DIỄN ĐÀN CÀ MAU
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
DIỄN ĐÀN CÀ MAU

Diễn Đàn Cà Mau - Tôi Yêu Cà Mau

Chào Mừng Bạn Đến Với Diễn Đàn Mũi Cà Mau
Chúc Các Bạn Vui Vẻ

Latest topics

» Nơi cung cấp điện cực Graphite, tấm Graphite “ UY TÍN – CHẤT LƯỢNG – GIÁ THÀNH RẺ
by tramanh09 Today at 10:46 am

» Nơi cung cấp điện cực Graphite, tấm Graphite “ UY TÍN – CHẤT LƯỢNG – GIÁ THÀNH RẺ”
by tramanh09 2024-11-19, 10:01 am

» Tấm Bạc trượt tự bôi trơn, bạc đồng lỗ Graphite, bạc Graphite, bạc đồng tiết dầu
by tramanh09 2024-11-14, 3:18 pm

» Graphite tấm chịu nhiệt, khuân đúc graphite, trục khuấy Graphite, điện cực than chì EDM
by tramanh09 2024-11-12, 3:46 pm

» Tổng kho nhập khẩu và phân phối chổi than, chổi than công nghiệp
by tramanh09 2024-11-07, 10:05 am

» Cung cấp các loại dây Curoa, dây đai băng tải T5, T10, AT5, AT10, AT20,2M, S3M,5V, 8V, B97, PLP8M
by tramanh09 2024-11-01, 3:30 pm

» Cập nhật mới nhất từ GOAL123: Arsenal vs Liverpool 23h30 ngày 27/10
by superbet 2024-10-26, 10:46 am

» Cung cấp chổi than công nghiệp MG50, J204, J164, D172, CH33N, D374N…
by tramanh09 2024-10-26, 8:26 am

» Tấm graphite siêu bền - Giúp tiết kiệm chi phí và tăng năng suất
by tramanh09 2024-10-18, 4:32 pm

» Tổng kho phân phối các loại Can nhiệt PT 100/ Can nhiệt B/Can nhiệt K /Can nhiệt E
by tramanh09 2024-10-15, 3:34 pm

» Chổi than công nghiệp được thiết kế để kéo dài tuổi thọ và giảm chi phí bảo trì.
by tramanh09 2024-10-04, 11:51 am

» Tổng kho phân phối các loại Can nhiệt PT 100/ Can nhiệt B/Can nhiệt K /Can nhiệt E
by tramanh09 2024-10-02, 9:45 am


You are not connected. Please login or register

Truyện kiếp hiệp: Giang Hồ Tam Nữ Hiệp

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 1 Tỷ muội sinh đôi tặng áo giáp tơ vàng Huyết Trích Tử đến một kiếm thấy bạn hiền




Kiếm đảm cầm tâm nói cùng ai, giang hồ phiêu bạc ba nữ hiệp.


Trải bao năm tháng, hoa niên tựa làn khói.


Xa xăm trời chiều lạnh, tịch mịch đường núi vắng.


Bay đến tận chân trời, một mình tự về tổ.


(Tự đề “giang hồ tam nữ hiệp”, theo điệu Bồ tát man)


Sơn thôn vắng lặng, đường cúc vàng nghênh đón khách xa; Trung Thu sắp tới, tiết trời chớm lạnh hiu hiu.


Trên con đường núi ngoằn ngoèo có một hán tử tuổi trạc ngũ tuần, tay cầm chiếc tẩu thuốc dài đang thảnh thơi rít thuốc.


Hai bên đường hoa cỏ cây cối rườm rà, mấy đóa hoa cúc dại càng nổi bật hơn, gió núi thổi đến, hương thơm thoảng đưa.


Người đó chẳng phải là văn nhân nho sĩ, ông ta là võ sư đất Nhữ Châu miền Hà Nam tên gọi Quảng Liên.


Ông ta không phải đến đây du sơn ngoạn thủy, thôn trang phía trước có nhà người thân gia. Thân gia của ông họ Phùng tên là Quảng Triều, cũng là một võ sư. Con trai của Phùng Quảng Triều là Phùng Anh Kỳ cưới con gái của ông ta là Quảng Luyện Hà, năm ngoái đã hạ sinh được một đôi bé gái, hôm nay là ngày tròn một tuổi của chúng, ông ta đến uống rượu “trảo châu”. “Trảo châu” là phong tục ở quê hương họ, trong ngày tròn một tuổi của con cái, cha mẹ bày tất cả lễ vật trước mặt đứa bé để cho nó tự “bắt”, từ đó cha mẹ có thể đoán được tương lai của con cái thông qua những vật nó đã “bắt”.


“Người ta bảo hai đứa cháu gái của mình là ngọc nữ hạ phàm, Luyện Hà thật có phước. Ừ, hôm nay mình phải xem cho kỹ đồng tiền của chúng, kẻo Luyện Hà lại cười mình”. Số là hai đứa cháu gái sinh đôi của ông ta không những xinh xắn mà trông chẳng khác gì nhau, trên má mỗi đứa đều có một cái lún đồng tiền. Điểm khác nhau là lún đồng tiền của cô chị thì bên trái, còn của cô em thì bên phải.


Ông ta đang nghĩ đến hai đứa cháu gái yêu của mình thì chợt nghe văng vẳng có người nói chuyện.


“Không sai chứ?” “Đúng thế. Đứa trẻ ấy, ta...”


Tựa như có hai người đang nói chuyện, nghe tiếng được tiếng mất. Quảng Liên chăm chú nghe kỹ, lại nghe được một câu tương đối đầy đủ: “Giao tình của họ không tầm thường”. Nhưng câu sau thì lại không rõ: “Đã có... người đó nhất định...” giọng nói càng lúc càng nhỏ, cuối cùng thì chẳng nghe gì được.


Hai người này đã bước ra khỏi thôn, nhưng Quảng Liên từ trên cao nhìn xuống tuy không thấy rõ mặt họ nhưng có thể nhìn ra bóng dáng của họ. Ông ta quen tất cả mọi người trong thôn, nhưng hai người này rõ ràng là người lạ.


Quảng Liên nổi lòng nghe ngờ, thầm nhủ: “Nghe khẩu khí của bọn chúng, hình như đến đây dò hỏi chuyện gì đấy, chỉ là không biết là nhân vật của hắc đạo hay công sai của bạch đạo?”


Người trong thôn toàn là dân thường, chỉ có một hộ khác lạ, đó chính là thân gia của ông ta, Phùng Quảng Triều. Thời còn trẻ Phùng Quảng Triều cũng từng đi lại trên giang hồ, nhưng năm ba mươi hai tuổi thì đã qui ẩn cố hương, đóng cửa tạ khách. Ông ta ẩn cư ở quê cũ thấm thoắt đã được mười năm. Bằng hữu võ lâm cũng hỏi tại sao đang tuổi tráng niên mà đã qui ẩn, ông ta thường lảng sang chuyện khác hoặc mỉm cười không đáp.


Quảng Liên cũng chẳng biết nguyên nhân, nhưng ông ta biết trong mười năm này Phùng Quảng Triều thực sự đã không bước chân ra giang hồ. Ông ta tuy chỉ mới bốn mươi hai tuổi, trẻ hơn Quảng Liên đến sáu tuổi, nhưng đã là một người già lòng như nước lặng. Từ sau khi ông ta có cháu nội thì không hỏi đến chuyện bên ngoài nữa, chỉ vui vầy với con cháu.


Quảng Liên còn biết ông ta không bao giờ tham gia những bang hội phản Thanh, tuy họ bất mãn chuyện người Mãn Châu vào Trung Hoa áp bức người Hán. Nhưng nền móng của triều đình đại Thanh đã vững chắc, Lúc này là năm Khang Hy thứ bốn mươi lăm, người Mãn Thanh đã đặt nền thống trị ở Trung Hoa được sáu mươi ba năm. Bất mãn cũng đâu phải là cách? Bao nhiêu bậc nghĩa sĩ cũng chỉ có thể im lặng nhẫn nhục, lặng lẽ chờ đời thời cơ, huống chi họ chỉ là dân thường.


Lúc này hai người ấy đã biến mất, Quảng Liên lại ngẫm nghĩ mấy câu nói rời rạc của họ: “Đứa trẻ mà chúng nói là ai? Nghe khẩu khí của người ấy hình hư quen biết với đứa trẻ này, đương nhiên không thể là hai đứa cháu ngoại của mình? Đứa trẻ ấy có liên quan gì đến người mà chúng vừa mới nói? Mình đều biết bằng hữu của Quảng Triều, có lẽ người thân thiết với ông ta chỉ có mình. Ông ta đã sớm không còn qua lại với bằng hữu trên giang hồ, vậy thì còn ai nữa? Nhưng ‘người ấy’ có phải là mình không?”


Ông ta ngẫm nghĩ một hồi mà vẫn chẳng ra, cuối cùng quyết định: “Câu chuyện của hai người này chưa chắc có liên quan đến thân gia của mình; không chừng bọn chúng chẳng phải điều tra gì cả, chắc là chỉ đoán mò mà thôi! Mặc bọn chúng, mình phải mau đến thăm hai đứa cháu ngoại đáng yêu mới được. Gặp Quảng Triều rồi tính tiếp”. Ông ta lại nhét thuốc vào tẩu, rồi tiếp tục thong thả đi về phía trước.


Nơi luyện võ của nhà họ Phùng ngay rìa thôn, từ xa Quảng Liên có thể thấy một thiếu niên lưng ong tay vượn mày kiếm mắt sáng xoay chuyển nhanh như gió, lúc thì hạ người sát xuống đất tựa như tê giác ngắm trăng, lúc thì vung tay phóng vọt người lên như đại bàng tung cánh. Quảng Liên thầm nhủ: “Ông thân gia thường khen đứa học trò mới nhận thông minh giỏi dang, xem ra chẳng sai tí nào, nhưng không biết đây là môn công phu gì?”


Phùng Quảng Triều có hai đệ tử, đại đệ tử Vương Lăng, ba năm trước học xong xuất sư, làm bảo tiêu ở kinh đô. thiếu niên đang luyện võ trên sân tên gọi Đường Hiểu Lan, là nhị đệ tử. Đường Hiểu Lan có lai lịch rất kỳ lạ, Quảng Liên cũng không biết chàng là người ở đâu. Ngày nọ Phùng Quảng Triều chợt dắt theo một thiếu niên tuổi khoảng đôi chín đến bái kiến ông ta. Bảo rằng đó là học trò mới nhận, Đường Hiểu Lan nói giọng quan ngoại nhưng mắt thanh mày tú trông rất hiền lành. Phùng Quảng Triều chưa bao giờ ra quan ngoại, làm sao nhận một học trò nói giọng quan ngoại, Quảng Liên nghĩ mãi không ra, cũng đã hỏi riêng ông thân gia nhưng ông ta chẳng chịu nói rõ. Đã là người trong võ lâm thì không nên hỏi chuyện bí mật của người ta, Quảng Liên cũng đành thôi. Hôm nay thật trùng hợp, Quảng Liên đã gặp Đường Hiểu Lan luyện võ, ông ta nhìn kỹ một hồi, không khỏi cả kinh thất sắc!


Đường Hiểu Lan triển khai thân pháp càng lúc càng nhanh, cây hòe bên sân bị gió thổi xào xạc, từng phiến lá rơi xuống lả tả, Quảng Liên nhìn kỹ mà không biết ám khí gì, xem lại thân pháp và thủ pháp của chàng thì đó không phải là công phu như Phách không chưởng, và lại nếu bị chưởng phong chấn động thì là phải rơi xuống hàng đống chứ không phải từng phiến rơi xuống nhẹ nhàng như bị người ta ngắt thả xuống. Quảng Liên nhận ra Đường Hiểu Lan đã dùng loại ám khí nhỏ như Mai Hoa châm đâm cho cuống lá rơi xuống. Ám khí như Mai Hoa châm rất nhẹ, bởi vậy muốn phóng trúng vào mục tiêu cực kỳ khó. Thế nhưng nay Đường Hiểu Lan có thể đánh rơi lá cây cách ba trượng, quả thực lực cổ tay rất mạnh, mắt rất tinh, dù các bậc võ sư thành danh cũng hiếm thấy, chẳng qua chàng chỉ mới theo Phùng Quảng Triều được hơn một năm, làm sao chàng có thể luyện được công phu như thế? Vả lại Quảng Liên cũng biết ông thân gia của mình chẳng hề biết Mai Hoa châm.


Quảng Liên lại nghĩ: “Chả lẽ hắn biết võ công rồi mới theo Quảng Triều, vậy sư phụ trước đây của hắn là ai, hắn đã có công phu như thế cần gì phải đến tìm Phùng Quảng Triều. Ông ta tuy cao minh hơn mình nhưng trên giang hồ cũng không phải là hảo thủ thuộc hàng nhất lưu. Sư phụ trước đây của hắn chắc chắn cao minh hơn Quảng Triều nhiều”.


Đường Hiểu Lan luyện được một hồi thì đột nhiên ngừng bước, rút ra một thanh kiếm dài hơn ba thước lia lên không trung, thanh kiếm đâm trái chém phải, nhanh tựa như khỉ vượn, nhẹ nhàng như ly miêu, kiếm hoa lả tả, loang loáng dưới ánh nắng sớm. Quảng Liên càng thêm kinh ngạc, nghĩ bụng Phùng Quảng Triều xưa nay nổi danh bởi ngón Lục Hợp thương, làm sao có thể dạy học trò dùng kiếm? Vả lại kiếm pháp của Đường Hiểu Lan nhanh nhạy tuyệt luân, người có thể dạy bộ kiếm pháp này không phải là tông sư của một phái thì cũng là một kiếm khách thành danh.


Quảng Liên càng lúc càng ngạc nhiên, đang đứng ngẩn người ra thì chợt thấy Đường Hiểu Lan múa kiếm thành một vòng tròn, giơ ngang kiếm trước ngực, tay phải đặt lên thân kiếm, cuối người nói: “Đệ tử mới luyện kiếm cũng còn sơ hở, xin đừng cười chê, có phải tiền bối đến tìm gia sư đấy không?” Phùng Quảng Liên thầm bực dọc: “Cái gì mà tiền bối với chẳng tiền bối, chả lẽ tên tiểu tử nhà ngươi không nhận ra ta?” đang định mắng chàng thì chợt nghe một tiếng hú dài vọng tới, trong sân xuất hiện một người để râu ba chòm, tay cầm cây quạt xếp, trông nhẹ nhàng như thần tiên. Xem ra đó là một nho sinh tuổi hơn tứ tuần. Thân pháp của người này nhanh đến mức khó hình dung, Quảng Liên không biết y đến từ lúc nào, sao có thể đột nhiên nhảy vọt vào trong sân tựa như trên trời giáng xuống, dưới đất chui lên. Người khách phe phẩy cây quạt lông, cười nói: “Đã lâu ta không thấy ai sử dụng bộ kiếm pháp này, ngươi đã có được ba phần hỏa hầu, không nên khiêm nhường, dựa vào bộ kiếm pháp này ngươi có thể đủ gầy dựng tên tuổi trên giang hồ! Nào, nào, ta sẽ chỉ ngươi vài chiêu!” rồi y xếp cây quạt lông lại, vẫy tay Đường Hiểu Lan nói: “Ta không cần dùng binh khí đổi chiêu với ngươi, ngươi đến đây, xem thử Truy Phong kiếm pháp của ngươi có thể chạm vào vạt áo của ta được không!”


Đường Hiểu Lan hơi chần chừ, quái khách lại cười nói: “Ngươi cứ yên tâm, lệnh sư sẽ không trách ngươi đâu, mười năm trước ông ta mới biết bộ kiếm pháp này, đã từng đổi chiêu luyện kiếm với ta đến mười ngày mới xong”.


Đường Hiểu Lan chợt biến sắc, cao giọng nói: “Nhờ Quảng lão bá đến bẩm báo gia sư, tôi phải tiếp lão tiền bối vài chiêu”. Rồi cây thanh cương kiếm đâm ngược ra, quái khách chỉ hơi lắc người, Đường Hiểu Lan đã đâm hụt, chàng phóng người đánh ra một chiêu Quái mãng phiên thân, người xoay theo thế, kiếm quyết tay trái chỉ lên trên, tay phải cầm kiếm hất lên, lại chém soạt vào mạch môn của quái khách, quái khách vung tay, cả cười nói: “Mau thì có mau, nhưng vẫn chưa chính xác!” y đang lơ lửng người trên cao, đột nhiên hạ người xuống, Đường Hiểu Lan thu người đánh hất lên một kiếm, chợt nghe tiếng gió lướt qua, mũi chân của quái khách đã điểm nhẹ trên vai chàng, lộn người ra sau lưng chàng. Nếu quái khách đạp mạnh thì Đường Hiểu Lan chắc chắn sẽ bị gãy xương vai! Đường Hiểu Lan thất kinh, thân pháp của quái khách ấy không những rất nhanh mà còn có thể thu phát tùy ý. Chỉ mỗi công phu này cũng đã hơn sư phụ của chàng rất nhiều.


Không những Đường Hiểu Lan lo lắng mà cả Quảng Liên cũng kinh hãi hơn! Ông ta vốn muốn vào thông báo cho Phùng Quảng Triều nhưng vì tò mò nên muốn xem một lúc, nào ngờ chỉ trong kkh, đôi bên đã đổi nhau mấy chiêu hiểm hóc, ông ta nào dám chần chừ, vội vàng chạy về phía nhà họ Phùng, sau lưng còn nghe tiếng quái khách buông giọng cười: “Ồ, mấy chiêu này cũng rất khá, vững vàng hơn lúc nãy nhiều!” Quảng Liên không quay đầu lại, chạy một mạch đến nhà họ Phùng!


Phùng Quảng Triều đang ngồi hút thuốc suông trong sân, thấy Quảng Liên hớt hải chạy vào thì bật cười nói: “Ông thân gia đến thăm cháu gái cũng không cần gấp gáp như thế!” Quảng Liên ném lễ vật xuống đất, kéo Phùng Quảng Triều chạy, nói: “Thân gia, học trò của ông đánh nhau với người ta bên ngoài, ông mau ra xem thử!”


Quảng Liên lo lắng quái khách lúc nãy là kẻ địch của Phùng Quảng Triều có ý đến trả thù, nên rước tiên đánh bại học trò sau đó sẽ đến lượt sư phụ.


Phùng Quảng Triều vừa nghe thì đã chạy nhanh hơn nhưng vẫn khí định thần nhàn mỉm cười nói: “Ai thế? Chắc Hiểu Lan có thể chống đỡ được vài ba chiêu!”


Sân luyện võ cách cửa nhà họ Phùng khoảng trăm bước, hai người chạy một lát đã tới. Người trong sân đang đánh nhau rất kịch liệt, chợt nghe soạt một tiếng, quái khách phóng vọt ra khỏi sân, trong tay đang cầm cây trường kiếm của Đường Hiểu Lan. Còn Đường Hiểu Lan thì đã ngã xuống đất chân chổng lên trời. Quảng Liên điểm hai chân xuống đất định phóng vọt ra cứu người, Phùng Quảng Triều đã giữ tay ông lại, cười với người khách rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là ông! Học trò của tôi thế nào, ông đánh hắn ra nông nỗi thế này là quà gặp mặt cho tôi đấy sao? Ha ha!” học trò bị người ta đánh ngã mà ông ta vẫn không hề nổi cáu.


Quái khách buông giọng cười: “Mười năm không gặp, học trò của ông cũng cao minh thật!” rồi phẩy ống tay áo, chỉ thấy ống tay áo đã bị lưỡi kiếm chém mất một mảng. Té ra ông ta thấy Phùng Quảng Triều đến hơi phân tâm thì Đường Hiểu Lan đã nhanh chóng đâm một kiếm xuống hạ bàn, ông ta buộc phải thu chỏ về thúc tới, đánh ngã Đường Hiểu Lan nhưng áo cũng bị Đường Hiểu Lan cắt đứt một mảng.


Phùng Quảng Triều cười: “Ai bảo ông già mà không nên nết, bắt nạt bọn tiểu bối!”


Quái khách phẫy nhẹ cây quạt, cười rằng: “Tôi tặng cho học trò của ông một phần quà mà kẻ làm sư phụ không chịu đáp tạ, lại bảo tôi bức hiếp, người ta nghe thấy há chẳng phải sẽ cười vỡ bụng hay sao!”


Lúc này Đường Hiểu Lan đã bò dậy, chàng chạy đến trước mặt quái khách, quỳ xuống hành đại lễ, miệng nói: “Đa tạ lão tiền bối chỉ điểm!” quái khách kéo chàng dậy, nói: “Kiếm pháp của ngươi cao minh hơn ta dự liệu rất nhiều, ta vốn tưởng ngươi chẳng thể chạm được vào áo của ta, không ngờ ngươi có thể chém rách bộ quần áo ta vừa mới may”.


Phùng Quảng Triều nhảy vọt vào giữa sân, cười ha hả: “Chả lẽ tôi không biết ông đã chỉ điểm cho tiểu đồ, ông hãy yên tâm, nhà tôi tuy nghèo nhưng có thể thường nổi bộ áo trường sam. Nào, nào, ông hãy gặp thân gia của tôi, tiểu nhi đã thành hôn. Hỡi ơi, thời gian trôi qua thật nhanh!” rồi vẫy tay, Phùng Quảng Triều bước vào, vừa kinh ngạc vừa hổ thẹn, thầm nhủ: “Mình chưa bao giờ nghe Quảng Triều nói có một bằng hữu võ nghệ cao cường như thế, thật hổ thẹn, mình đã không nhận ra y chỉ muốn chỉ điểm cho Hiểu Lan”.


Đường Hiểu Lan khổ luyện Truy Phong kiếm thức, nhưng một năm qua chưa bao giờ thử dùng để ứng địch, lúc nãy mới thực sự tiếp chiêu, quái khách vừa ra tay vừa chỉ điểm cho chàng, đương nhiên khiến chàng hiểu biết ra rất nhiều. Chàng đứng bên cạnh lắng nghe sư phụ nói chuyện.


Phùng Quảng Triều vuốt râu nói: “Đồ nhi, món quà gặp mặt của sư bá giành cho con không nhỏ tí nào, té một lần cũng đáng lắm, thân gia, chắc ông đã từng nghe tên của người khách này, ông ta chính là bậc danh túc Vô Cực kiếm Chung Vạn Đường!”


Phùng Quảng Liên kêu ôi chao lên một tiếng rồi nói: “Té ra là Chung lão sư, chả trách nào lợi hại đến thế!”


Sư tổ của Chung Vạn Đường là thần y Phó Thanh Chủ, người sống vào cuối thời Minh đầu thời Thanh, nên ông ta cũng thông hiểu y thuật, khi đi lại trên giang hồ cũng mang theo túi thuốc và bảo kiếm, cũng đã làm không ít chuyện hiệp nghĩa, nhưng mười năm gần đây cũng giống như Phùng Quảng Triều, ông ta đột nhiên mai danh ẩn tích. Quảng Liên không ngờ kiếm khách lừng lẫy giang hồ này đột nhiên đến miền quê hẻo lánh, vả lại còn là hảo hữu của thân gia.


Phùng Quảng Triều bước tới, nói: “Tôi biết ông sẽ đến, nhưng không ngờ ông đến sớm như thế!” Chung Vạn Đường nói: “Đúng thế, sớm ba ngày, ông vẫn còn nhớ kỹ cái hẹn mười năm trước!” Phùng Quảng Triều nói: “Ba ngày nữa là Trung Thu, lẽ nào tôi không nhớ? Này, ông đến đây thật đúng lúc, tôi tuy tóc chưa bạc nhưng đã làm tổ phụ! Hôm nay hai đứa cháu gái của tôi vừa tròn một tuổi, ông cũng đến xem chúng trảo châu!” Chung Vạn Đường nói: “Cả con trai của ông tôi chưa gặp, giờ đây ông đã có cháu nội. Phùng lão đệ, ông có phước hơn lão già này nhiều!” Phùng Quảng Triều cười nói: “Tôi làm tổ phụ mà vẫn chưa nhận già, ông đã bảo mình là già?” hai người vừa nói vừa cười, đi thẳng tới nhà họ Phùng.


Con trai của Phùng Quảng Triều là Phùng Anh Kỳ hành đại lễ bái kiến tiền bối xong, Quảng Luyện Hà cũng bế hai con ra cho Chung Vạn Đường xem!


Hai bé gái đẹp tựa như ngọc, hai đôi mắt tròn xoe cứ nhìn xung quanh, khuôn mặt giống nhau như tạc, khi cười thì cùng cười, khi khóc thì cùng khóc, tựa như tâm trạng cũng giống nhau! Chung Vạn Đường ngẩn người ra nhìn, khen rằng: “Lão đệ, Vương mẫu nương nương, Quan âm Bồ Tát đều tặng ngọc nữ cho đệ, chắc là đệ mừng lắm đây!” Phùng Quảng Triều cười nói: “Tôi chỉ cười huynh già mà chẳng nên nết, cứ cười như hai đứa cháu của tôi!” ông ta ngừng lại rồi nói: “Hai đứa trẻ này rất ngoan, nhưng có một điều không được!” Quảng Luyện Hà vội vàng hỏi: “Công công, có chuyện gì vẫn chưa được?” Phùng Quảng Triều vuốt râu cười nói: “Chúng ra đời cùng một lúc, ta chưa phân biệt nổi đứa nào là tỷ, đứa nào là muội. Này, con nói cho ta nghe thử xem, đâu là Anh nhi, đâu là Lâm nhi”.


Té ra cô chị tên Phùng Anh, cô em tên Phùng Lâm. Nhưng Phùng Quảng Triều không phân biệt nổi.


Quảng Luyện Hà nói: “Bình thường con cũng chẳng nhận ra! Trừ phi trêu chúng cười mới phân biệt được đâu là tỷ đâu là muội!” Phùng Quảng Triều ngạc nhiên nói: “Ồ, rắc rối như thế ư? Chúng cười có điều gì lạ?” Quảng Luyện Hà bế một đứa lên làm mặt xấu khẽ nói: “Ngoan nào, cười cho công công xem!” trêu một hồi, cả hai bế gái nhoẻn miệng cười, trên má mỗi cô bé đều có một cái lún đồng tiền, Quảng Luyện Hà nói: “Công công, người đã thấy chưa? Một đứa có lún đồng tiên bên trái, một đứa có lún đồng tiền bên phải”. Hai đứa trẻ lại nhoẻn miệng cười, Phùng Quảng Triều nhìn kỹ lại quả nhiên là thế, ông ta vui đến nỗi cười ha hả. Quảng Luyện Hà nói: “Đứa có lún đồng tiền bên trái là tỷ tỷ, đứa có lún đồng tiền bên phải là muội muội, công công đứng nhớ nhầm đấy!”


Bạn cũ gặp nhau, cháu gái tròn tuổi, Phùng Quảng Triều rất vui mừng, ông ta cứ cười cười nói nói, đến giờ ngọ thì Quảng Luyện Hà đã chuẩn bị xong, nói với công công rằng: “Đến giờ Anh nhi và Lâm nhi trảo châu!” nhà họ Phùng không mời thân hữu khác, nhưng quà bày trên cái bàn tròn phủ vải đỏ thì không ít, có đồ chơi, bánh kẹo, phấn son, gương soi, còn có cả vàng bạc.


Chung Vạn Đường nói: “Hay lắm, ta cũng bỏ vào hai món, nếu bọn trẻ chụp được thì ta sẽ tặng làm quà gặp mặt”. Nói rồi lấy một bộ nhuyễn giáp tơ vàng, bộ nhuyễn giáp này vốn là của Phó Thanh Chủ, ông ta săn được một con quái thú tên gọi kim mao hống ở núi Hy Mã Lạp Nhã, sau đó bảo thợ khéo lột da của nó rồi dùng tơ vàng kết thành, đến nay thì truyền cho Chung Vạn Đường. Bộ áo giáp này có thể chống lại đao kiếm, quý giá vô cùng! Phùng Quảng Triều thấy ông ta lấy món bảo vật ra thì thất kinh nói: “Lão ca, sao lại thế? Đó là bảo vật của quý phái!” Chung Vạn Đường nói: “Ông đã quá coi thường phái Vô Cực chúng tôi. Báu vật truyền đời của phái chúng tôi là y dược và kiếm thuật chứ không phải bộ nhuyễn giáp này. Đây là do năm xưa Phó sư tổ rong chơi nhân gian, tình cờ lấy được mà thôi”.


Phùng Quảng Triều vẫn thấy không ổn, đang định từ chối thì Chung Vạn Đường đã lấy ra món quà thứ hai, nói: “Món quà này chẳng quý giá bằng nhuyễn giáp tơ vàng nhưng là thứ ta thích nhất trong đời”. Đó là một cây trủy thủ dài năm tấc, điều kỳ lạ là cây trủy thủ đen bóng, cả lưỡi cũng phát ra ánh sáng màu đen. Té ra đó là loại ám khí nổi tiếng của Chung Vạn Đường tên gọi Đoạt Mệnh thần đao. Bậc nữ hiệp tiền bối của phái Vô Cực, một trong Thiên Sơn thất kiếm là Mạo Hoàn Liên, năm xưa khi đi theo Phó Thanh Chủ học võ nghệ sử dụng loại ám khí tên gọi Đoạt mệnh thần sa. Loại ám khí này có độc, nếu chẳng may bị dính phải, trong vòng mười hai canh giờ nếu không có thuốc giải thì độc phát thân vong. Khi Chung Vạn Đường học được môn ám khí này, cảm thấy Đoạt mệnh thần sa có ưu điểm mà cũng có khuyết điểm, ưu điểm là chỉ cần vãi ra một nắm thì có thể lấy ít địch nhiều, khuyết điểm là không thể đánh tầm xa, kẻ địch cách ba trượng thì khó trúng. Chung Vạn Đường dùng thuốc độc luyện thần sa để ngâm phi đao, cây phi đao này sắc bén vô cùng, vì đã được tẩm độc nên thấy máu là phong hầu. Phùng Quảng Triều thấy ông ta lấy ra thì im lặng không nói, cảm thấy loại ám khí này quái hiểm độc, không hợp với nữ nhi. Nhưng thấy Chung Vạn Đường đang cao hứng nên cũng đành thôi. Chung Vạn Đường đút phi đao vào một cái túi da, cười nói: “Nếu đứa nào lấy được, ta sẽ dạy cho nó loại ám khí này”.


Sau khi bày xong lễ vật, Quảng Luyện Hà bế hai đứa bé bắt đàu trảo châu. Kể ra cũng thật kỳ lạ, ngay từ ban đầu hai bé gái đã chụp một thanh kiếm gỗ, Chung Vạn Đường cười nói: “Hay lắm, chúng đều muốn làm nữ hiệp khách, e rằng ông phải truyền tất cả tuyệt kỹ cho chúng”.


Lúc này đứa trẻ lại với tay ra, Quảng Luyện Hà đi quanh chiếc bàn một vòng, Phùng Anh đưa tay chụp lấy bộ nhuyễn giáp tơ vàng. Phùng Quảng Triều nói: “Hay lắm, con thật biết xem hàng, đã lấy vật báu của người ta!” Phùng Lâm thì mở đôi mắt vừa to vừa tròn nhìn một hồi, Phùng Quảng Triều rất lấy làm lạ, chỉ thấy Quảng Luyện Hà bế cô bé lại đi một vòng quanh bàn, cô bé bất chợt kêu a a, Quảng Luyện Hà ngừng lại, nhìn xem cô bé làm gì. Chỉ thấy bàn tay nhỏ nhắn của cô bé thò ra, xé tung vật trên bàn, Quảng Luyện Hà trách: “Con lại nghịch phá nữa rồi!” Phùng Lâm kêu a a một hồi thì chợt chụp lấy cây phi đao có độc! Phùng Quảng Triều nhíu mày im lặng không nói. Chung Vạn Đường thì mừng rỡ: “Hay lắm, nó đã nhìn ra tuyệt chiêu của tôi. Lão Phùng, khi nó lớn lên, ông hãy để cho tôi dạy nó, tôi sẽ nhận nó làm học trò”. Phùng Quảng Triều cười gượng: “Còn gì tốt bằng, nhưng tôi chỉ sợ sau này nó sẽ trở thành một Công chúa ngang ngạnh!”


Trảo châu xong, cả hai người bằng hữu lại trò chuyện một hồi, chỉ nghe Chung Vạn Đường nói: “Sau khi đại hiệp tiền bối Lăng Vị Phong chết đi, nghe nói Chưởng môn chi phía Bắc của phái Võ Đang Quế Trọng Minh cũng qua đời. Mà kiếm khách ở Trung Nguyên lại không bằng các bậc tiền bối lúc trước nữa!” hai người than thở một hồi, Phùng Quảng Liên càng rầu rĩ hơn. Đến chiều bên ngoài chó sủa ầm ĩ, tiếp theo là những tiếng kêu gào, tựa như đã hoảng sợ trước việc gì rất quái dị, Quảng Liên nói: “Thân gia, để tôi ra ngoài xem thử là ai tới”. Bước ra cửa, chỉ cảm thấy một luồng máu tanh xộc vào mũi, đang ngạc nhiên thì có một hán tử cao gầy, râu ria xồm xoàm, tay cầm một cái túi da đang sải bước tới!


Quảng Liên rùng mình, bước lên chặn lại hỏi: “Thế nào? Tìm ai đấy?” hán tử ấy chẳng màng đến ông ta, vung hai tay một cái, Quảng Liên chỉ cảm thấy một nguồn lực lớn dồn tới, thế là thân người bị bay bổng vào trong nhà, khi bò dậy thì người ấy đã bước vào sảnh đường, Phùng Quảng Triều và Chung Vạn Đường kêu hoảng, vừa kêu được một tiếng: “Châu đại hiệp, ông sao thế?” người ấy đã ngã bổ xuống đất, thều thào nói: “Đem thuốc kim sang và giải độc tán đến đây!” rồi chỉ rùng mình một cái thì ngất đi. Quảng Liên kinh hoảng đến sững người, chẳng nói ra lời. Phùng Quảng Triều kêu lên: “Thân gia, mau, mau đóng cửa lớn lại!” Quảng Liên biết chuyện này rất Quảng Triều nên vội vang chạy ra đóng cửa, chỉ thấy Chung Vạn Đường đã đỡ người ấy lên giường, mở áo kiểm tra vết thương cho y. Lúc này Quảng Liên mới chú ý rằng, hán tử này sắc mặt vàng vọt, có lẽ đã năm mươi tuổi, chiếc áo chẻn trên người nhuốm đầy máu, mùi máu tanh nồng, chắc là đã trúng loại ám khí gì rất độc, đang gấp tìm thuốc chữa trị nên chẳng màng đến mình mà đã xông thẳng vào.


Chung Vạn Đường mở áo của hán tử ấy ra, sắc mặt tái nhợt. Phùng Quảng Triều run rẩy nói: “Đây là ám khí gì?” Quảng Liên bước tới gần xem, chỉ thấy trên ngực người ấy hình như bị vuốt sắt cào trúng, nhưng lại cũng giống bị trủy thủ vạch bị thương, mỗi vết thương đều hằn sâu như nhau, trông rất ngay ngắn, xếp thành hình bán cầu, trông giống như bị một đôi tay chụp vào ngực, nhưng đếm kỹ lại có đến hơn mười vạch, rõ ràng không phải là bị cào, vả lại chỉ lực của người ta cũng không đến nỗi lợi hại như thế. Đang lúc này, chợt nghe Phùng Anh Kỳ kêu hoảng: “Cha, đầu người!” Phùng Anh Kỳ nhất thời tò mò, mở cái túi da của quái khách ra, hai cái đầu người máu thịt bầy nhầy lăn ra tựa như hai quả bóng da, mùi máu xộc vào mũi khiến người ta muốn nôn. Phùng Quảng Triều mắng: “Sao con lại cứ mở đồ của người ta! Con biết ông ta là ai không?” rồi vội vàng bỏ cái đầu người vào trong túi da. Chung Vạn Đường vẫn lẳng lặng bôi thuốc cho quái khách ấy, Phùng Quảng Triều nói: “Có cứu được không?” Chung Vạn Đường nói: “Ám khí của các nhà các phái, dù không thấy tôi cũng đã từng nghe qua, chỉ có loại ám khí này tôi chẳng nghe chẳng thấy. Chất độc tẩm trên ám khí không phải là khổng tước đảm cũng là hạc đỉnh hồng, e rằng rất khó trị. Tôi dùng thuốc giải của Đoạt Mệnh thần đao thử xem, nếu Châu đại hiệp nội lực thâm hậu có lẽ vẫn còn sinh cơ”.


Sau khi được bôi thuốc, hơi thở của quái khách dày hơn, nhưng vẫn còn chưa tỉnh. Phùng Quảng Triều quỳ xuống, cung kính thay áo cho y, lau sạch vết máu, lúc đó mới thở dài nói với Phùng Anh Kỳ: “Con có biết đây là ai không? Ông ta là sư tổ của con!” Quảng Liên ngạc nhiên nói: “Quang Triều, sư phụ của ông Lục Hợp Thương Dư Đại Trang chẳng phải đã qua đời rồi sao? Ở đâu lại có một sư phụ nữa?” Phùng Quảng Triều cười khổ nói: “Có lẽ tôi gọi ông ta là sư phụ cũng hơi gượng ép, tôi chỉ là đồ đệ ký danh của ông ta. Anh nhi, con phải quỳ xuống dập đầu ba cái, sư phụ tuy đang hôn mê nhưng không thể bỏ lễ nghi!” Phùng Anh Kỳ quỳ xuống dập đầu, Đường Hiểu Lan cũng quỳ bên cạnh khóc thút thít, Phùng Quảng Triều đỡ chàng dậy nói: “Không uổng Châu bá bá thương yêu con, con đúng là người có tình nghĩa”. Quảng Liên nghe xong thì càng ngạc nhiên hơn, quái khách này được Chung Vạn Đường gọi là đại hiệp, lại là bá bá của Đường Hiểu Lan. Vả lại quái khách này xem ra không quá năm mươi, cũng không lớn hơn Phùng Quảng Triều bao nhiêu, thế nhưng lại là sư phụ của ông ta.


Phùng Anh Kỳ dập đầu ba cái rõ to rồi đứng dậy, Phùng Quảng Triều mới nói: “Sư tổ của con tên gọi Châu Thanh, là đệ tử ký danh của Thiên Sơn kiếm khách Lăng Vị Phong!” Phùng Quảng Liên thất kinh, thầm nhủ “Chả trách nào lại lợi hại như thế, sau khi trọng thương mà vẫn còn có thể hất ngã ta!”


Phùng Quảng Triều lại nói: “Năm Khang Hy đầu tiên, Lăng Vị Phong bị đồng môn sư huynh Sở Chiêu Nam dắt quân bao vây, nhốt tại cung Bố Đạt Lạp ở La Sa Tây Tạng, sau đó được một thị vệ triều Thanh giúp đỡ chạy thoát. Lăng Vị Phong vì báo đáp y nên đã dạy y Truy Phong kiếm pháp, nhận y là đệ tử ký danh (không phải thu nhận học trò chính thức). Thị vệ này chính là Châu sư tổ của con!” có nhiều bậc tiền bối trong võ lâm biết câu chuyện này (chú thích: Mời xem bộ truyện “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”) Phùng Anh Kỳ lần đầu tiên nghe được chuyện ấy, chàng ta há hốc mồm chẳng nói lời nào, không ngờ rằng cha của mình lại có dây mơ rễ má với bậc kiếm khách tiền bối Lăng Vị Phong.


Phùng Quảng Triều nhấp một ngụm trà, lại nói với Quảng Liên: “Ông thân gia, không phải tôi cố tình giấu ông, nhưng vì ông là người thật thà, biết xong chuyện này chắc sẽ hoảng lên. Lăng Vị Phong ẩn cư ở Thiên Sơn, triều đình chẳng làm gì được ông ta. Còn Châu Thanh là khâm phạm bị truy đuổi hơn ba mươi năm nay!” Chung Vạn Đường mỉm cười nói: “Châu đại hiệp né tránh quan sai, còn tôi thì tránh kẻ thù, ít khi lộ mặt trên giang hồ, hơn mười năm nay tôi cũng buồn chết đi được!” Phùng Quảng Triều hơi ngập ngừng rồi tiếp tục nói: “Ông thân gia, đêm nay ông đã thấy rồi đấy, tôi cũng không cần giấu ông. Xem ra Châu đại hiệp chắc chắn bị kẻ cường địch đánh bị thương, bọn chúng sớm muộn cũng sẽ tới đây, tôi xin gởi gắm cháu ngoại cho ông, ông hãy dắt bọn chúng trốn đi! Ông là một võ sư an phận thủ thường, trên giang hồ ít có người biết ông, triều đình cũng không để ý đến ông!” Quảng Liên mới vỡ lẽ ra: “Té ra hai tên ấy đã nói đến Châu Thanh”. Thế rồi mới khảng khái bảo: “Ông thân gia, sao lại nói thế? Tôi tuy bỏ võ theo nghề nông nhưng cũng là một hán tử đầy nhiệt huyết, chúng ta có nạn cùng gánh, nếu kẻ địch đuổi đến đây, chúng ta sẽ cùng nhau xông ra!” Phùng Quảng Triều mỉm cười: “Cũng mong là có thể xông ra được, nói ra mong ông đừng giận, với mấy món công phu mèo ba cẳng của chúng ta, chỉ e không thể chống lại nổi cường địch!” Quảng Liên thấy cả Châu Thanh mà còn bị như thế, biết Phùng Quảng Triều chẳng nói ngoa, thở dài nói: “Sáng sớm ngày mai tôi sẽ dắt Anh nhi và Lâm nhi đến Loan Châu tìm sư huynh của tôi”.


Phùng Quảng Triều sờ trán Châu Thanh, thấy ông ta vẫn chưa tỉnh, lại nói tiếp: “Ông thân gia, mười năm trước tôi về quê qui ẩn, bằng hữu trên giang hồ đều rất lấy làm lạ, ông cũng hỏi tôi, lúc ấy tôi không dám nói, giờ đây có thể cho ông biết, khi đó tôi vừa mới theo Châu đại hiệp học được Truy Phong kiếm pháp, chính Châu đại hiệp đã bảo tôi qui ẩn!” Phùng Anh Kỳ mở to mắt hỏi: “Cha, tại sao cha học được Truy Phong kiếm pháp mà lại không dạy con, chỉ dạy con Lục hợp đại thương. Có phải Đường sư đệ luyện Truy Phong kiếm pháp không?” Phùng Quảng Triều khẽ gật đầu. Phùng Anh Kỳ lộ vẻ không vui, trách cha mình tại sao thiên vị, chỉ truyền Truy Phong kiếm pháp cho người ngoài mà không truyền cho con trai. Phùng Quảng Triều tựa như hiểu được lòng dạ chàng ta, chợt nói: “Con hiểu cái gì? Ta không muốn liên lụy đến con!” Đường Hiểu Lan đứng bên cạnh mà hai mắt đỏ ửng tựa như muốn khóc.


Phùng Quảng Triều vuốt râu chép miệng, thầm nhủ: “Chi bằng cứ nói ra để bọn chúng khỏi ghen tị nhau”. Thế rồi nắm tay con trai, từ tốn nói: “Cha được tổ sư truyền cho Truy Phong kiếm pháp là vì Đường sư đệ của con. Để cha kể con nghe, con sẽ biết cha không chịu dạy kiếm thuật cho con. Mười năm trước, ta ra miền tái ngoại, ngày nọ đi ngang qua miếu Bách Linh, lúc này trời đã về chiều, chợt nghe tiếng quát tháo vọng tới, ta thấy có hơn mười tên cường đồ bao vây một thiếu phụ, đôi bên đánh nhau rất hăng! Kiếm pháp của thiếu phụ ấy hiểm hóc lạ thường, đã có mấy tên cường đồ bị thương, nhưng bọn chúng vẫn bao vây chặt. Thiếu phụ tay phải cầm kiếm, tay trái dắt theo một đứa trẻ khoảng bảy tám tuổi, chỉ có thể phòng ngự chứ không thể tấn công. Trong lúc kịch chiến thiếu phụ vì bảo vệ cho đứa trẻ ấy mà nhiều lần gặp nguy hiểm. Khi ta chạy tới nơi thì nghe thiếu phụ ấy kêu lớn: ‘Các người muốn lấy mạng ta cũng được, sao lại cứ phải hại con trai ta?’ bà không kêu thì còn khá, đến khi kêu lên thì đao thương kiếm kích của bọn cường đồ nhất tề đâm về phía đứa trẻ, thiếu phụ vung kiếm chặn trước gạt sau, tựa như một vòng ngân hồng che đến gió mưa không lọt. Nhưng bà ta bảo vệ được cho con trai của mình còn mình thì rơi vào nguy hiểm, chỉ nghe bà ta kêu thảm mấy tiếng, rõ ràng đã bị trọng thương. Ta không kìm được, mặc cho võ công của mình còn kém, thế là thúc ngựa từ trên đồi phóng thẳng xuống bất ngờ đâm ngã hai tên cường đồ, xông vào giữa trận chiến, thiếu phụ ấy thấy ta xông tới thì ném đứa trẻ lên lưng, kêu lên: ‘Nghĩa sĩ, xin gởi đứa trẻ này cho ông, ông hãy xông ra ngoài!’ bà ta vung kiếm nhanh như gió chặn bọn cường đồ lại. Ta bế đứa trẻ cố gắng chạy ra còn thiếu phụ thì yểm hộ mở ra một đường máu cho ta. Nhưng vừa xông ra khỏi vòng vây, ta liền nghe sau lưng có tiếng kêu thảm, thiếu phụ ấy đã trúng độc thủ! Ta quay lại nhìn, một mũi ám tiễn bất ngờ bắn tới, ngực ta đau nhói ngã xuống ngựa, đứa trẻ cũng văng theo, nó khóc òa lên. Bọn cường đồ xông tới, trong lúc chìm vào cơn mê ta còn nghe một tiếng quát lớn: ‘Bọn chuột nhắt dám lớn gan!’ một bóng người từ trên sườn núi phóng xuống, ta nằm phục ở dưới đất nên chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau, rồi lại nghe tiếng cười dài, ta cố mở hai mắt dùng tay chống người dậy nhìn qua, chỉ thấy phía trước mặt có vô số bóng đen, một mảng ngân quang bay lượn, tất cả hòa vào nhau, trong đó có một luồng bạch quang chói mắt, luồn qua lách lại giữa vô số bóng đen nhanh như điện chớp, ánh bạch quang đi đến đâu bóng đen tản mát, luồng bạch quang ấy đuổi theo nhanh như tên bắn, lúc chạy về phía Đông, lúc chạy về phía Tây, chỉ trong chớp mắt bóng đen đã bị quét sạch, ánh bạch quang thu lại, giữa cánh đồng trống trải chỉ còn lại một hán tử cao lớn, người ấy bước đến đỡ ta, nói: ‘Nghĩa sĩ, ngươi có sao không?’ ta vốn đau muốn ngất đi, thấy trận kịch đấu ấy thì sợ đến nỗi há mồm trợn mắt, trái lại chẳng còn thấy đau nữa, ta nói: ‘Ngài có phải là kiếm tiên không?’ người ấy mỉm cười, lấy thuốc kim sang bôi cho ta rồi nói: ‘Trong thiên hạ có khối người có công phu như ta!’ lúc ấy đứa trẻ đã bò dậy, ôm chân người ấy khóc rằng: ‘Châu bá bá, Châu bá bá, mẹ của con đâu?’.” Ông ta kể đến đây Đường Hiểu Lan đã ứa nước mắt!


