Mỹ
thường sử dụng cách công kích lướt xuống, độ cao khoảng 2000 m ném bom,
góc 20-25 độ cách mục tiêu 2400 m ném bom, sau khí ném xong 1-2 giây
nhanh chóng kéo lên ra thoát ra ngoài. Có khi bay bằng ném bom hoặc
ngóc lên quãng bom. Lựa chọn loại bom khi công kích mục tiêu, thông
thường đối với mục tiêu cố định (nhà máy, ga xe lửa. cầu cống...) dùng
loại trên 500 bảng, đạn pháo phá loại trung; với mục tiêu di động (đoàn
xe, tàu thuyền. xe lửa, bộ đội hành quân...) dùng pháo nhẹ, bom bi hoặc
bom mẹ con; với mục tiêu phòng không có hỏa lực mạnh, có lúc dùng tên
lửa "chó con"; với ra đa dùng tên lửa "chim bách thanh". Ngoài ra còn
dùng hỗn hợp các loại vũ khí mới, chuyên dùng.
h. Tác dụng của vận tải hàng không rất rõ ràng, vận tải quân sự là thủ
đoạn tất yếu để kịp thời đảm bảo hậu cần, tạo điều kiện cho chiến tranh
duy trì liên tục.
Trên chiến trường Việt Nam, vật tư khí tài phần lớn là cung cấp từ
Mỹ: đường vận chuyền dài 1.6 vạn tấn, vận tải biển 16 ngày đêm, vận tải
đường không bình quân chỉ mất 30 giờ. Do hiệu quả cao của không vận,
cho nên khối lượng không vận không ngừng tăng lên, nâng cao vai trò của
quân vận tải đường không. Thí dụ, năm 1965 vật tư do không vận chuyển
đến khu vực tác chiến là 1 1 vạn tấn; 1966 là 35,5 vạn tấn; 1967 là 54
vạn lấn; 1968 là 91 vạn tấn; và chỉ trong 19 ngày. từ 26-10 đến 13- 11
- 1972 khẩn cấp huy động C141, C5A, và máy bay hàng không dân dụng 350
lần, không vận vật tư tác chiến như đại bác, xe tăng, xe thiết giáp hộ
tống, đạn dược... hơn 7000 tấn.
MÁy bay tiêm kích-ném bom F4 Phantom(con ma) Máy bay oanh tạc A-1 Skyraider (giặc nhà trời) Máy bay Tiêm kích ném bom F105
Thunderchief(Thần Sấm) là loại ámy bay tiêm kích ném bom được sử dụng
trong chiến dịch Sấm Rền( Rolling Thunder)Cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa,1 trong những mục tiêu đánh phá ác liệt của Không quân Mỹ trong chiến dịch Sấm RềnMáy bay ném bom F111