Phùng Quảng Liên nghĩ thầm: “Lẽ nào đứa trẻ mà hai tên ấy nói chính là Đường Hiểu Lan?” Ông ta nghĩ chưa xong thì quả nhiên Phùng Quảng Triều chỉ Đường Hiểu Lan nói: “Đứa trẻ ấy chính là hắn!” ông ta ngập ngừng, nhấp một ngụm trà rồi tiếp tục nói: “Hán tử cao lớn chính là sư phụ Châu Thanh của ta sau này. Ông ta nghe Hiểu Lan nói thì cười rầu rĩ mà rằng: ‘Cậu bé, cậu vẫn còn nhớ đến ta, nhưng ta thì đến muộn!’ rồi ông ta cầm tay Hiểu Lan dắt đi tìm xác của thiếu phụ, trầm giọng nói: ‘Mẹ của con vì bảo vệ cho con đã bị kẻ địch giết hại, nhưng bá bá đã giết chết bọn chúng. Con phải làm một đứa trẻ tốt, sau này báo thù cho cha của con!’ Đường Hiểu Lan rất lanh lợi, khóc một hồi thì ôm Châu đại hiệp nói rằng: ‘Bá bá, xin người hãy dạy võ công cho con’. Châu đại hiệp nói: ‘Chỉ cần con làm một đứa trẻ tốt...’ đến đây thì ông ta nghẹn ngào không nói được nữa. Ông ta dùng kiếm đào một cái hố, chôn mẹ của Hiểu Lan rồi nói với ta rằng: ‘Vợ chồng họ là bằng hữu thân nhất của tôi, tôi đã sớm đoán được có ngày hôm nay nhưng vẫn đến muộn một bước’. Lúc đó tôi đã bôi thuốc xong, tuy đã hết đau nhưng không thể cử động được, Châu đại hiệp đỡ tôi lên lưng ngựa, ôm đứa trẻ phóng ngựa chạy theo. Sáng sớm này hôm sau thì đến một căn cổ miếu, theo Châu đại hiệp nói, nơi này chính là vùng Đồ Cổ Lý Khắc gần ranh giới Hồi Cương. Hòa thượng trong miếu là bằng hữu của người. Tôi tịnh dưỡng mấy ngày trong miếu, thương thế dần dần giảm bớt. Tôi nài nỉ người nhận tôi làm học trò, người suy nghĩ một đêm mới nói với tôi rằng: ‘Thấy lời lẽ và hành động của ngươi, ta đoán ngươi là người có nghĩa khí. Có điều tuổi tác chúng ta không hơn kém nhau bao nhiêu, vả lại ta quanh năm suốt tháng lưu lạc, lại là khâm phạm của triều đình, chẳng rảnh dạy cho ngươi. Thế này nhé, ta sẽ truyền cho ngươi một bài kiếm pháp và một loại ám khí, chúng ta cứ coi nhau là bằng hữu, không theo danh nghĩa thầy trò’. Ta kiên quyết không chịu, cuối cùng đôi bên đều lùi bước, ông ta chấp nhận ta là đệ tử ký danh. Châu đại hiệp bỏ ra bảy ngày dạy Truy Phong kiếm pháp và Phi mãng ám khí cho ta, người bảo rằng: ‘Ngươi đừng coi thường hai món công phu này, đó là võ công của Thiên Sơn kiếm khách Lăng Vị Phong! Truy Phong kiếm pháp nhanh nhẹn tuyệt luân, là những chiêu số tấn công mạnh nhất trong Thiên Sơn kiếm pháp, Phi mãng ám khí được cải biến từ món ám khí Thiên Sơn thần mãng đã nổi tiếng từ lâu của Lăng đại hiệp, nhưng phi mãng nhỏ hơn thần mãng nhiều, nó được luyện từ ngũ kim, trông giống như Mai Hoa châm, chuyên tấn công vào huyệt đạo, mắt hoặc tai của kẻ địch. Sau khi luyện thành, trên giang hồ hiếm thấy địch thủ! Có điều ta phải nhắc trước ngươi không được khoe khoang, nếu không sẽ gặp họa sát thân! Không được ta cho phép thì không truyền cho kẻ khác, tuy thân thiết như vợ con cũng không được truyền thụ. Ngươi có chịu không?’ ta vội vàng chấp nhận. Châu đại hiệp lại nói: ‘Không phải ta cố ý giấu nghề mà bởi bên trong có lý lẽ khác. Ngươi có biết ta là ai không? Ta là Châu Thanh đệ tử ký danh của Lăng Vị Phong, nay là khâm phạm của triều đình, hai mươi năm trước là vệ sĩ đại nội. Ở Trung Nguyên chỉ có một mình ta biết Truy Phong kiếm pháp của Lăng Vị Phong, nếu ngươi để lộ ra, chắc chắn sẽ bị bọn ưng khuyển của triều đình nhận ra, lập tức sẽ mang họa diệt môn. Ngươi có hiểu chưa?’ Sau bảy ngày, ta đã học xong kiếm thức, Châu đại hiệp lại nói: ‘Ở miền Hà Nam có một kỳ nhân đương thế võ công chẳng kém gì ta, ông ta là truyền nhân của Vô Cực kiếm ngoại hiệu Phong Trần Y Ẩn Chung Vạn Đường, ông ta tuy không hiểu Truy Phong kiếm pháp nhưng Vô Cực kiếm của ông ta chuyên lấy nhu khắc cương, tương phản tương thành với Truy Phong kiếm pháp. Giờ đây ngươi đã hiểu đại khái kiếm thức, ta không còn thời giờ dạy cho ngươi nữa, ngươi hãy đem vật này đến núi Phục Ngưu tìm ông ta, nhờ ông ta tiếp chiêu luyện kiếm với ngươi, như thế đôi bên đều có ích!’.” Phùng Quảng Triều kể đến đây thì Châu Thanh chợt cựa mình. Chung Vạn Đường vội vàng bắt mạch cho ông ta, nói: “Nội công của Châu đại hiệp thật cao cường, xem ra không bao lâu nữa sẽ tỉnh lại. Có điều bị trúng độc quá nặng, thuốc giải kém sau khi tỉnh dậy cần phải dùng khí công trị liệu thêm ba ngày nữa”.


Phùng Quảng Triều thở phào, tiếp tục kể: “Khi sắp giã biệt, Châu đại hiệp còn nói với ta rằng: ‘Ta và hào kiệt năm tỉnh phía Bắc cứ năm năm gặp nhau một lần, ngày Trung Thu vào mười năm sau sẽ là lần hẹn thứ hai, địa điểm là ở núi Thái Hàng tại Hà Nam. Chung Vạn Đường vì né tránh kẻ thù, chắc cũng không tham gia lần thịnh hội này, ngươi hãy bảo ông ta đến nhà ngươi vào tết Trung Thu mười năm sau, có lẽ ta sẽ tiện đường ghé ngang qua. Lúc đó chúng ta lại sẽ trò chuyện’ không ngờ chưa tới kỳ hẹn mà hai người đã gặp nhau!”


Chung Vạn Đường mỉm cười, nói: “Lúc đầu ta ẩn cư ở núi Phụng Ngưu, hai năm trước bị kẻ địch phát hiện, ta chỉ đành tìm nơi khác lẩn tránh. Không ngờ mấy ngày trước nghe tin đồn rằng hai kẻ thù của ta đã đến nơi ấy, nên ta vội vàng xin phép chủ nhà, giả vờ bảo rằng về quê thăm người thân, thực ra là đến thăm ông”. Phùng Quảng Triều giật mình, hỏi: “Sao lại có chủ nhà nào ở đây?” Chung Vạn Đường nói: “Hai năm nay ta đi dạy học”. Phùng Quảng Triều rất lấy làm ngạc nhiên, hỏi: “Là bằng hữu nào trên giang hồ mà có thể mời được Phong Trần Y Ẩn?” Chung Vạn Đường lại cười: “Ta dạy cho một đứa trẻ nghịch ngợm nhất trên đời này, cha của nó chẳng có liên quan gì đến bằng hữu trên võ lâm nhưng lại liên quan rất nhiều đến quan phủ Hà Nam!” Phùng Quảng Triều càng ngạc nhiên hơn, đang định hỏi thì Chung Vạn Đường đã hỏi ngược lại: “Vậy có phải Châu đại hiệp đã bảo ông dạy cho Hiểu Lan không?”


Phùng Quảng Triều nói: “Đúng thế. Vào tết Đoan Ngọ năm ngoái, đứa trẻ này mang thư của Châu đại hiệp đến, trong thư bảo rằng nó đã lớn, ông ta không thể cứ dắt nó lang thang trên giang hồ mãi, lại không muốn làm lở giở việc học công phu của nó nên mới bảo nó đến học Truy Phong kiếm pháp và Phi mãng ám khí của tôi”.


Nói đến đây, Đường Hiểu Lan chợt bảo: “Ồ, Châu bá bá đã tỉnh!” Phùng Quảng Triều vội vàng bước tới xem, chỉ thấy Châu Thanh chậm rãi mở mắt, khẽ nói: “Phùng lão đệ, đã khiến ngươi lo lắng!” Phùng Quảng Triều vội vàng nói: “Châu lão sư, người thấy thế nào?” “Hãy đem túi da của ta đến đây!” Đường Hiểu Lan cầm đem tới đưa cho ông ta. Châu Thanh mở cái túi da, đột nhiên ngồi dậy, thò tay vào trong người, khép ba ngón tay lại búng vào túi da một cái, chỉ trong chốc lát hai cái đầu người đã biến thành máu! Lại cười ha hả nói rằng: “Đủ cả vốn lẫn lời, ta chết cũng đáng!” Chung Vạn Đường nói: “Với công lực của ông, tịnh tọa ba ngày là có thể trị thương!” Châu Thanh cười nói: “Ai bảo cần phải tịnh tọa ba ngày, ta chỉ ngồi chốc lát thì sức lực sẽ hồi phục, ta sẽ ra đi ngay. Nếu cứ chần chừ nữa sẽ liên lụy đến các người!” Phùng Quảng Triều nói: “Sư phụ có nạn, đệ tử muôn chết không từ”. Châu Thanh nói: “Ta cũng chẳng phải là đối thủ của bọn chúng, huống chi là ngươi!” Chung Vạn Đường nói: “Kẻ địch nào mà lợi hại đến thế?” bản lĩnh của Chung Vạn Đường chẳng kém gì Châu Thanh, ông ta thầm nhủ: “Sau khi bị thương nặng mà Châu Thanh có thể chạy đến đây, vậy mình ít nhất cũng có thể chặn bọn chúng lại”. Châu Thanh chẳng nói lời nào, chỉ vào vết thương nơi ngực bảo: “Các người có thấy chỗ này không?” Chung Vạn Đường đang định hỏi ông ta bị thương bởi ám khí gì, Châu Thanh đã lấy ra một vật tròn trịa trong túi da ở phía sau lưng!


Té ra đó là một trái cầu bằng sắt, bên ngoài chẳng có gì kỳ lạ. Châu Thanh dùng lực xoay một cái, trái cầu ấy đột nhiên bật ra, bên trong có chứa mười mấy ngọn đao bén, mỗi ngọn dài không quá năm tấc, trong suốt mỏng như lá liễu, xếp thành một hình vòng cung trông như cánh chim giang ra. Châu Thanh nói: “Lần này ta từ kinh đô bị đuổi đến đến đây, cuối cùng đã bị trúng loại ám khí này! Ta giết hai người, đoạt được một cái, bọn chúng mới không dám đuổi theo gấp!” Chung Vạn Đường thấy món ám khí rất kỳ lạ. Châu Thanh nói: “Loại ám khí này tên gọi Huyết Trích Tử. Ta cũng chỉ thấy lần đầu tiên, chỉ cần bấm cái lẫy thì khoái đao bên trong sẽ xoay tròn như bánh xe, trái cầu mở ra chụp vào đầu người và lập tức khép lại, lúc đó đầu người đã bị cắt! Đoản đao bên trong đều được tẩm độc, dù không bị nó cắt đầu, chỉ cần bị nó đả thương thì cũng mất mạng. Lần này ta bị mười mấy trái Huyết Trích Tử vây công, nhất thời tránh không được nên bị thương! Nếu các người đơn đả độc đấu với Huyết Trích Tử phải dùng ám khí đánh rơi nó hoặc dùng khinh công né tránh. Nếu bị Huyết Trích Tử vây công, chắc chắn sẽ nguy hiểm muôn phần!”


Chung Vạn Đường đứng dậy, nói: “Nếu địch không lại, chúng ta hãy đi thôi! Tôi cùng ông đến núi Thái Hàng, trên đường sẽ dùng thuốc giữ khí ở đơn điền cho ông, đến gần núi Thái Hàng thì không sợ nữa. Mấy ngày nay hào kiệt năm tỉnh phía Bắc đang lần lượt kéo tới, lúc đó chúng ta cũng không cần sợ Huyết Trích Tử!” Châu Thanh mở mắt hỏi: “Ông không sợ kẻ thù sao?” Chung Vạn Đường nói: “Lúc này còn sợ cái gì nữa? Bình thường thì tránh bọn chúng, lúc này cũng đành phải liều mạng!” Châu Thanh lắc đầu, Chung Vạn Đường vội nói: “Ông không đi được, tôi sẽ cõng ông!” Châu Thanh nói: “Thong thả đã!” rồi nhảy xuống giường đặt tai xuống lắng nghe, nói: “Từ xa có tiếng ngựa hí, giờ chạy ra chắc chắn sẽ gặp bọn chúng!” Chung Vạn Đường thổi tắt lửa trong lò sưởi, nói: “Chúng ta đừng lên tiếng, nếu bọn chúng đến đây, lúc đó mới liều mạng!”


Trong bóng tối Châu Thanh rút ra một thanh bảo kiếm, lập tức ánh hàn quang lấp lánh chiếu vào mặt. Chung Vạn Đường khẽ nói: “Hãy cất vào! Đợi kẻ địch đến cửa rút ra cũng không muộn!” Châu Thanh tra kiếm vào vỏ, kéo Đường Hiểu Lan đến sát bên cạnh, khẽ nói: “Thanh kiếm này trao cho con, đây chính là kiếm của tổ sư gia Lăng Vị Phong truyền lại, tên gọi Du Long kiếm!” Chung Vạn Đường thất kinh, Du Long kiếm là một trong hai món báu vật trấn sơn của phái Thiên Sơn, mấy mươi năm trước phản đồ Sở Chiêu Nam của Hối Minh thiền sư đã từng dùng thanh kiếm này trấn áp giang hồ. Không ngờ Lăng Vị Phong đã tặng cho Châu Thanh nay lại truyền cho Đường Hiểu Lan. Ông ta không khỏi lấy làm lo lắng cho Đường Hiểu Lan, sợ rằng võ công của chàng không đủ giữ kiếm. Trong bóng tối Châu Thanh lại nắm tay Chung Vạn Đường, nói bên tai ông ta: “Lão đệ, chúng ta hiếm khi gặp nhau, hôm nay e rằng sẽ âm dương cách biệt. Kẻ thù của lão đệ đã đến nơi, đệ còn tránh ở nơi nào?” tình nghĩa của hai người vững bên như sắt đá, Chung Vạn Đường ứa nước mắt, cũng khẽ nói: “Đa tạ quan tâm. Mấy năm nay đệ dạy học ở huyện Trần Lưu”.


Châu Thanh chợt nói: “Có phải là nhà họ Niên không?”


Chung Vạn Đường nói: “Đúng thế!”


Châu Thanh chợt kêu lên: “Đệ đã dạy được đồ đệ giỏi!” câu này chắc có nội tình gì nữa, nhưng ngay lúc này ông ta như phát giác ra điều gì, vội vàng nói: “Đến rồi! Im lặng!” Chung Vạn Đường thấy ngạc nhiên, không tiện hỏi dấn tới, chỉ đành nằm xuống đất, một hồi sau đã nghe tiếng vó ngựa lọc cọc chạy đến trước cửa. Chính là:


Nửa đêm ngựa đuổi tới, làng vắng có ngọa long.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 2

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 2 Máu nhuộm làng vắng mười năm hết hẹn cũ Đại nội kỳ án nửa đêm quất ngựa đi


Trong bóng tối ai nấy đều nắm chặt binh khí, nín thở ngưng thần, tiếng vó ngựa đến trước cửa đột nhiên ngừng lại, Chung Vạn Đường lấy làm lạ: “Chả lẽ chỉ có một người một ngựa?”Châu Thanh cũng ngạc nhiên, đang định nhỏm dậy thì bên ngoài có người vỗ cửa kêu lớn: “Sư phụ! Sư phụ!” Phùng Quảng Triều thở phào, mừng rỡ nói: “Là Vương Lăng. Hiểu Lan hãy ra mở cửa đón đại sư ca của con trở về!” Châu Thanh chợt kéo Phùng Quảng Triều lại, khẽ nói: “Có phải tên đồ đệ làm bảo tiêu ở kinh đô không?” Phùng Quảng Triều vâng một tiếng. Châu Thanh bảo: “Đừng nói ngươi đã bái ta làm sư!” Phùng Quảng Triều kinh ngạc hỏi: “Tại sao thế?” Châu Thanh nói: “Cẩn thận vẫn hơn”.


Cửa lớn mở ra, đèn đuốc lại được đốt sáng trở lại, một hán tử khỏe mạnh tuổi khoảng hai mươi chậm rãi bước vào, thấy trong nhà có nhiều người cúi người nói: “Sư phụ, hôm nay là ngày vui gì thế?” Phùng Quảng Triều nói: “Con có thêm hai điệt nữ, hôm nay là ngày tròn một năm tuổi của chúng”. Vương Lăng vội vàng chúc mừng Phùng Anh Kỳ, hỏi: “Đệ muội và điệt nữ đâu? Đã ngủ cả rồi sao?” Phùng Anh Kỳ nói: “Ở bên trong, lát nữa mẹ con nàng sẽ ra gặp sư ca”. Phùng Quảng Triều dắt y đến gặp khách, y vừa nghe nói đến cái tên Phong Trần Y Ẩn Chung Vạn Đường thì thất kinh, lại nghe đến tên Châu Thanh thì vội vàng quỳ xuống bái. Châu Thanh hai mắt sáng quắc, lên tiếng hỏi: “Trên đường ngươi có gặp kẻ nào khác lạ không?” Vương Lăng nói: “Tiểu điệt đã thấy ở gần Tiết Điếm có hơn mười võ sĩ phóng ngựa chạy về phía Tây”. Tiết Điếm cách Nhữ Châu không quá trăm dặm, nếu đây là bọn Huyết Trích Tử từ kinh đô đuổi tới chắc là đến Nhữ Châu trước Vương Lăng. Phùng Quảng Triều bớt lo hơn, thầm nhủ: “Chắc bọn chúng không biết Châu lão sư ở đây, lúc này đã đi vòng qua Nhữ Châu đến phía Tây”. Sắc mặt của Châu Thanh dần dần giãn ra, lại hỏi: “Bọn chúng có hỏi ngươi điều gì không?” Vương Lăng lắc đầu: “Không có!” Châu Thanh kêu ờ một tiếng chứ không nói gì nữa.


Quảng Luyện Hà nghe giọng nói của sư ca, bế Phùng Anh và Phùng Lâm bước ra, Vương Lăng hôn hai đứa bé, hớn hở nói: “Đệ muội, xin chúc mừng! Ta chưa uống rượu mừng của đệ muội mà đã uống rượu gường trước!” Quảng Luyện Hà mỉm cười chứ không nói gì. Phùng Quảng Triều lại nói: “Công việc của con ở trong kinh đang bận rộn, sao lại trở về?” Vương Lăng nói: “Tiêu cục phái con đến Hoài Dương nhận tiêu, tiện đường ghé qua thỉnh an sư phụ”. Quảng Luyện Hà cười nói: “Công công, sư ca từ xa trở về, để huynh ấy vào trong rửa ráy trước rồi sẽ ra nói chuyện”. Phùng Quảng Triều cũng cười: “Đúng thế, ta vẫn chưa lớn tuổi mà đã hơi lẩm cẩm. Con hãy đưa sư ca vào trong, cứ để Lâm nhi và Anh nhi ở đây”.


Châu Thanh vốn đang trầm tư, thấy hai đứa bé gái xinh xắn, mắt sáng lên, bước tới nhìn kỹ một hồi, sờ vào xương đầu của cả hai rồi nói: “Hai đứa bé này khá hơn ngươi nhiều, có năng khiếu tập võ!” Chung Vạn Đường cười nói: “Lão Châu, không ngờ ông cũng biết xem tướng”. Châu Thanh nghiêm mặt nói: “Tinh tướng học vốn chẳng phải chuyện đùa, nhưng cốt cách tính tình từ nhỏ đã lộ ra. Tôi lăn lộn trên giang hồ đã lâu, chỉ thấy được ba đứa trẻ có cốt cách đặc biệt, tôi chưa biết tính tình của hai đứa trẻ này, đứa trẻ còn lại mười năm sau không phải anh hùng cũng là một kiêu hùng, lão Chung phải cẩn thận đấy!” Chung Vạn Đường thất kinh nói: “Có phải ông muốn nói đến học trò của tôi?”


Châu Thanh nói: “Đúng thế, tôi đã từng gặp đứa trẻ ấy. Chỉ vì tôi đang có việc bận, nếu không tôi đã sớm dắt nó đi!” Chung Vạn Đường ngạc nhiên: “Ông đã từng gặp nó, sao tôi lại không biết?” “Học trò của ông có e là con trai của Niên Hà Linh, tên gọi Niên Canh Nghiêu hay không?” Chung Vạn Đường khẽ gật đầu, nói: “Đứa trẻ này cũng hơi kỳ lạ!” Phùng Quảng Triều bất giác thất kinh, thầm nhủ: “Niên Hà Linh là người giàu có nổi tiếng ở Hà Nam, sao Chung Vạn Đường lại cam lòng làm kẻ tôi tớ cho y?” rồi ông ta lại nghĩ: “Nếu chỉ vì tránh mặt kẻ thù mà ẩn thân trong nhà họ Niên, đó đương nhiên cũng là một chỗ dừng chấn rất tốt. Có điều Chung Vạn Đường võ công cao thâm, thế nhưng lại phải tránh Đông né Tây, vậy kẻ thù của ông ta chắc chắn còn lợi hại hơn cả bọn Huyết Trích Tử!”


Châu Thanh nói: “Từ lâu tôi đã nghe Niên Canh Nghiêu có hành vi quái dị, có người nói hắn là một thần đồng, có người bảo hắn là thiên hạ đệ nhất ngoan đồng. Năm ấy tôi đi ngang Trần Lưu, đã lén vào Niên phủ xem thử, thấy một thầy giáo già đang mắng hắn không chịu đọc sách, hắn chớp mắt nói: ‘Ông đọc lại một lần con nghe thử’ thầy giáo ấy bảo: ‘Được, ta sẽ dạy lại cho con một lần nữa, nếu đêm nay không thuộc thì đừng hỏng ngủ’. Thầy giáo ấy đọc lại một lượt, Niên Canh Nghiêu cười ha hả: ‘Hãy nghe đây!’ rồi hai tay chống nạnh, lớn giọng đọc lại đoạn văn ấy chẳng sai một chữ nào. Thầy giáo nghe xong ngẩn người ra, Niên Canh Nghiêu chợt mắng: ‘Đọc sách có gì khó, tiểu gia chẳng thèm đọc sách của ông, ông dám quản ta!’ rồi nhảy lên tung hai cú đấm, nó chỉ là đứa trẻ sáu bảy tuổi mà hai tay có khí lực đến trăm cân, đáng thương cho ông thầy già bị nó đánh ngã lăn cù, ta nghĩ lão không dám trở lại nữa. Lão Chung, ông có bị nó đánh không?”


Chung Vạn Đường nói: “Đứa trẻ này đã rất kính trọng tôi, có điều tôi phải vất vả cả năm trời mới thu phục được tên ma tinh này”. Đang định kể tiếp thì thấy sắc mặt Châu Thanh khác lạ, hỏi: “Sao thế?” Châu Thanh phục người xuống đất, lắng nghe, một hồi sau đứng dậy nói: “Ta đoán không lầm, bọn Huyết Trích Tử không đến Nhữ Châu mà quay trở lại đây!” Chung Vạn Đường nói: “Vậy hãy mau tắt hết đèn đuốc, chuẩn bị ám khí!” Châu Thanh Đảo mắt, nói: “Đừng ở trong nhà nữa. Kẻ địch từ hướng Nam đến, chúng ta xông ra hướng Bắc!” Chung Vạn Đường lắc đầu nói: “Như thế quá mạo hiểm, ông tạm thời đã được giải độc, nhưng sức khỏe vẫn chưa hồi phục!” Châu Thanh chợt nói: “Ở trong nhà càng nguy hiểm hơn!” rồi phóng vọt người ra cửa lớn, Chung Vạn Đường, Phùng Quảng Triều đều ngạc nhiên, không đoán được tại sao lúc nãy ông ta chịu ở trong nhà mà giờ đây lại vội vàng chạy ra!


Sắp đến Trung Thu, ánh trăng sáng vằng vặc, Chung Vạn Đường phóng người đuổi theo, chợt thấy ở bên ngoài xuất hiện một người, người ấy mũi ưng miệng sư tử, vẻ mặt trông rất hung dữ, y hú dài một tiếng nghe mà kinh tâm động phách. Châu Thanh quát lên: “Hỏa vân động chủ, ngươi cũng cam lòng làm nô tài cho Hồ lỗ, đáng tiếc anh danh một đời của Hải Vân trưởng lão đã bị tên phản đồ nhà ngươi bôi bẩn!” Hỏa vân động chủ vốn tên gọi Long Mộc Công, là tù trưởng của một tộc người Lê ở núi Ngũ Chỉ thuộc đảo Hải Nam. Sư phụ của y Hải Vân hòa thượng là kiếm sư lẫy lừng miền Nam cương, có điều hai mươi năm qua Long Mộc Công không bước vào Trung Nguyên nên rất ít kiếm khách Trung Nguyên biết y. Hơn mười năm trước Châu Thanh đã vượt biển đến Quỳnh Nhai, đã từng gặp mặt Long Mộc Công, không ngờ nay y đã bị triều đình mua chuộc, gặp lại đã là kẻ địch của nhau.


Hỏa vân động chủ Long Mộc Công cười hềnh hệch, Châu Thanh lách người tới, một đốm hàn tinh bay tới trước mặt, Chung Vạn Đường tiến tới một bước, vung kiếm chặn lại, keng một tiếng, một cây cương tiêu rơi xuống đất, trên cây cổ hòe trong sân chợt có một người phóng xuống, kêu lớn: “Châu Thanh, gia tộc của ngươi đời đời chịu ân vua, hãy theo ta trở về!” người này tóc đỏ như lửa, Châu Thanh vừa gặp đã nổi cáu đùng đùng, quát rằng: “Nhờ ám khí tẩm độc đả thương người khác đâu có phải là hảo hán. Hãy nhận lại ám khí!” rồi hai chưởng vung lên, một trái thiết cầu bay vù tới!


Người này tên gọi Lôi Hải Âm, là môn khách của Tứ bối lạc Dận Trinh (tức là Hoàng đế Ung Chính sau này). Khang Hy có mười sáu người con trai và bảy con gái, trong đó người y yêu mến nhất là bối lạc thứ mười bốn. Bối lạc thứ tư thông minh khôn khéo nhất nhưng lại không được lòng vua cha. Số là ngày nọ Khang Hy đem hai lồng chuột bạch Tây Tạng ban cho bối lạc thứ tư và bối lạc thứ mười bốn, mười ngày sau hỏi lại thì bối lạc thứ mười bốn trả lời: “Hoàng nhi thấy đám chuộc bạch bị nhốt trong lồng rất đáng thương nên đánh liều thả chúng ra. Mong phụ hoàng thứ tội!” bối lạc thứ tư thì chia bầy chuột bạch thành hai nhóm, huấn luyện cho chúng cắn xé lẫn nhau, chưa đầy mười ngày thì đã chết ráo cả. Y thấy phụ hoàng hỏi đến thì hớn hở trả lời. Khang Hy một đời chinh chiến, đến lúc tuổi già có ý bỏ võ sửa văn, chẳng hạn như bộ Khang Hy tự điển chính là do ông ta sai các quan biên soạn. Nghe Tứ bối lạc nói như thế thì nghĩ thầm: “Nếu hắn nối ngôi chắc chắn sẽ là một bạo quân”. Vì thế không thích y nữa. Việc truyền ngôi vua trong hoàng tộc nhà Thanh không theo thứ tự lớn nhỏ, nhà vua để lại di chiếu chỉ định một người nào đó rồi đặt trên cây lương ở điện Chính đại quang minh, sau khi vua băng hà cố mệnh đại thần cùng hoàng thất mở ra xem. Bởi vậy các bối lạc ganh đua nhau rất kịch liệt, Tứ bối lạc biết vua cha không ưa mình, vậy là càng nôn nóng đoạt vị, một mặc cấu kết với Quốc cựu Khoa Long Đa, một mặt nuôi dưỡng tử sĩ. Huyết Trích Tử là tổ chức do một lạt ma Hồng giáo Tây Tạng sáng lập, Lạt ma này làm việc cho Tứ bối lạc, nên đã truyền Huyết Trích Tử cho võ sĩ dưới trướng của Tứ bối lạc. Lôi Hải Âm là một trong tứ bá của Dận Trinh, còn Long Mộc Công thì mới được Tứ bối lạc mời về gần đây. Lần này Châu Thanh bị trúng Huyết Trích Tử là do Lôi Hải Âm phóng ra.


Châu Thanh vừa gặp Lôi Hải Âm thì bất đồ lửa giận nổi dậy, đoạt ngay trái Huyết Trích Tử trong tay y lập tức phóng ngược trở về.


Lôi Hải Âm vừa nghe tiếng gió rít thì biết kình lực rất lớn nên không dám tiếp. Long Mộc Công phóng người vọt lên, cây gậy đầu rồng điểm vào trái cầu đánh keng một tiếng trên không trung, Huyết Trích Tử bay xéo ra. Lôi Hải Âm cười hền hệt nói: “Châu Thanh, ngươi cũng là đại hành gia trên giang hồ, ngươi bị thương bởi Huyết Trích Tử, dù có thể tạm thời giữ được chân khí, trong vòng mười hai canh giờ chắc chắn sẽ độc phát thân vong, ngươi còn muốn liều mạng với ta làm gì? Chi bằng theo ta về kinh, ta sẽ cho thuốc giải” Châu Thanh mắng: “Nếu muốn quay trở về ba mươi năm trước ta đã không ra đi. Ngươi tưởng bán mạng cho Hoàng đế thì có thể kiếm được vinh hoa phú quý sao? Ta đã từng là người trong cuộc, hiểu rõ hơn ngươi rất nhiều, ta khuyên ngươi hãy mau buông đao đồ tể, để lại chút hậu phước cho con cháu!” ông ta tưởng rằng Lôi Hải Âm là thị vệ đại nội, nên lấy thân phận “người trong cuộc” để khuyên y mà không biết rằng Lôi Hải Âm một lòng muốn giúp Tứ bối lạc lên ngôi, bởi vậy y làm sao nghe lọt tai những lời như thế? Không đợi Châu Thanh nói xong, y đã bước tới quát rằng: “Không cần nhiều lời, nếu đã không chịu về kinh thì mau chịu chết!” rồi tung người vung cây Quỷ Đầu đao chém xuống đầu Châu Thanh.


Châu Thanh hạ thấp người, tránh được thế đao, cây gậy sắt của Long Mộc Công đã quét vù tới! Châu Thanh quát lớn một tiếng, chân phải đá quét ra, nhân lúc chồm người về phía trước đã né tránh cây gậy, chưởng trái đánh ra một chiêu Lực phách Hoa Sơn chém xuống mặt, công lực nội gia ba mươi năm của Châu Thanh đâu phải tầm thường, nếu bị chém trúng chưởng ấy cánh tay của Long Mộc Công sẽ bị gãy! Nhưng chiêu số của Long Mộc Công cũng thực sự tinh kỳ, y đột nhiên xoay người, cánh tay vung xéo ra, cây gậy sắt điểm vào huyệt thiên trì của Châu Thanh. Đây chính là chiêu vây Ngụy cứu Triệu, Châu Thanh thấy y quả là một cao thủ, thầm kêu đáng tiếc, thế là thu người ra sau nửa thước, trở tay chụp vào cánh tay của Lôi Hải Âm, quát lớn: “Cút đi!” rồi dùng lực đẩy một cái, Lôi Hải Âm té ra phía sau. Trong khoảnh khắc ấy, cây gậy sắt của Long Mộc Công lại quét tới, Châu Thanh vội vàng nghiêng người, cây gậy sắt điểm vào trước ngực, chợt chệch qua một bên đánh keng một tiếng, ánh lửa bắn ra tung tóe, té ra Chung Vạn Đường đã vung kiếm chặn cây gậy.


Châu Thanh thừa thế nhảy ra, Lôi Hải Âm cũng đứng dậy, giơ cây Quỷ Đầu đao ngang ngực chờ địch chứ không dám tấn công. Châu Thanh đã bị trúng độc trong Huyết Trích Tử, Lôi Hải Âm liệu rằng ông ta không chết cũng bị thương, nay thấy ông ta vẫn còn uy mãnh như thế thì kinh hãi. Châu Thanh đang định tiến tới tấn công, tiếng ngựa hí càng lúc càng gần, người nhà họ Phùng cũng đã đuổi ra, Châu Thanh thầm kêu: “Không xong!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy Huyết Trích Tử xuất hiện từ bốn bên, bao vây người nhà họ Phùng vào ở giữa. Phùng Anh Kỳ bế Phùng Lâm, đang định cùng phụ thân xông ra ngoài, chợt nghe tiếng kêu quái dị trên đỉnh đầu, có mấy vật đen thui từ trên chụp xuống đầu, chàng ta vội vàng ôm chặt Phùng Lâm, co người lại né tránh, bên tai đã nghe tiếng cha kêu lớn, ở nơi cổ mát rượi, một trái Huyết Trích Tử đã chụp vào. Chung Vạn Đường đánh hờ một kiếm, gạt được Long Mộc Công, lướt ra mấy trượng, vung kiếm đánh rơi một trái Huyết Trích Tử, tuy nhanh hơn Phùng Quảng Triều nửa bước, lại giật được Phùng Lâm, nhưng đáng thương thay Phùng Anh Kỳ đã đầu một nơi thân một ngả.


Long Mộc Công và Lôi Hải Âm đã vây Châu Thanh, lúc này trên không trung vang lên những tiếng rít quái dị, Châu Thanh kêu lớn: “Mặc ta, chạy mau!” Chung Vạn Đường tay trái kẹp Phùng Lâm, tay phải vung kiếm mở đường, dặn Quảng Liên: “Theo tôi, đừng chạy bừa!” Quảng Liên là người chất phác, Chung Vạn Đường lại rất hợp với ông ta, biết ông ta võ công hơi kém nên cố gắng bảo vệ. Quảng Luyện Hà bế Phùng Anh thấy phu quân bị giết thì lòng dạ đau như xé, khóc chẳng thành tiếng. Vương Lăng và Đường Hiểu Lan, một người dùng Lục Hợp thương, một người cầm Du Long kiếm bảo vệ hai bên Quảng Luyện Hà. Một trái Huyết Trích Tử bay tới, Đường Hiểu Lan phóng vọt lên chém Huyết Trích Tử làm đôi. Du Long kiếm sắc bén lạ thường, ngày đó Châu Thanh bị hơn mười tên Huyết Trích Tử đuổi theo, bao vây mấy lần, nhờ có thanh kiếm mày mà Châu Thanh có thể thoát chết. Nay người nhà họ Phùng thì đông, Huyết Trích Tử không thể chỉ chuyên tấn công một người nên võ công của Đường Hiểu Lan tuy kém Châu Thanh nhưng vẫn có thể bảo vệ được cho Quảng Luyện Hà.


Vài tên võ sĩ bị mất Huyết Trích Tử, vừa thấy Đường Hiểu Lan sử dụng Du Long kiếm thì chạy đến quát tháo chặn lại. Đường Hiểu Lan nắm vững kiếm quyết, múa kiếm loang loáng, đâm được một tên võ sĩ, bên tai đã nghe tiếng kêu kỳ lạ của Vương Lăng. Chàng ta cũng không kịp quay đầu lại, chỉ múa tít cây Du Long kiếm đánh về phía trước. Nào ngờ trong số kẻ địch có hai tên là cao thủ, một tên sử dụng cây roi bảy đốt, loại binh khí này chẳng hề sợ Du Long bảo kiếm. Cây roi bảy đốt kêu lên vù vù, toàn là những chiêu số tấn công. Tên kia sử dụng cái hỗn nguyên bài, xem khí thế rất mạnh mẽ. Đường Hiểu Lan lần đầu tiên xuất đạo mà đã gặp cường địch nên luống cuống chân tay!


Vương Lăng lo bảo vệ cho Quảng Luyện Hà, không rảnh phụ cho Đường Hiểu Lan. Phùng Quảng Triều quát lớn một tiếng, triển khai Truy Phong kiếm pháp vù vù, đâm bị thương hai kẻ địch phía trước mặt, mở ra một đường máu, đang định cứu con dâu chợt thấy có hai bóng người phóng vọt người lên, Phùng Quảng Triều cúi đầu xuống, Châu Thanh đã lướt qua đầu ông ta, ông ta vừa vươn người lên, người ở phía sau đã từ trên không đâm một trượng xuống, ông ta vung kiếm lên gạt thì đã bị đánh lùi đến mấy bước. Người này chính là Hỏa vân động chủ Long Mộc Công!


Châu Thanh đến rất đúng lúc, kẻ sử dụng roi bảy đốt đang quét mạnh vào eo phải của Đường Hiểu Lan, kiếm của Đường Hiểu Lan thì bị thiết bài đè lại không rút ra được, tưởng rằng khó thoát, kẻ sử dụng roi bảy đốt đang đắc ý không ngờ Châu Thanh đột nhiên từ trên phóng vọt xuống như quân nhà trời, tay phải đè vào roi, đột nhiên xoay người chân bước vào trung cung lướt người tiến lên. Thân pháp của Châu Thanh rất nhanh nhẹn, kẻ ấy không kịp rút roi chống trả, năm ngón tay của Châu Thanh đã bóp vào vai của y ném ra sau, kẻ ấy kêu thảm một tiếng, xương tì bà đã bị bóp vỡ. Người sử dụng hỗn nguyên bài đột nhiên giật mình, thủ kình nới lỏng ra, Đường Hiểu Lan rút phắt cây Du Long kiếm trở mũi lại đánh ra một chiêu Bàn trửu kích tra đâm vào ngực của kẻ ấy, kẻ ấy vội giơ thuẫn bài đánh ra chiêu Hoành giá kim lương chặn lại ở phía trên. Nào ngờ Đường Hiểu Lan trở hướng chém xuống hạ bàn của y. tên võ sĩ sử dụng thiết bài không kịp rút về chặn lại, hai chân đã bị chém đứt từ đầu gối trở xuống! Lúc này Vương Lăng và Quảng Luyện Hà vẫn còn cách đó mười mấy trượng, ác đấu với hai tên võ sĩ. Đường Hiểu Lan đang định chạy đến cứu viện thì Châu Thanh đã kéo chàng lại!


Đường Hiểu Lan đang ngạc nhiên Châu Thanh đã khẽ nói bên tai: “Coi chừng Vương Lăng!” rồi ông ta buông tay quát lớn một tiếng, tung người nhảy vọt ra phía sau. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nhìn lại, chỉ thấy bộ pháp của Phùng Quảng Triều đã rối loạn, người đã từ từ đổ xuống, Châu Thanh quay ngược trở lại là để cứu ông ta. Đường Hiểu Lan đau nhói trong lòng, bởi vì ngay trong lúc nguy cấp mà chàng không thể cứu được sư phụ của mình. Bởi vì võ công của sư huynh và sư tẩu kém hơn, tình thế đáng lo hơn nên chỉ đành vung kiếm phóng người tới cứu họ trước. Chàng cũng không có thời gian suy xét câu nói của Châu Thanh lúc nãy.


Té ra Châu Thanh lăn lộn trên giang hồ, bản lĩnh phục địa thính thanh của ông ta trăm lần không sai một, té ra lần đầu tiên ông ta nghe được không chỉ một người, nhưng sau đó chỉ có một mình Vương Lăng đến trước cửa nên thấy nghi hoặc. Bởi vậy ông ta mới không dám ở nhà họ Phùng. Sau đó vừa mở cửa ra đã thấy Long Mộc Công và Lôi Hải Âm nên càng nghi hơn. Ông ta nghĩ hai người này khinh công cao cường, chắc chắn là đi cùng một lúc với Vương Lăng. Chỉ là tuy hoài nghi nhưng không có chứng cứ cụ thể, sợ rằng nghi oan cho người tốt nếu không ông ta đã giết Vương Lăng ngay từ ban đầu!


Lại nói Phùng Quảng Triều đột nhiên gặp cường địch, thế là triển khai Truy Phong kiếm pháp đã khổ luyện mấy mươi năm, kết quả là hạ được hai tên Huyết Trích Tử, đang định xông ra nào ngờ gặp phải Hỏa vân động chủ Long Mộc Công, vừa tiếp một chiêu đã bị đánh lùi. Long Mộc Công múa tít cây gậy sắt, chợt nghe tiếng leng keng vang lên bên tai, Long Mộc Công chợt thấy vai hơi tê nhói, tựa như bị kiến cắn. Trong lòng chấn động, nghĩ bụng chắc là bị loại ám khí nhỏ bé như Mai Hoa châm đả thương, ỷ có nội công tinh thâm nên vận khí đóng lại những yếu huyệt còn cây gậy trong tay thì quét một chiêu Quái mãng phiên thân đến cát chạy đá bay, hung mãnh lạ thường. Phùng Quảng Triều tay trái phóng ra một nắm phi mãng, lúc này cây gậy của kẻ địch đã quét tới trước mặt. Phùng Quảng Triều biết không thể đánh liều nên chân trái giở lên, hộ ở trước bẹn, người xoay nửa vòng, mặt nhìn nghiêng qua, cây kiếm không đỡ chiêu mà chém ngược vào cổ tay của kẻ địch.


Đây là tuyệt chiêu cứu nguy trong Truy Phong kiếm pháp, lập tức phá được chiêu thế của kẻ địch. Nhưng Long Mộc Công cũng rất lợi hại, y quát lớn: “Truy Phong kiếm pháp quả nhiên bất phàm!” y vừa tránh chiêu đã tấn công, cây gậy quét ngang một chiêu Uyển để phiên vân vào thân kiếm của Phùng Quảng Triều, Phùng Quảng Triều tiếp chiêu trả chiêu, ông ta hạ eo xuống, cây kiếm chém tròn trở ra, chém ra một chiêu Xung vân tạc triển, đâm thẳng vào be sườn phải của kẻ địch. Long Mộc Công đột nhiên đảo người ra sau, cây gậy sắt phóng vút ra, gậy và kiếm giao nhau, dĩ nhiên kiếm nhẹ gậy nặng, cây kiếm của Phùng Quảng Triều bị đánh bật lên không trung, hổ khẩu đổ máu. Long Mộc Công phóng vọt người lên, vung bàn tay to bè chụp tới, dưới ánh trăng, chỉ thấy lòng bàn tay của y đỏ như son, Phùng Quảng Triều kinh hãi thối lui ra sau, thế nhưng vai tựa như bị một vật nặng ngàn cân đè xuống, ông ta vội vàng trầm vai thu chỏ lách ra phía sau thì vai đã chảy máu đầm đìa, té ra đã bị Long Mộc Công xé mất một mảng thịt!


Cả bốn động tác né kiếm, ném gậy, phát chưởng, vung trảo thh liền một mạch nhanh như điện chớp lửa xẹt! Đó là tuyệt chiêu sát thủ tìm thắng trong bại của Long Mộc Công! Châu Thanh cả kinh, vội vàng nhảy vọt ra sau, Phùng Quảng Triều cũng đã không đứng vững. Lúc này Quảng Liên đã theo Chung Vạn Đường xông ra, nghe tiếng kêu, quay lại định cứu thân gia, cây Quỷ Đầu đao của Lôi Hải Âm đã chém xuống một chiêu Thái sơn áp đỉnh, cả người lẫn đao từ trên hạ xuống bổ thẳng vào đỉnh đầu của Quảng Liên. Quảng Liên vội vàng lách người ra, cố gắng chống trả nhưng chẳng đủ sức. Lôi Hải Âm tung ra một cú đá trúng vào xương ống quyển của ông ta, Quảng Liên loạng choạng thối lui, va phải một tên Huyết Trích Tử, Chung Vạn Đường vội vàng phóng vọt người ra, tung cước đá tên Huyết Trích Tử té liểng xiểng, tay trái kéo Quảng Liên bước theo Đảo thái tinh bộ thối lui ra sau. Ngay lúc này chợt nghe Phùng Quảng Triều kêu lớn: “Chạy mau, chạy được người nào hay người đó!” dưới ánh trăng, chỉ thấy ông ta loạng choạng đi mấy bước, hai trái Huyết Trích Tử đã bay tới, Phùng Quảng Triều kêu rú lên, đầu đã bị Huyết Trích Tử hớt mất! Hai người Chung, Quảng vừa kinh vừa giận. Cô bé Phùng Lâm nằm trong tay Chung Vạn Đường chợt khóc òa lên.


Dưới ánh trăng, khuôn mặt bầu bĩnh của Phùng Lâm trông càng đáng yêu hơn. Chung Vạn Đường thở dài nghiến răng nói: “Cứu con trẻ trước!” rồi trao Phùng Lâm cho Quảng Liên, tay trái cầm một cây đao quát: “Theo ta xông ra ngoài!” Lôi Hải Âm phóng vọt tới chém một đao, Chung Vạn Đường đột nhiên hạ người, tựa như muốn né chiêu nhưng lại xoay người tựa như muốn đâm ra một đao, Lôi Hải Âm cũng là tay già dặn, thấy ông ta xuất chiêu hư thực khó lường, không dám liều tiến tới, hai tên võ sĩ bên cạnh y lại sánh vai xông lên. Cây kiếm thép trong tay Chung Vạn Đường múa ra loang loáng, một tên võ sĩ kêu hoảng, đã bị đâm trúng, may mà y lanh lẹ bổ nhào xuống đất lộn người ra mấy trượng! Tên còn lại thất kinh thối lui ra sau hai bước, đang định thu roi chặn kiếm, Chung Vạn Đường đã xoay người cùng kiếm, mấy cây Đoạt Mệnh thần đao trong tay trái phóng vút ra, miệng thì quát: “Ngã!” tên võ sĩ ấy quả nhiên ngã xuống đất, kêu lên: “Ám khí có độc!” Chung Vạn Đường lại vung tay lên, ba mũi phi đao liên tiếp bay ra. Lôi Hải Âm giơ ngang đao chặn lại, đánh rơi một mũi phi đao xuống đất, còn hai tên võ sĩ bên cạnh liên tục kêu lên ối chao rồi ngã xuống. Lôi Hải Âm thấy thế chẳng dám đuổi theo nữa. Y vội vàng quát: “Mau phóng Huyết Trích Tử!”


Huyết Trích Tử đánh xa chứ không đánh gần, trong lúc hỗn chiến không thể nào thi triển được. Chung Vạn Đường vừa thoát ra, Huyết Trích Tử đã bay tới, ông ta nghe trên đỉnh đầu có tiếng gió rít, vừa nhìn lại thì thấy năm sáu trái Huyết Trích Tử xé gió bay tới, Chung Vạn Đường tra kiếm vào bao, hai tay cầm sáu cây phi đao quát lớn: “Huyết Trích Tử có thể làm gì được ta!” cây phi đao bắn ra như điện chớp, tiếng leng keng vang lên trên không trung, Huyết Trích Tử bị phi đao đánh bật ra, mười hai mũi trủy thủ bắn ra ngoài! Trong đó có một trái Huyết Trích Tử có lẽ là do cao thủ phóng ra, lực cũng còn rất mạnh, bị phi đao chạm vào mà vẫn cứ xé gió lao tới. Chung Vạn Đường vội vàng phóng vọt lên, vung kiếm hất trái Huyết Trích Tử bay ra xa. Chung Vạn Đường cũng thất kinh, thầm nhủ: “Nếu bị mười mấy trái Huyết Trích Tử vây công thì quả thật khó chống trả”.


Lúc này ông ta đã đỡ Quảng Liên thoát ra khỏi phạm vi của Huyết Trích Tử, khi quay đầu nhìn lại chỉ thấy Châu Thanh tả xung hữu đột dưới ánh trăng. Chung Vạn Đường thầm nhủ: “Công phu của Châu Thanh chỉ trên mình, tuy ông ta đã bị thương nhưng Huyết Trích Tử cũng đã thương vong quá nửa. Ám khí phi mãng của ông ta chẳng kém gì phi đao của mình, chắc có thể thoát hiểm”.


Chung Vạn Đường đang trầm ngâm, Phùng Lâm lại khóc òa lên, Chung Vạn Đường mỉm cười, hôn cô bé một cái. Từ xa Châu Thanh kêu lớn: “Đưa bọn trẻ chạy mau! Còn tên đồ đệ họ Niên của huynh, nếu phát giác y tâm thuật bất chính thì nên phế võ công, đừng chần chừ! Sau khi thoát hiểm tôi sẽ đến Trần Lưu tìm huynh, chạy mau!”


Chung Vạn Đường giật mình: “Trong lúc nguy cấp mà Châu Thanh vẫn không quên nhắc nhở mình, chả lẽ Niên Canh Nghiêu sẽ trở thành một kiêu hùng!” nhưng lúc này ông ta không kịp suy nghĩ nhiều, đáp rằng: “Châu huynh hãy bảo trọng, gặp lại ở Trần Lưu!” rồi bế Phùng Lâm cùng Quảng Liên phóng vọt đi như bay!


Châu Thanh thấy Chung Vạn Đường đã thoát hiểm thì thở phào, khi quay lại nhìn Đường Hiểu Lan thì thấy chàng ta cùng Vương Lăng, Quảng Luyện Hà đang đánh nhau rất kịch liệt với kẻ địch. Cây Du Long kiếm của Đường Hiểu Lan phát ánh sáng loang loáng, chuyên chặt vào binh khí của kẻ địch, cây Lục Hợp thương của Vương Lăng đỡ trên gạt dưới, hất trong đâm ngoài trông rất hăng say. Ba tên võ sĩ đối địch tuy chẳng phải hạng tầm thường nhưng so với Long Mộc Công và Lôi Hải Âm thì còn kém rất xa, bọn ba người Đường Hiểu Lan vẫn có thể chống trả nổi. Châu Thanh thở phào, chưởng trái đẩy lên, tay phải kéo ra sau kêu rắc một tiếng, bẻ gãy cánh tay phải của một tên võ sĩ. Long Mộc Công đùng đùng nổi cáu, chưởng thế đánh ngược lại nhanh như điện xẹt, bổ vào mặt của Châu Thanh, chiêu này rất hung hiểm, Châu Thanh né tránh không kịp, thế là vận nội lực vung tay lên, chịu một gậy của Long Mộc Công, người mượn lực phản chấn nhảy vọt ra ba trượng.


Long Mộc Công cũng thấy như đánh gậy vào sắt đá, y cũng thối lui mấy bước, hổ khẩu đau nhói, trong lòng bất giác kinh hãi. Y không biết Châu Thanh bị thương càng nặng hơn! Nội công của Châu Thanh tuy cao nhưng đã bị trúng độc, thế mà lại dám lấy tay tiếp một gậy, bởi vậy lục phủ ngũ tạng đều chấn động, hai mắt tối sầm, đau nhói đến tận tim, biết khó giữ được mạng. Đường Hiểu Lan kêu lên: “Châu bá bá, tới đây mau! Chúng ta cùng xông ra ngoài!”


Châu Thanh vung tay, phóng ra bảy cây phi mãng, đả thương bọn võ sĩ bao vây Đường Hiểu Lan và Quảng Luyện Hà, kêu lên: “Chạy mau! Đừng đợi ta!” Đường Hiểu Lan hơi chần chừ, Châu Thanh đã quát: “Ngươi có nghe lời không?” rồi nghe vù một tiếng, một trái thiết cầu lại bay lên đỉnh đầu, Đường Hiểu Lan hất kiếm lên, gạt được một trái Huyết Trích Tử, sau lưng đã nghe Châu Thanh kêu: “Chạy mau, dùng phi mãng đả thương bọn chúng!” Đường Hiểu Lan và Vương Lăng cùng Quảng Luyện Hà xông ra ngoài, sau lưng chỉ có vài tên võ sĩ đuổi theo.


Châu Thanh thấy bọn Đường Hiểu Lan đã thoát hiểm, tinh thần phấn chấn, ông ta biết khó giữ được mạng nên giành hơi cuối cùng để đoạn hậu cho họ. Lôi Hải Âm đuổi theo, Châu Thanh trợn hai mắt quát lớn một tiếng, trở tay đánh lại một chưởng nhanh như sấm sét, Lôi Hải Âm hoảng hồn thối lui ra sau nhưng đã không kịp nữa, xương vai đã bị vỡ nát, cây Quỷ Đầu đao vuột khỏi tay bay ra, ngã xuống đất bất tỉnh. Châu Thanh đứng sừng sững ở giữa đường, một tên Huyết Trích Tử nói: “Chúng ta đi thôi, cứ mặc y!” trong cuộc chiến này tuy cha con Phùng Quảng Triều bị giết nhưng bọn Huyết Trích Tử cũng thương vong quá nửa, Lôi Hải Âm lại bị trọng thương, ngoại trừ ba bốn người đuổi theo Đường Hiểu Lan, tính cả Long Mộc Công chỉ còn lại năm người. Long Mộc Công lạnh mình, nhưng vừa nhìn thì chợt mắng: “Đồ vô dụng! Theo ta, y không thoát được đâu!” cây gậy đầu rồng lại đâm về phía trước. Té ra y thấy khi Châu Thanh né Huyết Trích Tử, tuy lanh lẹ nhưng thân pháp không còn linh hoạt như trước, những kẻ kém cỏi không nhận ra nhưng Long Mộc Công là kẻ già dặn, vừa nhìn thì đã đoán Châu Thanh đã đuối sức.


Bọn Huyết Trích Tử đều là tử sĩ của Tứ bối lạc, bị Long Mộc Công mắng thì rất ấm ức, bởi vậy cố ý chậm trễ để cho y chạy lên phía trước. Châu Thanh vung hai tay vãi ra một nắm phi mãng, Long Mộc Công bay bổng người lên múa tít cây gậy nhưng vẫn bị một cây phi mãng đâm trúng mắt. Y chưa bao giờ thê thảm như lần này, thế là hung tính phát tác, đang ở trên không trung đã lộn người một vòng, cả người lẫn gậy từ trên đâm xuống, Châu Thanh đại triển thần oai, hai tay chụp lấy gậy quát lớn một tiếng, cả hai người đều dùng lực, cây gậy được đánh bằng thép gãy làm hai đoạn.


Long Mộc Công cầm nửa đoạn gậy ném tới, Châu Thanh tung cước đá cây gậy bay xa đến ba trượng nhưng ngực cũng đã bị đâm trúng, vết thương vỡ ra, chân khí tản mát, thế là người đệ tử ký danh của Lăng Vị Phong, vị hiệp sĩ duy nhất ở Trung Nguyên tinh thông Truy Phong kiếm pháp đã chết ở nơi làng vắng.


Long Mộc Công thấy ngực đau nhói, phun ra từng ngụm máu, y vội vàng đề khí hộ thương, chợt nghe một tên Huyết Trích Tử bên cạnh nói: “Xin chúc mừng, ngài đã đánh chết khâm phạm!” Long Mộc Công tức giận nói: “Hừ, bọn vô dụng các người, kẻ địch đã chết mới dám xông lên”. Bọn Huyết Trích Tử không dám lên tiếng, một hồi sau có một tên mới bảo: “Chúng tôi đúng là vô dụng! Chúng tôi cũng không muốn giành công, vậy ngài hãy cắt đầu Châu Thanh trở về bẩm báo với bối lạc”. Long Mộc Công đang bị trọng thương, nếu không có người bảo vệ chắc chắn sẽ chết ở nơi hoang vắng, nghe tên Huyết Trích Tử nói thế có vẻ như không thèm màng đến mình, cười hề hề rằng: “Chúng ta đều có công cả, không cần phải nổi cáu như thế!” tên Huyết Trích Tử ấy chỉ hừ một tiếng, rồi đỡ Long Mộc Công cùng Lôi Hải Âm lên. Từ đó giữa Long Mộc Công và Huyết Trích Tử đã có xích mích, sau này truyện sẽ kể.


Lôi Hải Âm dần dần tỉnh lại, chợt hỏi: “Thiếu niên sử dụng kiếm đâu?” tên võ sĩ bên cạnh đáp rằng: “Đã có mấy người đuổi theo y, chắc y không chạy thoát nổi!” Lôi Hải Âm hừm một tiếng, nói: “Chưa chắc đã kịp!” một tên võ sĩ trả lời: “Y chạy cùng Vương Lăng”. Lúc này vẻ mặt của Lôi Hải Âm mới đỡ hơn, y khẽ gật đầu nói: “Vậy thì còn có hy vọng. Các ngươi hãy chia hai người thông báo cho Huyết Trích Tử ở phía sau bao vây các ngã đường!”


Tứ bối lạc Dận Trinh lần này ngầm sai người truy bắt Châu Thanh có hai mục đích, té ra Khang Hy căm ghét những người phản bội mình, sợ rằng chuyện này đồn ra sẽ tạo thành tiền lệ không tốt cho đám võ sĩ bảo vệ mình, Châu Thanh là đại nội vệ sĩ duy nhất phản bội, Khang Hy rất bực mình, muốn bắt sống ông ta về băm vằm cho hả giận. Tứ bối lạc biết tâm ý của vua cha vì vậy hạ lệnh cho võ sĩ dưới trướng truy bắt gắt gao, mục địch là muốn trổ tài trước mặt Khang Hy, từ đó trấn áp các bối lạc khác. Mục địch khác là y muốn đoạt Du Long bảo kiếm và Truy phong kiếm quyết của Châu Thanh. Dã tâm của y rất lớn, vì tranh quyền đoạt vị nên đã dốc hết toàn lực. Một mặt cấu kết quyền thần trong triều, một mặt lấy lòng vua cha, mục địch của y là đến lúc cuối cùng sẽ dùng võ lực đoạt lấy ngôi vua, rưới máu cung đình. Bởi vậy y là kẻ nuôi võ sĩ nhiều nhất, vả lại bản thân y cũng tinh thông võ nghệ, có điều chỉ thiếu một cây bảo kiếm. Các giáo đầu cấm vệ quân và võ sĩ trong cung đều tấm tắc khen ngợi cây Du Long kiếm của Sở Chiêu Nam, bởi vậy y muốn chiếm làm của riêng. Lôi Hải Âm là một trong tứ bá của vương phủ, rất được Dận Trinh tin tưởng, y hiểu rõ tâm ý của bối lạc. Nay y biết Châu Thanh đã chết, tuy có thể dùng rượu thuốc ngâm đầu của Châu Thanh để đem về dâng cho Tứ bối lạc nhưng dẫu sao cũng không bằng bắt sống. Bởi vậy mục địch đầu tiên của Tứ bối lạc chỉ có nói chỉ đạt được một nửa. Mục đích còn lại không có hy vọng hoàn thành bởi vậy y rất không vui. Long Mộc Công thì càng bực tức hơn, y đã mù một mắt, mang trọng thương, y giết được Châu Thanh tưởng rằng có thể lập được công to nhưng nào ngờ bị đồng liêu mỉa mai.


Lại nói Đường Hiểu Lan cầm một nắm phi mãng trong bàn tay, ba bốn tên võ sĩ không còn Huyết Trích Tử trong tay không biết lợi hại tiếp tục đuổi theo. Đường Hiểu Lan nói: “Sư huynh, huynh hãy bảo vệ tẩu tẩu chạy trước một bước. Để đệ chặn bọn này!” Vương Lăng cả mừng, nói với Quảng Luyện Hà: “Được, chúng ta chạy trước!” Quảng Luyện Hà vẫn đứng yên, nói: “Có nạn cùng chịu, đại sư huynh, huynh hãy bế Anh nhi!” rồi giơ ngang kiếm định giúp Đường Hiểu Lan. Vương Lăng rất ngượng ngùng, nhận không được mà không nhận cũng không xong. Ngay lúc này chợt nghe Đường Hiểu Lan kêu lớn: “Ngã này!” hai tay vung lên, bốn kẻ địch ngã mất hai, còn hai tên đã bị trúng phi mãng, bước chân chậm chạp, Đường Hiểu Lan vung kiếm phóng lên phía trước, cây bảo kiếm Du Long đâm ra như gió liên tục mấy nhát kiếm, khiến cho hai tên võ sĩ luống cuống chân tay. Vương Lăng vội vàng chạy lên, vung cây Lục Hợp thương ra nói: “Sư đệ, ta giúp đệ!” nhưng y vẫn chưa tiến về phía trước, cây kiếm của Đường Hiểu Lan đã chặn trái quét phải, giết chết cả hai tên võ sĩ! Vương Lăng khen: “Kiếm pháp hay!” rồi y đảo mắt tựa như suy nghĩ điều gì. Đường Hiểu Lan quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Quảng Luyện Hà đang khóc thút thít.


Chính là:


Thương thay nhà tan lại cửa nát, từ đây gặp bao cảnh hiểm nguy.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 3 Quỷ kế đa đoan gian đồ hiếp quả phụ Kỳ năng đại triển Tứ hiệp đấu Song ma




Phùng Anh đang ngủ say trong lòng mẹ, Quảng Luyện Hà khóc thút thít, Vương Lăng nói: “Sư muội, việc đã đến nước này, hãy bớt đau buồn mà chạy cho nhanh”. Quảng Luyện Hà khẽ vuốt khuôn mặt bầu bĩnh của Phùng Anh, rơi nước mắt mà nói: “Đáng thương thay, con của muội vừa mới tròn một tuổi mà đã nhà tan cửa nát, cốt nhục phân li. Đến bao giờ chúng mới được gặp nhau lại?” Đường Hiểu Lan nói: “Chung đại hiệp võ nghệ cao cường, ông ta lại muốn nhận tiểu điệt nữ làm đồ đệ, chắc là không sao, sư tẩu đừng quá đau buồn”.


Quảng Luyện Hà tuy là bậc nữ trung hào kiệt nhưng bất ngờ gặp biến cố bởi vậy cũng không thể nào bình tĩnh nổi. Nàng rầu rĩ hỏi: “Chúng ta có thể đi đến nơi nào?” Vương Lăng nói: “Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, chúng ta hãy đến kinh đô. Ta làm tiêu sư ở kinh đô, quen biết rất nhiều người. Bọn Huyết Trích Tử ở đấy lại không nhận ra chúng ta, muội và điệt nữ cứ ở cùng ta, ta sẽ nhờ hảo thủ trong kinh dạy võ nghệ cho điệt nữ, đó là kế vạn toàn”.


Đường Hiểu Lan trầm ngâm một lát, ngẩng đầu nói: “Sư tẩu, chi bằng chúng ta đến núi Thái Hàng!” Quảng Luyện Hà nói: “Cái gì? Đi núi Thái Hàng?” Đường Hiểu Lan nói: “Châu đại hiệp đã từng bảo, hào kiệt năm tỉnh phía Bắc cứ mỗi mười năm tụ hội một lần, Trung Thu năm nay là đến kỳ tụ hội, địa điểm chính là núi Thái Hàng”. Vương Lăng nói: “Hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tụ hội có liên quan gì tới chúng ta?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ tuổi trẻ nông cạn, nhưng vẫn thấy đám Huyết Trích Tử này còn có dư đảng. Nếu đến kinh sư đường xa diệu vợi, chắc chắn sẽ có nhiều nguy hiểm. Từ đây đến núi Thái Hàng chỉ có vài ngày đường, có hào kiệt năm tỉnh phía Bắc, bọn Huyết Trích Tử muốn làm khó chúng ta cũng phải kiêng dè”. Vương Lăng bĩu môi nói: “Hình như đệ quen biết với rất nhiều hào kiệt!” Đường Hiểu Lan không màng đến câu nói mỉa mai của Vương Lăng, tiếp tục bảo: “Đệ tuy không quen nhiều người nhưng hễ bậc hào kiệt thì giữa đường chắc chắn sẽ rút đao tương trợ!”


Hai người chẳng ai chịu ai, Quảng Luyện Hà cúi đầu suy nghĩ, cũng cảm thấy rất khó quyết đoán, Vương Lăng chợt nói: “Sư đệ, ai đã dạy kiếm pháp cho đệ?” Đường Hiểu Lan nói: “Đương nhiên là sư phụ”. Nói xong thì thấy không ổn, Vương Lăng lại bảo: “Cho ta xem thử thanh bảo kiếm của đệ!” Đường Hiểu Lan nhớ lại lời dặn của Châu Thanh, trong lòng sinh nghi, cười rằng: “Đây là kiếm của Châu đại hiệp tặng, người bảo đệ không được rời kiếm, tuy sư huynh có lệnh nhưng đệ không thể cãi lời Châu đại hiệp”. Vương Lăng hừ một tiếng, chợt hỏi: “Ngươi là người ở đâu?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ từ nhỏ đã mồ côi, lưu lạc giang hồ, cả bản thân cũng không biết là người ở đâu”. Vương Lăng nói: “Hình như đệ sống ở quan ngoại ở nhiều năm?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế, sao sư huynh lại hỏi như thế?” Vương Lăng quay sang Quảng Luyện Hà nói: “Ta ở trong sư môn nhiều năm mà không thấy sư phụ dùng kiếm, Đường sư đệ mới tới một năm mà sư phụ đã dạy cho y kiếm pháp thượng thừa đúng là rất có cơ duyện với nhau. Sư muội, từ nhỏ chúng ta đã quen biết nhau, hiểu rõ lai lịch của nhau, còn gã sư đệ này đột nhiên từ quan ngoại đến, lại được sư phụ thương mến, chắc chắn có nguyên do! Đáng tiếc y vừa mới vào sư môn được một năm, bọn Huyết Trích Tử đã đến bái phỏng, chẳng phải ta nói lời mê tín, e rằng số mệnh của y khắc với số mệnh của sư phụ”.


Những lời của Vương Lăng rõ ràng là bảo Đường Hiểu Lan lai lịch bất minh, lại ám chỉ Đường Hiểu Lan dẫn dắt bọn Huyết Trích Tử đến đây mưu hại cả nhà sư phụ. Đường Hiểu Lan nghe thế thì suýt nữa đã đên tiết. Nhưng chàng nghĩ lại lúc này không thể làm chuyện gà nhà đá nhau, vả lại lai lịch của chàng cũng có điểm không rõ ràng, chả trách nào gã sư huynh này không nghi ngờ. Chàng nghĩ như thế nên giằng được cơn giận, lại đưa mắt nhìn Quảng Luyện Hà. Trong lòng tính rằng, nếu sư tẩu cũng nghi ngờ thì mình chỉ đành ra đi.


Khi Phùng Quảng Triều kể lại chuyện Đường Hiểu Lan đến học kiếm pháp ở mình cho Chung Vạn Đường nghe, Vương Lăng vẫn chưa về, Quảng Luyện Hà lại ở bên cạnh. Nàng biết gã sư đệ này tuy có lai lịch không rõ ràng nhưng đích thân Châu đại hiệp đã nhờ công công của mình dạy dỗ. Bởi vậy nàng rất không vui bởi những lời khích bác của Vương Lăng. Số là nàng vẫn chưa quyết định được, lúc này chợt ngẩng đầu nói: “Đường sư đệ nói có lý, chúng ta hãy đi đến núi Thái Hàng trước!” Vương Lăng bất giác ngạc nhiên. Quảng Luyện Hà chỉ Phùng Anh nói: “Hai mẹ chúng tôi đều nhờ hai vị sư huynh đệ giúp đỡ, ba người chúng ta phải một lòng một ý đối phó với kẻ địch. Kiếp sau tôi xin nguyện kết cỏ ngậm vằn báo đáp đại đức của hai vị”. Vương Lăng nghe như thế thì biết Quảng Luyện Hà đã nghi ngờ mình, chỉ đành bảo: “Ta nghĩ đến kinh đô sẽ an toàn hơn, nhưng sư muội và Đường sư đệ đã nhất quyết đến núi Thái Hàng, ta cũng đành phải chìu theo”.


Núi Thái Hàng nằm ở Tây bắc tỉnh Hà Nam, cách Nhữ Châu khoảng năm ngày đường, Quảng Luyện Hà thầm tính, còn ba ngày nữa đến Trung Thu, khi đến núi Thái Hàng quần hùng tụ hội không quá hai ngày, chắc vẫn chưa tan. Trên đường nàng thấy thần sắc của Vương Lăng rất lạ, chỉ tưởng rằng y vì tranh chấp với Đường Hiểu Lan nên không để ý.


Đi được hai ngày, đến Lạc Dương, Vương Lăng đầy kinh nghiệm giang hồ, y nhìn kỹ thì quả nhiên thấy có dấu vết của nhân vật lục lâm qua lại trong thành nên thầm giới bị. Đường Hiểu Lan cũng cẩn thận đề phòng. Khi vào khách sạn, chợt thấy Vương Lăng và một đại hán gật đầu chào hỏi, khi hỏi lại thì Vương Lăng bảo: “Đó là bằng hữu ở tiêu hãng, cũng chẳng thân thiết gì nên chỉ chào hỏi”. Đêm ấy Đường Hiểu Lan không dám ngủ, kiếm vẫn đeo ở eo, trong tay cầm sẵn phi mãng, sau một đêm cũng chẳng có gì khác lạ.


Ngày thứ ba họ đến Mạnh Tân, đó là con đường giao thông quan trọng của Hà Nam, khi vào thành thì chợt thấy có một đám đại hán Sơn Đông ngồi trên mấy chiếc xe phóng ra thành. Kẻ phóng ngựa đi đầu là một đại hán mặt tía, nhìn thấy bọn Đường Hiểu Lan thì hình như hơi kinh ngạc, khi lướt qua thì chợt hỏi: “Các người đi đâu thế?” Vương Lăng nói: “Đến Mạnh Tân thăm bà con!” hán tử ấy lại hỏi: “Chẳng phải đến núi Thái Hàng sao?” Vương Lăng vội vàng nói: “Không phải, không phải!” đại hán định hỏi nữa thì Vương Lăng đã vội vàng vào thành. Người trên xe thúc giục: “Đại ca, mau lên đường!” hán tử ấy thúc hai chân vào bụng ngựa, thớt ngựa phóng về phía trước nhưng vẫn ngoái đầu nhìn lại bọn Vương Lăng.


Vào trong thành, Đường Hiểu Lan hỏi: “Sư huynh, ai thế?” Vương Lăng nói: “Lỗ Tây đại hào Mạnh Kiện Hùng”. Đường Hiểu Lan đã từng nghe Châu Thanh nói về những hào kiệt trong thiên hạ, bởi vậy chàng ta biết Mạnh Kiện Hùng là nhân vật lẫy lừng, giỏi đánh phi hỏa đạn, là lãnh tụ võ lâm miền Lỗ Tây. Bởi vậy chàng ta mới ngạc nhiên nói: “Đêm nay hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tụ hội tại núi Thái Hàng, tại sao Mạnh Kiện Hùng không đến tham gia mà trái lại đi ngược hướng núi Thái Hàng mà còn trông rất vội vàng!” vì thế hỏi tiếp: “Mạnh Kiện Hùng cũng là nhân vật võ lâm, sao sư huynh không nói thực cho y biết?” Vương Lăng chợt biến sắc, bật cười: “Sư đệ, đệ đúng là tuổi trẻ ít kinh nghiệm giang hồ, tục ngữ nói rất hay, biết người biết mặt không biết lòng, huống chi Mạnh Kiện Hùng chẳng có giao tình gì với chúng ta, sao lại tùy tiện nói thực với người ta?” y vừa nói vừa liếc Quảng Luyện Hà.


Quảng Luyện Hà nói: “Đại sư huynh nói phải, cẩn thận một chút vẫn hơn”. Đường Hiểu Lan càng sinh nghi, đêm ấy chàng vẫn không dám ngủ say, may mà tới sáng vẫn chẳng có chuyện gì xảy ra.


Ngày thứ tư họ đến Tu Võ, đó là một huyện thành nhỏ bé, vốn là đã đi ngang qua Mạnh Tân, dần dần tiến vào vùng rừng núi, nhưng người qua kẻ lại rất náo nhiệt. Vương Lăng để ý kỹ, chốc chốc lại gặp nhân vật giang hồ đi ngược hướng với mình, Vương Lăng thầm cả mừng, Đường Hiểu Lan đã nhận ra tình hình không ổn. Chỉ có Quảng Luyện Hà xưa nay ít ra khỏi nhà nên không biết chuyện gì.


Đêm ấy, họ trọ tại một khách điếm ở Tu Võ, vừa mới đặt hành trang xuống chợt nghe phòng bên cạnh có tiếng rên. Đường Hiểu Lan len lén nhìn qua, chỉ thấy có một người bệnh đang năm trên giường, trong phòng có hai hán tử và một thiếu nữ. Thiếu nữ ấy xinh đẹp như tranh vẽ, trên khuôn mặt vẫn còn nét trẻ con, trông nàng chỉ mới khoảng đôi tám, thấy Đường Hiểu Lan thò đầu nhìn qua thì chợt trừng mắt, nói: “Này, nhìn cái gì?” hai hán tử kia nghe thế đứng dậy, cung tay nói: “Tiểu huynh đệ, xin mời qua đây ngồi”. Vương Lăng toan kéo lại nhưng Đường Hiểu Lan đã bước qua phòng bên kia.


Người nằm trên giường quả nhiên là một người bệnh, trên đệm và chăn vẫn còn vết máu. Đường Hiểu Lan bước vào, người ấy chợt ngồi dậy, thì ra đó là một ông già gầy ốm sắc mặt vàng vọt, nhưng đôi mắt trông sáng quắc có thần khiến người ta phải phát sợ. Ông già ấy nhìn Đường Hiểu Lan một hồi, lắc đầu chợt hỏi: “Trước mặt chân nhân không nên nói dối, có phải tiểu huynh đệ đến núi Thái Hàng không?” Đường Hiểu Lan không biết lai lịch của bọn người này bởi vậy không dám nói thật nên hỏi ngược lại: “Có phải tiền bối từ núi Thái Hàng đến đây không?” ông già kêu ừ một tiếng, đột nhiên đưa tay từ trong mền ra chụp lấy tay của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan bất giác kêu ối chao một tiếng, rùng người xuống, trừng mắt hỏi: “Lão tiền bối, ông làm gì thế?” ông già chợt cười ha hả, buông tay ra nói: “Lão phu muốn đi vài bước, muốn nhờ tiểu huynh đệ đỡ một tay, không ngờ tiểu huynh đệ lại yếu ớt như thế!” nàng thiếu nữ vội vàng chạy đến đỡ ông già, nháy mắt với ông ta, ông ta lại lắc đầu nói: “Tiểu tử này không phải nhân vật giang hồ”. Đường Hiểu Lan bực bội, cung tay cáo từ, ông già khẽ nói ở sau lưng: “Ta mong y không phải đến núi Thái Hàng! Với võ công của y, nếu lên núi có một trăm cái mạng cũng không giữ được!” ông ta tuy nói rất nhỏ nhưng nghe rõ mồn một, tựa như là cốt để cho Đường Hiểu Lan nghe!


Đường Hiểu Lan quay về phòng, vừa bực dọc vừa lấy làm ngờ, không biết ông già ấy là địch hay bạn. Vương Lăng chạy đến hỏi, Đường Hiểu Lan sợ y chê cười, không dám kể chuyện mình bị người ta tấn công, chỉ nói đó là những lữ khách bình thường, muốn mình qua trò chuyện với họ, Vương Lăng chỉ cười lạnh chứ không nói gì.


Đêm ấy Đường Hiểu Lan lại không dám ngủ say, đến nửa đêm thì chợt nghe bên ngoài đánh ầm một tiếng, cánh cửa lớn của lữ quán đã bị người ta húc vỡ toan, đèn đuốc sáng trưng, Đường Hiểu Lan ngồi bật dậy, thấy có mười mấy tên đại hán từ bên ngoài xông vào đá cửa phòng hai bên tra xét, phòng bên cạnh không đợi bọn chúng tới đã tự mở cửa trước. Ông già bảo thiếu nữ đỡ ra cửa, dựa cửa nói: “Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh ở đây, đừng quấy rối người khác!” đám hán tử ấy gầm lớn, đột nhiên kêu hoảng lên, ba trái thiết cầu bay về phía ông già, Đường Hiểu Lan kinh hãi kêu: “Huyết Trích Tử!” rồi chàng ta nhíu mày, không biết Vương Lăng đã thức dậy từ lúc nào, y đè vào vai Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan khẽ gằng giọng nói: “Sao thế?” Vương Lăng suỵt một tiếng nói: “Đừng làm càn!”


Khi Đường Hiểu Lan rùng vai lại hóa giải đòn Cầm Nã thủ của Vương Lăng. Vương Lăng mất thăng bằng suýt nữa đã té xuống, vội vàng nói: “Đường sư đệ, bọn chúng người đông, chúng ta đừng nhúng tay vào!” Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, thầm nhủ: “Té ra sư huynh có ý tốt”. Rồi chàng ta chỉ đứng xem. Lúc này ba trái Huyết Trích Tử đã bay lên đầu ông già, vừa mới chụp xuống thì không biết thế nào mà lại bay bổng lên không trung rồi tạt ngược trở về! Chỉ thấy ông già ấy thâu chưởng trở lại, cầm cây đạn cung từ trong tay của nàng thiếu nữ, quát lớn một tiếng, dây cung căng ra như mặt nguyệt, viên đạn bắn ra như sao xẹt khiến kẻ địch kêu hoảng. Chợt có một người nhảy ra, trông tướng nhảy của y như khỉ vượn, trên tay y mang bao bằng da hươu, y tung mình lên rồi chụp những viên đạn, quát lớn: “Thần đạn đã thấy qua, nay ta muốn lãnh giáo Thiết chưởng của ngươi!” rồi y tung người phóng tới trước mặt ông già, hai cánh tay vung lên, hai hán tử bên cạnh ông già loạng choạng thối lui mấy bước, ông già trở tay vỗ lại một chưởng nhanh như điện chớp, hán tử ấy cũng vừa đấm ra hai quyền chặn lại, chưởng trái của ông già đột nhiên xỉa ra vỗ trúng sườn trái của y, quát lớn: “Ngã này!” hán tử ấy loạng choạng thối lui mấy bước, quay đầu lại nói: “Thiết chưởng cũng đã lãnh giáo, chúng ta xông lên bắt sống lão giặc già này!”


Đường Hiểu Lan thấy thế kinh tâm động phách, chàng đã từng nghe Châu Thanh nói Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh là hào kiệt tên tuổi lẫy lừng ở năm tỉnh phía Bắc, nhưng không biết cớ sao lại bị thương. Vả lại hôm nay quần hào đang tụ hội ở núi Thái Hàng, tại sao ông ta lại ở đây? Hán tử vừa rồi bị trúng một chưởng mà vẫn không ngã, rõ ràng võ công rất thâm hậu. Lúc này hai bên đã lao vào quần thảo, hán tử đối địch với Dương Trọng Anh có bộ pháp và thân pháp rất kỳ quái. Dương Trọng Anh lại bị trọng thương, xoay chuyển không tiện, hai chân cứ như đóng đinh dưới đất, vững như thái sơn, chẳng hề nhúc nhích, chưởng phong kêu lên vù vù, trong phạm vi tám thước, kẻ địch chẳng thể nào sấn lại gần được ông ta! Nàng thiếu nữ sử dụng một cây liễu diệp đao chẳng rời ông già, đao quang của nàng cứ loang loáng đánh ra, đó là loại đao pháp thượng thừa. Xưa nay chẳng ai chống nổi đôi chưởng của Dương Trọng Anh, thế mà nay ông ta thấy mình chẳng đánh ngã được kẻ địch, trong lòng thầm thất kinh, đánh một hồi thì chợt kêu lớn: “Ngươi có phải là môn hạ của Bát Tý Thần Ma hay không?” hán tử ấy cười gằng nói: “Ngươi có thể thoát được đôi chưởng của sư phụ ta, thế nhưng lại gặp phải ta, ngươi còn có điều gì muốn nói? Thiết Chưởng Thần Đạn, hôm nay là ngày chết của ngươi!” rồi y nhảy bổ lên tấn công tiếp. Dương Trọng Anh liên tục vỗ ra Liên hoàn chưởng, thân pháp của hán tử ấy rất nhanh, y vừa tránh đã lao tới, không màng đến chưởng phong, xem ra y muốn liều mạng với Dương Trọng Anh. Dương Trọng Anh thua ở chỗ không thể xoay chuyển, nhưng công lực lại trên hán tử này, lại không thể truy kích nên ông ta nhíu mày, chưởng trái giở hờ lên, hán tử ấy lách qua một bên, Dương Trọng Anh đột nhiên dấn tới một bước, chưởng phải vỗ ra, bốp một tiếng, một tên địch tấn công nàng thiếu nữ đã bị đánh bay ra ba trượng! Những kẻ vây công đại loạn, hán tử chợt kêu lên: “Tấn công hạ bàn của ả nha đầu!” rồi y phóng vọt người lên chụp xuống ông già, Dương Trọng Anh đấm thẳng lên một quyền, hán tử ấy nhẹ nhàng hạ xuống bên trái, tung cước quét ngang một cái, hạ bàn của thiếu nữ không vững, buộc phải thối lui mấy bước, thế là kẻ địch lập tức dồn lên, tách thiếu nữ ra khỏi ông già.


Nàng thiếu nữ cùng hai sư huynh ứng phó kẻ cường địch, suýt nữa đã rơi vào nguy hiểm. Dương Trọng Anh thì bị tên môn hạ của Bát Tý Thần Ma chặn lại, di chuyển không được, trong lúc kịch chiến Dương Trọng Anh bị kẻ ấy chụp một trảo, vai phải mất một mảng thịt, máu chảy đầm đìa. May mà hán tử vừa trúng một chưởng của ông ta, công lực đã giảm xuống chứ nếu không ông ta đã nguy to. Nàng thiếu nữ kêu hoảng một tiếng, suýt nữa đã trúng một đao của kẻ địch. Dương Trọng Anh kêu lớn: “Thanh nhi, dùng Toàn phong tảo diệp ngũ hổ Đoạn Môn đao!” nàng thiếu nữ nghe thế chợt thay đổi chiêu số, đao quang loang loáng từ dưới hất lên, giữ vững hạ bàn. Kẻ địch vốn tấn công vào hạ bàn của nàng, bị nàng dùng loại đao pháp này đẩy ra đương nhiên không thể đắc thủ. Đánh nhau một hồi nữa, Dương Trọng Anh quát lớn một tiếng, vai trái lại bị trúng một trảo, mồ hôi trên trán nhỏ giọt.


Đường Hiểu Lan vốn bực bội vì bị ông già bức hiếp lúc nãy, nhưng biết ông ta là Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh, chàng thay đổi thái độ, sinh lòng kính trọng. Chàng cầm một nắm phi mãng trong bàn tay, ngầm vận nội lực bóp vỡ cánh cửa sổ rồi hai tay vung lên, phi mãng trong tay trái quét vào tên hán tử ấy, phi mãng trong tay phải phóng về phía kẻ địch đang vây công nàng thiếu nữ, phi mãng rất nhẹ, cả hai bên đang đánh nhau rất hăng, chỉ nghe tiếng quát tháo ầm ĩ, có hai người tựa như đã trúng phi mãng, lăn lộn ở dưới đất, những kẻ khác vội vàng tản ra, mắng lớn: “Tiểu tử phương nào dám lén phóng ám khí?” tên hán tử ấy võ công thâm hậu, tuy đang lúc kịch chiến nhưng vẫn có thể để ý đến xung quanh. Nghe tiếng phi mãng xé gió bay tới tuy rất nhỏ nhưng y đã mau chóng nhảy vọt ra, bổ về phía Đường Hiểu Lan đang ẩn thân!


Vương Lăng không biết Đường Hiểu Lan ngầm phóng ám khí, thấy thế cả kinh vội vàng chạy vào xó nhà, Đường Hiểu Lan lại vung tay phóng ra một nắm phi mãng, tên hán tử ấy cười hềnh hệch, phất ống tay áo lên một cái, phi mãng bay ngược trở lại, Đường Hiểu Lan vội vàng phục người, chỉ nghe tiếng lách tách vang lên không ngớt, té ra phi mãng đã chui qua cửa sổ cắm vào vách tường. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tiếng cười chưa dứt thì chợt nghe rắc một tiếng, khung cửa sổ đã gãy, một bàn tay to bè thò vào, chưởng phong quét tới, Đường Hiểu Lan thấy trên đầu vừa lạnh vừa tê rần, xem ra kẻ ấy muốn chụp vào đầu của chàng. Đường Hiểu Lan bật người dậy lộn ra hơn một trượng. Ngay lúc ấy chợt nghe bên ngoài có người mắng: “Quân vô sĩ bức hiếp bọn tiểu bối”. Tiếp theo là bùng bùng hai tiếng tựa như gỗ va vào nhau, bàn tay ấy đã rút ra trở lại, tiếng quát dấn dần dời ra xa, Đường Hiểu Lan gan dạ đứng dậy, len lén nhìn ra ngoài, chỉ thấy bên ngoài có thêm hai quái khách, một người vừa cao vừa gầy, tròng mắt trắng dã, một người vừa béo vừa lùn khoảng ba thước, hai người này chỉ có đôi tay không, cả hai đều chằm dằm nhìn hán tử ấy. Dưới đất có sáu bảy người đang nằm lăn lộn, cũng không biết là bị thương bởi hai quái khách hay bởi chưởng lực của Dương Trọng Anh.


Hán tử ấy quát: “Bọn Quan Đông tứ hiệp các người sao rảnh rỗi đến thế! Ngày chết của các ngươi đã đến!” hán tử béo cười hì hì nói: “Bốn huynh đệ chúng ta trời không sợ đất không sợ, cả tên lão ma bọn ta cũng đã gặp qua, huống chi tên tiểu tốt nhà ngươi! Đổng Thái Thanh, hãy kêu sư phụ sư thúc của ngươi ra đây, bọn ta không bao giờ giết kẻ vô danh tiểu tốt!”


Lúc này Đường Hiểu Lan mới biết kẻ ác đấu với Dương Trọng Anh là Đổng Thái Thanh, thầm tự hỏi không biết Đổng Thái Thanh là ai, bình thường khi Châu Thanh nhắc đến những nhân vật giang hồ, chưa bao giờ kể đến người này, xem ra võ công của y chẳng kém gì Châu Thanh, còn hai người kia bảo y là “vô danh tiểu tốt”, vậy ắt hẳn võ công của họ càng cao thâm khó lường hơn. Đổng Thái Thanh gọi họ là Quan Đông tứ hiệp, thế mà chỉ có hai người, chắc là hai người vẫn chưa tới.


Đổng Thái Thanh cười gằn, chắc là rất tức giận, đưa tay chụp về phía người cao, người cao nói: “Tứ đệ, chúng ta ném bọn này ra ngoài”. Rồi đột nhiên y hú dài một tiếng, vươn mười ngón tay ra, trên mỗi ngón tay đều đeo một chiếc nhẫn, Đổng Thái Thanh chụp được nửa đường thì vội vàng rút về, rùng người xuống biến trảo thành chưởng đánh vào hạ bàn của y. Tay của người ấy rất dài, hai tay đè xuống phía dưới, chỉ trong chớp mắt hai người đã chạm nhau mấy chiêu, Đổng Thái Thanh chợt kêu lên một tiếng quái dị rồi rùng người xuống đất bước vòng qua một bên như bánh xe gió đánh vào ba lộ của kẻ địch, chiêu số rất quái dị. Người cao nhảy nhót né tránh như khỉ vượn, Đổng Thái Thanh đánh nhanh, y nhảy cũng nhanh, cả hai người đều thắng bại khó phân.


Đổng Thái Thanh biết võ công của người này không phải hạng vừa, vả lại người y cao lêu nghêu nên sử dụng thân pháp Bàn Long Như Bộ chuyên chụp vào chân và bẹn của kẻ địch. Nào ngờ khinh công của người này còn hơn cả mình, mà công phu Bàn Long Như Bộ lại không thể kéo dài, trong lòng thầm lo. Lúc này thầm nghe bên trong khách điếm như có tiếng quỷ khóc ma gào. Gã lùn đã đại triển thần oai, lúc chém lúc chụp, chưởng tựa như sấm sét, trảo tựa như móc sắt, bọn Huyết Trích Tử chạy tán loạn. Tên lùn cực mạnh lạ thường, công phu ngoại gia đã đến mức đăng phong tạo cực, y cứ chụp kẻ địch ném ra ngoài, cứ mỗi lên vung tay là chụp được một tên rồi giở lên như con gà con, chỉ trong chốc lát đám Huyết Trích Tử đã nằm ngổn ngang bên ngoài. Đổng Thái Thanh chợt tung người, đánh hờ ra một chưởng, kẻ cao lại hú dài một tiếng, hai chưởng vung lên, mười chiếc nhẫn trong ngón tay nhất tề bay ra. Trong chưởng phong bóng nhẫn, Đổng Thái Thanh kêu thét lên một tiếng rồi lộn người ra ngoài. Người lùn định đuổi theo, người cao đã kêu: “Y đã trúng ba chiếc nhẫn của ta mà vẫn có thể chạy thoát, coi như cũng là hảo thủ, cứ mặc y”.


Quan Đông tứ hiệp từ lúc xuất đạo, nếu kẻ địch có thể chạy thoát khi họ sử dụng tuyệt kỹ độc môn thì không bao giờ đuổi tận giết tuyệt. Người lùn ngừng bước, giương mắt nói: “Đồ đệ của lão quái cũng lợi hại đến thế ư?” người cao nói: “Tứ đệ, việc đã đến nước này, chỉ đành dốc hết sức mà thôi!” lời lẽ tựa như rất rầu rĩ!


Sau khi bị trọng thương, Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh lại trải qua một hồi kịch chiến, sắc mặt tái nhợt, người lảo đảo muốn ngã, thều thào nói: “Tam ca tứ ca, lão hủ quá kém cỏi, liên lụy đến các vị, phải làm thế nào đây?” người lùn nói: “Dương đại ca, chúng ta nghe tiếng nhau đã lâu, hôm nay gặp mặt là đã may mắn lắm! Huyền Phong đại ca nhờ chúng tôi hỏi thăm ông, lại đem thuốc giải đến cho ông. Ông ta nói nếu sau lần tụ hội ở núi Thái Hàng mà vẫn giữ được mạng sống thì sẽ đến bảo trang bái phỏng”. Dương Trọng Anh nói: “Đa tạ tình nghĩa của các vị, có điều các vị phải cẩn thận hơn!” người cao cung tay nói: “Tôi biết! Dương đại ca, chuyện này không thể chậm trễ, ông hãy mau lên đường!” rồi bước tới đỡ Dương Trọng Anh, nàng thiếu nữ và hai đại hán đều ngạc nhiên nhìn họ. Lúc này Vương Lăng mới bình tĩnh, y vừa đứng dậy thì chợt thấy có gió quét tới, một luồng gió lạnh thổi vào.


Vương Lăng kêu lên: “Đường sư đệ, Đường sư đệ!” Đường Hiểu Lan cũng cảm thấy kình phong quét vào mặt, khi chàng vội vàng quay đầu lại thì chẳng thấy gì cả. Bên ngoài chợt vọng vào tiếng cười trong trẻo như chuông bạc, nàng thiếu nữ ấy giương tay nói: “Tiểu tử, xin đa tạ!” khi Đường Hiểu Lan quay đầu nhìn lại bọn Dương Trọng Anh và hai người kia đã đi sạch cả!


Sau một hồi kịch chiến, người trong khách điếm mới hoảng lên, vội vàng mở cửa phòng ra nhìn. Quảng Luyện Hà nằm trong phòng ngủ cũng kêu: “Vương sư huynh, Đường sư đệ, mau vào đây!” Vương Lăng và Đường Hiểu Lan vào phòng trong, chỉ thấy Quảng Luyện Hà bế Phùng Anh ngồi trên giường mà mặt mày kinh hãi. Phùng Anh lại khóc oa oa lên. Vương Lăng dịu dàng nói: “Sư muội, có chuyện gì thế?” Quảng Luyện Hà chỉ vào mặt bàn nói: “Trên bàn có thanh trủy thủ cắm mảnh giấy, trên mảnh giấy có mấy chữ: Mau quay đầu lại, đừng lên núi Thái Hàng!” Đường Hiểu Lan nói: “Chắc người này có ý tốt, nếu y muốn hại chúng ta, chúng ta còn mạng sao? Tẩu tẩu đừng lo” Quảng Luyện Hà nói: “Công công của ta và phu quân đã chết cả, ta còn sợ gì nữa, ta chỉ lo cho hai đứa con, dù thế nào ta cũng phải nuôi lớn chúng!” Phùng Anh rất ngoan ngoãn, khi bên ngoài xảy ra kịch chiến, Quảng Luyện Hà ôm chặt nó vào lòng, nó nằm yên chẳng nhúc nhích, giờ thấy mẹ lo lắng mới khóc òa lên. Quảng Luyện Hà hôn vào đôi má bầu bỉnh của cô bé, nói: “Con ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc. Mẹ ở đây!” Phùng Anh tròn xoe mắt nhìn mẹ, thấy mẹ cười thì cô bé cũng chẳng khóc nữa. Đường Hiểu Lan nảy ra một ý, chàng bước ra bên ngoài, chỉ thấy trên vách tường cũng cắm một cây trủy thủ, Quảng Luyện Hà bế Phùng Anh bước ra, hỏi: “Đường sư đệ, chuyện gì?” nàng vừa thấy cây trủy thủ đã hoảng hồn, Đường Hiểu Lan rút cây trủy thủ ra, ở mũi trủy thủ cũng cắm một mảnh giấy, trên có viết rõ ràng: “Mau quay trở lại, đừng lên núi Thái Hàng!” Quảng Luyện Hà nhíu mày, nói: “Sư đệ, chuyện này có nghĩa là sao?”


Đường Hiểu Lan tuổi tuy còn trẻ nhưng rất nhiều kinh nghiệm, chàng trầm ngâm một hồi rồi ngẩng đầu nói: “Chắc là tiền bối cao nhân chỉ điểm, đệ thấy không lên núi Thái Hàng thì hơn”. Lúc này Vương Lăng cũng bước ra, chợt cười gằng nói: “Bảo lên núi là ngươi, không lên núi cũng là ngươi, sao ngươi cứ như trẻ con thế?” Đường Hiểu Lan cố nén giận, nói: “Sư huynh, ông già lúc nãy là Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh danh tiếng lẫy lừng năm tỉnh phía Bắc”. Vương Lăng nói: “Dương Trọng Anh thì thế nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Trung Thu đêm qua là lúc hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tụ hội ở núi Thái Hàng, lẽ ra Dương Trọng Anh cũng phải tham gia, nhưng trái lại ông ta lại ra khỏi núi Thái Hàng, chắc là trên núi đã có chuyện gì”. Vương Lăng nói: “Ngươi chỉ suy đoán bừa bãi, vả lại Dương Trọng Anh rõ ràng đã bị thương nặng, trong chốc lát làm sao y có thể để lại hai mảnh giấy này?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ không nói Dương Trọng Anh để lại giấy này. Nhưng bằng hữu của ông ta hoặc người nhà để lại cũng chẳng khác gì. Hơn nữa mấy ngày trước chúng ta đã gặp Phi hỏa đạn Mạnh Kiện Hùng, từ hai chuyện này mà thấy, nếu đi nữa thì chắc chắn lành ít dữ nhiều!” Vương Lăng xoa tay, chợt cười lạnh, Quảng Luyện Hà hơi không vui, hỏi: “Sư huynh cười gì thế?” Vương Lăng nói: “Té ra Đường sư đệ nhát gan như thế, nếu biết sớm thế này thì cứ đi thẳng đến kinh sư để khỏi phí công!” lúc này Quảng Luyện Hà đã mất bình tĩnh, nàng chép miệng: “Khắp nơi đều có kẻ địch, chẳng lẽ chúng ta không còn nơi nào để đi?” Đường Hiểu Lan chợt thầm nghĩ: “Nếu không lên Thái Hàng thì chắc phải theo Vương Lăng đến kinh sư. Lúc này chưa biết lòng dạ Vương Lăng thế nào, mình thì không sao, chỉ e sư tẩu mắc lừa y”. rồi chàng lại nhủ: “Sư tẩu nói không sai, khắp nơi đều là kẻ địch, tránh sang phía Đông không tránh được phía Tây, hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tụ hội dù có hàn vạn binh mã cũng chẳng làm gì được họ”.


Vương Lăng thấy Đường Hiểu Lan cuối đầu suy nghĩ thì bật cười nói: “Thế nào? Có lên núi Thái Hàng nữa không?” Đường Hiểu Lan ngẩng đầu kiên quyết nói: “Dù là đầm rồng ổ cọp cũng phải tới, ngày mai chúng ta sẽ lên núi!” tuy Quảng Luyện Hà sống từ nhỏ ở nơi làng quê hẻo lánh, nhưng sau biến cố to lớn, lại đi cùng với nhau nhiều ngày cảm thấy Đường Hiểu Lan là người đáng tin hơn, nghe chàng nói như thế thì lập tức tán đồng, gật đầu trả lời: “Đã đi đến đây, núi Thái Hàng đã ở trước mặt, ta thấy lên núi cũng tốt, mong rằng có thể gặp được bằng hữu của công công hoặc Châu đại hiệp ở núi Thái Hàng”.


Sáng sớm hôm sau ba người rời Tu Võ, đi được năm sáu mươi dặm đường, đến giữa trưa đã tới chân núi. Trên đường rất hiếm người qua lại, vào đến rừng núi càng chẳng thấy ai. Đường Hiểu Lan trong lòng thầm lo, nghĩ bụng: “Nếu hào kiệt năm tỉnh tụ hội ở đây, sao không thấy có người tiếp đã dưới chân núi?” núi Thái Hàng cao ngất, cây cối xum xuê, mây mù bao phủ, ba người chặt cành bạt gai đi được nửa ngày mà chỉ thấy bóng chim bay chứ chẳng nghe tiếng người. Đường Hiểu Lan chợt ngừng bước, Quảng Luyện Hà cũng thấy nghi hoặc, vừa nói được một câu: “Đường sư đệ, có nên đi nữa không?” chợt nghe tiếng tiêu rít lên, ở cách mười trượng cây cỏ xào xạc, Đường Hiểu Lan vội vàng kéo Quảng Luyện Hà nằm phục xuống, chợt đằng xa có mấy người bước ra! Đường Hiểu Lan vừa nhìn đã kinh hãi, kẻ đi đầu tay cầm gậy đầu rồng, đó chính là Long Mộc Công!


Vương Lăng hơi nhúc nhích, Đường Hiểu Lan đè tay vào vai y, khẽ nói: “Sư huynh đừng làm càn!” té ra chàng ta bóp vào xương tì bà trên vai của y, Vương Lăng hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, biến sắc nói: “Sư đệ đừng đùa chứ!” Đường Hiểu Lan nói: “Huynh nằm xuống! Huynh muốn kẻ địch thấy ư?” Vương Lăng quả nhiên nằm yên chẳng dám nhúc nhích. Đường Hiểu Lan len lén nhìn ra, chỉ thấy Long Mộc Công mở to con mắt còn lại, nhìn sang xung quanh, nói với mấy tên đồng bọn: “Hình như ta nghe thấy tiếng người”. Những kẻ đi cùng với y toàn mặc đồ chảng màu xanh, tay cầm phác đao, eo đeo hai trái thiết cầu, rõ ràng là bọn Huyết Trích Tử. Một tên kêu lên: “Này, bằng hữu! Có phải là đi dò đường không? Hay là tham gia tụ hội? Hãy mau ra mặt!” Đường Hiểu Lan thầm thất kinh, chỉ nghĩ rằng tông tích của mình đã bị bại lộ, chàng nín thở ngưng thần chẳng hề nhúc nhích. Người ấy lên tiếng xong, im lặng một lúc thì một giọng khàn khàn quát lên: “Này, bằng hữu, nếu các ngươi còn không lên tiếng, bọn ta sẽ dùng ám khí!”


Đường Hiểu Lan nằm trong bãi cỏ, bên cạnh lại có mấy tảng đá nhô lên, lòng thầm nhủ: “Kẻ địch cứ kêu gào như thế chắc là không biết nơi mình ẩn thân, cứ mặc bọn chúng”. Kẻ ấy nói xong mà vẫn chẳng thấy ai trả lời, thế rồi y nháy mắt với đồng bọn, khẽ nói: “Bọn hào kiệt lớp thì bị đánh chết, lớp thì bị thương, vả lại hai ngày đã trôi qua, ngoài trừ người của phe mình chắc chắn chẳng còn ai dám lên núi! Chắc là Long đại ca đã hoa mắt!” Long Mộc Công gõ cây gậy xuống đất, trợn tròn mắt quát lớn: “Một con mắt của ta còn sáng hơn mười mấy cặp mắt của các ngươi, rõ ràng ta nghe có tiếng người, các người có điếc không?” trong cuộc chiến năm ngày trước với Châu Thanh, ngoại trừ bị chột một mắt, Long Mộc Công chẳng hề bị nội thương, y đã uống thuốc lại có nội công thâm hậu nên vẫn tiếp tục cùng bọn Lôi Hải Âm đuổi theo Đường Hiểu Lan. Bọn Đường Hiểu Lan gồm có ba người, Quảng Luyện Hà lại là một thiếu phụ xinh đẹp, bế theo một đứa bé gái nên càng khiến cho người ta chú ý hơn, Long Mộc Công vừa đi vừa hỏi dò, đã đuổi theo họ lên núi Thái Hàng. Y đã vào núi bằng đường khác nên lên núi trước họ. Tới tơi bọn người của Tứ bối lạc chưa rút lui, thế là đến bái kiến hai tên ma đầu, Lôi Hải Âm lập tức giữ lại bọn chúng để giúp mình, Long Mộc Công lại phái bảy tám tên Huyết Trích Tử đi tìm khắp nơi. Lúc này thương thế của Long Mộc Công đã giảm bởi vậy mới nghênh ngang trở lại, bọn Huyết Trích Tử đều không dám lên tiếng, Long Mộc Công giằng cây gậy xuống đất, quát lớn: “Các người còn chờ gì nữa, hãy mau đi tìm”.


Đường Hiểu Lan không dám rút kiếm, tay đã cầm sẵn một nắm phi mãng, chỉ đợi bọn Huyết Trích Tử đến thì chàng sẽ liều mạng với chúng. Bọn Huyết Trích Tử tìm kiếm xung quanh, khi sắp đến nơi thì Long Mộc Công chợt chỉ gậy về hướng Đông, quát: “Kẻ địch tới!” bọn Huyết Trích Tử vội vàng quay trở lại, Đường Hiểu Lan thở phào, dựa vào tảng đá thò đầu nhìn ra, chỉ thấy ở nơi chân núi có hai bóng đen, trong chớp mắt hai người ấy đã xuất hiện, kẻ đi đầu là một đạo sĩ mặc mặc áo đen, tay trái cầm cây gậy sắt, tay phải cầm cây trường kiếm, phía sau ông ta là một hòa thượng béo, hai tay không có binh khí, ở eo chỉ đeo một bầu hồ lô lớn.


Long Mộc Công quát: “Các ngươi là ai? Là người của Tứ bối lạc hay là bằng hữu của lão già Dương Trọng Anh?” đạo sĩ mặc áo đen cười nói: “Nói thế các ngươi chắc là người của Tứ bối lạc? Ta đang tìm các ngươi đây!” rồi vung gậy rút soạt kiếm. Long Mộc Công giơ ngang gậy chặn lại, thối lui mấy bước. Đạo sĩ áo đen cười nói: “Ồ, ngươi cũng không tệ!” miệng thì vẫn nói nhưng kiếm chiêu trong tay không hề chậm lại, ông ta đâm ra soạt soạt mấy kiếm, hai tên Huyết Trích Tử đã bị chém đứt bốn cái lỗ tai, bị ông ta cuốn vào ống tay áo. Long Mộc Công chưa bao giờ thấy kiếm chiêu nhanh đến như thế, y vội vàng vung tay: “Phóng ám khí!” trong chốc lát tiếng gió rít lên, năm sáu trái thiết cầu bay vù tới, đạo sĩ áo đen cười lớn nói: “Đồ chơi của trẻ con mà cũng dám đem ra lòe đời!” một trái thiết cầu bay tới đầu, đạo sĩ áo đen điểm cây gậy sắt một cái, trái thiết cầu ấy bay ngược trở về táng phải một tên Huyết Trích Tử khác, lập tức vỡ tung ra, phi đao từ trong bắn ra, đạo sĩ áo đen vung cây gậy quét ngang bổ dọc, đánh vỡ toàn bộ nắm sáu trái thiết cầu, thanh trường kiếm múa tít, làn mưa phi đao đều bị ông ta quét ra xung quanh, bọn võ sĩ vội vàng tháo chạy.


Long Mộc Công biến sắc, phóng vọt người lên, đạo sĩ áo đen quát: “Chạy đi đâu!” rồi ông ta phóng người như mũi tên bắn thẳng tới, cây gậy trên tay trái đánh ra một chiêu Bạo long lạo hải, quét tới như trận gió lốc, Long Mộc Công chặn ngang cây gậy lại, chỉ cảm thấy một nguồn đại lực tựa như sấm sét bổ vào đầu, công lực của y vốn chẳng phải tầm thường, thế nhưng chỉ vừa mới trúng một đòn mà cây gậy đã vuột khỏi tay, y đã đút cây gậy này ở Lạc Dương, trọng lượng của cây gậy nhẹ hơn cây gậy cũ vả lại chất thép không thuần nên đã gãy thành mấy đoạn trên không trung! Đạo sĩ áo đen đánh cây gậy lẫn kiếm ra, trường kiếm trong tay phải đánh ra một chiêu Đảo tả thiên hà, kiếm hoa tuôn xuống như mưa, Long Mộc Công vội vàng vận dụng khinh công Phi hoa quyện vũ, dùng thân pháp nhảy nhót né tránh, chui ra khỏi màn kiếm quang. Dù y nhanh chân cũng cảm thấy mang tai mát rượi, phía sau lưng chỉ nghe đạo sĩ áo đen cười ha hả: “Ngươi có thể tránh được nửa chiêu coi như cũng không tệ. Ngươi hãy đi đi!” té ra đạo sĩ ấy đánh ra một chiêu vốn là muốn cắt hai lỗ tai của y, nhưng Long Mộc Công quá lanh lẹ, kết quả là đạo sĩ áo đen trong chốc lát đã đánh ra một chiêu bảy thức cũng chỉ có thể cắt đứt tai phải của y. kiếm pháp của đạo sĩ áo đen độc bộ miền Bắc, bình sinh tự phụ về điều này, bởi vậy những ai có thể thoát khỏi kiếm ông ta không đuổi theo.


Bảy tám tên Huyết Trích Tử mất binh khí cũng ùa nhau tháo chạy, hòa thượng béo điểm hai chân xuống đất phóng vọt người lên, bọn Huyết Trích Tử ấy thấy trước mắt tối sầm tựa như một áng mây đen từ trên đầu chụp xuống, khi mở mắt ra thì hòa thượng béo đã đứng cười hì hì trước mặt, tay bưng bầu hồ lô, đầu lắc lư nói: “Đừng chạy nhanh như thế, bần tăng mời các ngươi uống rượu!”


Bọn Huyết Trích Tử ùa nhau xông lên, hòa thượng béo chợt há mồm phun một cái, mùi rượu thơm nồng tỏa ra, bọn Huyết Trích Tử chỉ thấy trước mặt trắng xóa một màu, mắt đau nhói, trời đất tối sầm, bên tai chỉ còn nghe tiếng cười ha hả của hòa thượng béo, cả bọn kinh hoảng, không màng đến cơn đau ở mắt hay đá núi lổm chổm nữa mà lăn người từ trên xuống. Hòa thượng béo cũng không đuổi theo, cười ha hả: “Đạo huynh, có đắc thủ chưa?” đạo sĩ áo đen trả lời: “Chỉ được một nửa, còn huynh?” hòa thượng béo trả lời: “Tôi chưa dốc hết sức, chỉ phun mù được mười ba con mắt chó”. Té ra trong đám tên Huyết Trích Tử có năm tên bị mù hai mắt, ba tên bị chột một mắt. Vương Lăng kinh hãi, mừng thầm vì lúc nãy Đường Hiểu Lan đã ngăn mình lại.


Đường Hiểu Lan cũng kinh tâm động phách, thấy võ công của hai người này thì chợt nhớ, trong hai ngày nay chàng liên tiếp gặp được bốn dị nhân, đây chắc là Quan Đông tứ hiệp, người đi đầu tên gọi Huyền Phong đạo trưởng, chính là người áo đen. Tay trái ông ta sử dụng gậy, tay phải dùng kiếm, kiếm pháp của ông ta tên là Loạn phi phong, là nhất tuyệt trong chốn võ lâm, đường lối cũng tương tự như Truy Phong kiếm pháp, mỗi chiêu đều ẩn chứa rất nhiều biến hóa, nhưng có điều hiểm hóc hơn Truy Phong kiếm pháp nhiều. Châu Thanh và Huyền Phong nghe tiếng nhau đã lâu, hơn hai mươi năm trước đã từng gặp nhau ở nhà Dương Trọng Anh, đôi bên nghiên cứu kiếm pháp kết thành bằng hữu. Ngoại trừ Lăng Vị Phong, kẻ Châu Thanh khâm phục nhất là Huyền Phong. Tuy Châu Thanh chưa gặp ba người còn lại nhưng cũng từng nghe Huyền Phong nhắc đến. Bởi vậy Đường Hiểu Lan cũng biết diện mạo của họ.


Người thứ hai trong Quan Đông tứ hiệp là hòa thượng béo tên gọi Lang Nguyệt thiền sư, tính tình vui nhộn, người ta gọi là Tiếu di lặc, thích nhất là uống rượu, võ công độc môn của ông ta là dùng rượu làm ám khí chuyên bắn vào hai mắt của kẻ địch, những hạt rượu mà ông ta phun ra cứ giống như đạn chì, cũng là nhất tuyệt trong chốn võ lâm! Nhân vật đứng thứ ba là người cao mà Đường Hiểu Lan đã gặp trong khách điếm, người này tên gọi Liễu Tiên Khai, khinh công trác tuyệt, để lại trủy thủ trong khách điếm là trò đùa của ông ta. Ông ta thích dùng nhẫn trên tay để đánh vào huyệt đạo của kẻ địch, nếu không dùng làm ám khí, mười chiếc nhẫn bằng thép ấy là một món binh khí. Người thứ tư là kẻ lùn tên gọi Trần Nguyên Bá, công phu ngoại gia của người này đã đến mức đăng phong tạo cực, lực mạnh vô cùng, võ công độc môn của ông ta là Đại suất bi thủ và Phân cân thác cốt thủ. Khi Châu Thanh và Huyền Phong kết giao với nhau, Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá vẫn còn trẻ, võ công tuy cao nhưng vẫn chưa có tên tuổi, bởi vậy lúc đó vẫn chưa có Quan Đông tứ hiệp. Sau này Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá nổi danh trên giang hồ, ba người thường đi chung với nhau nên mới gọi chung là Quan Đông tứ hiệp.


Đường Hiểu Lan thấy tuyệt kỹ của hòa thượng ấy, nghĩ bụng bốn người này chắc chắn là Quan Đông tứ hiệp, trong lòng mừng rỡ, đang định lên tiếng gọi thì chợt đạo sĩ áo đen nói: “Nhị đệ, hai lão quái ấy vẫn chưa xuất hiện, tam đệ, tứ đệ hẹn lên núi ngày hôm nay với chúng ta mà vẫn chưa tới, có lẽ đã gặp hai lão quái ấy. Chúng ta đi tìm họ, lát nữa sẽ gặp lại ở đây. Hòa thượng béo cười hì hì nói: “Cứ như thế!” hai người phóng vọt đi, trong chốc lát đã mất dạng.


Vương Lăng thở phào, nói: “Lợi hại thật!” Quảng Luyện Hà cũng toát mồ hôi ướt đẫm cả người. Vừa mới trấn tĩnh, Đường Hiểu Lan đã nói: “Đạo sĩ áo đen chính là bằng hữu của Châu bá bá”. Chợt nghe từ xa có hai tiếng hú quái dị nghe chối tai, Đường Hiểu Lan vội vàng kéo Vương Lăng phục xuống. Tiếng đến thì người đến, Đường Hiểu Lan mở mắt nhìn lén ra, chỉ thấy lại xuất hiện hai người. Đó là hai lão già gầy đét sắc mặt vàng vọt, trên người mặc bộ áo vàng, mặt cứ đơ ra chẳng hề biểu lộ tình cảm. Cả hai người đều xách một cái túi da, một người què chân trái, một người què chân phải, huyệt thái dương nhô cao, rõ ràng là nội công cực kỳ thâm hậu. Đường Hiểu Lan thầm lấy làm lạ, hai kẻ này mỗi người què một chân, thế nhưng di chuyển rất nhanh nhẹn!


Hai người im lặng không nói, chỉ đi một vòng, phát giác có dấu đánh nhau, một hồi sau lão già bên trái nói: “Ồ, chắc là bốn tên khốn kiếp ở Quan Đông đã kéo đên đây!” lão già bên phải nói: “Chúng ta có cần tìm bọn chúng không?” lão già bên trái nói: “Không cần!” rồi người chúm môi huýt một tiếng sáo, lần này khoảng cách đôi bên gần hơn, bọn ba người Đường Hiểu Lan chưa bao giờ nghe thấy âm thanh chối tai như thế, chỉ cảm thấy gan ruột như đứt đọan, khó chịu vô cùng. Phùng Anh mếu mồm toan khóc, Quảng Luyện Hà vội vàng xé áo nhét vào mồm của cô bé, Phùng Anh quơ loạn hai tay, Quảng Luyện Hà nhẹ nhàng vuốt ve cô bé, may mà hai tên ma đầu chỉ lo tìm kiếm ở phía trước chứ không để ý gì đến tảng đá ở cách đó mười trượng.


Lão già bên trái nói: “Bốn tên khốn kiếp ở Quan Đông đã muốn gặp chúng ta, nghe tiếng huýt sáo này chắc chắn sẽ tự dẫn xác tới”. Hai người đứng trên tảng đá nhìn ra xa, một hồi sau chợt thấy hai bóng người từ sườn núi chạy lên.


Đường Hiểu Lan tưởng rằng có là Quan Đông tứ hiệp, chàng ta nín thở chờ đợi một cuộc ác đấu sắp xảy ra. Một hồi sau hai bóng người đã lên đến đỉnh núi, đó chẳng phải là Quan Đông tứ hiệp. Một người tóc đỏ như lửa, một người mũi khoằm như chim ưng, kẻ tóc đỏ chính là Lôi Hải Âm.


Hai lão ma đầu thấy thế cũng bất ngờ, đồng thanh hỏi: “Lôi Hải Âm, bảo ngươi trấn thủ doanh trại, ngươi đến đây làm quái gì?” Lôi Hải Âm lấy tay áo lau mồ hôi, thở phì phò nói: “Đại trại bị người ta giở rồi!” hai lão ma đầu gầm lớn, nhảy dựng lên hỏi: “Cái gì, đã bị người ta giở? Có phải Quan Đông tứ hiệp không?” Lôi Hải Âm nói: “Tôi không biết có phải Quan Đông tứ hiệp hay không, hai kẻ ấy một cao một thấp, kẻ cao mười ngón tay đeo nhẫn thép, quyền đánh ra như gió, hễ vung tay lên là có người trúng đòn; kẻ gầy càng lợi hại hơn, y nắm lấy hậu tâm của từng người ném xuống sơn cốc!” lão già thọt chân phải gật đầu: “Đó là lão tam và lão tứ trong Quan Đông tứ hiệp, Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai và Thiết Chưởng Khai Bi Trần Nguyên Bá!” Lôi Hải Âm tiếp tục nói: “Chúng tôi liều mạng xông ra, nào ngờ lại gặp hai kẻ địch, hai tên này còn lợi hại hơn hai tên lúc nãy. Một kẻ là đạo sĩ gầy, một tên là hòa thượng béo. Tên đạo sĩ tay trái cầm gậy sắt, tay phải dùng kiếm, tôi chỉ tiếp được một chiêu thì binh khí đã bị chặt gãy nên vội vàng lăn người xuống, may mà đạo sĩ ấy không đâm ra kiếm thứ hai!” lão già thọt chân trái khẽ gật đầu: “Ồ, ắt hẳn ngươi đã rất may mắn! Không sao, ngươi chỉ bị tên hắc đạo ấy chém đứt một lỗ tai”. Lôi Hải Âm mặt đỏ ửng, nói: “Tên đạo sĩ cắt đứt một lỗ tai của tôi, lại còn kêu lên: ‘Coi như ngươi cũng là một hán tử đáng tiếc! Đáng tiếc! Nhớ giữ cho kỹ lỗ tai bên trái của ngươi!” hai lão già tức tối nói: “Cái qui củ thối tha của bọn Quan Đông tứ hiệp thật khiến cho người ta điên tiết”. Rồi quay sang hán tử mũi chim ưng nói: “Còn ngươi? Có phải mắt trái của ngươi bị tên hòa thượng béo phun hay không?” mắt trái của y vẫn không ngừng chảy máu, y đang lấy thuốc bôi vào vết thương, rung giọng nói: “Sư phụ, con... con vô dụng đã bị hòa thượng béo ấy phun mù mắt!” hai lão già im lặng không nói, chợt mỗi người lại hú lên ba tiếng quái dị, bọn ba người Đường Hiểu Lan ở phía sau tảng đá đều nhìn nhau thất sắc. Cô bé Phùng Anh nằm trong lòng Quảng Luyện Hà kêu lên ằng ặc, nước mắt tuôn đẫm mặt, chân tay múa loạn xạ, Quảng Luyện Hà thấy lòng đau nhói, nhưng cũng không dám lấy cuộn vải ra khỏi miệng cô bé.


Lão già bên trái nói: “Xem ra công phu của Quan Đông tứ hiệp không tệ”. Lão già bên phải hừ một tiếng nói: “Đại ca, chúng ta là Thần Ma song lão, dù bọn chúng là Quan Đông bát hiệp cũng chẳng có gì đáng lo!” Đường Hiểu Lan nghe rất rõ ràng, bởi vậy chàng kinh hoảng. Trước đây Châu Thanh đã từng nhắc đến Thần Ma song lão, nghe nói hai người này vốn là đôi anh em sinh đôi, người anh tên là Tát Thiên Thích, người em tên là Tát Thiên Đô. Không biết hai anh em này học được võ công ở đâu, người anh có nội ngoại kim tu. Người em học được Tiểu châu thiên đại kim cương thủ trong ma giáo Tây Tạng. Người anh xưng là Bát Tý Thần Ma, người em xưng là Đại Lực Thần Ma, cả hai người này sống ở đảo Miêu Ưng tại cửa biển Lữ Thuận, gần đấy cũng có một nơi tên gọi Xà đảo, ở đó có một dị nhân là Độc long tôn dã, người ta gọi cả ba kẻ này là Quan Đông tam quái. Xà đảo và Miêu Ưng đảo là hai hòn đảo bí hiểm nhất ở vùng Bột Hải, hàng ngàn năm nay chưa ai dám lên đảo thám hiểm, ngư dân chỉ dám đi vòng qua, dù là võ lâm hào kiệt cũng không dám đặt trên lên đất này!


Nghe đồn hòn Xà đảo đầy rắn độc, hơi rắn phì ra thành sương, còn Miêu Ưng đảo có một loại quái điểu, vốn cùng loại với hải âu, tiếng kêu nghe như mèo gào, vuốt bén như vuốt ưng, nên gọi là chim miêu ưng. Miêu ưng bay thành từng đàn, thường ác đấu với rắn độc ở Xà đảo, miêu ưng bay thấp thường bị rắn độc cuốn chết hoặc phun độc khí rơi xuống, còn rắn độc cũng thường bị miêu ưng tấn công bất ngờ, chụp bay lên không trung. Ngư dân ở Bột Hải hễ thấy miêu ưng và độc xà ác đấu thường tránh xa, đợi chúng đánh nhau xong mới đến nhặt xác của chúng. Người phương Bắc không ăn rắn, nghe nói năm nọ có một đầu bếp vùng Quảng Đông đến Lữ Thuận, thấy chim ưng và ác độc ác đấu, có ngư dân nhặt xác rắn độc đem ngâm rượu thuốc, đầu bếp này mua hai con làm món ăn, nghe nói loại thịt rắn này ngon hơn cả các nơi khác.


Châu Thanh nghe kể rằng hơn ba mươi năm trước, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã kết bè kết cánh với Tây Vực tam ma ở Tây Tạng, Tây Vực tam ma mất mạng bởi tay Lăng Vị Phong, sau đó Tát Thiên Đô lại bị Lăng Vị Phong đuổi ra khỏi Tây Vực (chuyện Tây Vực tam ma ác đấu với Lăng Vị Phong xin mời ở bộ “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”) sau khi bị đuổi ra khỏi Tây Vực, Tát Thiên Đô cùng Tát Thiên Thích đến đảo Miêu Ưng gầy dựng sào huyệt. Còn Độc long tôn giả suốt đời sống trên Xà đảo, chưa bao giờ ra ngoài, nên không ai biết võ công của ông ta như thế nào, Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích và Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô cứ mỗi hai năm xuất hiện ở đất liền một lần, kết thù chuốc oán với rất nhiều hiệp khách hào kiệt. Hơn mười năm trước, cả hai tên này đột nhiên biến mất dạng, không lộ mặt trên giang hồ nữa, có người bảo rằng bọn chúng đã gặp phải cường địch nên mới trở về đảo Miêu Ưng luyện võ công độc môn, không biết chuyện này là thực hay giả, hiệp khách trên giang hồ cũng không ai dám đến đảo Miêu Ưng tìm bọn chúng. Không ngờ đột nhiên bọn chúng lại xuất hiện ở núi Thái Hàng.


Té ra Tứ bối lạc Dận Trinh đã mời hai tên ma đầu này trở lại giang hồ. Tứ bối lạc sai một Lạt ma võ công cao cường, toàn thân mặc khôi giáp, đem theo thuốc giải độc và thuốc kim sang, trước tiên đến Xà đảo gặp Độc long tôn giả, Độc long tôn giả không chịu tái xuất giang hồ, y lại đến đảo Miêu Ưng gặp xong ma, Song ma đã luyện xong võ công độc môn, thầm nhủ: “Tứ bối lạc là người sáng suốt, mai này bước lên ngôi báu, nếu giúp y cướp ngôi chắc chắn sẽ được phong làm quốc sư, danh lừng thiên hạ. Vì thế nhận lời mời của Tứ bối lạc Dận Trinh, cả hai rời khỏi Miêu Ưng đảo.


Dưới trướng của Tứ bối lạc Dận Trinh có rất nhiều kỳ nhân dị sĩ, y biết hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tụ tập ở núi Thái Hàng, muốn quét sạch bằng một mẻ lưới để lấy lòng vua cha, vì thế phái ba trăm võ sĩ, trong đó có hơn một trăm Huyết Trích Tử, những kẻ truy bắt Châu Thanh chỉ là một trong số đó. Ngoài ra còn có một đám võ sĩ do Song ma suất lĩnh đi thẳng đến núi Thái Hàng, ven đường đã hại rất nhiều người, trong đêm Trung Thu đã đại chiến với hàng trăm hào kiệt giang hồ trên núi Thái Hàng, Dương Trọng Anh đã đánh chết hơn mười tên võ sĩ nhưng bị thương bởi độc trảo của Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích.


Trong cuộc đại chiến này, hào kiệt năm tỉnh phía Bắc tử thương quá nửa nên bọn Đường Hiểu Lan đã gặp những nhân vật giang hồ phá vòng vây thoát khỏi núi Thái Hàng chạy ra. Phi hỏa đạn Mạnh Kiện Hùng vừa mới đến chân núi Thái Hàng, nghe người ta báo lại mới vội vàng quay trở về nên không bị thương. Dương Trọng Anh trúng độc trảo, lại bị đồ đệ duy nhất của Bát Tý Thần Ma là Đổng Thái Thanh bao vây tấn công, mấy lần suýt gặp bất trắc.


Cả hai tên ma đầu được nghe tin báo, biết Quan Đông tứ hiệp đã lên núi, thế là nhìn nhau cười. Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích nói: “Hôm nay nếu có thể đánh bại Quan Đông tứ hiệp, hào kiệt miền Bắc sẽ phải phục sát đất, sau đó chúng ta lại xuống Giang Nam trừ luôn Giang Nam bát hiệp”. Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô nói: “Được, chúng ta tiêu diệt Quan Đông tứ hiệp trước đã”. Hai người lại đi một vòng, Tát Thiên Đô chợt quát mớn một tiếng, chạy về phía bọn Đường Hiểu Lan ẩn thân, Đường Hiểu Lan, Quảng Luyện Hà đều sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, mặt chẳng còn sắc máu, nhưng chỉ thấy y dừng lại, hai tay nhổ một tảng đá nhô lên, quát: “Ngã!” rồi ném tảng đá xuống! Nếu hai tay không có thần lực ngàn cân, tảng đá chẳng nhúc nhích, Đường Hiểu Lan dù gan lớn bằng trời cũng hoảng sợ đến nỗi toàn thân mềm nhũn, Quảng Luyện Hàt hầm kêu: “Bồ Tát phù hộ”. Đôi mắt Phùng Anh sáng lấp lánh, nước mắt đã thấm vào mảnh khăn, chắc là bị nhét vào mồm lâu quá nên hít thở hơi khó, bởi vậy cô bé vừa khóc vừa nhìn mẹ, tựa như cầu xin mẹ rút cuộn vải ra để cô bé thở. Tát Thiên Đô nhổ xong tảng đá quay trở về chỗ cũ, đặt tảng đá xuống mặt đất, cười nói với Bát Tý Thần Ma: “Đại ca, huynh thấy tảng đá này trơn tru biết bao nhiêu, trông như một cái bàn tròn. Để lát nữa đệ đi tìm thêm vài tảng!” lúc này Đường Hiểu Lan mới biết Tát Thiên Đô nhổ tảng đá lên là để làm cái bàn, nhưng không biết y dùng cái bàn đá này để làm gì, chả lẽ bày tiệc đãi khách?”


Tát Thiên Đô đi xung quanh, lại tìm thêm được năm tảng đá, thế là xếp cả sáu tảng đá ngay ngắn gọn gàng, bốn bên bốn tảng, ở giữa hai tảng, cười nói: “Xong rồi”. Rồi mở cái túi da ra, lấy từng món đặt lên bàn, Quảng Luyện Hà vừa nhìn đã ngất đi. Té ra Tát Thiên Đô đã lấy ra từng cái đầu người! Tất cả đầu người đều bị y ngâm thuốc nước, mặt mũi vẫn nguyên vẹn, trông giống như đang còn sống, chỉ là thu nhỏ hơn một nửa, não tủy trong đầu người đều đã được lấy ra, ở giữa khoét trống, Tát Thiên Đô đặt từng cái đầu người lên bàn đá, mỗi bàn gồm có sáu cái đầu người. Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích cũng mở túi da, mùi rượu thơm lan tỏa, té ra đó là một đao rượu ngon, cả hai người rót rượu vào trong những cái đầu rồi uống cạn, vỗ tay nói: “Chúng ta sẽ mới Quan Đông tứ hiệp uống rượu!”


Đường Hiểu Lan nghe tim đập thình thình, thấy Quảng Luyện Hà ngất xỉu vội vàng đỡ nàng dậy, chàng chợt liếc sang Vương Lăng, tuy y vẫn nằm phục dưới đất nhưng thần sắc không hề kinh hãi, Đường Hiểu Lan lấy làm lạ, thầm nhủ: “Gã đại sư ca này sao lớn gan đến thế!”


Quảng Luyện Hà dần dần tỉnh lại, thần trí mơ hồ, nàng chợt thấy sắc mặt Phùng Anh tái nhợt, mồ hôi nước mắt hòa lẫn với nhau, chiếc miệng nhỏ cố há to ra, Quảng Luyện Hà nhất thời đau lòng, trong lúc thần trí mơ hồ đã lấy cuộn vải trong miệng Phùng Anh ra, Phùng Anh khóa òa lên!


Tát Thiên Thích kêu lên một tiếng quái dị, hai chân điểm xuống đất phóng vọt người lên như con đại nhạn từ trên không bổ xuống chụp về phía Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan vãi ra một nắm phi mãng, rõ ràng đã nhắm vào người Bát Tý Thần Ma nhưng chỉ nghe tiếng phi mãng kêu lên lách tách rơi xuống, rõ ràng phi mãng chạm vào người y như chạm vào sắt đá! Đường Hiểu Lan kinh hãi, thấy bóng đen từ trên không chụp xuống, soạt một tiếng vang lên tảng đá vỡ nát, tia lửa tóe ra, té ra Tát Thiên Thích phóng tới quá nhanh, chụp một phát bóp vỡ tảng đá trước mặt Đường Hiểu Lan rồi tung ra một đòn phi cước đạp tảng đá sang bên cạnh, trừng mắt nhìn Đường Hiểu Lan, quát lớn: “Các ngươi là ai?”


Phùng Anh khóc oa oa gục đầu trên vai mẹ, không dám nhìn vẻ mặt hung dữ của Bát Tý Thần Ma. Lúc nãy Quảng Luyện Hà vừa mới sợ đến toàn thân mềm nhũn, lúc này tay trái nàng nắm cây đao, tay phải ôm chặt đứa con, gằng giọng quát: “Không đươc động đến con ta!” nàng quắc mắt lên, vẻ mặt rất cương nghị, bản năng của người mẹ giúp cho nàng có thêm dũng khí đối đầu với tên ác ma mà chẳng hề sợ sệt!


Bát Tý Thần Ma ngập ngừng, bất giác lùi mấy bước, Đường Hiểu Lan chợt rút phắt cây Du Long kiếm, ánh kiếm quang lóe lên, chàng đánh ra một chiêu Phi vân chế điện đâm về phía Tát Thiên Thích, Tát Thiên Thích kêu ồ một tiếng lách người qua. Lúc này Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô cũng đuổi tới, y đánh tới một chưởng, Bát Tý Thần Ma chợt kêu: “Đừng hại y!” Tát Thiên Đô đang đánh chưởng được nửa đường đột nhiên biến thành trảo, Đường Hiểu Lan xoay mũi kiếm đâm ra, chợt thấy cổ tay đau nhói, té ra đã bị người ta chụp chắc, thanh kiếm đã

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 4 Gió giật trời cao núi hoang đầy kiếm khí Trăng sáng giữa rừng một mình chống yêu ma




Người vừa phóng tới chính là Liễu Tiên Khai, ông ta thấy kiếm pháp của đại ca hiểm hóc như thế mà vẫn trở tay không kịp, đây là chuyện chưa bao giờ xảy ra, trong lòng thầm lo thế là phóng vọt người tới ứng cứu. Tát Thiên Thích vừa thua một chiêu khinh công, bởi vậy rất hậm hực, vừa thấy Liễu Tiên Khai thì buông ngay Huyền Phong đạo trưởng đuổi theo Vạn Lý Truy Phong. Liễu Tiên Khai biến hai chưởng thành quyền, đấm mười chiếc nhẫn thép xuống đầu Tát Thiên Thích, Tát Thiên Thích vươn hai tay ra, móng tay trên mười đầu ngón tay vươn dài cả thước, chạm với vòng sắt kêu lên leng keng, Liễu Tiên Khai thất kinh, Tát Thiên Thích xỉa thẳng vào hai mắt của Liễu Tiên Khai, Liễu Tiên Khai lộn người tránh qua một bên, Huyền Phong tay phải cầm trường kiếm, tay trái cầm gậy sắt từ sau lưng đâm tới, Tát Thiên Thích nhảy nhót cứ như khỉ vượn, đôi bàn tay sử dụng đủ các thủ pháp xé, cào, điểm, móc cứ như vuốt ưng!


Hai tên ma đầu ở đảo Miêu Ưng hơn ba mươi năm, thường thấy miêu ưng và rắn độc đấu nhau, ngộ ra không ít võ công. Nhất là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích, y có sở trường khinh công và kình lực nội gia, lại học được thuật phóng vọt người từ trên bổ nhào tấn công xuống của miêu ưng, nên nếu chỉ luận về khinh công y hơi kém nhưng những công phu khác thì y lại hơn Liễu Tiên Khai. Tát Thiên Thích còn luyện được một môn công phu độc môn gọi là Miêu Ưng trảo, mười móng tay của y đã không được cắt mấy mươi năm, mỗi móng tay dài cả thước, cứng như sắt đá, bình thường cuộn lại trong ngón tay, khi dùng thì vươn dài ra biến thành vuốt bé, vả lại còn được tẩm nọc độc của độc xà, nếu bị y cào trúng, trong vòng mười hai canh giờ chắc chắn sẽ toi mạng! Trước đây không biết bao nhiêu hào kiệt giang hồ đã mất mạng bởi mười móng tay của y!


Huyền Phong đạo trưởng đánh cả kiếm lẫn gậy lại ác đấu với Bát Tý Thần Ma, Loạn Phi Phong kiếm pháp hiểm hóc vô cùng, kiếm quang loang loáng, kiếm phong vèo vèo, đôi bên quần thảo đến cát chạy đá bay. Bát Tý Thần Ma vươn dài mười móng tay, triển khai thuật Miêu Ưng Phốc Kích, lúc thì lượn trên không trung như con chim ưng, lúc thì lách người tựa như rắn độc, sử dụng đủ cả các đòn cào, điểm, móc, xé, thân pháp và chưởng pháp đều triển khai, bốn phương tám hướng đều như có bóng của Tát Thiên Thích, đúng là một người mà có đến tám cánh tay, lao bổ tới từ xung quanh! Huyền Phong đạo trưởng thấy lạnh xương sống, Bát Tý Thần Ma quả là một tên cường địch ông ta chưa từng gặp bao giờ trong đời!


Bát Tý Thần Ma cũng thầm thất kinh, y không ngờ Loạn Phi Phong kiếm pháp lại lợi hại đến thế, hai người lấy công đối công, chiêu thế đánh ra chỉ trong chớp mắt. Trong cuộc đại chiến này, chỉ thấy bóng gậy như núi, ánh kiếm như cầu vồng, mười trảo tung bay, nếu không cẩn thận thì chắc chắn sẽ xảy ra cục diện máu đổ đầu rơi! Liễu Tiên Khai thấy sư huynh nguy cấp, vội vàng lướt tới tấn công chớp nhoáng, khi Tát Thiên Thích chụp vào người ông ta, ông ta lại lướt người né tránh, Huyền Phong đạo trưởng nhờ có sư đệ hợp lực mới hơi chiếm được thượng phong. Đang quần thảo hăng máu, chợt nghe Đại Lực Thần Ma và Trần Nguyên Bá cùng kêu lớn một tiếng!


Té ra Tiếu di lặc Lang Nguyệt thiền sư cùng Đơn chưởng khai bi Trần Nguyên Bá vây đánh Đại Lực Thần Ma cũng đã đến lúc mạnh được yếu thua, sinh tử thắng bại. Lang Nguyệt thiền sư phun mấy ngụm rượu làm bộ quần áo của Tát Thiên Đô lủng lỗ chỗ, Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, vận lực vùng một cái, tấm áo trên người rách thành vô số mảnh nhỏ bay ra, nửa thân người cứ trần trùng trục, lộ ra người làn da đỏ ao, hai tay y gồng lên quát lớn: “Hòa thượng béo nhà ngươi có bao nhiêu ám khí ta cũng không sợ!” rồi đánh ra một chiêu Song long xuất hải, cả hai quyền trái phải đánh vào hai bên huyệt thái dương của Lang Nguyệt thiền sư, Lang Nguyệt thiền sư cười ha hả, người xoay theo chưởng, tháo cây roi mềm xuống quét ra, Trần Nguyên Bá vỗ bốp bốp hai chưởng, đúng là bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở phía sau, cũng đấm vào hai huyệt thái dương của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô chợt thu trỏ về thúc một cái, lộn người qua tiếp theo đánh ra một chiêu Trửu để kháng chùy, quyền trái từ dưới chỏ đấm ra, Trần Nguyên Bá thối lui nửa bước, chưởng trái hất lên, thuận thế đẩy quyền của y lên, năm ngón tay phải móc vào khớp khuỷu tay của y vặn một cái, đó là tuyệt kỹ bình sinh của Trần Nguyên Bá, là một chiêu sát thủ lợi hại trong thuật Phân cân thác cốt, hễ ông ta vặn một cái thì chắc chắn gân đứt xương nát, dù người có võ công cao đến mức nào, bị ông ta chụp trúng cũng không thể nào kháng cự! Không ngờ Tát Thiên Đô hạ khuỷu tay xuống, tựa như chẳng hề hay biết, chưởng trái đột nhiên đánh ra vù một tiếng, bổ thẳng xuống đỉnh đầu, Trần Nguyên Bá vội vàng buông tay, né tránh không kịp buộc phải hích vai lên, chịu một chưởng của Đại Lực Thần Ma, bởi vậy mới loạng choạng thối lui ra sau. Lúc này Lang Nguyệt thiền sư đánh soạt soạt hai roi, cũng trúng vào hậu tâm của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, trở tay hớt lại, chụp trúng ngọn roi mềm dùng lực giật một cái, Lang Nguyệt thiền sư bất đồ cũng bị kéo theo, ông ta vội vàng buông tay, Tát Thiên Đô thâu thế không kịp, té sầm xuống đất, Trần Nguyên Bá nhảy bổ tới, Tát Thiên Đô lăn hai vòng dưới đất, ôm chặt Trần Nguyên Bá, tuy bị trúng mấy quyền trên lưng nhưng Trần Nguyên Bá cũng bị y đè xuống dưới! Lang Nguyệt thiền sư thu roi lại, cả kinh thất sắc, thấy hai người cứ ôm nhau lăn lộn ở dưới đất, Lang Nguyệt thiền sư giở roi đứng nhìn, không dám xuống tay. Một hồi sau hai tay Trần Nguyên Bá bị đè xuống, Tát Thiên Đô giơ ngang chỏ chẹn vào ngực ông ta, đang định dùng lực, Lang Nguyệt thiền sư vội vàng quét xuống một roi vào sau ót của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô bị trúng một roi, đau đớn đến không chịu nổi, ôm Trần Nguyên Bá ném về phía trước rồi bật người dậy, lại ác chiến với Lang Nguyệt thiền sư!


Liễu Tiên Khai thấy thế cả kinh, buông Bát Tý Thần Ma phóng vọt người tới đỡ Trần Nguyên Bá đặt xuống, chỉ thấy Trần Nguyên Bá mặt mày sưng vêu lên, hỏi: “Thế nào?” Trần Nguyên Bá nghiến răng nói: “Chỉ bị ngoại thương!” rồi hai chưởng vung lên tiếp tục nhảy tới! Nhưng lúc này Huyền Phong đạo trưởng và Lang Nguyệt thiền sư đã bị hai tên ma đầu đánh thối lui từng bước.


Trần Nguyên Bá chưa bao giờ bị thất bại đến thế, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, thế là lao tới càng hung mãnh hơn, đánh được một chốc, Trần Nguyên Bá lại dùng thủ pháp Phân cân thác cốt, mạo hiểm sáp tới, bóp vào vai của Tát Thiên Đô vặn một cái, nào ngờ Tát Thiên Đô lại tựa như chẳng hề hay biết, giở chưởng lên, đánh Trần Nguyên Bá bổ nhào xuống đất, lớn giọng nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi cứ gãi ngứa cho ta!” Trần Nguyên Bá bật người dậy, chẳng nói nên lời.


Tát Thiên Đô mình đồng da sắt, đao thương bình thường chẳng làm gì được y, cả thuật Phân cân thác cốt cũng chẳng đả thương được y. Y chỉ cảm thấy đau nhói khi Lang Nguyệt thiền sư quét roi vào sau ót của y. Lang Nguyệt thiền sư nội công tuy cao nhưng cũng chẳng làm gì được y. Tiếu di lặc chẳng cười ra tiếng, chỉ đành cố gắng chống đỡ, vừa đánh vừa lui!


Sau một hồi ác chiến Trần Nguyên Bá lại chịu một chưởng, thấy đau nhói xương cốt, Huyền Phong đạo trưởng kêu lớn: “Nhị đệ tứ đệ, dời qua bên này, chúng ta sánh vai tác chiến!” Lang Nguyệt thiền sư lại uống một ngụm rượu, phun rượu vào hai mắt của y, Tát Thiên Đô dùng hai chưởng che mắt, thế tấn công hơi chậm lại, Lang Nguyệt thiền sư và Trần Nguyên Bá vội vàng phóng người đến chỗ Huyền Phong đạo trưởng, thế là uy lực tăng lên, Bát Tý Thần Ma lách người thối lui, Trần Nguyên Bá vỗ tới một chưởng, chợt cảm thấy gió quét tới, Tát Thiên Thích đã cắm móng tay vào vai, Huyền Phong đạo trưởng cuộn lại một kiếm, Trần Nguyên Bá nhảy người né tránh, Huyền Phong đạo trưởng lấy ra viên thuốc ném cho Trần Nguyên Bá, cao giọng nói: “Móng tay có độc, mau nuốt vào!” Trần Nguyên Bá thất kinh làm theo lời ông ta, lúc này ở vai đã thấy đau nhói!


Lúc này Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô cũng đã phóng tới, Liễu Tiên Khai nhảy bổ tới tung đòn, Tát Thiên Đô đã bị trúng một đòn trên thiên linh cái, đau như muốn vỡ đầu ra, y vung hai tay đánh bật Liễu Tiên Khai ra đến mấy trượng, Huyền Phong đạo trưởng xỉa kiếm tới cánh tay của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô gồng lên, mũi kiếm trượt ra, Huyền Phong đạo trưởng kinh hãi, biết công phu ngoại gia của y đã đến mức đăng phong tạo cực, thế là ngầm vận nội lực thừa thế xoáy một cái, Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, cánh tay đã bị vạch một đường máu thế là nhảy bật ra ngoài! Tát Thiên Thích cũng thừa cơ chụp vào đầu của Huyền Phong, Huyền Phong thu người lại tránh qua, nhưng vai đã bị trúng một trảo của y, bởi vậy ông ta vội vàng nhảy qua một bên nhai thuốc giải độc. Tát Thiên Đô bị trúng một kiếm, cánh tay trái không còn lanh lẹ nữa nhưng vẫn tấn công mạnh mẽ!


Quần thảo một hồi, Huyền Phong đạo trưởng và Trần Nguyên Bá chợt thấy muốn nôn mửa, té ra chất độc tẩm trên móng tay của Tát Thiên Thích được luyện từ nước dãi của loại rắn kim tiền độc địa nhất trên Xà đảo, thuốc của Huyền Phong tuy có thể trị các loại độc bình thường nhưng cũng chỉ có thể ngăn không cho chất độc phát tác, nhưng lúc này chất độc đã khiến cho ruột gan của họ nhộn nhạo cả lên! Hai tên ma đầu một tên giỏi khinh công chuyên tấn công bất ngờ, một tên mình đồng da sắt, lực mạnh vô cùng, cả hai lấy dài bù ngắn, tấn công rất hung mãnh, còn Tứ hiệp tuy mỗi người đều có võ công độc môn nhưng cũng dần dần chống cự không nổi!


Huyền Phong đạo trưởng cố gắng chặn một hồi, miệng ra nôn ra một ngụm nước vàng, Tát Thiên Thích chợt lách người né tránh, phía đạo trưởng chợt kêu lên: “Nhị đệ, tam đệ, nhảy ra khỏi vòng! Nhị đệ dùng rượu phun vào mặt bọn chúng! Tam đệ dùng vòng sắt đánh vào đầu bọn chúng!” Tát Thiên Thích giơ móng tay lên chụp tới, Liễu Tiên Khai và Lang Nguyệt thiền sư đã nhảy vọt ra, Lang Nguyệt thiền sư há miệng phun một cái, hai luồng rượu trắng bay thẳng vào hai mắt của Bát Tý Thần Ma.


Tát Thiên Thích xoay người tránh hai vòi rượu, Lang Nguyệt thiền sư lại há miệng phun ra, hai vòi rượu bắn về phía hai mắt của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô không giỏi khinh công như anh của mình, thế là vội vàng giơ một tay che mắt, một tay chống địch, vòi rượu bay tới bị bàn tay to bè của y che lại, tia rượu bắn tung tóe, rơi lên mình y, y có mình đồng da sắt đương nhiên không sợ. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc này, trường kiếm của Huyền Phong đạo trưởng đã đâm ra soạt soạt ba kiếm, Tát Thiên Đô nhảy nhót né tránh đến luống cuống chân tay, bốp một tiếng, trên đầu đã trúng một quyền của Liễu Tiên Khai, những kẻ luyện công phu ngoại gia, những nơi như mặt, đầu, huyệt thái dương, hạ âm là tương đối yếu ớt, tuy không đến nỗi bị đánh một đòn đã mất mạng nhưng nếu bị người ta dùng thủ pháp nặng của nội gia đánh vào thì sẽ đau đớn khó chịu! Tát Thiên Đô tóe đom đóm, đau đến nỗi kêu lên oai oái. Huyền Phong đạo trưởng đa đâm kiếm đến chỗ yếu hại, Tát Thiên Thích vội vàng lướt tới, mười ngón tay từ phía sau chụp tới, Huyền Phong đạo trưởng xoay người nhưng lại lui ra phía sau, khi Tát Thiên Đô lao tới bổ chưởng xuống và Tát Thiên Thích phóng lên, Lang Nguyệt thiền sư lại phun hai vòi rượu bắn vào mắt của hai người!


Trong bốn người, nội công của Lang Nguyệt thiền sư chỉ kém Huyền Phong đạo trưởng, công phu phun rượu của ông ta đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, ông ta có thể phun rượu thành vòi, đồng thời một lần có thể phun được nhiều vòi, lại có thể phun rượu thành đạn, chuyên đánh vào hai mắt của kẻ địch. Hai tên ma đầu tuy là nhân vật có công phu tuyệt đỉnh nhưng cũng lúng túng khi đối phó với loại ám khí kỳ dị này.


Thế là tình thế thay đổi, lúc nãy hai tên ma đầu chiếm thượng phong nhưng giờ đây Tứ hiệp đã chuyển khách thành chủ, mỗi người đều thi triển tuyệt kỹ độc môn khiến cho hai tên ma đầu luống cuống, trong lúc kịch chiến Tát Thiên Thích phải liên tục né tránh đạn rượu và nhẫn thép, y vung tay chụp vào mạch môn của Trần Nguyên Bá, kiếm pháp của Huyền Phong đạo trưởng nhanh nhẹn tuyệt luân, ông ta liên tục sử dụng Truy phong bát kiếm, mũi kiếm không rời những chỗ yếu hại của Bát Tý Thần Ma. Tát Thiên Thích buộc phải vận dụng võ công thượng thừa Miêu Ưng trảo, chợt phóng vọt người lên, chụp xuống một trảo khiến Liễu Tiên Khai hoảng hốt thối lui, rồi y lộn người xuống đất, đang định kêu Tát Thiên Đô thối lui, lúc này cô bé Phùng Anh lại khóc lên oa oa! Tát Thiên Thích khựng người! Lang Nguyệt thiền sư phun rượu thành vòi bay thẳng tới trước mặt y! Tát Thiên Thích xoay người né tránh, Huyền Phong đạo trưởng xỉa mũi kiếm tới phía trước, ánh thanh quang đã đâm xéo vào cổ họng của y, Tát Thiên Thích vội vàng cúi đầu khom người, kiếm phong lướt qua mát rượi, Tát Thiên Thích lại lách người theo bản năng, thu nhỏ cơ bắp vào, y vốn đoán rằng khó có thể né được kiếm này nên vận khí thu cơ bắp, hy vọng giảm bớt tổn thương. Không ngờ chỉ trong chớp mắt, Phùng Anh kêu lên, số là Huyền Phong đạo trưởng đã đâm kiếm tới, Tát Thiên Thích cúi người né tránh, lộ ra mặt của Phùng Anh, chiêu kiếm này vốn đâm vào cổ họng của Tát Thiên Thích, Phùng Anh xoay mặt qua hướng thẳng vào mũi kiếm, cô bé thấy ánh kiếm loang loáng bởi vậy mới khóc òa lên! Huyền Phong khó khăn lắm mới đánh ra được chiêu kiếm này nhưng bị Phùng Anh chặn lại, dù họ có thù sâu như biển với hai tên ma đầu nhưng làm sao ông ta có thể nỡ lòng đâm tới! Huyền Phong chỉ hơi chần chừ dừng kiếm lại, Tát Thiên Thích đã trở tay chụp vào cổ tay của ông ta, thanh trường kiếm rơi xuống đất! Tát Thiên Đô thấy đại ca đắc thủ, y hú dài một tiếng lại nhảy bổ theo, chém vù xuống một chưởng, lúc nãy y bị Huyền Phong đâm trúng một kiếm nên nay dốc hết toàn lực quyết giết cho bằng được Huyền Phong! Trần Nguyên Bá không nề sinh tử lao tới liều mạng hai chưởng đẩy ra, ba chưởng giao nhau kêu bốp một tiếng, chưởng trái chịu lực nặng hơn, xương cổ tay trái gãy lìa, cánh tay sụi xuống! Dư lực của Tát Thiên Đô vẫn chưa hết, tiếp tục đè xuống Huyền Phong kêu bốp một tiếng, đánh Huyền Phong bật ra hơn một trượng! Tát Thiên Đô đẩy Trần Nguyên Bá ra, lao người tới toan lấy mạng Huyền Phong!


May mà Huyền Phong đạo trưởng nội công thâm hậu, lại được Trần Nguyên Bá chặn trước một chưởng, bởi vậy chưởng lực của Tát Thiên Đô đã giảm đi một nửa, bởi vậy ông ta mới không bị nội thương nhưng người cũng đứng không vững, Liễu Tiên Khai và Lang Nguyệt thiền sư nhảy bổ theo, chặn Bát Tý Thần Ma lại, bởi vì hai người biết thân pháp của Tát Thiên Thích nhanh như gió, nội lực thâm hậu, hơn hẳn Tát Thiên Đô. Sau khi Huyền Phong bị thương, vẫn còn có thể chống nổi Tát Thiên Đô nhưng không thể là đối thủ của Tát Thiên Thích nữa nên chặn Tát Thiên Thích, để mặc Tát Thiên Đô đuổi theo Huyền Phong.


Huyền Phong đạo trưởng đã trúng độc trảo, mạch môn tay phải đau rát, chắc là bị thương cũng không nhẹ, thấy Tát Thiên Đô nhảy bổ tới như hung thần ác sát, ông ta nổi cáu quát lớn: “Đạo gia liều với ngươi!” thế rồi ngầm vận đủ nội lực vung cây gậy lộn người bổ tới, Tát Thiên Đô cậy mình đồng da sắt, không thèm né tránh, phát chưởng ra đánh vù một cái rồi lướt người tiến lên, nhưng bốp một tiếng, ở be sườn đã trúng một gậy, đây vốn là chỗ yếu hại, bởi vậy y trúng một gậy đau nhói đến tận xương, dù công phu ngoại gia đến mức đăng phong tạo cực cũng chịu không nổi, phun ra một ngụm máu tươi, hai que xương sườn đã gãy! Huyền Phong đạo trưởng nhảy bổ tới quét gậy như gió, Tát Thiên Đô không dám trân mình ra chịu đựng nữa, vội vàng né tránh liên tục, dùng Đại Lực Kim Cương thủ gạt gậy của ông ta ra, đang lúc kịch chiến đôi bên đều thối lui, Tát Thiên Đô cảm thấy lực gậy của Huyền Phong đạo trưởng chẳng phải tầm thường, Huyền Phong đạo trưởng cũng cảm thấy chưởng lực của y như sấm sét, đôi bên không dám khinh địch. Đang lúc kịch chiến, Huyền Phong đạo trưởng vận đủ nội lực đánh vù ra mấy gậy, Tát Thiên Đô nhảy chồm chồm né tránh, Huyền Phong đạo trưởng quét một gậy trúng tảng đá bên cạnh, đá vụn bay lên tung tóe, chợt một người té xuống, người ấy cao giọng kêu: “Huyền Phong đạo trưởng, hãy mau cứu tôi!”


Người này chính là Đường Hiểu Lan, chàng ta bị Tát Thiên Thích điểm trúng ma huyệt, đặt nằm ở giữa hai kẽ đá chẳng thể nào nhúc nhích được, chàng ta chứng kiến cuộc ác chiến mà trợn mắt há mồm, tiếng quát tháo dần dần đến gần, đột nhiên tảng đá vỡ ra, người bị chấn động, huyết mạch chợt thông suốt, té ra lực chấn động từ tảng đá truyền vào người khiến huyệt đạo của chàng tự giải.


Huyền Phong đạo trưởng kêu: “Ngươi là ai?” Đường Hiểu Lan phóng vọt người lên, trả lời: “Tôi là đứa trẻ mà Châu Thanh đã nuôi!” Huyền Phong kêu ối chao một tiếng, đánh ra vù vù mấy trượng, đẩy lui Tát Thiên Đô, phóng vọt người tới: “Ồ! Té ra ngươi ở đây!” Đường Hiểu Lan đưa cây Du Long kiếm cho Huyền Phong, nói: “Đạo trưởng, sử dụng thanh bảo kiếm này!”


Mười năm trước Châu Thanh đã từng gặp Huyền Phong đạo trưởng ở Quan Đông. Châu Thanh trốn chạy hơn ba mươi năm trên giang hồ, nhiều lần trải qua nguy hiểm biết mình sớm muộn gì cũng mất mạng nên đã nhờ Huyền Phong đạo trưởng ngày sau chiếu cố cho ái đồ duy nhất của mình, lúc đó Huyền Phong hỏi: “Người trẻ tuổi tướng mạo dễ thay đổi, tôi làm sao nhận ra hắn?” Châu Thanh trầm ngâm rồi nói: “Rất dễ dàng, cứ thấy thiếu niên nào sử dụng Du Long kiếm thì chính là hắn!”


Sau đó Châu Thanh ác đấu với bọn Huyết Trích Tử ở kinh sư, không địch nổi nên bỏ chạy đến Hà Nam. Quan Đông tứ hiệp cũng nghe chuyện này, Huyền Phong đạo trưởng hẹn bốn nghĩa đệ đuổi theo, nào ngờ đến Mạnh Tân thì gặp hào kiệt ở núi Thái Hàng chạy ra, bởi vậy mới biết hai tên ma đầu đến núi Thái Hàng làm mưa làm gió, rất nhiều bằng hữu chết thảm bởi hai kẻ này, sự việc gấp gáp nên chỉ đành chạy lên núi chặn hai tên ma đầu! Lại không ngờ trong lúc kịch chiến Đường Hiểu Lan đã xuất hiện!


Huyền Phong đạo trưởng nhận thanh bảo kiếm, búng hai cái, hú dài một tiếng, vui mừng nói: “Ngươi cứ xông về phía ta!” Bát Tý Thần Ma sau một lượt tấn công, đánh lui Lang Nguyệt thiền sư và Liễu Tiên Khai, rít lên: “Huyền Phong ác đạo, ngươi dám cướp đồ nhi của ta!” rồi phóng vọt người lên, sử dụng tuyệt kỹ Lăng Không Phốc Kích, sau ba lần trồi hụp đã vọt lên cao đến hơn ba trượng, vươn mười ngón tay chụp xuống đầu Huyền Phong! Huyền Phong gạt ngang cây Du Long kiếm trên không trung, Tát Thiên Thích đang lơ lửng trên không trung xoay một vòng, vẫn tiếp tục chụp xuống, thuật Miêu Ưng Phốc Kích của y trăm lần không sai một, vốn tưởng rằng có thể né được trường nhưng nào ngờ cây Du Long kiếm là báu vật, ánh kiếm quang loang loáng, kiếm phong loang ra đến cả nửa thước, năm móng tay phải của Tát Thiên Thích bị cắt đứt một nửa. Tát Thiên Thích tức giận gầm lớn một tiếng, lộn người hạ xuống đất, tay phải chụp về phía Huyền Phong, tay trái bấu vào vai của Đường Hiểu Lan, Huyền Phong múa kiếm như gió từ phía dưới chém ngược lên trở lại, Tát Thiên Thích vội vàng rụt tay phải, tay trái vẫn chụp vào vai của Đường Hiểu Lan. Huyền Phong đột nhiên xoay cổ tay phải, cây Du Long kiếm đánh ra một chiêu Kim điêu triển xí, chém ngang vào cổ tay của Tát Thiên Thích, Tát Thiên Thích tựa như sợ cây bảo kiếm, xoay người một vòng như gió xoáy, cây trường kiếm của Huyền Phong đột nhiên đâm xuống be sườn của y, trảo trái của y cũng tựa như mở ra! Đường Hiểu Lan sắc mặt trắng bệt, kêu ối chao một tiếng nhảy ra!


Huyền Phong đạo trưởng chụp kiếm, liên tiếp đánh ra mấy chiêu, Tát Thiên Thích thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích né chiêu xuất chiêu, công lực của Tát Thiên Thích hơn Huyền Phong, hơn nữa Huyền Phong bị thương, vốn chẳng thể chống cự, nhưng ông ta có bảo kiếm nên chiếm lại phần tiện nghi, Tát Thiên Thích thường phải né tránh lưỡi kiếm, không dám sấn tới sát. Trong lúc này, Liễu Tiên Khai nhảy bổ tới phụ với Huyền Phong đạo trưởng, chặn thế công hiểm hóc của Tát Thiên Thích, Huyền Phong đạo trưởng cầm gậy trên tay phải, vội vàng lấy ra hai viên thuốc, ném một viên cho Đường Hiểu Lan, còn mình cũng uống một viên, trong chớp mắt, Liễu Tiên Khai lại bị Tát Thiên Thích đẩy lui! Còn Tát Thiên Đô cũng đánh Lang Nguyệt thiền sư và Trần Nguyên Bá luống cuống, lúc này Huyền Phong đã thấy cổ tay phải đau hơn trước, ruột gan cồn cào, khí từ dưới đơn điền xông lên trên cổ!


Công lực của Đường Hiểu Lan kém hơn, chàng đã bị trúng độc trảo, tuy nhai thuốc giải nhưng cũng không chịu nổi, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, lảo đảo như muốn ngã xuống, Lang Nguyệt cũng trúng một trảo, Huyền Phong thấy bốn người phe mình đã bị thương mất ba, nếu cứ đánh tiếp chắc chắn sẽ thất bại, khi ông ta suy tính, Tát Thiên Thích lại thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích, phóng vọt người chụp xuống Đường Hiểu Lan. Huyền Phong đạo trưởng quát lớn một tiếng, cây Du Long kiếm hất lên, thừa lúc Tát Thiên Thích đã xoay tròn né tránh trên không trung, tay trái ném cây gậy ra, đó chính là tuyệt chiêu cứu nguy trong Phục Ma quải pháp của ông ta, tên gọi là Bạch hồng quán nhật, Tát Thiên Thích chưa kịp chạm đất, đã vung chưởng gạt ngang bốp một tiếng, lòng bàn tay đã bị cây gậy đâm vào sâu nửa tấc, đau đến thấu xương, y vội vàng lộn người trên không trung, Phùng Anh lại khóc òa lên, lúc này tiếng khóc của cô bé đã khàn khàn! Huyền Phong đạo trưởng vội vàng đỡ Đường Hiểu Lan dậy, giao cho Liễu Tiên Khai nói: “Tam đệ, dắt hắn chạy về phía Tây nam, lên Mang Sơn!” Liễu Tiên Khai lấy làm lạ, không biết tại sao phải lên Mang Sơn! Nhưng lúc này không thể hỏi nhiều, thế là cõng Đường Hiểu Lan chạy đi, Huyền Phong đạo trưởng lại nói: “Chia nhau chạy, cứ mặc ta!” Liễu Tiên Khai xưa nay kính phục sư huynh, không nói một lời, thi triển tuyệt kỹ Vạn Lý Truy Phong chạy xuống núi. Huyền Phong đạo trưởng cầm kiếm đoạn hậu, yểm hộ cho Lang Nguyệt thiền sư và Trần Nguyên Bá chạy xuống núi ở một đường khác!


Tát Thiên Thích lấy thuốc bôi vết thương, khi băng bó xong thì Tứ hiệp đã chia nhau hai đường bỏ chạy. Tát Thiên Thích nhíu mày, nói với Tát Thiên Đô: “Ngươi đuổi theo tên lỗ mũi trâu, ta đi bắt tên tiểu tử!” Tát Thiên Thích tuy căm hận Huyền Phong nhưng y nghĩ ba người phía Huyền Phong đều đã bị thương, sớm muộn gì chất độc cũng phát tác, công lực của Tát Thiên Đô tuy kém hơn nhưng chỉ bị ngoại thương, có thể lấy một chọi ba. Còn Liễu Tiên Khai khinh công trác tuyệt, bảo Tát Thiên Đô đuổi theo chắc chắn chẳng kịp ông ta, vả lại Đường Hiểu Lan lại là người có tư chất tốt, Tát Thiên Thích đang muốn thâu chàng làm đồ đệ!


Khoan hãy nói chuyện Huyền Phong đạo trưởng. Lại nói Tát Thiên Thích chạy như bay xuống núi, đuổi theo Vạn Lý Truy Phong, khinh công của hai người không hơn kém nhau bao nhiêu, Liễu Tiên Khai cõng trên lưng một người lớn còn Tát Thiên Thích chỉ cõng một đứa trẻ, so ra Liễu Tiên Khai hơi thiệt hơn. Nhưng dù như thế, Liễu Tiên Khai hơn được ở chỗ chạy trước, Tát Thiên Thích đuổi theo cả nửa ngày mà chẳng thấy bóng dáng ông ta.


Mang Sơn ở phía Tây Hà Nam, là nhánh phía Bắc của dãy núi Tần Lĩnh, cách núi Thái Hàng bốn năm trăm dặm. Trưa hôm sau, Liễu Tiên Khai đến Tân An, ra khỏi Tân An là Hàm Cốc quan, Mang Sơn đang ở trước mặt. Vết thương của Đường Hiểu Lan phát tác, chất độc công tâm, khi đến Tân An đã bất tỉnh nhân sự. Liễu Tiên Khai cõng chàng vào khách điếm, trích máu giải độc cho chàng, chàng mới dần dần tỉnh lại. Liễu Tiên Khai vốn muốn tránh nguy hiểm trong khách điếm này, đợi Tát Thiên Thích chạy qua rồi mới lộ mặt, không ngờ đến nửa đêm chợt nghe bên ngoài khách điếm có tiếng trẻ con khóc, vạch rèm ra nhìn thì quả nhiên Bát Tý Thần Ma đang cho Phùng Anh ăn cháo ở ngoài, thì ra tên ma đầu này cũng ở trong khách điếm. Liễu Tiên Khai vừa lộ mặt, Tát Thiên Thích đã nhìn thấy. Y buộc Phùng Anh lên lưng mình rồi chạy ra, Liễu Tiên Khai quay vào phòng chụp Đường Hiểu Lan, đánh vỡ khung cửa sổ phóng tọt ra ngoài, Tát Thiên Thích đá cửa phóng, cũng nhảy ra cửa sổ phía sau, chủ khách điếm chạy theo la toán lên: “Bắt trộm!” lúc này cả hai người đều đã chạy ra đường!


Tân An là một trấn nhỏ, trời chưa tối, người trên đường vẫn còn đông đúc. Hai người rượt đuổi nhau trên đường phố, ai nấy đều nhốn nháo cả lên, Tát Thiên Thích lòng nôn nóng như lửa đốt, xô người đi đường té chổng cẳng, một hồi sau Liễu Tiên Khai đã chạy ra ngoại ô. Tát Thiên Thích tức giận đến cùng cực, thi triển khinh công độc môn đuổi theo Liễu Tiên Khai, mắng lớn ở sau lưng: “Ngươi có chạy đằng trời, lão tử cũng moi ngươi ra!” Liễu Tiên Khai chẳng nói một lời, thi triển tuyệt kỹ truy phong, chạy như bay trên suốt đoạn đường, qua mấy ngày đã bỏ Bát Tý Thần Ma ở phía sau.


Hoàng hôn buông xuống, trăng dần dần lên cao. Liễu Tiên Khai nghe ở phía xa có tiếng nước vỗ vào bờ oàm oạp, lúc đó mới biết mình đến bên bờ Hoàng Hà. Ngọn Hy Sơn và Mang Sơn nằm gần sông Hoàng Hà, hai núi này giăng ngang, tạo thành thế cậy dốc người xưa gọi là “Hy hàm thiên hiểm”. Liễu Tiên Khai ngẩng đầu lên nhìn, ngọn Mang Sơn đang sừng sững ở trước mặt, hai ngọn núi dựa vào nhau, vách dựng thẳng đứng, mặt Nam của núi là sông Hoàng Hà, Liễu Tiên Khai thầm mừng trong lòng, ngọn núi này rất hiểm trở, khinh công của Tát Thiên Thích lại không bằng ông ta, chắc chắn y chẳng đuổi theo kịp.


Liễu Tiên Khai leo lên ngọn ở phía Đông, càng đi sâu vào cây cối càng um tùm, gai góc giăng đầy lối, Liễu Tiên Khai nhón chân bước đi để không lưu lại dấu vết, đi một hồi thấy ở phía trước mặt có vách núi sừng sững, đá nhọn lô nhô, Liễu Tiên Khai cõng một người lớn, khó khăn lắm mới leo lên được bảy tám trượng. Lên đến bên trên chỉ thấy quái thạch lô nhô, trong đêm tối nhìn càng rùng rợn đáng sợ hơn. Liễu Tiên Khai cố giương mắt lên nhìn tình thế xung quanh, tiếp tục vòng qua những tảng đá lớn đi sâu vào bên trong.


Đi một hồi địa thế trước mặt chợt mở rộng, té ra đó là một sơn cốc lọt thỏm ở giữa, trên vách núi có một dòng thác đổ xuống, tia nước bắn tung tóe tựa như châu ngọc dưới ánh trăng. Liễu Tiên Khai chẳng còn lòng dạ nào thưởng thức, ông ta định vượt qua sơn cốc tiếp tục len lên trên, vừa chạy đến dòng thác chợt thấy có một người xuất hiện, Liễu Tiên Khai vừa nhìn thì ngẩn người ra!


Đó là một nàng thiếu nữ dung nhan tuyệt sắc, mặt trái xoan, đôi mắt to tròn, chân mày như vẽ, trông rất thanh tú, Liễu Tiên Khai không ngờ ở nơi núi rừng hoang sơ lại có một trang giai nhân. Nàng thiếu nữ dịu dàng hỏi: “Xin chào quý khách, trong đêm tối mà ngài lên núi làm gì thế?” Liễu Tiên Khai cố trấn tĩnh, chậm rãi đáp: “Cô nương, cứ mặc ta!” nàng thiếu nữ nhoẻn miệng cười, nói: “Ta cứ thích lo chuyện bao đồng đấy!” nói chưa dứt lời đã tung người vọt tới, gió núi thổi tới khiến tà áo nàng bay phất phới trông giống như một thiên tiên từ trên không giáng xuống, đứng chặn trước mặt Liễu Tiên Khai. Khinh công của nàng đúng là siêu phàm thoát tục, Liễu Tiên Khai tuy được người ta gọi là Vạn Lý Truy Phong nhưng cũng không khỏi thầm thán phục!


Liễu Tiên Khai chắp tay lại vái một cái, nói: “Tôi biết cô nương võ công tuyệt thế, xin đừng làm khó kẻ đang gặp nguy như tôi!” nàng thiếu nữ trợn tròn mắt, làn thu ba lóng lánh, ngạc nhiên nói: “Ồ, người đang gặp nguy hiểm? Tại sao đang gặp nguy hiểm? Xin hãy nói kỹ!” Liễu Tiên Khai lo lắng lạ thường, nói: “Kẻ địch sắp đuổi tới đây, cô nương, xin hãy buông tha cho tôi!” nàng thiếu nữ nói: “Không được!” từ xa vọng lại tiếng hú quái dị, Liễu Tiên Khai không khỏi bực bội, hai chân điểm một cái phóng vọt ra, nào ngờ vừa hạ xuống đất nàng thiếu nữ ấy đã nhoẻn miệng cười giơ tay chặn trước mặt ông ta!


Liễu Tiên Khai không ngờ khinh công của mình lại kém hơn một nàng thiếu nữ, lại lướt người phóng vọt lên, nào ngờ vừa mới hạ xuống đất thì thiếu nữ ấy đã chặn trước mặt, nàng nhoẻn miệng cười nói: “Ông cõng theo một người thi triển thuật khinh công rất khó khăn, hãy để tên này xuống!” Liễu Tiên Khai bình sinh lấy làm tự hào về khinh công của mình, lòng tranh thắng chợt nổi lên, ông ta đặt Đường Hiểu Lan xuống đất, vung hai tay phóng lướt người lên như chim hạc, bên tai nghe tiếng gió vù vù, lên đến đỉnh núi, nhưng nàng thiếu nữ vẫn lên trước ông ta một bước, nàng nhẹ nhàng đặt một người trên lưng xuống, nói: “Thế nào?” té ra nàng đã cõng Đường Hiểu Lan trên lưng mình, rồi lại thi triển khinh công, Liễu Tiên Khai đương nhiên phải nhận thua! Ông ta bất đồ thấy nhụt chí, chép miệng than: “Thôi đi, thôi đi, tôi chỉ tưởng rằng khinh công trùm đời, không ngờ trên đời lại có người giỏi hơn!” nàng thiếu nữ cười nói: “Coi như ông cũng không tệ!” lúc này độc trong người Đường Hiểu Lan đã phát tác, toàn thân mềm nhũn nhưng vẫn còn tri giác, chàng được nàng thiếu nữ cõng trên lưng lướt lên đỉnh núi tựa như đạp gió cỡi mây, chàng mở to đôi mắt nhìn nàng ta sững sờ, nàng thiếu nữ dung quang sáng ngời, Đường Hiểu Lan không khỏi kêu lên: “Cô nương là người hay thần tiên thế?” nàng thiếu nữ bật cười, chợt nhíu mày nói: “Sao ngươi bị thương nặng đến thế!” tiếng hú càng lúc càng gần, Liễu Tiên Khai nhảy bật dậy nói: “Ma đầu đã đến, hãy buông tha cho tôi!” bóng đen ở ngoài cốc càng lúc càng lớn, trong chớp mắt Bát Tý Thần Ma đã xuất hiện, lớn giọng nói: “Liễu Tiên Khai, ngươi có chạy đi đằng trời ta cũng đuổi kịp!” Liễu Tiên Khai vội vàng nói: “Cô nương, buông tha cho tôi!” nàng thiếu nữ kéo Đường Hiểu Lan qua một bên, hỏi: “Có phải người này đã hại ngươi không?” Đường Hiểu Lan chỉ Bát Tý Thần Ma nói: “Chính là y!” nàng thiếu nữ tức giận nói: “Được, ta sẽ đâm y một kiếm!” rồi nàng trao Đường Hiểu Lan cho Liễu Tiên Khai, nói: “Bảo vệ cho y, không cần phải chạy”. Rồi nàng xoay người lướt xuống sơn cốc trở lại.


Tát Thiên Thích trầm giọng quát: “Ả nha đầu nhà ngươi mau mau tránh qua một bên, ta không muốn hại ngươi!” Tát Thiên Thích giết người không chớp mắt, chỉ vì thấy nàng thiếu nữ xinh đẹp lạ thường, trong lòng hơi tiếc nuối. Nàng thiếu nữ cười nói: “Chưa chắc ngươi có thể hại được ta!” Tát Thiên Thích lướt người lên, đang định đề khí phóng vọt lên đỉnh núi, không ngờ chân chưa chạm đất, giọng nói trong trẻo của nàng thiếu nữ đã vang lên bên tai: “Không được lên!”


Tát Thiên Thích tức giận nói: “Được lắm, chính là ngươi đã chán sống, đừng trách ta!” rồi mười ngón tay vung ra chụp xuống, nàng thiếu nữ cười khanh khách, chỉ trong chớp mắt đã mất dạng! Tát Thiên Thích giơ chân trái hộ thân, chưởng phải lại chụp theo tiếng cười! Nàng thiếu nữ quát: “Chiêu số thật độc!” ánh thanh quang lóe lên, kiếm đã rút ra khỏi vỏ, nàng đâm soạt soạt hai kiếm vào ấn đường của Tát Thiên Thích, kiếm pháp vừa nhanh vừa chuẩn, tựa như còn hơn cả Huyền Phong, Tát Thiên Thích chợt kinh hãi, biết rằng đã gặp kình địch, quát lên một tiếng: “Hay lắm!” rồi lách xéo qua, đột nhiên lộn người tránh hai nhát kiếm. Y cũng không hề chậm trễ, nhân lúc nàng thiếu nữ vừa thâu kiếm thế, kiếm chiêu chưa kịp thay đổi, đã nhảy bổ theo, chưởng phải hất vào cùi của nàng, tay trái chụp vào be sườn. Liễu Tiên Khai thấy thế mà kinh tâm khiếp đảm!


Chính là:


Tuyệt đại phong hoa kỳ nữ tử, chỉ dùng một kiếm đấu thần ma.


Muốn biết hai người thắng bại như thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Giang Hồ Tam Nữ Hiệp
Hồi 5 Thiết Chưởng Thần Đạn danh sư truyền tuyệt kỹ Tình yêu nảy nở ngọc nữ giả hờn ghen




Mười ngón tay cứ như móc câu, kiếm quang tựa như tia lửa, Liễu Tiên Khai rõ ràng đã nhìn thấy Bát Tý Thần Ma chụp vào be sườn của nàng thiếu nữ, không biết thế nào mà đột nhiên y gầm lên một tiếng phóng vọt người lên cao hơn một trượng, lướt ra ngoài. Thân pháp của y vẫn còn lanh lẹ, tựa như không phải bị thương, ông ta không đoán được tại sao y đã sắp đắc thủ mà lại thối lui! Khi nhìn lại nàng thiếu nữ, chỉ thấy nàng nắm kiếm quyết trên tay trái, tay phải cầm cây bảo kiếm chỉa xéo về phía trước, sắc mặt ngưng trọng, nhìn Tát Thiên Thích đăm đăm tựa như rất căng thẳng. Tát Thiên Thích vung hai tay, ánh mắt quắc lên, nhìn nàng thiếu nữ, không ai dám nhúc nhích. Liễu Tiên Khai rất lấy làm lạ.


Liễu Tiên Khai không biết rằng, trong khoảnh khắc như điện xẹt lúc nãy, cả hai bên đã giao nhau mấy chiêu, Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích chụp tới một trảo, đoán rằng thế nào cũng trúng, nào ngờ móng tay chỉ chạm vào gấu áo của nàng. Nàng thiếu nữ không hề nhúc nhích, chỉ hóp ngực thu bụng, giả sử móng tay của Tát Thiên Thích dài hơn nửa tấc thì có thể dồn lực vào móng tay chụp vào ngực của nàng, nhưng cánh tay của Tát Thiên Thích đã vươn ra hết cỡ, chẳng thể nào dồn lực nữa nên hụt mất nửa tấc, mũi kiếm của nàng thiếu nữ cũng đã chém xéo tới. Tát Thiên Thích thấy trên đầu mát rượi, vội vàng trầm hai tay xuống đầu ngửa ra phía sau, khiến cho nàng ta chẳng thể nào đâm trúng thế là thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng dù như thế, lọn tóc dài rối bời trên đầu cũng bị chém mất một mảng!


Nàng thiếu nữ cũng thầm kinh hãi, nàng tự tin Huyền Nữ kiếm pháp của mình đã đến mức xuất thần nhập hóa, không ngờ kẻ địch này có thể thoát được. Nàng thầm nhủ: “Bát Tý Thần Ma quả nhiên danh đồn không ngoa, chả trách nào sư phụ bảo mình phải để ý!”


Hai người đều tập trung tinh thần, tìm thời cơ đánh địch, cả hai bên đều không dám ra đòn trước. Một hồi sau, thiếu nữ chợt bật cười nói: “Tiếp nào!” trong khoảng thời gian chỉ một chớp mắt, Tát Thiên Thích phóng vọt lên, mười ngón tay chụp xuống, y muốn nhân lúc nàng thiếu nữ phân tâm mà đánh ngã nàng. Không ngờ nàng thiếu nữ chỉ muốn dụ y ra đòn trước, nàng đã sớm phòng bị, cây bảo kiếm vung lên, múa thành một vòng tròn trên đỉnh đầu, Tát Thiên Thích vội vàng xoay người, hai bên chạm nhau một chiêu, Tát Thiên Thích lại hạ chân xuống đất, phát động thế tấn công, lúc này đòn thế của y còn hung hiểm hơn khi đại chiến với Quan Đông tứ hiệp nhiều, Liễu Tiên Khai thấy thế mà thầm thất kinh, nàng thiếu nữ thì khí định thần nhàn, kiếm quang loang loáng, tá áo phất phới. Trong lúc quần thảo kịch liệt mà nàng vẫn mỉm cười, kiếm chiêu chợt thay đổi, ánh hàn quang bắn ra xung quanh, lúc tụ lúc tán, trông chẳng hề hiểm hóc tí nào mà tựa như nước chảy mây bay, nhẹ nhàng như én liệng giữa mùa xuân! Té ra nàng thiếu nữ dụ y ra đòn trước sau đó mới hạ nhuệ khí của y, một lát sau Tát Thiên Thích đã bị nhốt trong luồng kiếm quang, phải liều mạng khổ đấu! Liễu Tiên Khai lúc đó mới thở phào, bình tĩnh trở lại thầm nhủ: “Kiếm pháp của đại ca đã là tuyệt kỹ hiếm có, hình như nàng thiếu nữ này còn hơn cả đại ca mình, không ngờ nàng tuổi tác còn trẻ mà lại luyện được đến mức này!” rồi chợt giật mình: “Đại ca bảo mình tránh lên Mang Sơn, chả lẽ có liên quan đến nàng thiếu nữ này”. Đang lúc suy nghĩ, từ xa lại vọng đến một tiếng hú quái dị!


Liễu Tiên Khai nghe rất rõ ràng, tiếng hú này là của Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô, trong lòng thầm lo, nàng thiếu nữ chợt quát lên: “Trúng!” khi nhìn lại thì cuộc ác đấu đã phân thắng bại! Tát Thiên Thích nhảy ra khỏi trường, trên vai máu tuôn xối xả. Đường Hiểu Lan kêu lên: “Bảo y bỏ đứa trẻ trên lưng xuống!” tiếng kêu chưa dứt, Tát Thiên Đô đã xuất hiện ở nơi sườn núi.


Tát Thiên Thích thấy em mình tới, trong lòng cả mừng, chẳng màng đến vết thương lại nhảy bổ tới, Tát Thiên Đô thấy thế gầm lớn một tiếng, vội vàng vung quyền đến trợ công. Nàng thiếu nữ xỉa thanh kiếm tới phía trước, đâm thẳng tới Tát Thiên Đô, Tát Thiên Thích chụp trảo vào huyệt khí hải của nàng thiếu nữ, kiếm pháp của nàng thiếu nữ lanh lẹ vô cùng, mũi kiếm vung lên đã vạch một vết thương trên người Tát Thiên Đô, móng tay của Tát Thiên Thích vừa chạm vào tà áo, nàng thiếu nữ đã lách người thâu thanh kiếm lại, chém một chiêu Ô long quyện vĩ vào hai chân của Tát Thiên Thích. Tát Thiên Thích vung hai tay phóng vọt người lên, kêu: “Dùng thủ pháp mạnh!” hai ngày nay Tát Thiên Đô liên tục bị thương, y nổi cáu, hai chưởng liên tục bổ ra tựa như đá lớn mở núi, chùy sắt tạt vào đá. Nàng thiếu nữ không dám tiến tới gần, kiếm quang máy động, thừa cơ tấn công. Thân thủ của Tát Thiên Thích rất lanh lẹ, y lại chụp mười ngón tay tới, cả hai tên ma đầu tấn công ở hai bên trái phải, nhất thời chuyển khách làm chủ, vây nàng thiếu nữ vào ở giữa!


Công lực của Tát Thiên Thích vốn chẳng kém, vừa rồi không biết hư thực của kẻ địch, lao tới tấn công bừa nên trúng một kiếm, lúc này tấn công lần nữa, được Tát Thiên Đô yểm hộ, vận dụng Đại Lực Kim Cương thủ cướp thanh kiếm của nàng thiếu nữ, chưởng phong kêu lên vù vù, chưởng phong và kiếm phong dồn vào nhau, kiếm chiêu của nàng thiếu nữ cũng không còn chuẩn xác như trước. Rõ ràng nàng đã đâm trúng yếu huyệt của kẻ địch thế nhưng bị chưởng phong quét lệch ra, còn vuốt bén của Tát Thiên Thích lại đánh tới như điện chớp! Nàng thiếu nữ tuy hơn ở chỗ kiếm pháp lanh lẹ, chiêu số kỳ diệu nhưng luận về côn lực vẫn kém hơn Tát Thiên Thích một bậc, lúc này bị cả hai tên ma đầu tấn công, mỗi tên đều có võ công độc môn, bởi vậy uy lực tăng lên đâu chỉ một lần, nàng thiếu nữ buộc phải chuyển công làm thủ, kiếm pháp chợt thay đổi, quanh mình nàng đều có một màn hàn quang loang loáng. Cả ba người quần thảo với nhau dữ dội, hai tên ma đầu tuy chiếm được thượng phong nhưng nàng thiếu nữ cũng không kém, lúc này cả hai bên đánh nhau đến thắng bại khó phân!


Liễu Tiên Khai ngưng thần xem chiến, đang lúc căng thẳng chợt nghe Đường Hiểu Lan rên rỉ khổ sở, hai mắt khép hờ, da mặt bầm đen, chắc là độc khí trong người đã lan tỏa ra! Liễu Tiên Khai kinh hoảng, chẳng màng đến cuộc ác đấu nữa, vội vàng xé áo ngực của Đường Hiểu Lan ra, dùng đá vạch một vết thương nặn máu cho chàng. Đường Hiểu Lan thở phì phò, khẽ nói: “Liễu đại hiệp cứ mặc tôi, chạy cho mau!” Liễu Tiên Khai nói: “Đừng nghĩ càn, ngươi không chết được đâu, chúng ta đi!” rồi kẹp Đường Hiểu Lan định nhảy xuống núi, chợt nghe hai tên ma đầu hú lên một tiếng, kiếm pháp của nàng thiếu nữ đã tán loạn, Liễu Tiên Khai bất giác chần chừ, thầm nhủ: “Nàng thiếu nữ này có lòng tốt rút kiếm tương trợ, chặn hai tên ma đầu cho mình, làm sao mình có thể bỏ nàng mà đi?” thế rồi định đặt Đường Hiểu Lan xuống, lại thấy chàng ta nhắm tịt mắt, mạch đập rất yếu, chỉ lo rằng nếu mình giúp nàng thiếu nữ, chưa thắng mà Đường Hiểu Lan đã hết cứu! Trong nhất thời không biết quyết định thế nào. Cả hai tên ma đầu càng đánh càng dữ, quát tháo rầm trời, Liễu Tiên Khai nghiến răng nói: “Phải lấy đạo nghĩa giang hồ làm đầu, thà mất mạng chứ không mất danh! Mong nhà ngươi cát nhân thiên tướng, gặp được may mắn”. Rồi đặt Đường Hiểu Lan xuống một bên, phóng người xuống núi.


Vừa chay được mấy bước, trên không trung vọng lại tiếng chim kêu, từ trong những rặng cây um tùm, chim bay ra ào ào. Liễu Tiên Khai bất giác chưng hửng, lòng thầm nhủ loài quái điểu nào mà lại ghê gớm đến thế? Trong chớp mắt trên đầu kêu lên vù vù, hai con chim đại bàng một trắng một đen giang rộng cánh bay lướt qua. Hai tên ma đầu hú lên một tiếng quái dị nhảy vọt ra khỏi trường. Ngay lúc này, bên cạnh dòng thác xuất hiện thêm một người, đó là một lão ni cụt tay! Liễu Tiên Khai đang chăm chú nhìn hai con chim đại bàng, chẳng hề biết lão ni ấy xuất hiện từ khi nào.


Độc tý thần ni bước tới mấy bước, lớn giọng nói: “Đồ nhi, vẫn chưa xong ư?” cả hai tên ma đầu đột nhiên xoay người tháo chạy, ném lại một câu: “Độc tí lão ni, có gan đến đảo Miêu Ưng tìm bọn ta!” lão ni hừ một tiếng, nói: “Bọn các ngươi chờ đấy, sẽ có người đến giở sào huyệt của các ngươi, nhưng trước tiên các ngươi phải để lại một món đồ!” rồi bà ta chúm môi thổi một tiếng, hai con đại bàng bay lướt qua, chỉ trong chớp mắt lại bay ngược trở về đậu xuống hai vai của lão ni cụt tay, miệng còn ngậm khăn trùm đầu của hai tên ma đầu. Nàng thiếu nữ chạy lên, vuốt ve hai con chim đại bàng, chợt nũng nịu nói: “Sao không bảo tiểu bạch và tiểu hắc mổ bọn chúng?” lão ni cười nói: “Con cũng đã thử mấy chiêu với bọn chúng, chả lẽ không biết bọn chúng lợi hại đến mức nào? Tiểu bạch và tiểu hắc làm sao có thể mổ được bọn chúng? Chẳng qua bọn chúng sợ thanh oai của ta, không dám đả thương đả thương tiểu bạch và tiểu hắc!” nàng thiếu nữ lại mỉm cười: “Sư phụ, kiếm pháp của con thế nào, có thể xuất đạo chưa?” lão ni nói: “Kiếm pháp của con còn giỏi hơn các sư huynh, nhưng kẻ thù của con còn lợi hại hơn hai tên ma đầu hàng trăm vạn lần! Giờ đây con chỉ mới học được bảy tám phần hỏa hầu, luyện thêm vài năm, hai tên ma đầu chẳng phải là đối thủ của con! Lúc đó có thể trả thù được hay không phải xem vận may của con”. Nói xong thì chậm rãi bước về phía Liễu Tiên Khai, cười nói: “Thầy trò chúng ta chỉ mãi nói chuyện, quên bẵng cả quý khách đến đây!”


Liễu Tiên Khai vừa kinh vừa mừng, không ngờ rằng gặp được vị lão ni cụt tay trên Mang Sơn. Vị lão ni này kiếm pháp trác tuyệt, có điều ít đấu với người khác, gần ba mươi năm nay không ai biết tung tích của bà ta. Theo các bậc tiền bối trong võ lâm kể lại, bà ta vốn là con gái của Hoàng đế Sùng Trinh, vị vua cuối cùng của triều Minh tên gọi Trường Bình công chúa, khi Sấm vương vào kinh, Sùng Trinh thắt cổ chết ở Môi Sơn, trước khi chết sợ Trường Bình công chúa bị làm nhục nên dùng kiếm chém đứt một tay của bà, Trường Bình công chúa nằm rên rỉ trong vũng máu, Sùng Trinh ném kiếm than rằng: “Ai bảo con sinh trong hoàng gia!” nhờ vậy Trường Bình công chúa mới được giữ mạng. Sau khi Sấm vương vào cung đã ưu đãi hoàng gia, thấy Trường Bình công chúa thê thảm như thế, than rằng: “Sao tàn nhẫn như thế?” rồi bảo cung nữ đỡ bà về cung chữa trị. Chuyện này không chỉ là truyền thuyết trong võ lâm mà còn có sử sách ghi lại. Về sau này không ai biết làm thế nào mà Trường Bình công chúa xuất cung học được võ nghệ cao cường, lập ra một môn phái riêng.


Liễu Tiên Khai tính lại triều Thanh đã nhập quan được hơn sáu mươi năm, không ngờ bà ta vẫn còn sống, vội vàng thi lễ. Lão ni cụt tay nói: “Quan Đông tứ hiệp, hào hiệp trượng nghĩa, danh đồn không ngoa!” rồi chỉ Đường Hiểu Lan nói: “Ắt hẳn y đã trúng độc trảo của Bát Tý Thần Ma!” Liễu Tiên Khai nói: “Mong thần ni giải cứu!” Độc tý thần ni chỉ khẽ gật đầu. Liễu Tiên Khai đỡ Đường Hiểu Lan đứng dậy, khẽ nói bên tai chàng: “Không sao rồi, hai tên ma đầu đã bỏ chạy”. Đường Hiểu Lan khẽ mở mắt, hạ giọng hỏi: “Có đoạt lại được điệt nữ của tôi không?”


Liễu Tiên Khai nói: “Đã bị y bắt đi!” Đường Hiểu Lan trợn hai mắt rồi ngất đi. Độc tý thần ni nói: “Là ta sơ suất, chỉ muốn xem Oanh nhi thử chiêu, không ngờ tên ma đầu ấy cướp đứa bé”. Liễu Tiên Khai nói: “Ơn cứu mạng không dám quên!” lão ni cụt tay nói: “Ngươi hãy theo ta, lát nữa sẽ còn vài vị bằng hữu của ngươi”. Liễu Tiên Khai nhớ lại, ở Hà Nam, ngoại trừ Dương Trọng Anh, mình chẳng có bằng hữu nào cả, trong lòng lấy làm lạ.


Không biết bao lâu, Đường Hiểu Lan dần dần tỉnh dậy, chỉ cảm thấy mùi u hương xông vào mũi, mở mắt ra nhìn, chẳng thấy bóng dáng Liễu Tiên Khai đâu, còn chàng thì nằm trong một căn phòng, căn phòng được bày biện rất thanh nhã, chàng chỉ nhớ lại nàng thiếu nữ đấu với hai tên ma đầu, Liễu Tiên Khai đặt mình xuống đất, sau đó thì chẳng biết gì nữa. Trong lòng thầm nhủ: “Chả lẽ nàng thiếu nữ đã đánh bại hai tên ma đầu cứu mình. Còn đây là phòng ngủ của nàng?” Đang cố gượng ngồi dậy chợt thấy xương cốt rã rời, toàn thân mềm nhũn, khi mở mắt ra nhìn chỉ thấy trên tường có hai câu đối viết rằng: “Vai sắt gánh đạo nghĩa, tay ngà viết văn chương”.


Ở giữa có một bức trung đường, viết một bài từ dài, từ rằng:


“Độ giang thiên mã nam lai, kỷ nhân chân thị kinh thủ? Trường An phụ lão, tân đình phong cảnh, khả liên y cựu! Di phủ Chư nhân, thần Châu trầm lục, kỷ tằng hồi thủ? Toán bình nhưng vạn lý, công danh bản thị, chân nho sự, quân tri phủ?


Huống hữu văn chương sơn đấu, đối đồng âm, mãn đình thanh đản. Đương niên trụy địa, nhi kim thí khán, phong vân bôn tẩu. Lục dã phong yên, thủy tuyền thảo mộc, Đông sơn ca tửu. Đãi tha niên, chỉnh đốn càn khôn sự liễu, vi tiên sinh thọ”.


Hàng dưới đề rằng: “Đây là bài thủy long ngâm của Tân Khí Tật viết mừng thọ Lưu Lương tiên sinh, Vãn hoa đình Trần Ngọa Tử”. Đường Hiểu Lan thường nghe Châu Thanh nói về chí sĩ hào kiệt của tiền triều, bởi vậy chàng mới biết Trần Ngọa Tử (tức là Trần Tử Long) là anh hùng kháng Thanh cuối thời Minh (chú thích của tác giả: Vào thời cận đại Long Du Sinh biên soạn cuốn “Cận tam bách niên danh gia từ tuyển”, đã xếp từ của Trần Tử Long đến hàng đầu) sau khi Mãn Thanh nhập quan, ông ta cử binh ở vùng Thái Hộ, sự việc bại lộ bị bắt làm tù binh, trên đường bị áp giải về kinh, ông ta nhảy xuống sông tự sát. Đường Hiểu Lan cũng biết sơ qua về thi từ, chàng hiểu đại khái bài từ này có ý thương tiếc cho chuyện nước mất nhà tan, thể hiện chí khí hồi phục lại đất Thần Châu, Tân Khí Tật cũng viết bài này cho người bằng hữu tên gọi Hồng Miễn. Trong bài từ có câu “Văn chương sơn đấu” Trần Tử Long viết “tặng cho Lưu Lương”, vậy Lưu Lương tiên sinh này chắc là một bậc đại nho! Rồi chàng chợt nhớ lại: “Chả lẽ ông ta chính là danh nho Lữ Lưu Lương ở Triết Đông!” sau khi Minh triều sụp đổ, Lữ Lưu Lương từ chối lời mời của nhà Thanh, cạo đầu làm tăng, chuyên viết sách làm thơ, có ảnh hưởng rất lớn. Đường Hiểu Lan lưu lạc trong giang hồ từ nhỏ, chàng không được học hành tử tế, chàng cũng chưa từng đọc qua sách của Lữ Lưu Lương nhưng từ lâu đã hâm mộ ông ta.


Đang lúc suy nghĩ, cánh cửa phòng chợt nhẹ nhàng bật ra, nàng thiếu nữ đêm qua bước vào, nhoẻn miệng cười nói: “Ồ, ngươi đã tỉnh rồi ư?” Đường Hiểu Lan nói: “Đa tạ nữ hiệp cứu mạng, xin thứ tôi không thể hành lễ”. Nàng thiếu nữ cười nói: “Sư phụ của ta đã cứu ngươi, chẳng liên quan gì đến ta. Này, ngươi đừng gọi ta là nữ hiệp, ta vẫn chưa xuất sư! Ngươi cứ gọi ta là Lữ Tứ Nương!” Đường Hiểu Lan chợt giật mình, khẽ kêu lên: “Lữ Tứ Nương? Chả lẽ cô nương là...” Lữ Tứ Nương mỉm cười nói: “Là cháu gái của Lữ Lưu Lương”. Đường Hiểu Lan nhìn nàng sững sờ, không ngờ cháu gái của một bậc đại nho mà có võ công tuyệt đỉnh!


Lữ Tứ Nương khẽ cười: “Tiểu đệ, năm nay ngươi được bao nhiêu tuổi?” Đường Hiểu Lan nói: “Mười sáu tuổi”. Lữ Tứ Nương nói: “Mười sáu tuổi mà có công phu như thế cũng khá lắm, tuổi còn nhỏ mà gan dạ, dám tranh đấu với hai tên ma đầu, chả trách nào sư phụ ta bảo ngươi là nhân tài có thể vun bồi, bởi vậy mới ra sức trị thương cho ngươi. Ta lớn hơn ngươi ba tuổi, ngươi cứ gọi ta là Lữ Oanh tỷ tỷ cũng được”. Lúc này Đường Hiểu Lan mới biết nàng ta tên gọi Lữ Oanh, còn hai chứ “Tứ Nương” có lẽ là vị thứ của nàng trong gia đình, thầm nhủ: “Nàng chỉ lớn hơn mình ba tuổi, mà võ công hơn cả Quan Đông tứ hiệp, Thần Ma song lão, dù mình luyện thêm mười năm nữa cũng chưa chắc theo kịp nàng”. Bất giác thầm hổ thẹn. Lữ Tứ Nương lại nói: “Ngươi có từng đọc sách của tổ phụ ta chưa?” Đường Hiểu Lan hổ thẹn đáp: “Chưa. Nhưng từ lâu đã nghe danh của ngài”. Lữ Tứ Nương lại cười: “Người học võ cũng nên đọc sách, giờ đây ngươi phải học hành cho nhiều vào, ta tặng cho ngươi một quyển ‘Nhượng di lục’ của người”. Đường Hiểu Lan càng áy náy hơn, cúi đầu khẽ nói: “Đa tạ tỷ tỷ!” chàng rất khâm phục Lữ Tứ Nương, chỉ ta nàng như thần tiên, khiến chàng chẳng dám nhìn thẳng vào.


Một hồi sau, lại một giọng già nua vang lên ở phòng bên: “Tên tiểu tử ấy có sao không?” Lữ Tứ Nương trả lời: “Không sao cả!” rồi quay đầu lại nói với Đường Hiểu Lan: “Sư phụ ta gọi ngươi! Ngươi xuống giường thử đi lại xem sao!” Đường Hiểu Lan xuống giường đi mấy bước, chàng cảm thấy người tỉnh táo, chẳng hề đau đớn, cả mừng nói: “Tỷ tỷ, xin hãy dắt tôi đến gặp người”. Phòng bên bài trí tựa như một am đường, bức tượng ở giữa lại được che bằng vải vàng, Đường Hiểu Lan vừa bước vào đã nghe giọng nói quen thuộc gọi: “Hiểu Lan, coi như ngươi đã thoát nạn, hãy mau bước tới ra mắt Thần ni”. Người gọi chàng chính là Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai. Bên cạnh ông ta là một lão ni cụt tay, ngoài ra còn có một ông già lạ mặt. Đường Hiểu Lan bước đến khấu tạ, nhưng chàng không biết pháp hiệu của lão ni cô ấy, bởi vậy không biết xưng hô thế nào. Lão ni mỉm cười: “Ta không có pháp hiệu, còn tên đấy à, đã từ lâu không dùng nữa, trên giang hồ gọi ta là Độc tí lão ni, ngươi cứ gọi ta như thế. Ngươi cũng không cần tạ ơn ta, ngươi phải tạ ơn Liễu đại hiệp, ông ta đã cõng ngươi từ núi Thái Hàng đến đây!” Đường Hiểu Lan lại cung kính dập đầu ba cái trước Liễu Tiên Khai. Liễu Tiên Khai mỉm cười đỡ chàng dậy. Lúc này Lữ Tứ Nương mới quay sang nói với ông già: “Nghiêm thúc thúc từ xa đến đây, chẳng lẽ gia phụ có chuyện gì?” Độc tí lão ni nói: “Nghiêm thúc thúc của ngươi bảo ngươi về”. Lữ Tứ Nương chợt giật mình, ông già họ Nghiêm nói: “Cha của con đã già, gần đây lại bệnh vặt, rất nhớ con”. Độc tí lão ni nói: “Oanh nhi, con đã theo ta chín năm, đã học được nhiều võ công hơn các sư huynh của con, ta cũng không còn gì dạy con nữa. Ngày mai con hãy trở về”. Lữ Tứ Nương rất buồn bã, Độc tí lão ni lại nói: “Trong thiên hạ chẳng có bữa tiệc nào không tàn, con là đồ đệ đắc ý nhất của ta, con phải nhớ kỹ lời dạy của ta. Sau khi về thăm nhà, hãy tìm kiếm tung tích đại sư huynh của con, xem thử y làm người thế nào, nếu y thực sự phản bội sư môn, hãy đem thủ cấp của y về gặp ta!” Liễu Tiên Khai nghe thế cả kinh, ngay lúc này bên ngoài cửa có mấy tiếng hú dài, Độc tí lão ni đứng dậy: “Ồ, bọn họ đã đến!” cánh cửa chầm chậm bật ra, Độc tí lão ni vui mừng nói: “Huyền Phong đạo trưởng, vẫn khỏe chứ!” bên ngoài cửa có bên người đứng sừng sững, đó chính là Huyền Phong, Lang Nguyệt và Trần Nguyên Bá. Huyền Phong vái dài nói: “Nhờ Thần ni giúp đỡ, hai tên ma đầu mới hoảng sợ bỏ chạy, bần đạo xin đa tạ”. Liễu Tiên Khai mới chợt hiểu ra, té ra đại ca kêu ông ta đến Mang Sơn là có ý dụ hai tên ma đầu đến gặp Độc tí lão ni.


Độc tí lão ni dắt Quan Đông tứ hiệp vào am đường, giới thiệu với ông già họ Nghiêm. Người này không phải là nhân vật trong võ lâm mà là môn sinh của Lữ Lưu Nương, cũng là một danh nho ở miền Triết Đông. Mấy mươi năm chuyên truyền bá học thuyết của Lữ Lưu Lương ở miền Đông Nam, ông ta cùng với cha của Lữ Tứ Nương là Lữ Bảo Trung cùng mưu việc kháng Thanh, Huyền Phong đạo trưởng đã từng nghe danh, cung tay cười nói: “Chúng ta một văn một võ, lại cùng chí hướng, lo gì không dựng lại nghiệp xưa cho nhà Hán”. Độc tý thần ni rưng rưng nước mắt, nhìn pho tượng trong Phật đường. Quan Đông tứ hiệp đều biết bà ta là Công chúa tiền triều, lòng đau đớn cho cố quốc, trong nhất thời chẳng nói ra lời.


Một hồi sau, Độc tý thần ni chợt lên tiếng: “Bần ni lòng đạo vẫn chưa sạch, khiến cho đạo huynh chê cười”. Huyền Phong đạo trưởng khẽ ho một tiếng, nói lảng sang chuyện khác: “Mấy năm trước nghe nói Song ma mỗi tên bị què một chân, tôi đoán chắc là do Thần ni”. Độc tí lão ni cười nói: “Ba năm trước tôi vân du đến Bát Đạt Lĩnh, khéo gặp hai tên ma đầu, bọn chúng không biết tiến thối, nhất định đời tỉ thí với tôi. Lúc đó bọn chúng vẫn chưa làm nhiều chuyện ác nên tôi chỉ trừng phạt nhẹ”. Huyền Phong đạo trưởng nói: “May mà Thần ni đã trừng trị bọn chúng chứ nếu không chúng tôi khó tránh độc thủ ở núi Thái Hàng”. Thế rồi kể lại việc hai tên ma đầu nhận lễ vật của Dận Trinh đến núi Thái Hàng giết hại hào kiệt năm tỉnh phía Bắc, Độc tý thần ni nghe thế tức giận nói: “Sớm biết như thế, hôm nay tôi đã không buông tha cho bọn chúng”.


Nói một hồi, Độc tý thần ni lại nói: “Gần đây bốn vị có đến Giang Nam không?” Huyền Phong nói: “Mười năm qua bốn huynh đệ chúng tôi chưa từng vượt qua Trường Giang”. Độc tý thần ni nói: “Nghe nói đại đồ đệ của tôi cấu kết với đạo tặc trong giang hồ gây hại cho khách thương, bốn vị có nghe chuyện này người?” Huyền Phong lắc đầu, Độc tý thần ni nói: “Tôi còn sống, y vẫn còn e ngại, nên tuy không giữ thanh qui của Phật môn nhưng không dám công nhiên làm chuyện xấu, e rằng sau khi tôi chết đi chắc chẳng ai chế phục nổi y”. Huyền Phong nghe xong thất kinh, số là Độc tý thần ni có tám đệ tử, ngoại trừ Lữ Tứ Nương, bảy người kia đều đã xuất sư đi khắp Giang Nam xưng là Giang Nam thất hiệp. Người đứng đầu tên gọi Liễu Ân, là một nhà sư, võ công của Liễu Ân cao cường nhất, đã từng dùng một cây thiền trượng đánh bại mười hai cao thủ, trấn áp khắp cả vùng Giang Nam. Thất hiệp tuy xuất thân từ một môn phái, nhưng võ công bản lĩnh lại hơn kém khác nhau, người xếp hàng thứ bảy tên Cam Phụng Trì tên tuổi lừng lẫy nhất nhưng nội công và ngoại công vẫn còn kém ra xa Liễu Ân. Tiếp theo là người xếp hàng thứ năm tên Bạch Thái Quan, còn Lộ Dân Đảm, Lý Nguyên, Châu Tầm lại kém hơn. Lộ Dân Đảm và Châu Tầm từng đến Quan Đông gặp Huyền Phong, Huyền Phong cũng từng đọ chiêu với họ, không đầy ba mươi chiêu hai người đều bại trận. Lúc đó Huyền Phong còn nghĩ: “Sao đệ tử của Độc tý thần ni lại tầm thường đến thế, chắc Cam Phụng Trì và Liễu Ân tuy danh lừng Giang Nam nhưng bản lĩnh cũng có hạn”. Nay thấy Độc tý thần ni nói thế thì không khỏi nghi ngờ. Độc tý thần ni chỉ Lữ Tứ Nương, mỉm cười nói: “Hôm nay nó thử kiếm, có thể một mình đánh bại Bát Tý Thần Ma coi như cũng được, nhưng phải luyện mấy năm nữa mới khắc chế đại sư huynh của nó”.


Huyền Phong nghe thế càng thất kinh hơn, thấy Lữ Tứ Nương cúi đầu mỉm cười, rõ ràng chỉ là một nàng thiếu nữ vô tư, không dám tin kiếm pháp của nàng lợi hại đến thế. Liễu Tiên Khai nói: “Đại ca, chính Lữ cô nương đã cứu mạng của đệ”. Huyền Phong chẳng thể tin nổi, nói: “Té ra Thần ni chưa ra tay mà hai tên ma đầu đã bỏ chạy”. Độc tý thần ni mỉm cười nói: “Thực ra nó không có được công phu như thế, Đại Lực Thần Ma xông vào vòng chiến, tôi phát hiện bọn chúng mới bỏ chạy”. Bà ta ngập ngừng rồi nói: “Hai năm trước, tôi đã nghe chuyện Liễu Ân không giữ thanh quy, nên đã truyền bộ Huyền Nữ kiếm pháp cho Oanh nhi, nếu sau này hắn làm chuyện càn quấy, Oanh nhi sẽ thay tôi thanh lý môn hộ. Nhưng e rằng công lực của nó vẫn chưa thâm hậu, đến lúc đó mong Tứ hiệp giúp cho một tay”. Huyền Phong vẫn im lặng. Độc tý thần ni lại nói: “Ngày mai Oanh nhi hạ sơn, sau này đi lại trên giang hồ, mong Tứ hiệp nâng đỡ cho”. Quan Đông tứ hiệp kêu không dám liền miệng, Trần Nguyên Bá cười nói: “Nữ hiệp xuống núi sẽ hợp thành Giang Nam bát hiệp, đông hơn chúng tôi đến hai lần, Nam Bắc hô ứng có thể tăng thanh thế cho nhau”. Độc tí lão ni chợt ngậm ngùi nói: “Cũng mong là thế!” Trần Nguyên Bá nghĩ lại mới biết mình lỡ lời, Liễu Ân đã đi vào nẻo tà làm sao có thể tính là một hiệp sĩ, chỉ cười gượng mà rằng: “Đáng tiếc nữ hiệp đến Giang Nam chứ nếu không chúng ta cùng tới kinh sư gây náo loạn Tử Cấm thành!” Lữ Tứ Nương chợt nhướng mày nói: “Rồi sẽ có một ngày như thế!” Quan Đông tứ hiệp nhìn nhau ngạc nhiên, Độc tí lão ni khẽ nói: “Có tráng khí như thế thật đáng mừng nhưng phải cẩn thận”.


Triết Đông danh nho Nghiêm Hồng Quỳ chậm rãi nói: “Điệt nữ, tổ phụ của con viết sách truyền bá phản lỗ dương duy, dựng lá cờ đường đường chính chính, chúng ta phải đuổi người Mãn ra khỏi bờ cõi, e rằng hành vi của Kinh Kha hay Yêu Ly chẳng có ích gì”. Yêu Ly và Kinh Kha là hai hiệp sĩ thời chiến quốc, Kinh Kha hành thích vua Tần, Yêu Ly ám sát Khánh Kị, đó là chuyện Du hiệp được ghi lại từ ngàn năm. Nghiêm Hồng Quỳ nói thế ý như không tán thành thủ đoạn ám sát để giải quyết việc quốc gia đại sự. Huyền Phong nghe thế không vui, lạnh lùng nói: “Chỉ e lời suông của nho sinh chẳng có ích gì!” Lữ Tứ Nương đỏ mặt, khẽ nói: “Đa tạ thúc phụ dạy bảo. Con thấy Thái Sử Công nói có lý, lấy kiến thức của bậc chân nho phối hợp với cái nghĩa của bậc hiệp sĩ, sau đó việc mới thành”. Câu nói Lữ Tứ Nương dẫn ra bắt nguồn từ phần “Du hiệp liệt truyện” trong sách “Sử kí” của Tư Mã Thiên, tức là Thái Sử Công). Nghiêm Hồng Quỳ nghe xong vuốt râu cười: “Té ra mấy năm nay con vẫn không quên đọc sách”. Lữ Tứ Nương nhấp một ngụm trà, khẽ vuốt lọn tóc mai, chợt buồn bã nói: “Tại Khoan đã lớn chưa? Chàng còn học với cha con không?” Nghiêm Hồng Quỳ nói: “Hắn đã cao hơn cha con cả nửa cái đầu! Hắn học hành rất chăm chỉ, sách Chư Tử các gia đều xem qua, xem ra sau này có thể kế thừa y bát của tổ phụ con”. Đường Hiểu Lan ngồi sững ra lắng nghe nhưng không biết Tại Khoan là ai, chàng nghe Lữ Tứ Nương nhắc đến một cách dịu dàng, trong lòng như có luồng điện lướt qua, không biết là cảm giác gì.


Huyền Phong đạo trưởng vỗ vai Đường Hiểu Lan, thở dài nói: “Châu đại hiệp là bằng hữu thân thiết của ta, ông ta gởi gắm ngươi cho ta, ta không thể mặc kệ, nhưng bốn người bọn ta lưu lạc chốn giang hồ, gần đây lại đối đầu với Tứ bối lạc, càng không thể an cư dạy võ nghệ cho ngươi”. Nói đến đây thì ngập ngừng, quay sang Độc tí lão ni nói: “Hắn là hậu duệ của Lăng đại hiệp, hãy nhận hắn làm đệ tử”. Đường Hiểu Lan cả mừng, vội vàng bước tới toan dập đầu, Độc tí lão ni không để chàng dập đầu, đỡ chàng ngồi dậy, bà mỉm cười nói: “Ta đã già nua, sau khi nhận Oanh nhi đã thề không thu nhận học trò nữa. Ở phía Bắc có một vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng, sau Huyền Phong đạo huynh không đưa hắn đến đấy?” Huyền Phong đạo trưởng vỗ tay nói: “Có phải Thần ni nói Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh không?” Độc tí lão ni nói: “Đúng thế”. Huyền Phong nghĩ thầm: “Dương Trọng Anh võ nghệ không kém gì mình, ông ta có thể thoát khỏi hai tên ma đầu có thể nói bản lĩnh cũng rất cao. Ông ta và mình lại có mối thâm cao mấy mươi năm, đưa Đường Hiểu Lan đến gởi gắm cho ông ta chắc là hợp nhất”. Thế rồi nói: “Nếu Thần ni đã không thu nhận học trò nữa, chúng tôi chỉ đành làm phiền Dương lão anh hùng vậy”.


Một đêm trôi qua, sáng sớm hôm sau Quan Đông tứ hiệp và Lữ Tứ Nương xuống Mang Sơn chia thành hai đường, Tứ hiệp dắt Đường Hiểu Lan đến chỗ Dương Trọng Anh, Lữ Tứ Nương và Nghiêm Hồng Quỳ quay về miền Nam, đôi bên giã biệt nhau dưới chân núi, Đường Hiểu Lan chỉ đứng ngẩn ra nhìn bóng dáng Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương vẫy tay nói: “Tiểu đệ, vài năm nữa, ta sẽ đến Đông Bình thăm ngươi!”


Dương Trọng Anh sống ở huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông, huyện này có một hồ lớn tên gọi hồ Đông Bình, nhà họ Dương tọa lạc ở bờ hồ Đông Bình. Hôm nay Đường Hiểu Lan theo Quan Đông tứ hiệp đến Dương gia trang, chỉ thấy đồi núi chập chùng, nước hồ trong vắt, rặng liễu la đà bên bờ hồ, Đường Hiểu Lan chưa vào đến nhà họ Dương mà đã yêu mến nơi này. Lên đến lưng chừng núi, chợt thấy có vài căn nhà trệt xây dựng dựa theo thế núi, dưới rặng cây có một tòa bình đài, trên đài có một thiếu nữ đang luyện võ, tay cầm một cây đạn cung, bắn đạn lên lưng chừng trời, đạn từ cây cung phóng vọt ra va vào nhau trên không trung tựa như sao xẹt. Huyền Phong khen: “Tuyệt kỹ thần đạn, gia học thâm sâu, hổ nữ ở chốn long môn quả nhiên danh đồn không ngoa!” nàng thiếu nữ quay đầu lại, nhìn Đường Hiểu Lan bật cười, nói: “Đêm ấy ngươi có sao không!” Huyền Phong đạo trưởng nói: “Liễu Thanh, con vào bảo với cha có Quan Đông tứ hiệp đến cầu kiến!” nàng thiếu nữ nhảy chân sáo chạy vào nhà. Huyền Phong nói: “Dương Trọng Anh chỉ có một đứa con gái này, ông ta cưng nó như trứng mỏng”.


Liễu Tiên Khai nói: “Tôi nghe bằng hữu võ lâm Sơn Đông nói có một nữ thần đồng tên gọi Dương Liễu Thanh, chắc là thiếu nữ này”. Huyền Phong nói: “Đúng thế, Dương Trọng Anh thích dương liễu nên đặt cho nói cái tên quái dị này”. Khi họ đang trò chuyện, Dương Trọng Anh đã bước ra, lớn giọng nói: “Ngọn gió nào đã thổi các vị đến đây”. Nói xong lại tạ ơn giúp đỡ của Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá, Dương Liễu Thanh đứng bên cạnh cười nói: “Còn có tiểu ca này nữa, đêm ấy y cũng vãi ra một nắm phi mãng, cha cũng nên đáp tạ người ta!” Dương Trọng Anh cười ha hả: “Ta già đến nỗi hồ đồ, vị tiểu ca này phóng ám khí rất khá!” Huyền Phong lại nháy mắt, Đường Hiểu Lan quỳ xuống, dập đầu ba cái, Dương Trọng Anh vội vàng đỡ lên, hỏi: “Thế là sao?” Huyền Phong nói: “Đứa nhỏ này không có chỗ nương tựa, mong lão ca thu nó là đồ đệ”. Dương Trọng Anh nhíu mày, nói: “Vào trong hãy tính!”


Dương Trọng Anh đưa mọi người vào nhà, kéo Huyền Phong sang phòng bên trò chuyện một lúc rất lâu, sau đó mới quay lại nói vớ Đường Hiểu Lan: “Tiểu huynh đệ hãy biểu diễn những công phu đã học cho ta xem thử”. Đường Hiểu Lan tháo cây Du Long kiếm, cúi người hành lễ rồi thi triển Truy Phong kiếm pháp, chỉ thấy ánh kiếm loang loáng, kiếm khí lạnh lẽo. Dương Trọng Anh nói: “Tốt lắm!” Dương Liễu Thanh trố mắt ra nhìn cây Du Long kiếm.


Dương Trọng Anh nói: “Ta nhận ngươi làm đồ đệ!” Đường Hiểu Lan cả mừng, cung kính quỳ xuống hành lễ bái sư. Huyền Phong cung tay chúc mừng Dương Trọng Anh, nói: “Thầy chọn trò, trò cũng chọn thầy, Dương đại ca, đảm bảo huynh sẽ hài lòng với đứa học trò này!” Dương Trọng Anh mỉm cười, rồi nghiêm mặt nói với Đường Hiểu Lan: “Môn phái của ta giới luật rất nghiêm ngặt, giờ đây ta đọc mười hai giới điều cho con nghe, con phải suy nghĩ cho kỹ càng, nếu không chấp nhận được phải lên tiếng cho sớm, ta không ép con”. Đường Hiểu Lan buông tay đứng một bên, nghe ông ta đọc: “Điều thứ nhất không được gian dâm đạo tặc!” Đường Hiểu Lan khẽ gật đầu, Dương Trọng Anh tiếp tục đọc: “Điều thứ hai không được bán bạn cầu vinh, điều thứ ba không được ỷ mạnh hiếp yếu, điều thứ tư không được qua lại với quan phủ, ngươi có chịu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Châu bá bá của con bị triều đình hại chết, con căm hận bọn chúng đến tận xương tủy!” Dương Trọng Anh lại tiếp tục đọc: “Điều thứ năm không được kết bè kết đảng, điều thứ sáu không được say rượu làm điều càn quấy...” ông ta lại đọc tiếp đến điều thứ mười hai: “Điều cuối cùng là quan trọng nhất, không được khi sư diệt tổ! Bất cứ chuyện gì cũng không được giấu sư phụ, tất cả phải nói cho thực, càng không được cấu kết kẻ xấu làm nhục sư trưởng. Những kẻ phạm vào điều này nhẹ thì phế võ công, con có chịu không?” Đường Hiểu Lan chần chừ, Dương Trọng Anh nói: “Ta biết lai lịch của ngươi kỳ lạ, từ nay về sau không được giấu diếm ta chuyện gì!” Đường Hiểu Lan dập đầu nói: “Chuyện xưa cả bản thân con cũng không rõ, từ nay sẽ nghe lệnh ân sư”. Dương Trọng Anh thở dài, nói: “Hãy đứng dậy! Mấy mươi năm qua ta chưa hề thu nhận học trò, từ rày về sau con sẽ là sư huynh của nó! Liễu Thanh, hãy bái kiến sư huynh của con!” Dương Liễu Thanh bĩu môi nói: “Con phải thử chiêu với hắn, nếu hắn thắng được con, con mới gọi hắn là sư huynh!” Đường Hiểu Lan vội nói: “Bản lĩnh của tôi rất kém, làm sao là đối thủ của sư muội... à không, sư tỷ, vả lại tôi nhập môn sau càng không dám nhận”. Dương Trọng Anh trợn mắt nói: “Liễu Thanh, con cứ nói càn không sợ các sư bá cười hay sao? Hiểu Lan, năm nay con được bao nhiêu tuổi?” Đường Hiểu Lan nói: “Mười sáu”. Dương Trọng Anh nói: “Lớn hơn Liễu Thanh hai tuổi, trong môn phái của ta không luận nhập môn trước sau, chỉ phân biệt tuổi tác. Liễu Thanh, hãy đến dập đầu, từ rày về sau phải gọi là sư huynh!” Liễu Thanh thè lưỡi, lẩm bẩm: “Lại phải dập đầu!” Dương Trọng Anh nạt: “Mau dập đầu!” Đường Hiểu Lan vội vàng đỡ dậy, Dương Liễu Thanh giật tay một cái, Đường Hiểu Lan không đề phòng, suýt nữa đã bị nàng quạt ngã, Dương Trọng Anh cười nói với Huyền Phong: “Mong đạo trưởng đừng chê cười, con gái tôi từ nhỏ đã mất mẹ, tôi đã chìu hư nó, năm nay đã mười bốn tuổi mà vẫn còn như trẻ con!” rồi lại quay sang Đường Hiểu Lan nói: “Võ công của bổn môn coi trọng công phu căn bản, ta thấy kiếm thuật của con rất đáng khen, nhưng công phu cơ bản vẫn chưa đủ, bắt đầu từ ngày mai con hãy theo ta học những công phu cơ bản như đứng tấn, hít thở, đẩy tay, cứ tuần tự mà tiến tới, không cần tham nhiều, con đã theo danh sư học võ, vậy có ý kiến gì hay không?” Đường Hiểu Lan chợt nói: “Con muốn ban ngày học võ, ban đêm học văn, đọc thêm nhiều sách vở!” Quan Đông tứ hiệp nhìn nhau ngạc nhiên, người trong võ lâm thu nhận học trò truyền võ nghệ, xưa nay chỉ coi trọng quyền cước binh đao chứ chẳng hề để ý đến chuyện sách vở, vả lại cũng chưa có học trò nào đề nghị như thế, Dương Trọng Anh chưng hửng, rồi bật cười ha hả!


Dương Trọng Anh vuốt râu nói: “Lời của con rất hợp ý ta! Được! Ta rất hài lòng! Huyền Phong đạo huynh, người học võ thường nóng nảy, lúc tuổi thiếu niên khí thịnh, ta đã gây ra không ít bao nhiêu họa. Đứa con gái yêu quý này của ta biết một chút võ công đã ngang ngược, chỉ biết lên ngựa xuống ngựa, múa đao lộng thương, chẳng hiểu lễ nghĩa. Ta thấy sau này nếu muốn kiếm chồng cũng khó. Ta đã sớm muốn nhờ người dạy nó đọc sách. Hiểu Lan muốn học cả văn lẫn võ thật là tốt. Ta có một người đường đệ, tuy thi rớt tú tài nhưng cũng thông hiểu văn chương. Ngày mai ta sẽ nhờ y đến dạy cho sư huynh muội chúng học hành”. Huyền Phong nghe xong, trong lòng cười thầm, nhủ rằng: “Rõ ràng ông đã chìu hư đứa con gái của ông, có liên quan gì đến chuyện học hành”.


Dương Trọng Anh thu nhận học trò vừa ý, trong lòng rất mừng rỡ, nói: “Thanh nhi, con hãy dắt sư huynh đi một vòng xem thử”. Ông ta lại trò chuyện một hồi với Quan Đông tứ hiệp, đến khi Tứ hiệp sắp cáo từ mới tìm Đường Hiểu Lan. Ra sân thì nghe tiếng quyền cước đấm nhau bình bịch, nhìn lại thì thấy con gái của mình múa chưởng như gió, đánh Đường Hiểu Lan thối lui từng bước!


Té ra Dương Liễu Thanh còn tính trẻ con, bái sư huynh mà trong lòng không phục, kéo tay chàng nói: “Này chúng ta hãy ra sân sau chơi!” Đường Hiểu Lan chẳng dám không theo, chàng bước ra sân, Dương Liễu Thanh chợt nói: “Này, cho mượn thanh bảo kiếm xem thử”. Đường Hiểu Lan đang còn chần chừ, Dương Liễu Thanh nói: “Hừ, nhà ngươi thật ích kỷ, ta chẳng cần nữa”. Đường Hiểu Lan đành tháo thanh kiếm đưa tới nói: “Sư muội cẩn thận, cây kiếm này rất bén, coi chừng đứt tay!” Dương Liễu Thanh hừ một tiếng, rút kiếm ra múa một hồi, tuy không nhanh bằng Truy Phong kiếm pháp nhưng kiếm phong cũng phát ra vèo vèo, Đường Hiểu Lan khen: “Sư muội thật giỏi, thập bát ban võ nghệ món nào cũng biết!” Dương Liễu Thanh hừ một tiếng, nghiêm mặt nói: “Ai cần ngươi khen bừa, này, cha của ta bảo kiếm pháp của ngươi rất giỏi, ta muốn dùng đôi chưởng thử lãnh giáo kiếm chiêu của ngươi!” Đường Hiểu Lan vội nói: “Sư muội võ công cao thâm, ngu huynh cam chịu thua, không cần phải thử nữa”. Dương Liễu Thanh nói: “Hãy thong thả đã, ta chưa nói xong, nếu ta thua sẽ, dập đầu trước ngươi ba cái, nếu ngươi thua hãy đưa thanh kiếm này cho ta! Này, trả kiếm cho ngươi!” rồi nàng ném kiếm về phía Đường Hiểu Lan, quát: “Ngươi đã cầm kiếm rồi, thế nào, hãy ra tay đi thôi!” Đường Hiểu Lan lo đến nỗi toát mồ hôi trán, vội vàng xua tay nói: “Không được! Không được!” Dương Liễu Thanh cười lạnh: “Hừ, thì ra ngươi nhát gan đến thế, ngươi sợ phải trao thanh bảo kiếm này cho ta!”


Đường Hiểu Lan vốn là người lanh lẹ, đến lúc này chàng đã bó tay trước nàng sư muội nghịch ngợm, bởi vậy cứ đứng ngẩn ra ở đấy chẳng nói nên lời. Dương Liễu Thanh bước gần tới hai bước, hai chưởng vung lên, nói: “Thế nào?” Đường Hiểu Lan nghiến răng, tra thanh kiếm vào bao, đưa cho nàng nói: “Sư muội, tặng muội thanh kiếm này!” giọng nói rung rung, Dương Liễu Thanh nhíu mày, cười lạnh nói: “Hừ, ai cần ngươi tặng! Hãy mau rút kiếm, nếu ta không nể mặt binh khí của ngươi, ta sẽ dập đầu trước ngươi!” Đường Hiểu Lan thối lui từng bước, nói: “Ngu huynh muôn lần không dám!” Dương Liễu Thanh chợt vỗ vù ra một chưởng!


Đường Hiểu Lan lách người tránh qua nhưng chẳng kịp, má đã bị trúng một chưởng đau nhói, Đường Hiểu Lan chưa bao giờ bị làm nhục đến thế, bất đồ lửa giận bốc cao! Dương Liễu Thanh liên tục vỗ ra mấy chưởng, chưởng nào cũng hung hiểm. Đường Hiểu Lan nhảy nhót né tránh, vai đã bị quét trúng một chưởng, may mà nàng tuổi nhỏ lực yếu chứ nếu không chàng chẳng chịu nổi. Đường Hiểu Lan ném kiếm xuống đất, khẽ ho: “Sư muội, ngu huynh sẽ chìu theo sư muội, nhưng muội cũng phải nương tay!” Dương Liễu Thanh mỉm cười nói: “Được thôi, hãy giở bản lĩnh ra!” thật ra nàng chỉ nghịch ngợm, chỉ muốn trêu đùa chàng mà thôi. Đường Hiểu Lan ngoài mềm trong cứng, bị trúng hai chưởng đã nổi cáu, chàng phất ống tay áo, vỗ liền ra hai chưởng, Dương Liễu Thanh nói: “Chiêu số lợi hại thật!” rồi nàng lách người, lập tức múa chưởng chém vào cánh tay phải của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đẩy chưởng trái lên cao, Dương Liễu Thanh biến chiêu rất nhanh, tay phải đánh một chiêu Kim long thám trảo chụp vào mặt của Đường Hiểu Lan!


Đường Hiểu Lan vốn chỉ muốn dằn mặt nàng để cho nàng rút lui. Không ngờ Dương Trọng Anh được người ta gọi là Thiết Chưởng Thần Đạn, quả thật chưởng pháp cũng rất lợi hại, từ nhỏ Dương Liễu Thanh đã học võ cùng cha, tuổi tuy còn nhỏ mà chưởng pháp đã đến mức thượng thừa. Thấy Đường Hiểu Lan tựa như đã nổi cáu, đánh ra toàn những chiêu số tấn công, nàng cười lạnh mấy tiếng lập tức thi triển thân thủ, lúc công lúc thủ, lúc tiến lúc lui, biến hóa đa đoan, Đường Hiểu Lan hít một hơi, không ngờ chưởng pháp của nàng lại lợi hại đến thế. Hai người quần thảo nhau đến mấy hiệp, Đường Hiểu Lan dần dần chọi không nổi. Dương Liễu Thanh buông tiếng trêu rằng: “Sư huynh, thế nào? Mệt rồi ư? Hãy đưa kiếm cho ta!” Đường Hiểu Lan thấy nàng đanh đá, trong lòng không muốn tặng Du Long kiếm của Châu Thanh cho nàng, nghiến răng chống chọi mấy chưởng, thầm nhủ: “Nhà ngươi chỉ là đứa bé gái, xem ngươi có được khí lực bao lâu. Đánh một hồi ngươi chắc chắn chẳng chịu nổi”. Chàng thay đổi chưởng pháp, giữ kín môn hộ, toan dụ cho nàng hao tổn chân khí, không ngờ đánh đến mấy mươi chiêu mà Dương Liễu Thanh vẫn còn chống chọi nổi, chưởng pháp càng lúc càng hiểm hóc, bốp bốp hai tiếng vang lên, Đường Hiểu Lan lại trúng hai chưởng ở trước ngực, tuy Dương Liễu Thanh tuổi nhỏ sức yếu nhưng chàng cũng thấy đau đớn lạ thường. Đường Hiểu Lan vừa tức vừa lo, liên tục thối lui. Ngay lúc này, Thiết Chưởng Thần Đạn Dương Trọng Anh đã ra tới nơi. Đường Hiểu Lan như trút được gánh nặng, vội vàng nhảy vọt ra, kêu lên: “Sư phụ! Sư phụ!”


Dương Trọng Anh nghiêm mặt mắng: “Thanh nhi, sao lại đánh nhau với sư huynh?” Dương Liễu Thanh cười hì hì nói: “Sư huynh bảo con thử chiêu, cha đã nói rồi kia mà, phải nghe lời sư huynh nên con chỉ đành chìu theo”. Dương Trọng Anh thấy Đường Hiểu Lan đánh rất thật tình, không phải là trò đùa thế là nửa tin nửa ngờ nói với Đường Hiểu Lan: “Sư muội của con tuổi vẫn còn nhỏ, con đừng chìu theo nó!” Đường Hiểu Lan nói: “Là sư muội đã ép con đọ chiêu”. Dương Trọng Anh chỉ cây kiếm ở dưới đất, nói: “Chuyện gì thế?” Đường Hiểu Lan lúng túng nói: “Sư muội thích thanh kiếm này, con vốn muốn tặng...” Dương Trọng Anh chợt nổi cáu, mắng: “Thanh nhi, con càng lúc càng lớn gan, dám giành đồ với người ta. Con có biết lai lịch thanh kiếm này không?” Dương Liễu Thanh khóc òa lên, thút thít nói: “Ai cần thanh bảo kiếm của y?”


Đường Hiểu Lan lúng túng lắm, vội vàng giải thích cho nàng: “Sư muội không đòi, chỉ bảo thích thanh bảo kiếm, muốn dùng tay không đọ chiêu với con”. Dương Trọng Anh thấy má chàng đã xưng vêu lên, hỏi: “Thế là các con đã đọ chưởng?” cả hai người gật đầu, không dám trả lời, Dương Trọng Anh thương yêu con gái, rõ ràng biết nàng không đúng bởi vậy mới không truy cứu nữa, chỉ đành mắng: “Nha đầu ngang ngược, bổn môn coi trọng trưởng ấu tôn ti, hắn tuy mới nhập môn nhưng là trưởng bối của con, hậu bối phải tôn trọng trưởng bối. Từ rày về sau không được bức hiếp trưởng bối, dù sau này đọ chiêu cũng phải dừng lại đúng lúc”. Hai người cúi đầu trả lời: “Vâng”. Đường Hiểu Lan thấy ấm ức lắm, sắc mặt tái xanh. Dương Trọng Anh kéo tay chàng, ôn tồn nói: “Hiểu Lan, sư muội của con vẫn là đứa trẻ, hãy nhường nhịn nó. Quan Đông tứ hiệp sắp ra đi, con hãy dập đầu cáo biệt họ”. Rồi ông ta dắt Đường Hiểu Lan ra ngoài, Quan Đông tứ hiệp thấy má chàng xưng vêu lên, nhìn nhau mỉm cười. Đường Hiểu Lan tạ ơn cứu mạng của Quan Đông tứ hiệp, thút thít nói: “Con từ nhỏ đã mồ côi, được Châu đại hiệp nuôi dưỡng và Phùng sư phụ truyền võ nghệ, hai vị Châu, Phùng đã chết thảm, sư tẩu và điệt nữ của con bị người ta cướp đi, mong Tứ hiệp để ý thăm dò tung tích cứu họ ra”. Huyền Phong cười nói: “Ngươi là đứa trẻ có tình có nghĩa, e rằng bọn ta lực bất tòng tâm, may mà Lữ Tứ Nương đã xuất sơn. Thế này nhé, bọn ta sẽ đến tìm nó, bảo nó giúp con”. Đường Hiểu Lan nghe Huyền Phong nhắc đến Lữ Tứ Nương, trong lòng xao xuyến, vội vàng bái tạ. Thế rồi Quan Đông tứ hiệp giã biệt, Huyền Phong nói: “Vài năm nữa, đợi sau khi con học thành tài, bọn ta sẽ đến đón con”.


Từ đó về sau, Đường Hiểu Lan sống ở nhà họ Dương, ban ngày học võ, ban đêm học văn. Lúc đầu, chàng rất sợ Dương Liễu Thanh gây rối, không biết đối phó với nàng sư muội lợi hại này như thế nào. Không ngờ vì ngày hôm ấy chàng che giấu cho nàng nên đã có thiện cảm với chàng. Tuy vẫn còn ngang ngạnh nhưng không bức hiếp chàng nữa. Thế rồi năm năm trôi qua.


Dương Trọng Anh vốn là Chưởng môn của phái Tung Dương. Phái này là chính tông nội gia, Đường Hiểu Lan học được năm năm, công phu cơ bản đã vững chắc, Truy Phong kiếm pháp cũng đã luyện đến mức tinh diệu tuyệt luân. Khi rảnh rỗi chàng thường đọ chiêu với Dương Liễu Thanh, tuy chưởng pháp và bắn cung, nhưng cũng không đến nỗi không thể chống đỡ như lúc đầu. Còn về chuyện học văn, Dương Liễu Thanh lười biếng, bởi vậy kém xa Đường Hiểu Lan, nhiều lúc phải nhờ chàng làm hộ bài vở. Vì thế Dương Liễu Thanh phải lấy lòng chàng.


Lúc này Đường Hiểu Lan đã hai mươi mốt tuổi, Dương Liễu Thanh cũng được mười chín tuổi. Dương Trọng Anh đã già, nhìn thấy con gái và đệ tử suốt ngày bên nhau, trong lòng nôn nao, ngày nọ ông âm thầm hỏi con gái: “Con cảm thấy Hiểu Lan thế nào?” Dương Liễu Thanh nói: “Chả thế nào cả, cha hỏi để làm gì?” Dương Trọng Anh cười nói: “Nha đầu ngốc, nay con đã không còn bé nữa, cũng đã phải đến lúc tìm nơi chốn. Con cảm thấy nhân phẩm của sư huynh thế nào? Ta thấy hắn rất chân thật”. Dương Liễu Thanh đỏ mặt, giận dỗi nói: “Con chả hiểu nhân phẩm hay chẳng nhân phẩm gì cả, hôm qua y không đọ chưởng lại con!” Dương Trọng Anh mỉm cười, chẳng hỏi tiếp nữa. Ông ta chỉ nghĩ rằng có lẽ con gái thấy võ công của chàng không cao nên không thích chàng.


Chính là:


Như mừng như giận lại như yêu, tâm sư nhi nữ khó đoán dò.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 6 Quả tuệ nhân lan dò lòng thăm tâm sự Một nụ cười mỉm lẽ nào chẳng có tình




Dương Trọng Anh vốn rất thích Đường Hiểu Lan nhưng nghĩ bụng con gái mình không thích chàng nên cũng cho qua. Mặt khác, ông ta lại nghĩ Đường Hiểu Lan rốt cuộc là người lai lịch bất minh, nếu gả con gái cho chàng, trong lòng cũng thấy lo lắng, nhưng ông ta không biết rằng con gái của mình đã yêu thương Đường Hiểu Lan.


Dương Liễu Thanh và Đường Hiểu Lan ở bên nhau năm năm, tuy nàng ngang bướng nhưng Đường Hiểu Lan lại cố chịu đựng nàng, lâu dần nàng cảm thấy không thể thiếu được chàng. Nhưng nàng không biết đó là tình yêu, cho đến khi Dương Trọng Anh nói đến chuyện chung thân đại sự, nàng mới để ý tới. Nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kết hôn, lúc này lòng nàng rối bời như tơ. Bởi vậy nàng mới giả vờ không hiểu ý của cha già, cứ lấp liếm cho qua.


Một chiều nọ Dương Liễu Thanh lòng chứa đầy tâm sự trở về thư phòng, thấy Đường Hiểu Lan đang đọc sách, chỉ cảm thấy mặt nóng ran, tim đập thình thình, muốn ngồi học cùng chàng nhưng chẳng thể nào giằng lòng được, nàng lén nhìn Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đang chăm chú đọc sách, tựa như chẳng biết nàng bước vào, Dương Liễu Thanh giật quyển sách, cười hì hì nói: “Sư huynh, chúng ta leo núi!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên hỏi: “Sao hôm nay lại đòi leo núi?” Dương Liễu Thanh nói: “Muội thích kia mà, huynh có chìu không?” Đường Hiểu Lan cười khổ, gấp quyển sách lại, nói: “Thôi được, nếu muội đã thích, huynh chìu muội”. Dương Liễu Thanh nói: “Huynh đừng rầu rĩ như thế, chúng ta đi bắn chim chẳng vui hơn hay sao”.


Nhà họ Dương lưng dựa vào núi mặt hướng ra hồ, leo lên hậu sơn đứng nhìn ra xa sẽ thấy hồ nước xanh biếc, cây cối xum xuê. Khắp quả núi hoa dại nở rực rỡ. Đường Hiểu Lan lên cao nhìn ra xa, trong lòng thư thái, bao nhiêu nỗi bực bội tan biến. Chim chóc hót ríu rít trên những khóm cây, Dương Liễu Thanh kéo dây cung kêu lên bần bật, hai con hoàng oanh rơi xuống. Đường Hiểu Lan nói: “Chim hót nghe hay thế, sao muội lại bắn chúng?” nếu là bình thường Dương Liễu Thanh đã nổi cáu, nhưng lúc này nàng chỉ mỉm cười: “Tú tài ngốc, lại giảng sách nữa rồi, bổn cô nương cứ thích bắn chim”. Đường Hiểu Lan đang định khuyên nàng, chợt ngừng lại. Dương Liễu Thanh nhìn theo ánh mắt của chàng, thấy trong đám cây um tùm có hai bóng người một già một trẻ cười hì hì nhìn họ bắn chim.


Dương Liễu Thanh thầm giận, nhưng thấy người khách lạ không tiện phát tác, chỉ đành cố nín, cười lạnh nói với Đường Hiểu Lan: “Huynh chưa thấy rõ mà đã trách cứ muội. Lần này muội bắn cho sống chứ không phải bắn cho chết, gãy cánh chứ không rách da, huynh có biết không?” rồi soạt một tiếng, nàng lại bắn rơi một cặp hoàng oanh. Đường Hiểu Lan cúi xuống nhặt lên xem, con chim hoàng oanh dãy dụa trong lòng bàn tay của chàng, chẳng thể đập cánh bay lên nổi. Té ra Dương Liễu Thanh chỉ bắn vào xương cánh của con chim, chỉ cần nó nghỉ ngơi một lát sẽ bay lại. Tuy Đường Hiểu Lan sớm tối bên nàng nhưng vẫn không biết tuyệt kỹ Thần đạn của nàng tinh diệu như thế nào, không những bách phát bách trúng mà dùng lực cũng chính xác. Đường Hiểu Lan tựa thấy mình không thể làm được điều đó.


Dương Liễu Thanh nhìn sắc mặt của Đường Hiểu Lan, biết chàng đã phục, trong lòng rất mừng, lại kéo dây cung, người khách trẻ tuổi đột nhiên nhảy về phía trước một bước, Dương Liễu Thanh đã kéo dây cung căng như trăng đầy, đạn bay ra như sao xẹt, không ngờ viên đạn bay lướt qua, hai con chim hoàng oanh kêu lên một tiếng rồi đập cánh bay lên, đó là chuyện chưa bao giờ xảy ra, Dương Liễu Thanh đỏ ửng mặt, trong lòng rất lấy làm thắc mắc. Đường Hiểu Lan lớn giọng nói: “Thủ pháp của vị khách này rất giỏi!” té ra khi Dương Liễu Thanh bắn chim, người khách trẻ tuổi búng một viên bồ đề tử vào viên đạn của Dương Liễu Thanh. Dương Liễu Thanh đang tập trung tinh thần, không biết chàng ta đang giở trò, Đường Hiểu Lan quen phóng phi mãng, phi mãng là loại ám khí nhỏ hơn cả bồ đề tử, chàng ta chỉ hơi nhúc nhích ngón tay đã nhận ra.


Người khách trẻ tuổi nghe Đường Hiểu Lan nói thế thì nhoẻn miệng cười, đang định lên tiếng, Dương Liễu Thanh đã bắn ra đến bảy tám viên đạn, người khách trẻ tuổi phất ống tay áo, đánh rơi đạn của Dương Liễu Thanh xuống, rồi lại nhảy người lách qua, kêu lên: “Tiểu cô nương thật ngang ngược!” chợt bốp một tiếng, một viên đạn đã bay tới, chàng ta không kịp ngậm miệng, răng đã bị đánh lung lay, chân răng rướm máu. Ông khách già vốn đang đứng xem, lúc đó cũng nhảy tới, đỡ chàng thiếu niên, rung giọng hỏi: “Không sao chứ?” chàng thiếu niên nén đau nói: “Không sao cả!” rồi phun máu ra, may mà răng cửa không bị gãy!


Dương Liễu Thanh thu đạn cung lại, cười lạnh nói: “Bổn cô nương chỉ bắn chim chứ chẳng gây sự với ngươi, cớ sao các ngươi lại giở trò, hừ, ta tưởng ngươi giỏi lắm, té ra chẳng chịu nổi một viên đạn nhỏ!” chàng thiếu niên biến sắc, trong lòng thầm mắng: “Nha đầu ngang ngạnh, không dạy cho ngươi một bài học, ngươi không biết sự lợi hại của ta”. Tuy chàng mắng trong lòng nhưng không dám nói ra. Ông khách già có lẽ là cha của chàng, khẽ thở dài tựa như sợ chàng nổi cáu, đưa tay cản chàng rồi nhảy vọt tới phía trước, ôn tồn nói: “Tiểu cô nương có phải lệnh ái của Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh không?” Dương Liễu Thanh quay đầu không đáp, nàng vẫn chưa hết giận, đang định nói thêm mấy câu nhưng nghĩ bụng: “Ông già này biết tên của cha mình, chắc là bằng hữu của người. Nếu mình trả lời, ắt hẳn chẳng đánh được trận này. Chi bằng cứ mặc kệ họ, chọc giận họ rồi sau đó mình cùng với Đường sư huynh đánh cho họ tơi bời hoa lá”.


Đường Hiểu Lan thấy Dương Liễu Thanh quay đầu không thèm để ý, ông già rất ái ngại, chàng rất lo lắng, khẽ nói với nàng: “Đừng giận, muội có nhớ lời dạy của sư phụ không? Phải tôn kính đối với khách, không nên như thế”. Rồi quay đầu lại nói với ông già: “Xin hai vị bớt giận, chúng tôi là...” Đường Hiểu Lan chưa nói xong, người khách trẻ đột nhiên nổi cáu quát: “Việc quái gì đến ngươi?” ông già nói: “Tích Cửu, đừng làm thế!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên im lặng, chàng thiếu niên mắt như tóe lửa, nhìn chàng như muốn ăn tươi nuốt sống. Đường Hiểu Lan cũng không biết tại sao chàng ta lại nổi cáu với mình như thế? Chính Dương Liễu Thanh đã đả thương chàng ta, còn mình thì tốt bụng khuyên ngăn, chàng ta không nổi cáu với sư muội mà lại mắng mình, thật là vô lý!


Chàng thiếu niên nghe cha nói như thế, lửa giận vẫn chưa tan, nhảy vọt tới, lớn giọng nói: “Ngươi có phải là đệ tử đắc ý của Dương lão quyền sư không? Ta tuy bất tài nhưng cũng muốn được lãnh giáo cao chiêu của đệ tử danh gia!”


Đường Hiểu Lan cố nén giận, nói: “Chúng ta chẳng hề xích mích, cớ gì phải cứ tỉ võ!” Dương Liễu Thanh trợn tròn mắt, quay sang đẩy Đường Hiểu Lan một cái, nói: “Sư huynh, huynh sao thế? Người ta mắng ba đời tổ tông mà huynh vẫn cứ cúi đầu, không sợ người ta cho huynh là đồ vô dụng sao? Hãy mau dạy cho tên tiểu tử này một bài học, nếu không muội chẳng nhận huynh là sư huynh nữa!” người khách già vội nói: “Tôi và Dương lão anh hùng là tri giao nhiều năm, tiểu nhi tính tình nóng nảy, không biết ăn nói đã đắc tội với vị tiểu ca này, tôi xin được chịu lỗi!” Dương Liễu Thanh chen vào nói: “Xin lỗi thì chúng tôi nhận, nhưng các người đã khiêu chiến, không thể không lãnh giáo vài chiêu quyền cước!” lời lẽ của nàng nghe thật hung hăng, ông già nhìu mày thầm nhủ: “Sao con gái của Dương Trọng Anh lại ngang tàng đến thế!” người khách trẻ đã cởi áo ném sang một người, kêu lớn: “Tôi sẽ lãnh giáo vài chiêu với vị tiểu ca này, nếu may mắn đánh thắng, tôi lại sẽ tiếp cao chiêu của cô nương!”


Đường Hiểu Lan bị hai người dồn ép, lại thêm chàng thiếu niên này quá vô lễ, bởi vậy mới nhảy ra, hai tay ôm quyền nói: “Nếu các hạ đã muốn thử chiêu, tiểu đệ đành phải chìu theo!” Người khách trẻ tuổi nói: “Hay lắm, hay lắm!” rồi đánh vù xuống một chưởng, Đường Hiểu Lan chẳng hề nhúch nhích, chờ cho đến khi chưởng của kẻ địch cách vai khoảng một thước, chàng ta mới đột nhiên lách người, chém ngang chưởng lên, hai chưởng giao nhau kêu bốp một tiếng, người ấy bị thối lui đến hai bước. Mấy năm nay võ công của Đường Hiểu Lan tinh tiến, tuyệt kỹ thiết chưởng cũng đã bất phàm, nếu là người khác, đỡ trúng chưởng này sẽ bị gãy tay! Chàng thiếu niên cũng thật ghê gớm, chàng vừa lùi đã tiến lên, đột nhiên tung ra một cước, chưởng trái của Đường Hiểu Lan đánh ra một chiêu Phục Địa Trảm Hổ, chàng thiếu niên thu chân phải lại, chân trái lại tung cước, đòn Liên hoàn cước của chàng hung mãnh lạ thường. Đường Hiểu Lan bất đồ thối lui mấy bước. Dương Liễu Thanh cười lạnh nói: “Công phu chưởng pháp chẳng bằng người ta, thế là phải dùng đến cả đôi chân!” chàng thiếu niên xông về phía trước, hai chân đứng trụ bộ, chưởng trái hộ thân, quyền phải đấm thẳng ra trước ngực, lớn giọng nói: “Ta muốn xem thử uy danh thiết chưởng của nhà họ Dương!” Đường Hiểu Lan đột nhiên xoay người, hai chân vỗ ra, nào ngờ thủ pháp của chàng thiếu niên rất nhanh nhẹn, thượng bàn chẳng hề nhúc nhích, hạ bàn đã thay đổi, đõ hai chưởng của Đường Hiểu Lan rồi liên tục tấn công, chưởng đánh tới mang theo cả kình phong.


Té ra chàng thiếu niên sử dụng Ngũ Hành quyền, chiêu số của Ngũ Hành quyền toàn là tấn công. Khi chàng ta đánh chiêu đầu Đường Hiểu Lan cố gắng chống trả, hai luồng lực chạm vào nhau, lực của chàng thiếu niên kém hơn, người bị đánh thối lui, không thể nào phát ra thế công nữa, buộc phải sử dụng Uyên Ương Liên Hoàn Thoái để trả đòn. Mà Uyên Ương Liên Hoàn Thoái không thể tấn công mãi, bởi vậy mới nhân lúc Dương Liễu Thanh buông lời khích bác, mà thế công của Đường Hiểu Lan cũng chậm lại, đổi dùng quyền thuật của bổn môn. Lúc này chàng ta đã thấy sở trường sở đoản của đôi bên, chàng biết nội lực của mình không bằng Đường Hiểu Lan bởi vậy mới tránh chính diện, chỉ tấn công mặt bên, đồng thời dùng chưởng pháp tấn công như mưa bão khiến Đường Hiểu Lan không thể thi triển công phu thiết chưởng để đánh vào những chỗ yếu hại của chàng. Hai người càng đấu càng hăng, chiêu số Ngũ Hành quyền của chàng thiếu niên toàn là tấn công, chiêu thứ nhất vừa mới đánh ra, chiêu thứ hai đã tới, dùng tự quyết năm chữ “chém, xoáy, bật, tạ, đẩy”, ngũ hành sinh khắc tựa như cuồng phong! Hạ bàn của Đường Hiểu Lan rất vững, quyền nào cũng có lực, trong quyền pháp còn thi triển cả kỹ thuật Cầm Nã để hóa giải, đấu đến khoảng hơn năm mươi chiêu, chàng thiếu niên đột nhiên bổ xuống một quyền!


Lực của quyền này rất mạnh, Đường Hiểu Lan gạt ngang chưởng lên, quyền và chưởng chạm nhau, chưởng tâm đau nhói, Đường Hiểu Lan bạt chưởng một cái, xoáy quyền phải của chàng thiếu niên ra ngoài, thuận thế đẩy tới, chàng thiếu niên chợt xoay người, đánh một chiêu Sư Tử Dao Đầu xoáy chưởng lên mặt kẻ địch, chiêu này được gọi là Xung Thiên Pháo, chuyên đánh vào thượng bàn, Đường Hiểu Lan phất tay đẩy ra ngoài, rồi chàng chợt lộn người quát: “Trúng!” hai chưởng của chàng múa lên như gió, thi triển thủ pháp Đại Cầm Nã thủ, chụp được cánh tay của chàng thiếu niên, không ngờ chàng ta hạ người xuống, thi triển công phu đạn thoái, đá bật vào be sườn của Đường Hiểu Lan! Đường Hiểu Lan kêu lớn một tiếng, hai tay một vặn một đẩy rồi buông ngay ra, ngã ngửa người xuống. Chàng thiếu niên cũng kêu lớn, ngã sấp xuống đất. Dương Liễu Thanh cả kinh thất sắc, liên tục phóng ra mấy viên đạn cứu Đường Hiểu Lan. Ông già cười ha hả, phất ống tay áo, chỉ thấy đạn bay lên chứ không rơi xuống, tựa như đã bị ông ta chụp hết. Ông già chợt vái dài một cái, nói: “Dương đại ca, xin thứ lỗi!” khi Dương Liễu Thanh nhìn lại, chỉ thấy một người lướt tới nhanh như sao xẹt, đó chính là cha của nàng!


Đường Hiểu Lan và chàng thiếu niên cũng đã bật người dậy, hai tay của chàng thiếu niên buông thỏng xuống, miệng rên hừ hừ, còn Đường Hiểu Lan thì thấy đau nhói ở be sườn, cả hai người đều bị đối phương đả thương. Dương Liễu Thanh tay cầm cung, đứng ngẩn qua một bên, Dương Trọng Anh vuốt râu mắng: “Thanh nhi, con lại gây họa ư?” Dương Liễu Thanh không dám đáp, Đường Hiểu Lan đỏ mặt nói: “Không liên quan đến sư muội, chính vị anh hùng này cứ khăng khăng đòi đọ chiêu với đồ đệ”. Chàng thiếu niên ấy thấy Đường Hiểu Lan cứ bênh vực cho Dương Liễu Thanh, không khỏi lại nhíu mày trừng mắt nhìn Đường Hiểu Lan. Ông già đã nhìn thấy điều đó, trong lòng vừa giận vừa buồn cười. Dương Liễu Thanh quay sang người khách trẻ tuổi, vui mừng nói: “Con trai của huynh đã lớn thế này, có phải hắn tên là Trâu Tích Cửu không?”


Đường Hiểu Lan theo Dương Trọng Anh được năm năm, tuyệt kỹ thần đạn cũng có thành tựu, vả lại chàng sử dụng ám khí phi mãng, học được thủ pháp thần đạn?” chàng thiếu niên cúi đầu hành lễ. Ông già nói: “Dương đại ca, hôm nay chúng tôi đến thăm ông!” Dương Trọng Anh cười ha hả: “Võ công của Tích Cửu đã tiến bộ như thế, chiêu đạn thoái lúc nãy của hắn cũng không tệ! Nào, Hiểu Lan, hãy ra mắt vị sư huynh này! Sao hai ngươi vừa mới gặp nhau đã đọ chiêu?” chàng thiếu niên mặt đỏ ửng, nói: “Võ công của Thanh muội rất cao, công phu đánh thần đạn thật giỏi!” Dương Trọng Anh hừ một tiếng, vuốt râu nghiêm mặt nhìn con gái: “Có phải con lại phô diễn thuật bắn đạn cung không?” Dương Liễu Thanh cúi mặt, chàng thiếu niên vội nói: “Không có! Không có!” ông già vốn muốn Dương Trọng Anh dạy cho con gái một bài học, nhưng nghĩ con trai của mình cũng chẳng đúng, muốn nói gì đấy nhưng lại thôi, lúc này thấy Dương Trọng Anh cứ hỏi dấn tới, con trai của mình lại cuống lên, mỉm cười nói: “Không có, không có! Thanh nhi biểu diễn tuyệt kỹ thần đạn bắn gãy cánh vài con chim hoàng oanh”. Dương Trọng Anh mới cười hì một tiếng, lại ôn tồn nói: “Chim hoàng oanh bay trên trời tự do tự tại, có liên quan gì đến con? Sau này con chỉ được bắn những loài mãnh cầm”. Dương Liễu Thanh vâng một tiếng: “Cha nói phải”. Dương Trọng Anh chợt tay trái nắm chàng thiếu niên, tay phải nắm Đường Hiểu Lan, kéo hai người đứng lại với nhau, mỉm cười nói: “Không đánh không quen, huynh đệ các ngươi đã gặp mặt nhau, sau này phải tử tế với nhau! Trâu đại ca, đây là đồ đệ tôi mới thâu nhận, họ Đường tên Hiểu Lan. Hiểu Lan, đây chính là người ta thường nói với con, Tháp Dực Thần Sư Trâu Minh Cao!”


Đường Hiểu Lan vâng một tiếng rồi nói: “Từ lâu đã nghe danh!” Chàng thiếu niên lạnh lùng nói: “Đắc tội, đắc tội!” rồi quay đi chẳng thèm nhìn đến Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan rất lấy làm lạ, không biết mình đã có lỗi gì với chàng ta.


Đường Hiểu Lan không biết rằng hai cha con người này đến câu hôn. Tháp Dực Thần Sư Trâu Minh Cao và Dương Trọng Anh là bằng hữu sinh tử, hơn hai mươi năm trước được người ta gọi là Hà Sóc song hùng. Con trai Trâu Minh Cao là Trâu Tích Cửu lớn hơn Dương Liễu Thanh bốn tuổi, hai người vốn là một cặp thanh mai trúc mã, sống bên nhau vui vầy. Khi Dương Liễu Thanh lên bảy, Trâu Minh Cao có việc phải đi xa, một mình đến Liêu Đông, trước khi đi còn bảo với Dương Liễu Thanh rằng: “Đại ca, hai đứa trẻ này quyến luyến với nhau, tôi không nỡ ra đi!” Dương Trọng Anh nói: “Chừng nào huynh trở về, tôi sẽ gả Thanh nhi cho Tích Cửu!” Trâu Minh Cao nói: “Vậy thật là tốt! Nhưng lần này tiểu đệ xuất quan đối phó với kẻ cường địch của bổn môn, lành ít dữ nhiều, việc nhà khó đoán, nếu may mắn đắc thắng cũng không biết ngày nào trở về uống rượu trò chuyện với đại ca. Nếu lúc này ta đính ước cho hai đứa trẻ, chỉ e ngày sau nếu muộn màng sẽ hỏng cả tuổi thanh xuân của điệt nữ. Chi bằng cứ tạm gác lại chuyện này, đợi đến khi cha con chúng tôi trở về, điệt nữ vẫn chưa hứa gả cho người ta, lúc đó mới nhắc đến!” Dương Trọng Anh nghĩ bụng cũng có lý, vì thế mới gác lại.


Nào ngờ hai người cách biệt đến mười hai năm, Dương Liễu Thanh quên cả diện mạo của Trâu Tích Cửu, Dương Trọng Anh cũng tưởng rằng bằng hữu đã qua đời bởi vậy cũng dần dần quên đi. Không ngờ Trâu Minh Cao vẫn còn nhớ chuyện này, dắt con đến tận nơi tìm. Không ngờ đến hậu sơn thì thấy Đường Hiểu Lan và Dương Liễu Thanh đang thân mật trò chuyện, cả hai cha con đều không khỏi nghi ngờ. Trâu Tích Cửu và Dương Liễu Thanh đều là con một, từ nhỏ được nuông chìu quen, tính tình rất ngang tàng, bởi vậy chàng ta mới trút giận lên người Đường Hiểu Lan.


Lại nói Dương Liễu Thanh bắn trúng Trâu Tích Cửu một viên đạn, trong lòng thấp thỏm không yên, sợ rằng cha mình sẽ trách cứ. Sáng sớm hôm sau, nàng thỉnh an cha, không ngờ cha lại rất vui vẻ, vuốt râu nói: “Thanh nhi, tiểu bằng hữu của con đã đến, sao con không dắt hắn đi chơi?” Dương Liễu Thanh quay đầu, cười khanh khách nói: “Giờ này chẳng phải là tiểu bằng hữu nữa!” Dương Trọng Anh ho khan một tiếng, cười nói: “Đúng thế! Con đã mười chín tuổi! Gần đây Tích Cửu cũng đã có chút tên tuổi. Võ công của hắn cũng đến mức thượng thừa, không biết ý con thế nào?” Dương Liễu Thanh nhíu mày nói: “Cha, cha bảo gì thế?” Dương Trọng Anh nói: “Trâu bá bá muốn cưới con cho Tích Cửu!” Dương Liễu Thanh chợt biến sắc, kêu lớn: “Con không chịu!” Dương Trọng Anh nghiêm mặt nói: “Thanh nhi, con không còn bé nữa, không nên ngang ngạnh như thế, chả lẽ cha phải nuôi con suốt đời sao? Con phải nên hiểu rằng Trâu gia và chúng ta có mối thế giao, Tích Cửu lại cũng không tệ, con có gì không vừa ý?” Dương Liễu Thanh vốn chỉ muốn làm nũng, thấy cha nói nghiêm túc như thế, trong nhất thời không dám nói gì cả. Dương Trọng Anh lại bảo: “Lúc này con không chịu cũng không được, năm con bảy tuổi, cha đã hứa gả con cho người ta!” Dương Liễu Thanh Đảo mắt, chợt nói: “Cha lẫy lừng miền Hà Sóc, nữ tế của cha cũng phải là anh hùng siêu quần bạt tụy!” Dương Trọng Anh mừng rỡ nói: “Đúng thế, nói rất đúng!” Dương Liễu Thanh nói: “Nên con phải tỉ võ trước với y rồi mới nói đến việc hôn sự!”


Dương Trọng Anh ngạc nhiên nói: “Con còn muốn tỉ võ với người ta?” Dương Liễu Thanh cười nói: “Nếu hắn thắng được con, con sẽ tình nguyện làm thê tử của hắn, nếu không thắng nổi, có một nữ tế kém bản lĩnh, cha cũng chẳng thấy vẻ vang gì”. Dương Trọng Anh nói: “Con thật là ngang ngạnh...” nói chưa xong rèm cửa vén lên, cha con họ Trâu bước vào. Dương Liễu Thanh thỉnh an rồi chạy ra ngoài như luồng khói.


Trâu Tích Cửu bị Dương Liễu Thanh đánh hỏng hai cái răng cửa, trong lòng rất bực bội. Sáng sớm hôm nay cùng cha đến thỉnh an Dương Trọng Anh, vừa tới cửa đã nghe Dương Liễu Thanh lớn giọng nói, bất giác ngừng bước, nào ngờ không nghe thì thôi, nghe xong thì sắc mặt thay đổi. Trâu Minh Cao thầm nhủ: “Con gái của Dương Trọng Anh ngang tàng như thế, Tích Cửu cũng phải lộ chút bản lĩnh để sau này dễ quản thúc! Nó là con gái, bản lĩnh dù giỏi hơn cũng không qua Tích Cửu”. Bởi vậy sau khi hàn huyên với Dương Trọng Anh xong, Trâu Minh Cao mới nói: “Đại ca, hôm qua đề thân, đại ca không chê tiểu nhi hèn kém, đã chấp nhận ngay, nhưng con cái chúng ta đều đã lớn, cha mẹ không thể ép buộc, không biết ý định của điệt nữ thế nào?” Dương Trọng Anh ấp úng nói: “Chuyện này... chuyện này...” Trâu Tích Cửu cướp lời: “Bá bá danh lừng Hà Sóc, trong tướng môn chắc chắn phải có hổ nữ, Thanh muội đương nhiên là bậc anh hùng cân quắc, nữ trung hào kiệt. Tiểu điệt không tự lượng sức mình, muốn Thanh muội chỉ điểm vài chiêu, nếu cách nhau quá xa, tiểu điệt cũng chẳng có mặt mũi nào lấy Thanh muội, lúc đó xin mời lệnh ái đặt mối lương duyên khác, chọn người tài ba”. Dương Trọng Anh vừa nghe đã biết những lời của con gái mình đã lọt vào tai họ, vội vàng khuyên lơn: “Thanh muội của con còn tánh trẻ con, không biết nặng nhẹ, hiền điệt bỏ quá cho”. Trâu Minh Cao cười ha hả: “Chúng ta đã là huynh đệ, còn nói thế để làm gì? Tục ngữ nói rất hay, trai tài phải sánh với gái sắc mới là mối nhân duyên tốt”. Dương Trọng Anh trầm ngâm một hồi, thấy Trâu Tích Cửu đang nhấp nhổm chờ đợi, lòng thầm nhủ: “Đứa trẻ này cũng có chí khí, chi bằng cứ để chúng tỉ thí cũng tốt”. Thế rồi mới chấp nhận.


Đường Hiểu Lan nghe cha con họ Trâu đến đề thân, trong lòng mừng rỡ, chàng tuy không ưa vẻ ngang ngược của Trâu Tích Cửu nhưng nghĩ lại hai nhà đã môn đăng hộ đối, vả lại sư muội của mình cũng ngang tàng, hai người có tính cách giống nhau ghép lại có lẽ cũng rất hợp. Bởi vậy chàng mới thành thật chúc mừng sư muội, Dương Liễu Thanh liếc chàng, chợt cười khanh khách: “Sư huynh ngốc, hãy chờ đấy!”


Đêm hôm ấy sân luyện võ nhà họ Dương đèn đuốc sáng trưng, Dương Liễu Thanh mặc bộ đồ chẻn màu xanh nước hồ, eo cột mảnh khăn tay màu đỏ, hớn hở nhảy vào sân. Trâu Tích Cửu thấy thế ngứa ngáy tay chân, thầm nhủ: “Trông bộ dạng nàng như thế, chẳng qua là chỉ muốn tỉ thí công phu với mình trong lòng ắt hẳn đã chấp nhận. Mình phải nương tay với nàng”. Không ngờ hai người ôm quyền lên vái, Trâu Tích Cửu vừa nói: “Thanh muội, mời xuất chiêu”. Dương Liễu Thanh đã vung tay, đánh ra một chiêu Loan Cung Xạ Nguyệt điểm vào ngực của chàng ta.


Chiêu này là một đòn sát thủ lợi hại trong Lăng vân chưởng nhà họ Dương, tựa hư tựa thực, Trâu Tích Cửu kinh hãi kêu lên một tiếng, xoay người tránh liên tục ba chiêu. Dương Liễu Thanh cười lạnh nói: “Đại ca không cần khách sáo!” rồi tay không hề ngừng lại, tiếp tục tiến về phía trước, một chưởng đẩy vào cùi chỏ của Trâu Tích Cửu, bàn tay đột nhiên từ chỏ phải xỉa ra, đánh ra một chiêu Diệp Để Thâu Đào tấn công thẳng vào hông phải của đối phương, chiêu số rất hiểm hóc, tựa như muốn liều mạng với người chứ chẳng phải tỉ võ đọ chiêu! Đường Hiểu Lan kêu ối chao một tiếng, Trâu Tích Cửu lách người, xoay cổ tay lại, uốn mình thành hình cây cung, hai chưởng đẩy bật ra phía trước, chưởng lực nặng như núi, nếu trúng chưởng này Dương Liễu Thanh chắc chắn sẽ ngã chổng vó nhưng Trâu Tích Cửu vừa phát lực ra đã thu lại, còn Dương Liễu Thanh thì lanh lạ thường, tựa đã như sớm biết chàng ta xuất chiêu này nên xoay người quay lưng lại trước mặt đối thủ, chưởng lực của Trâu Tích Cửu chưa tới nàng đã xoay eo lướt qua, phóng vọt lên cao đến năm sáu trượng, đột nhiên hạ xuống sau lưng Trâu Tích Cửu. Trâu Tích Cửu vội xoay người, thò tay chụp tới, bốp một tiếng, vai đã trúng một chưởng. Dương Trọng Anh kêu lên: “Điệt nhi, cứ đánh cho thật lòng, không cần nhường mãi như thế!” Trâu Tích Cửu xoay gót chân, người xoay nửa vòng, vung tay ra chụp cánh tay phải của Dương Liễu Thanh kéo ra ngoài, đang định dùng chân quật ngã nàng, Trâu Minh Cao và Đường Hiểu Lan đều mừng rỡ ra mặt, tưởng rằng Trâu Tích Cửu sẽ thắng chiêu này, không ngờ Dương Liễu Thanh lộn người, giật được cánh tay ra, Đường Hiểu Lan chưa thấy Dương Liễu Thanh thoát hiểm phá chiêu như thế nào mà chỉ nghe Trâu Tích Cửu kêu ối chao một tiếng, vai lại trúng thêm một chưởng!


Trâu Minh Cao nói: “Hai chiêu Huyền Nữ Bài Tụ, Tam Hoàn Sáo Nguyệt của điệt nữ khá lắm!” Dương Trọng Anh nhíu mày nói: “Thực ra công phu của nó kém hơn lệnh lang, chỉ là hiếu thắng không chịu nhận thua, lệnh lang chỉ cần dùng công phu hạ bàn vững chãi đối phó với thân pháp phiêu hốt của nó, không cần nôn nóng tấn công sẽ thắng ngay!” ông ta nói mấy câu này rất lớn, tựa như muốn Trâu Tích Cửu nghe thấy!


Quả nhiên Trâu Tích Cửu chợt đổi chiêu, thượng bàn không nhúc nhích, hạ bàn thay đổi, đánh ra vù vù hai quyền. Công lực của Dương Liễu Thanh vốn không bằng người, nàng thừa cơ tấn công gấp mấy chiêu mà vẫn không tiến tới được, đột nhiên xoay người lướt qua Trâu Tích Cửu, nói bên tai chàng với giọng điệu cực kỳ khinh miệt: “Dù ngươi được người ta chỉ điểm ta cũng đánh ngã ngươi!” lời nói của nàng rất nhỏ, người bên ngoài không nghe, nhưng Trâu Tích Cửu thì như bị người ta lấy dao đâm vào lòng, thế là nổi cáu đùng đùng, thầm nhủ: “Trâu Tích Cửu này tung hoành quan ngoại, ai cũng khen ta là thiếu niên anh hùng, không ngờ ả nha đầu nhà ngươi lại coi thường ta đến thế!” rồi chưởng trái giơ ngang ngực, quyền phải đấm ra, liên tục dùng những chiêu số hung hiểm như Ác hổ đào tâm, Dã mã khiêu giản, Đại mãng thôn ưng. Chàng ta càng đấu càng hăng, quyền đi như gió, mảnh khăn đỏ trên eo Dương Liễu Thanh cũng bay phần phật, cánh tay của Dương Liễu Thanh tựa như bươm bướm xuyên hoa, luồn qua lách lại trong đường quyền phong, Đường Hiểu Lan định thần nhìn lại, Dương Liễu Thanh tuy đánh rất nhẹ nhàng nhưng chiêu nào cũng toàn là sát thủ!


Đường Hiểu Lan thầm kêu: “Không xong!” khi nhìn lại sư phụ, ông ta cũng nhíu mày, thần sắc khẩn trương. Đường Hiểu Lan sợ đến vãi mồ hôi lạnh, hai người trong trường quần thảo nhau đã được hơn năm mươi chiêu, càng đấu càng hăng, chiêu số của Trâu Tích Cửu nhanh tựa như cuồng phong gió bão, thân pháp của Dương Liễu Thanh nhẹ nhàng tựa như chiếc lá rơi, mảnh khăn đỏ cột ở eo tung bay theo gió. Trâu Minh Cao thần sắc vốn nhẹ nhàng, cười nói tự nhiên, thế mà giờ đây đã biến sắc, bất giác cùng Dương Trọng Anh bước gần vào giữa sân.


Chưởng pháp của Dương Liễu Thanh là tuyệt kỹ gia truyền, còn lợi hại hơn cả Đường Hiểu Lan mấy phần. Công phu của Trâu Tích Cửu tuy cao hơn nàng, khí lực tuy mạnh hơn nàng nhưng về chưởng pháp lại kém hơn một bậc. Lại thêm lúc ban đầu trong lòng e ngại, còn nương tay nên thiệt thòi, kê đó lại bị Dương Liễu Thanh nói khích bởi vậy mới nổi cáu, mà khi tỉ võ kỵ nhất là nóng nảy nổi cáu, nóng nảy thì sẽ nhộn nhạo bất an, dễ bị kẻ địch thừa cơ đánh vào, e ngại thì để mất tiên cơ, dễ bị địch khống chế. Trâu Tích Cửu tấn công không được, nhiều lần gặp nguy hiểm, đột nhiên đánh ra một chiêu Ngọc Nữ Đầu Thoa, Dương Liễu Thanh xoay người, lướt ra sau lưng của chàng ta, nhân lúc Trâu Tích Cửu chưa kịp biến chiêu, hai tay đã vận lực đẩy vào lưng của chàng ta một cái, Trâu Tích Cửu cảm thấy gió quét vào người, toan phóng về phía trước thì sợ nàng đuổi theo, nếu nàng đẩy thêm một cái nữa mình chắc chắn sẽ té chổng vó, muốn nhảy lướt sang bên cạnh thì lại sợ nàng mượn thế đánh vào chỗ trống của mình. Trong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt ấy, Trâu Tích Cửu chẳng kịp suy nghĩ gì nữa, giở chưởng phải giật ra ngoài, quyền trái đấm thẳng vào mặt Dương Liễu Thanh. Đường Hiểu Lan thấy thế kinh hãi, lúc nãy chàng sợ Trâu Tích Cửu đổ máu nhưng giờ đây lại sợ sư muội bị thương, chàng chưa kịp nói: “Trâu huynh nương tay!” hai ông già đã kêu hoảng, Trâu Minh Cao run giọng nói: “Chúng tôi nhận thua, cô nương không cần đuổi tận giết tuyệt!”


Dương Trọng Anh vội vàng kêu: “Thanh nhi, không được làm càn!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, chợt nghe rắc một tiếng, còn Trâu Tích Cửu kêu lên như lợn bị chọc tiết, ngã xuống đất lăn lộn, Trâu Minh Cao đỡ chàng ta dậy, mặt biến sắc, khớp tay phải của Trâu Tích Cửu đã gãy lìa, cánh tay sụi xuống, đau đến nỗi mồ hôi rơi xuống từng giọt, trán nổi gân xanh. Té ra nhân lúc chàng ta sử dụng hiểm chiêu, Dương Liễu Thanh ra đòn sát thủ, nàng chém thẳng chưởng vào cổ tay của chàng ta, thuận thế ném ra ngoài, thiết chưởng của Dương gia đâu phải tầm thường, Trâu Tích Cửu bị trúng một chưởng vào khớp, Dương Liễu Thanh lại vặn ra ngoài một cái nữa. Trâu Tích Cửu rên rỉ nói: “Cô nương, ngươi giỏi lắm!” Trâu Minh Cao chẳng nói một lời, đỡ cánh tay của chàng rồi xé tà áo băng vết thương. Dương Trọng Anh trừng mắt bước tới giở chưởng đánh xuống thiên linh cái của con gái, mắng rằng: “Ta phải phế võ công ả nha đầu ngang ngạnh!” ông ta giơ cao thiết chưởng, chưa kịp hạ xuống, Trâu Minh Cao đã vội vàng nhảy tới kêu: “Đại ca, chỉ trách tiểu nhi học nghề chưa tinh, hắn tuy chịu một chưởng của tiểu điệt nhưng vẫn chưa bị tàn phế, tôi có thể nối gân tiếp cốt, đại ca đừng lo lắng! Còn việc hôn sự, chúng ta không cần nhắc đến nữa, để tiểu nhi khổ học thêm mười năm, lại đến thỉnh giáo điệt nữ!” Dương Trọng Anh nghe lời lẽ của ông ta trong mềm có cứng, biết rằng ông ta chắc tức giận đến cùng cực, chỉ biết đứng ngẩn tại chỗ!


Dương Trọng Anh không ngờ tình nghĩa bao nhiêu năm lại ra nông nỗi này, trong lòng chua xót, đang định nói lời tạ lỗi, Trâu Minh Cao chợt vác đứa con lên lưng rồi chạy như bay, Dương Trọng Anh đứng sững sờ, muốn đuổi theo mà hai chân cứ bủn rủn, chỉ nghe Trâu Minh Cao nói: “Tình nghĩa của chúng ta vẫn còn, chuyện con cái xin đừng nhắc đến nữa!” hai người chạy xuống sườn núi, trong chốc lát đã mất dạng.


Dương Trọng Anh giận đến tái xanh mặt, mắng con gái: “Nha đầu ngang ngạnh, theo ta!” Đường Hiểu Lan lo lắng đi phía sau, chàng sợ sư phụ nổi cáu đến nỗi phế võ công của sư muội, bởi vậy mới định đi theo khuyên giải cha con họ. Không ngờ Dương Trọng Anh trừng mắt, mắng: “Hiểu Lan, đi theo làm gì? Không liên quan đến ngươi, ra ngoài”. Đường Hiểu Lan thấy mặt nóng bừng, ngẩn người ra rồi lớn giọng nói: “Sư muội lần đầu tiên tỉ võ, vô tình đã mạnh tay, mong sư phụ niệm tình phạt nhẹ”. Dương Trọng Anh hừ một tiếng, chợt thấy lòng chua xót, phẩy tay nói: “Ngươi hãy ra ngoài, ta biết tính toán!”


Dương Liễu Thanh thấy cha mình như thế, không dám tỏ vẻ ngang ngạnh như bình thường nữa, theo ông ta bước vào thư phòng quỳ xuống, Dương Trọng Anh nói: “Nha đầu ngang ngạnh, ngươi có biết lỗi chưa? Đã nói là chỉ tỉ võ đọ chiêu, tại sao ngươi lại ra đòn sát thủ? Dương Liễu Thanh thút thít nói: “Y cũng ra đòn sát thủ, lẽ nào cha không thấy?” Dương Trọng Anh tức giận nói: “Ngươi còn già mồm cãi cố, nếu ngươi không ép, sao người ta lại mạnh tay với ngươi?” Dương Liễu Thanh chợt nói: “Con không muốn lấy y!” Dương Trọng Anh chưng hửng, vuốt râu nói: “Ồ, té ra là thế!” Dương Liễu Thanh nói: “Con định nói từ đầu nhưng lại sợ cha nổi cáu, bất đắc dĩ mới đòi tỉ võ đọ chiêu với y!” Dương Trọng Anh nói: “Nhưng bình thường ta dạy ngươi thế nào?” Dương Liễu Thanh quỷ phục xuống đất, chợt khóc òa lên: “Cha cứ việc xử phạt con, dù bị phế võ công con cũng không trách. Con chỉ trách mẹ mất quá sớm, chẳng có người dạy dỗ, nay gây chuyện khiến cha già nổi giận”. Từ nhỏ Dương Liễu Thanh đã mồ côi mẹ, do một tay cha nuôi lớn thành người, nay Dương Trọng Anh vừa nghe con gái nhắc đến mẹ, bất giác thương cảm, nghĩ lại mình cũng đã quá nuông chìu con gái khiến tính tình nó ra nông nỗi thế này, đó cũng là điều không đúng của mình, bất giác thở dài nói: “Con biết thế thì tốt!” Dương Liễu Thanh thấy cha già nói giọng ôn tồn, nét mặt giãn ra mới yên lòng. Dương Trọng Anh thấy con có vẻ ấm ức, phất tay nói: “Con đứng dậy, cha hỏi con, tại sao con không chịu lấy Tích Cửu, con không thích điều gì? Nếu nói đến võ công, chả lẽ con ngốc đến nỗi không nhận ra ngay từ ban đầu hắn đã có ý nhường nhịn, công lực lại cao hơn con sao?” Dương Liễu Thanh lau nước mắt, chợt bật cười nói: “Chả lẽ cha không biết trong lòng con đã có người khác sao?” Dương Trọng Anh mở to mắt, đang định hỏi, Dương Liễu Thanh đã che mặt chạy ào ra ngoài.


Dương Liễu Thanh sợ cha già buộc mình lấy người khác, chẳng còn hổ thẹn nữa, đánh liều nói ra tâm sự, điều đó khiến Dương Trọng Anh vừa kinh vừa mừng, ông ta đi đi lại trong thư phòng một hồi thì đã đoán ra.


Dương Trọng Anh thầm nhủ: “Té ra nha đầu yêu Hiểu Lan, lúc đó không dám nói rõ, đến giờ đây lại xảy ra chuyện khiến mình không biết nói thế nào với bên Cao lão đệ!” rồi chợt ông ta lại nghĩ: “Hiểu Lan cũng khá lắm, ngoại trừ lai lịch bất minh, chẳng có thứ gì thua Tích Cửu”. Trong nhất thời suy nghĩ dâng trào, ông vốn muốn buộc Dương Liễu Thanh đến chịu tội với cha con nhà họ Trâu, nhưng nghe con gái thổ lộ tâm sự, chỉ e rằng sau này bốn mặt gặp nhau lại sẽ càng khó ăn nói hơn. Ông ta ngẩng đầu nhìn bức họa của vợ mình trên vách, lại thở dài đột nhiên vạch rèm ra tìm Đường Hiểu Lan.


Lại nói Đường Hiểu Lan bên Dương Liễu Thanh năm năm trời, tuy biết nàng tính tình ngang ngược mà vẫn có thể chìu được, nhưng trong lòng chàng rất bực bội, chưa từng nghĩ đến chuyện yêu đương. Còn đối với Lữ Tứ Nương, tuy chàng chỉ mới gặp một lần nhưng tình yêu đã nảy nở. Lữ Tứ Nương có vẻ phóng khoáng, lời lẽ chính chắn, năm năm qua hình bóng của nàng vẫn trong lòng chàng, có điều Lữ Tứ Nương võ công cao cường, thông hiểu thi thư, Đường Hiểu Lan coi nàng như thần tiên, rất ngưỡng mộ nàng, không hề có ý dám trèo cao, tự dặn mình cứ chôn vùi thứ tình cảm ấy trong lòng! Dương Trọng Anh cũng không ngờ rằng, chàng ta lại có lắm tâm sự như thế.


Vầng nguyệt đã lên đến gần giữa trời, đêm khuya lạnh lẽo, Dương Trọng Anh tìm đến thư phòng của Đường Hiểu Lan nhưng không thấy ai cả, Dương Trọng Anh bật cười: “Mình thật quá nóng lòng, lúc này hắn đã ngủ sớm, còn ở thư phòng làm gì nữa? Thôi, cứ để ngày mai nói cũng không muộn”. Đang định lui ra, chợt thấy trên bàn có một tờ giấy, dấu mực trên tờ giấy vẫn còn mới lắm, ông ta tò mò thầm nhủ: “Không biết thằng bé học hành thế nào?” rồi thuận tay cầm luôn tờ giấy. Lão sư dạy chữ ở phòng bên, trong phòng đèn vẫn còn sáng. Dương Trọng Anh bước vào. Thấy Dương Trọng Anh hỏi chuyện học hành của Đường Hiểu Lan, lão sư mỉm cười nói: “Thằng bé này thông minh hơn người, chỉ trong vòng năm năm ngắn ngủi mà đã thuộc làu kinh sử thi từ. Tuy không thể thành danh nho nhưng cũng có thể là người thông hiểu chữ nghĩa”. Dương Trọng Anh lấy tờ giấy ra, nói: “Đệ hãy xem hắn viết gì đây? Ta thấy thơ mà không phải thơ, hãy cắt nghĩa ta nghe thử”.


Vị lão sư cầm tờ giấy, té ra đó là một bài từ dài, tựa đề của bài từ là “Bách tự lệnh”, toàn bài từ chỉ có một trăm chữ, rằng:


“Phiêu bình quyến lữ, toán mang mang nhân hải. Bằng hữu tri phủ? Kiếm tráp thi nang trường tác bạn, đạp phá vãn phong triều lộ. Trường tiêu xuyên vân, cao ca tán vụ, cô nhạn lai hoàn khứ! Minh âu xã yến, tuyết nê hồng trảo vô cứ!


Vân sơn mộng ảnh mô hồ, nhũ yến tầm sào, hựu cụ trọng liêm trở! Lộ bạch hà thương trường đoạn ái, khước thanh hà nhân truyền ngũ: Tiêu đồng độc bão, Nghê Thường tế phổ, Vọng đoạn thiên nhai lộ! Tố Nga thanh nữ, tiên tông thậm nhật trùng ngộ?”


Lão sư say sưa ngâm nga, ban đầu thì mặt vui mừng, kế đó lại buồn bã, cuối cùng trầm ngâm không nói. Dương Trọng Anh hỏi: “Sao thế? Hắn viết gì?” lão sư thở dài: “Tôi sợ rồi đứa trẻ này sẽ đi vào nẻo ma!” Dương Trọng Anh kinh hãi nói: “Có phải đứa trẻ này có tâm thuật bất chính không?” lão sư lắc đầu: “Không phải!” té ra Đường Hiểu Lan nhớ Lữ Tứ Nương nên đã viết bài từ này, bài từ này miêu tả thân thế và tâm sự buồn bã của chàng, đồng thời thể hiện tâm trạng sùng bái đối với Lữ Tứ Nương. Lão sư không biết nỗi lòng của chàng, chỉ cảm thấy từ ý u oán, người mà bài từ nhắc đến thấp thoáng mong manh tựa như một nàng tiên nữ. Vì thế ông ta mới nói: “Nói ra cũng chẳng có gì lạ. Quan quan thư cưu, quân tử háo cầu, bài từ này thể hiện tình cảm nhớ nhung của hắn đối với một người, xuất phát từ tình cảm nhưng dừng lại ở lễ giáo. Cũng không thể nói đó là điều xấu”. Dương Trọng Anh nói: “Vậy tại sao hắn sẽ đi vào nẻo ma?” lão sư nói: “Ý của bài từ cho thấy hình như ý trung nhân của hắn rất khó hợp với hắn, hắn xem nàng ta như tiên nữ trên trời! Trong bài từ còn dùng điển tích Lộ bạch hà thương trong Tần Phong của Kinh thi...” Dương Trọng Anh cắt lời: “Bài thơ này nói gì?” lão sư nói: “Bài thơ này vốn là dân ca của nước Tần thời Xuân Thu, nên được gọi là ‘Tần phong’, bài ca rằng: ‘Kim gia thương thương, bạch lộ vi sương, sở vị y nhân, tại thủy nhất phương, tố hồi tùng chi, đạo trở thả trường, tố du tùng chi, uyển tại thủy trung ương.


(Dịch nghĩa: Lau lách rườm rà xanh tốt, móc trắng làm sương, người mà mình nói đến, thì ở một phương nào của vùng nước mênh mông. Đi ngược dòng mà theo cùng, đường đi hiểm trở lại xa dài, đi xuôi dòng mà theo cùng, thì thấy nghiễm nhiên ở vùng nước mênh mông ấy. Dịch thơ: Lau lách xanh tươi và rậm rạp, móc làm sương phủ khắp mọi nơi. Người mà đang nói hiện thời, ở vùng nước biếc cách vời một phương, ví ngược dòng tìm đường theo mãi, đường càng thêm trở ngại xa xôi, thuận dòng theo đến tận chân trời, giữa vùng nước biếc, thấy người ở trong. – Theo bản dịch của Tạ Quang Phát) nói tóm lại chàng ta có tình cảm với nàng thiếu nữ nhưng chẳng thể nào đến gần nàng được, e rằng tương tư đơn phương thành bệnh tẩu hỏa nhập ma, chỉ e có hại suốt đời!” Dương Trọng Anh lại hiểu theo ý khác, ông ta đột nhiên mỉm cười, thầm nhủ: “Té ra Hiểu Lan cũng thương mến Thanh nhi, hắn thấy Thanh nhi ngang ngược, tưởng rằng chẳng còn hy vọng gì nên mới viết bài từ như thế”. Vì thế nói: “Tiên sinh không cần lo lắng, hắn chẳng phải nhớ nhung đơn phương!” rồi vạch rèm bước ra.


Đêm hôm ấy Đường Hiểu Lan cũng trằn trọc, chàng nhớ đến Lữ Tứ Nương, lại nhớ đến Dương Liễu Thanh, không khỏi cười thầm. Chàng nghĩ: “Võ công của Lữ Tứ Nương cao hơn Dương Liễu Thanh rất nhiều nhưng nàng dịu dàng dễ gần gũi, còn Dương Liễu Thanh thì ngang ngược phóng túng”. Chuyện ban ngày hiện lên trong lòng chàng, chàng thấy nàng đối với Trâu Tích Cửu quá nặng tay, không khỏi lạnh mình, suốt đêm chỉ nằm toàn ác mộng.


Sáng sớm hôm sau, Dương Trọng Anh đã kêu Đường Hiểu Lan, hỏi phủ đầu ngay: “Hiểu Lan, con đã ở đây năm năm, giờ đã thành người lớn, cũng nên đến lúc thành gia lập thất. Khi Huyền Phong dắt con đến đây, đã từng bảo con là một cô nhi, vậy chắc là con vẫn chưa định hôn sự?” Đường Hiểu Lan kinh hãi, đáp: “Thưa chưa!” Dương Trọng Anh cười ha hả: “Vậy con có thấy ai hợp ý chưa?” Đường Hiểu Lan đỏ mặt lắc đầu, Dương Trọng Anh nói: “Thầy cũng như cha, con hãy nói đừng ngại!” Đường Hiểu Lan ấp úng nói: “Thưa chưa có!” Dương Trọng Anh nói: “Người trẻ tuổi quả nhiên hay e ngại”. Rồi lấy bài từ ra, đưa cho chàng bảo: “Chả lẽ đây không phải con viết?” Đường Hiểu Lan đỏ mặt, đang định giải thích, Dương Trọng Anh chợt nói: “Thanh nhi cũng nghĩ như con, lúc đầu ta không hiểu, nếu hai con đã có ý, ta sẽ phái người tìm Huyền Phong đạo trưởng nhờ ông ta làm chủ hôn nhà trai, để các con sớm nên đôi lứa, ta cũng có thể yên lòng”. Đường Hiểu Lan nghe mà như sấm nổ giữa trời xanh, chẳng nói được nửa lời!


Dương Trọng Anh thấy Đường Hiểu Lan chợt biến sắc, cúi đầu không nói, tưởng rằng chàng ta còn e ngại, mỉm cười bảo: “Trai khôn lấy vợ gái lớn lấy chồng, đó là chuyện lớn trong đời người, có ta làm chủ cho các con, còn ngại gì mà không nói?” Đường Hiểu Lan chợt khẽ nói: “Đệ tử học nghề chưa thành, không dám có ý thành gia lập thất, cũng không dám trèo cao cùng sư muội!” Dương Trọng Anh lại mỉm cười nhìn bài từ trên tay chàng, Đường Hiểu Lan chợt ngẩng đầu, bạo dạn nói: “Con không hề có ý gì với sư muội!”


Câu trả lời này khiến Dương Trọng Anh bất ngờ, thấy chàng ta nghiêm túc như thế lại không có vẻ gì xấu hổ, ông ta mới khẽ ho hai tiếng, chợt nghiêm mặt nói: “Khi con mới vào sư môn, đã từng thề tuân theo mười hai giới điều con có nhớ mười hai giới điều này không?”


Đường Hiểu Lan quỳ xuống, buông tay nói: “Thưa nhớ!” Dương Trọng Anh nói: “Điều cuối cùng là gì?” Đường Hiểu Lan nói; “Không được khi sư diệt tổ!” Dương Trọng Anh nói: “Giải thích thế nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Bất cự chuyện gì cũng không được giấu sư phụ, tất cả đều phải nói thật, càng không được cấu kết với người ngoài ô nhục tôn trưởng, kẻ phạm vào điều này nhẹ thì bị phế võ công, nặng thì ngũ mã phanh thây!” Dương Trọng Anh nói: “Đúng thế! Vậy ta hỏi con, có phải ý của bài từ này là nhung nhớ một thiếu nữ hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thưa phải!” Dương Trọng Anh nói: “Vậy con nhớ nhung ai?” Đường Hiểu Lan đỏ ửng mặt, khó khăn lắm mới rặn mấy tiếng: “Không phải sư muội!” Dương Trọng Anh tiu nghỉu ngồi xuống, phẫy tay nói: “Con ra ngoài đi!”


Đường Hiểu Lan lủi thủi chạy ra ngoài, leo lên hậu sơn nhìn trời cao núi xanh, nước hồ trong vắt, trong lòng thầm than: “Ở đây phong cảnh tuy đẹp nhưng không thể ở lâu được nữa!” chàng nhớ lại bộ dạng ngang ngược của sư muội, trong lòng thầm rùng mình, chàng biết Dương Liễu Thanh hễ muốn là phải đòi bằng được chứ nếu không chẳng chịu ngừng! Có điều chàng làm sao dám lấy một người như thế làm vợ? Đêm đó chàng suy đi nghĩ lại, cuối cùng nửa đêm thu dọn hành trang rồi len lén bỏ đi!


Lại nói sau khi Dương Liễu Thanh thố lộ tâm sự với phụ thân, lại vừa hổ thẹn, vừa mừng rỡ, nàng nghĩ cha mình xưa nay rất yêu thương mình, chắc chắn sẽ nói với sư ca, sư ca chắc sẽ vui mừng! Nàng đâu biết rằng Đường Hiểu Lan chẳng hề yêu nàng. Ngày hôm đó nàng vì e thẹn, cố tình tránh mặt Đường Hiểu Lan, định rằng đợi cha mình nói chuyện với sư ca rồi sẽ đến báo với nàng, ai ngờ suốt ngày chẳng thấy cha đâu. Đêm ấy nàng trằn trọc chẳng yên giấc, đến khi trời sáng nàng không kìm được nữa, vội vàng đi kiếm cha. Dưới giàn hoa trường vi trong vườn, chỉ thấy cha một mình đi lại, sắc mặt tiều tụy, không khỏi kinh hãi nói: “Cha bị bệnh sao?” Dương Trọng Anh thở dài: “Hiểu Lan bỏ đi rồi!” Dương Liễu Thanh kêu lên: “Thật ư?” Dương Trọng Anh lấy một bức thư ra, đưa cho nàng: “Con hãy tự xem!” quả nhiên là bút tích của Đường Hiểu Lan, trong thư viết rất rõ ràng, trước tiên cảm tạ ơn dạy dỗ năm năm của sư phụ, kế đó khéo léo từ chối hôn sự, Dương Liễu Thanh đọc xong, bất giác trừng mắt nói: “Cha, con tìm y trở về!” Dương Trọng Anh nói: “Con khờ của cha, người ta đã không muốn, con còn ép người ta làm gì?” Dương Liễu Thanh cắn môi nói: “Con đâu có ép y? Chẳng qua con không muốn ở nhà mà thôi!” Dương Trọng Anh thở dài nói: “Thế cũng được”.


Chính là:


Tơ tình buộc nhầm chỗ, thương yêu hóa kẻ thù.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 7

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 7 Rồng ẩn phố chợ thái hoa tặc là ai Thuyền cá dấu ngọc lướt sóng tìm bóng nàng




Hơn một tháng sau, ở bến Hoàng Hải tại bán đảo Sơn Đông xuất hiện một chàng thiếu niên phong trần, tai nghe sóng biển vỗ bờ, mắt nhìn bóng buồm xa xa, lòng sinh cảm khái vô cùng. Người ấy chính là Đường Hiểu Lan. Sau khi chàng rời khỏi nhà họ Dương, vốn là muốn vào kinh tìm tung tích sư tẩu Quảng Luyện Hà, nhưng thấy võ công của mình còn kém xa Thần Ma song lão, sợ rằng đến kinh thành, bị Huyết Trích Tử phát hiện, lúc đó cứu người không xong trái lại đã mất mạng, chàng suy đi tính lại, rốt cuộc đã đổi hướng. Chàng không bằng hữu cũng chẳng người thân, chỉ có Huyền Phong đạo trưởng là bằng hữu của Châu Thanh vả lại Quan Đông tứ hiệp đã từng hứa cứu mẹ con Quảng Luyện Hà, lời hứa của bậc hào hiệp như sắt đá, bởi vậy Đường Hiểu Lan mới muốn đi vòng qua bán đảo Sơn Đông đến Bột Hải, từ đó tới Liêu Đông tìm Quan Đông tứ hiệp.


Hôm nay chàng đã đến Thanh Đảo, đưa mắt nhìn trời cao, trong lòng thấy thư thới, chàng chưa bao giờ ra biển, bất giác thấy sao biển đẹp lạ lùng, thế là một mình bước đến tửu lâu, kêu một bình rượu, chọn chỗ ngồi gần cửa sổ vừa uống rượu vừa ngắm biển. Đang lúc ngắm say sưa, chợt nghe tiếng ồn ào, khi nhìn lại thấy một toán lính bước lên lầu. Đường Hiểu Lan trấn tĩnh, muốn tìm lời ứng phó với toán quan sai này, không ngờ bọn chúng hỏi chàng rất tỉ mỉ, không những hỏi lai lịch họ tên mà còn hỏi Đường Hiểu Lan có bằng hữu hay người thân ở Thanh Đảo hay không, Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chỉ là người qua đây, làm sao có bằng hữu?” một tên tính cười lạnh nói: “Ngươi nói là tú tài ở huyện Đông Bình, muốn đến Liêu Đông thăm người thân, nhưng khẩu âm rất khác lạ, ai dám đảm bảo ngươi không nói dối! Này! Bằng hữu, ngươi đến đây làm gì?” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chẳng làm gì cả!” một tên quan sai vung sợi thiết liên tròng vào cổ Đường Hiểu Lan, quát: “Ngươi theo bọn ta về phủ hãy nói!” Đường Hiểu Lan lách người qua, tên quan sai mất đà bổ tới, quát: “Giỏi lắm, ngươi dám chống cự!” rồi rút ra cây xích đao bổ xuống đầu chàng ta, Đường Hiểu Lan định ra tay, chợt nghe quát: “Khoan đã!” một chàng công tử trẻ tuổi phe phẩy quạt nhảy vọt tới, chặn giữa hai người, tên quan sai quát: “Ngươi là ai?” rồi vung tay ra toan tóm lấy chàng ta, chợt cảm thấy cổ tay đau nhói, bên cạnh lại có một hán tử cao lớn kéo y, quát: “Ngươi muốn chết!” chàng công tử trẻ tuổi mỉm cười: “Buông y ra!” bọn quan sai vội xúm tới, chàng công tử trẻ tuổi trừng mắt, hỏi: “Ai là bổ đầu?” hai mắt của chàng ta như có điện, giọng nói tuy không cao nhưng uy nghiêm vô hạn, khiến người ta không lạnh mà run. Tên quan sai hoảng đến thối lui mấy bước, một viên bổ đầu bước tới nói: “Tên này thô lỗ, mong công tử đừng trách! Xin hỏi công tử là ai? Có quan hệ gì đến bằng hữu này?” Viên bổ đầu già này vừa nhìn đã đoán được chàng ta là con nhà quyền quý bởi vậy mới dám bá đạo đến thế. Nào ngờ người ấy cười lạnh, nói: “Ngươi không xứng hỏi gia thế của ta!” rồi bật cây quạt ra, từ tốn quạt trước mặt y hai cái.Tên bổ đầu biến sắc, quỳ sụp xuống dập đầu nói: “Mạo phạm! Mạo phạm! Mong công tử đừng trách!” Chàng công tử trẻ tuổi nói: “Các ngươi hãy về đi, đây là bằng hữu của ta, ta đảm bảo y không nói dối!” lão bổ đầu cung kính dập đầu rồi dắt bọn quan sai co giò phóng xuống lầu!


Đường Hiểu Lan rất kinh ngạc, vội vàng đáp tạ. Lúc này bọn quan sai đã rút đi cả, trên lầu xì xào bàn tán, chỉ nghe tên tửu bảo lớn giọng nói: “Hừ, Bắt thái hoa tặc mà cũng đến nơi này!” một người khách khác nói: “Bọn chúng cũng không có mắt, người ta nho nhã đến thế mà bảo rằng thái hoa tặc!” một người khác lại nói: “Cũng chẳng trách họ, bọn thái hoa tặc hoành hành dữ dội, tri phủ đài nhân cứ hối thúc mãi, đương nhiên phải tìm kiếm khắp nơi”. Tên tửu bảo nói: “Lẽ nào thái hoa tặc công nhiên lên tửu lâu đợi bọn chúng đến bắt!” một người khác nói: “Cũng không hẳn, có lẽ thái hoa tặc lớn gan, dám công nhiên lên tòa Vọng Hải lâu này! Hơn nữa quan sai truy bắt gắt gao cũng là trừ hại cho dân!” một tửu khác hừ một tiếng: “Chỉ e không bắt được thủ phạm mà chỉ toàn bắt những người vô tội!”


Đường Hiểu Lan nghe thế ngạc nhiên, gọi tên tửu bảo lại nói: “Ở đây có thái hoa tặc ư?” tửu bảo nói: “Bọn chúng rất dữ dằng! Mười ngày nay đều có án xảy ra, con gái nhà lương thiện canh ba nửa đêm mất tích, cả con gái của Vương Bách Vạn và Châu Thủ Bị cũng bị bắt!” Đường Hiểu Lan nói: “Đến thế cơ à!” rồi nhíu mày, bất giác vỗ tay vào bao kiếm, chợt cảm thấy chàng công tử trẻ tuổi đang nhìn mình chằm chằm mặt đỏ ửng, nói: “Té ra bọn chúng tưởng tôi là thái hoa đại đạo!” chàng đang nói, khách khứa trên lầu lại nhao nhao lên, người ngồi gần cửa sổ kêu lên: “Lại có một toán quân binh đến nữa!” bọn họ sợ xảy ra chuyện nên vội vàng tính tiền ra về, chỉ còn lại chàng công tử thiếu niên, đại hán to cao cùng với Đường Hiểu Lan. Tên tửu bảo biết chàng công tử thiếu niên rất có vai vế, bởi vậy thêm vài món ăn, hâm lại ba bầu rượu ngon.


Chàng công tử trẻ tuổi kéo tay Đường Hiểu Lan ngồi xuống, cười rằng: “Bọn nô tài làm mất hứng!” Đường Hiểu Lan lại cảm tạ ơn cứu mạng, chàng công tử thiếu niên phe phẩy cây quạy xếp, chậm rãi nói: “Điều đó có là gì, gia phụ quen biết Tuần phủ Sơn Đông, cây quạt này là Tuần phủ Sơn Đông viết, lão bổ đầu lúc nãy có lẽ nhận ra nét chữ của quan Tuần phủ nên không dám lôi thôi”.


Đường Hiểu Lan thấy trên cây quạt có mấy chữ “Vu Nam Hồ khấu tả”, trong lòng mới giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ cha của chàng ta là quan lớn trong triều”. Chàng nhớ lại những điều răn của sư phụ, vẻ mặt chợt lạnh nhạt. Chàng công tử trẻ tuổi nói: “Vu Nam Hồ xuất thân từ hàn lâm, thư pháp cũng rất khá. Khi ông ta chưa phát tích đã từng là học trò của phụ thân tôi, nên rất cung kính người. Cả nhà tôi từ viễn cổ đến nay không ai làm quan cả!” Đường Hiểu Lan nghe chàng ta nói như thế thì mới hơi yên lòng, đến khi hỏi họ tên, chàng công tử trẻ tuổi nói: “Tôi họ Vương tên Tôn Nhất, còn gia nhân của tôi là Cáp Bố Đà, là một người Hồi”. Vương Tôn Nhất rất khách sáo với chàng, hỏi: “Huynh đài lưng mang bảo kiếm, anh hoa lộ rõ, chắc là danh gia kiếm thuật”. Đường Hiểu Lan vội vàng nói: “Cũng chỉ từng học vài món công phu mèo ba cẳng, chẳng thể gọi là kiếm pháp gì cả”. Chàng công tử mỉm cười, lại phe phẩy cây quạt, chậm rãi ngâm rằng: “Bạch nhân y sơn tận, Hoàng Hà nhập hải lưu, giục cùng thiên lý mục, cánh thướng nhất tần lâu. (Dịch thơ: Mặt trời chìm xuống núi, Hoàng Hà vào biển khơi, muốn thấy ra ngàn dặm, leo thêm một tầng lầu) tòa Vọng Hải lâu này tuy tốt nhưng vẫn chưa cao lắm, nếu huynh đài muốn ngắm cảnh biển, tốt nhất hãy chèo thuyền ra biển, cách bờ biển không xa có đảo Điền Hoành, trên đó có một ngọn núi, leo lên đến đỉnh sẽ thấy mặt trời hồng từ biển mọc lên, đó mới là kỳ quan trong thiên hạ!” Đường Hiểu Lan nói: “Huynh đài quả thật có nhã hứng!” đang mừng vì chàng ta đã chuyển chủ đề, không ngờ chàng ta ngập ngừng rồi lại nói: “Ngâm thơ múa kiếm trên đảo mới là chuyện vui trong đời người, huynh đài có thể cho tôi mượn kiếm xem hay không?”


Đường Hiểu Lan rất lấy làm khó xử, Châu Thanh đã từng căn dặn không được tùy tiện khoe khoang, nhưng Vương Tôn Nhất rất khách sáo, lại có ơn với mình, bởi vậy cũng khó trả lời. Chàng đang chần chừ, cầu thang lầu vang lên tiếng lọc cọc, lại có hai người phụ nữ bước lên. Người đi đầu tóc đen mượt mà phủ vai, mặt lại thấy nếp nhăn, nhìn mái tóc của bà người ta chỉ nghĩ bà là thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, nhưng nhìn nếp nhăn trên mặt lại là một bà già tuổi khoảng năm mươi. Đi phía sau là một nàng thiếu nữ khuôn mặt xinh xắn, vẫn còn nét trẻ con tuổi khoảng mười sáu mười bảy, chàng công tử trẻ tuổi trợn mắt, bà già hỏi: “Khách quan có muốn nghe một khúc hát không?” Vương Tôn Nhất đảo mắt, nhìn tên gia đinh rồi nói: “Cũng được!” bà già cầm hai miếng tre gõ vào nhau, nàng thiếu nữ khẽ hát rằng: “Nhiếp phiền hồng hà hải thượng sinh, hải trung hữu đảo khiếu Điền Hoành, đương niên Tề quốc quý công tử! Quốc phá gia vong ngượng lệ hành, thệ bết đế Tần huyền chính khí, hải ngẫu khán bạo kiếm kỳ sinh, ngũ bách tráng trĩ thệ đồng tử, cường lỗ bất diện thiên đạo mãng...” (Một mảng hồng hà nổi giữa biển khơi, giữa biển khơi có hòn đảo Điền Hoành, năm xưa công tử nước Tề, nhà tan cửa nát nén lệ ra đi, thề không diệt Tần chẳng trở lại, năm trăm tráng sĩ thề cùng chết, cường lỗ không diệt đạo trời vong...)


Tiếng ca chưa dứt, Vương Tôn Nhất chợt nhíu mày, chợt nói: “Đừng hát nữa!” bà già nói: “Khách quan nhìn về đảo Điền Hoành, sao không nghe Điền Hoành từ?” Cáp Bố Đà mắng: “Đừng lôi thôi!” Vương Tôn Nhất nói: “Thưởng bạc rồi bảo bà ta đi thôi!” Cáp Bố Đà vung tay ném hai nén bạc lớn đến, bà già nói: “Ai cần bạc vụn của ngươi!” rồi phất ống tay áo, hai nén bạc rơi xuống bàn, vỡ thành vô số mảnh nhỏ! Vương Tôn Nhất và Cáp Bố Đà thất kinh, cả hai người đàn bà đã xuống lầu. Cáp Bố Đà toan đuổi theo, Vương Tôn Nhất nói: “Thôi khỏi. Đường huynh, lúc nãy tôi định mượn kiếm xem thử, không biết có được hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Điều này... điều này...” rồi ngón tay sờ vào eo, chợt kinh hãi kêu lên: “Kiếm của tôi đâu rồi?” hai người nhìn lại, quả nhiên kiếm của Đường Hiểu Lan đã biến mất. Cáp Bố Đà nói: “Thủ pháp của mụ già thật nhanh!” Đường Hiểu Lan mất kiếm quý, lòng lo như lửa đốt, vội vàng cáo từ. Vương Tôn Nhất nổi hứng, phất tay nói: “Đường huynh đừng lo, tiểu đệ sẽ sai người nhà giúp tìm về”. Đường Hiểu Lan nói mấy câu cảm tạ, vội vàng đuổi theo người đàn bà ấy. Trên con đường ven biển, hai đầu đều có quân binh tuần tra, chẳng thấy bóng bà già đâu cả. Bọn quân binh thấy Đường Hiểu Lan vội vàng chạy ra cũng không ngăn lại.


Đường Hiểu Lan theo Dương Trọng Anh học được năm năm, tuyệt kỹ thần đạn cũng có thành tựu, vả lại chàng sử dụng ám khí phi mãng, học được thủ pháp thần đạn càng thấy lợi hạih hơn, phi mãng rất nhẹ, nên nhãn lực phải rất tốt. Thế mà chàng không hề phát giác khi bị người khác đánh cắp bảo kiếm, rõ ràng kẻ đánh cắp kiếm võ công cao cường đến mức khó tưởng tượng! Đường Hiểu Lan rầu rỉ thầm nhủ: “Bị một cao thủ như thế đánh cắp bảo kiếm còn mong gì lấy lại?” Rồi chàng cứ đi mãi, chợt thấy ngoài cảng có mười chiếc thuyền đánh cá đang đậu, có nàng thiếu nữ đang đứng trên một con thuyền, trông rất xinh xắn. Đường Hiểu Lan nhìn kỹ lại, thì ra chẳng phải nàng thiếu nữ lúc nãy, chàng mới cười buồn bã thầm nhủ: “Bảo kiếm chắc chắn đã mất, chi bằng cứ quay về trước thì hơn!” đi được mấy bước, nàng thiếu nữ đã vào trong khoang. Chợt thấy có một thiếu niên tuấn tú cũng đứng trông theo chiếc thuyền cá!


Đường Hiểu Lan thấy chàng ta đứng ngẩn người ra, thầm nhủ: “Chả lẽ này là thái hoa đại tặc!” chợt thấy chàng thiếu niên vung ống tay áo, Đường Hiểu Lan nhận ra đó chính là thủ pháp phóng ám khí bằng ống tay áo của chàng ta, mà loại ám khí này cực kỳ nhẹ, người bình thường chẳng thể nào nhận ra được. Đợi chàng thiếu niên bỏ đi xong, Đường Hiểu Lan đi lên đê, nhìn con thuyền cá, trên thuyền quả nhiên có thêm một đóa hoa mai, đóa hoa nở xòe ra năm cánh trông rất rõ ràng tựa như được người thợ khéo tay khắc vào. Đường Hiểu Lan biết đó là do ám khí hình hoa mai in sâu vào nên thầm kêu lên: “Không xong! Đây chắn chắn là ám hiệu của thái hoa đạo tặc để lại, chín phần mười là y đã để ý thiếu nữ trên thuyền, chỉ e đêm nay y sẽ lên thuyền hái hoa”. Chàng đang định gọi người trong thuyền ra, chợt thấy nàng thiếu nữ lúc nãy bước ra, trừng mắt nhìn Đường Hiểu Lan rồi khuất xuống nước, kéo lên một tia nước phóng thẳng về phía Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan bị tia nước bắn thẳng vào mặt, da mặt đau nhói. Rồi nàng ta khua chèo, chiếc thuyền lướt đi.


Đường Hiểu Lan lau khô nước, thầm kêu khổ, nàng ta chắc chắn tưởng chàng là hạng thiếu niên khinh bạc nên mới làm thế. Chàng thầm nhủ: “Giờ có nói với họ, họ cũng không tin, chi bằng đêm nay mình lại đến bắt thái hoa đại tặc để trừ hại cho trăm họ”. Chàng đứng tần ngần một hồi rồi trở về khách sạn.


Khi Đường Hiểu Lan rời khỏi khách sạn, chàng đã đóng cửa sổ, cửa phòng cũng được khóa lại, khi chàng mở cửa phòng ra, chợt thấy có gió quét tới, Đường Hiểu Lan vội vàng quay đầu nhưng không thấy bóng người nào cả, lòng thầm cười mình nghi thần nghi quỷ, không ngờ đi vào trong phòng chợt thấy hàn quang chói mắt, suýt nữa chàng đã kêu hoảng.


Trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường có đặt một thanh bảo kiếm, đó chính là Du Long kiếm của chàng, vỏ kiếm treo trên tường, Đường Hiểu Lan cầm thanh kiếm lên, ở dưới có một dòng chữ viết: “Khuya ba ngày sau, đến miếu Điền Hoành gặp ta!” Đường Hiểu Lan thấy tim đập thình thịch, trong lòng cứ lo nơm nớp, không biết cao nhân nào đã đánh cắp kiếm rồi trả kiếm lại cho chàng là có dụng ý gì? Lại không biết miếu Điền Hoành ở đâu, nhưng còn cách thời gian hẹn đến ba ngày, trong vòng ba ngày chắc có thể dò ra được. Đường Hiểu Lan định thần, thầm nhủ: “Nếu người đánh cắp kiếm là cao nhân tiền bối chắc không có ác ý với mình, nếu kẻ xấu, chắc sẽ không trả kiếm lại. Xem ra chuyện này tuy kỳ lạ nhưng không hại gì. Đêm nay mình phải đấu với đại tặc thái hoa, cần phải cẩn thận với được. Thủ pháp ném ám khí của y cũng thuộc loại hiếm có trong võ lâm”. Thế rồi không suy nghĩ gì nữa mà nằm lăn ra giường đánh một giấc.


Đến khi chàng thức dậy đã chạng vạng tối, Đường Hiểu Lan ăn cơm tối xong, ra khỏi khách sạn nói với tiểu nhị rằng: “Có lẽ đêm nay ta về muộn”. Tên tiểu nhị nói: “Khách quan cứ tùy ý”. Đường Hiểu Lan nói: “Có người đến tìm ta, hãy nhớ hỏi họ tên”. Tên tiểu nhị trả lời: “Đương nhiên”. Đường Hiểu Lan bước ra bờ biển, đây là đêm trăng hạ huyền, trăng mờ sao thưa khiến cho mặt biển càng thêm thâm sâu thần bí. Đường Hiểu Lan tìm ra con thuyền đánh cá ấy, chàng ẩn thân sau một tảng đá, lặng lẽ chờ đợi tên đại tặc thái hoa!


Đợi một lúc rất lâu, vầng trăng mới dần dần nhô lên cao, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Đã đến lúc!” quả nhiên đợi một hồi, một bóng người bay vọt tới, người ấy toàn thân mặc đồ trắng, tuy ánh trăng mờ ảo nhưng chàng có thể nhìn thấy rõ mồn một. Đường Hiểu Lan thầm thấy làm lạ, mặc đồ trắng là đại kỵ của người dạ hành, huống chi là có ý hái hoa; người mặc đồ trắng chạy đến bờ biển, đó chính là người mà chàng đã gặp ban ngày. Đường Hiểu Lan nắm phi mãng trong tay, chưa kịp phát ra, chàng thiếu niên ấy đã điểm mũi chân phóng vọt lên cột buồm. Đường Hiểu Lan buộc miệng kêu lên: “Bắt thái hoa tặc!” rồi vung một nắm phi mãng!


Chàng thiếu niên áo trắng kêu lên: “Là ta, muội hãy ra đây!” ở khoang thuyền chợt xuất hiện một người vung đao chặt gãy cột buồm, chàng thiếu niên lộn người hạ xuống mặt thuyền, thân pháp vẫn còn lanh lẹ, rõ ràng chẳng hề bị thương. Có thể Đường Hiểu Lan đã phóng hụt phi mãng!


Từ trong khoang thuyền một lão ngư phu bước ra, chém tới soạt soạt mấy đao, miệng quát: “Hừ, đồ vô sỉ, ngươi còn muốn đến đây làm gì?” người áo trắng chỉ né tránh chứ không trả chiêu, kêu lên: “Ngư muội, ngư muội!” người trong thuyền khóc thút thít, cô gái đánh cá ban ngày mà Đường Hiểu Lan đã gặp bước ra, vừa khóc vừa nói: “Thái Quan, huynh hãy đi đi!” lão ngư phu quát: “Nha đầu đê tiện, quay vào!” chàng thiếu niên áo trắng tránh ba chiêu, đột nhiên phóng vọt về phía nàng thiếu nữ! Đường Hiểu Lan lướt người lên thuyền, cây Du Long kiếm đánh tới một chiêu “Tiên Nhân Chỉ Lộ” đâm vào ngực của chàng thiếu niên, quát: “Thái hoa tặc thật lớn gan!” chàng thiếu niên chợt thấy ánh hàn quang chói mắt, lách người qua, chưng hửng quát: “Ai là thái hoa tặc?” Đường Hiểu Lan lại đâm một kiếm, lão ngư phu đã đẩy nàng thiếu nữ vào khoang, mặt lộ vẻ kinh ngạc, tay cầm thanh Quỷ Đầu đao chặn trước thuyền chứ không động thủ.


Truy Phong kiếm pháp của Đường Hiểu Lan lanh lẹ lạ thường, thiếu niên áo trắng né tránh rất vất vả, lại thêm mặt thuyền không lớn, dù tránh trái né phải cũng bị chụp trong màn kiếm quang, Đường Hiểu Lan múa kiếm như gió, đánh liên tục mấy mươi nhát kiếm mà vẫn chẳng chạm được chàng thiếu niên áo trắng, trong lòng kinh hãi lắm. Chàng thiếu niên áo trắng cũng chỉ có thể né tránh chứ không dùng công phu tay không đoạt binh khí được, dù võ công tinh thâm cũng toát mồ hôi toàn thân! Đường Hiểu Lan liên tục đâm tới mà không trúng, trong lòng nôn nóng nên sử dụng tám đường kiếm pháp Truy phong trục điện, kiếm khí lạnh lẽo chuyên đâm vào hai mắt của đối thủ, chàng thiếu niên áo trắng quát: “Huynh đệ, ngươi không ngừng tay ta sẽ đắc tội với ngươi!” rồi chợt nghe tiếng vải rách, chàng thiếu niên xé tá áo phóng tới cuộn vào thanh kiếm của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan thấy hổ khẩu tê rần, tựa như bị sắt thép đánh vào, thủ kình buông lỏng, cây kiếm đã bị đoạt mất, chợt keng một tiếng, chàng thiếu niên đã ném thanh kiếm của chàng vào khoang. Đường Hiểu Lan lộn người xuống thuyền, vung tay phóng ra một nắm phi mãng, chàng thiếu niên không ngờ rằng sau khi chàng mất kiếm mà vẫn ngoan cường như thế, chỉ hơi sơ ý, gót chân đã trúng hai mũi phi mãng! Chàng ta phóng về phía trước hai bước, đã ra đến mép thuyền, Đường Hiểu Lan bật người dậy đề phòng chàng ta ám toán!


Thiếu niên áo trắng không hề tiến tới tấn công, lạc giọng kêu lên: “Lão trượng, người tuyệt tình như thế sao?” lão ngư phu chợt quát: “Bạch Thái Quan, trên đường có lối ngươi không đi, địa ngục không cửa ngươi lại vào. Nếu ngươi không đi ta phải đuổi ngươi!” rồi cây Hổ Đầu đao cuộn lên một màn đao quang, Đường Hiểu Lan đứng một bên, đao phong quét tà áo bay phần phật, công lực của lão ngư phu này chẳng kém gì Quan Đông tứ hiệp. Bạch Thái Quan đã bị thương ở gót chân, né tránh không tiện, kêu lên: “Ngư muội, Ngư muội, suốt đời này chúng ta chẳng thể gặp được nhau nữa!” trong thuyền chợt vang lên một tiếng thét, nàng thiếu nữ đã đạp vỡ cửa thuyền, không màng đến lệnh cha nữa mà phóng vọt ra! Lão ngư phu vung ra một chiêu Ma Cô Bạt Vân, chợt chém ra, đây là một chiêu hai thức, ông ta muốn chặt chàng thiếu niên áo trắng thành hai đoạn trước khi con gái xông ra!


Sau khi chàng thiếu niên lên thuyền trải qua một trận ác đấu, dây thừng bước thuyền đã đứt, chiếc thuyền trôi theo dòng nước, đã rời bờ đến mấy mươi trượng. Khi lão ngư phu chém tới, trên mặt đất chợt nghe tiếng quát: “Hãy dứng tay!” lại là một chàng thiếu niên áo trắng đạp sóng lướt tới! Đường Hiểu Lan hoa cả mắt, thiếu niên áo trắng trên mặt nước đã vọt lên thuyền. Lão ngư phu chém tới một đao, chợt thấy cổ tay tê rần, cây Quỷ Đầu đao đã bị chàng thiếu niên này đoạt mất! Lão ngư phu tung hoành nửa đời, danh lừng giang hồ chưa từng gặp địch thủ, không ngờ chỉ trong một chiêu mà cũng chẳng biết chàng thiếu niên đã dùng thủ pháp gì đoạt mất đao của mình, thấy thế vừa kinh vừa giận nhưng không dám phát tác, lạnh lùng hỏi: “Hừ, Bạch Thái Quan, té ra ngươi còn nhờ đồng đảng, có phải ngươi muốn đến cướp con ta?”


Đường Hiểu Lan hơi trấn tĩnh, chàng thiếu niên đến sau mắt thanh mày tú, còn anh tuấn hơn cả chàng lúc nãy! Khi nhìn lại thì thấy trên mặt biển có mấy mảnh ván nhỏ mới biến chàng ta dùng khinh công tuyệt đỉnh Đăng bình độ thủy, chàng ta đã mượn lực của những tấm ván này đạp sóng lướt tới! Đường Hiểu Lan đã từng nghe người ta nói đến loại khinh công này nhưng đến giờ mới tận mắt thấy. Khi nhìn kỹ lại, Đường Hiểu Lan thấy chàng ta có vẻ hơi quen quen!


Lúc này chàng mới thong thả nói: “Lão trượng đợi tôi hỏi y rồi hẵng tính?” rồi quay sang chàng thiếu niên lúc nãy, nghiêm mặt hỏi: “Ngươi có phải là Bạch Thái Quan không? Là môn hạ của ai?” lúc này chàng mới hiên ngang trả lời: “Bạch Thái Quan đi không đổi danh ngồi không đổi tánh, là môn hạ của Độc tý thần ni, xếp hàng thứ năm trong Giang Nam bát hiệp, đa tạ huynh đài đã tương cứu, xin hỏi có gì chỉ giáo?” chàng thiếu niên áo trắng đến sau mới nhíu mày, lại nghiêm giọng nói: “Độc tý thần ni quản giáo đệ tử rất nghiêm khắc, thế mà ngươi nửa đêm lên thuyền đánh cá là có ý gì?” Bạch Thái Quan ngạo mạn nói: “Huynh đài đã ra tay tương cứu, tôi xin nhận ân tình, chỉ có điều ngoại trừ sư phụ và đồng môn của tôi, bất luận anh hùng phương nào cũng không thể đưa ra môn quy trấn áp tôi! Bạch Thái Quan này là hán tử đầu đội trời chân đạp đất, từ ngày xuất đạo chưa hề làm chuyện gì sai trái!” Đường Hiểu Lan nén không được hỏi: “Vậy chẳng phải ngươi đã gây mấy vụ án thái hoa sao?” “Cái gì? Thái hoa?” Bạch Thái Quan cười ha hả, chỉ nàng thiếu nữ, nói: “Ngươi cứ hỏi nàng! Nàng là vị hôn thê của ta!”


Nàng thiếu nữ đã ngừng khóc, khẽ nói: “Việc nhà chúng tôi dây dưa, kinh động đến các vị anh hùng, thật là bất an!” lão ngư phu đẩy nàng, nói: “Vào trong!” Chàng thiếu niên đến sau mới mỉm cười nói: “Té ra quả nhiên nàng là vị hôn thê của huynh đài, sao cha vợ với con rể lại đánh nhau thế?” lão ngư phu trừng mắt, Bạch Thái Quan cũng không nói, chàng thiếu niên áo trắng lại quay sang Bạch Thái Quan nói: “Tôi nghe đồ đệ của Độc tý thần ni trước khi nghệ thành xuất sư, phải quỳ trước bàn thờ đọc kỹ môn quy, xin hỏi Bạch huynh điều thứ tám trong môn quy nói gì?” Bạch Thái Quan chưng hửng, điều thứ tám chính là: “Sau khi thành danh, không được ngạo mạn!” thầm nhủ: “Sao thiếu niên này lại biết môn quy của sư phụ mình. Chả lẽ y là đồng môn của mình. Nhưng từ ngày mình xuất sư, nghe sư phụ chỉ thu được một nữ đệ tử là cháu gái của danh nho đất Triết Đông Lữ Lưu Lương tên gọi Lữ Oanh, tiểu tự là Tứ Nương, mấy năm nay cũng lừng danh trên giang hồ, có điều mình vẫn chưa gặp. Còn sáu đồng môn kia mình đều biết rõ nhưng không có y! Chả lẽ y có liên quan gì đến sư phụ? Hay là y là tâm phúc của vị tiền bối nào đó, vả lại rất quen thân với sư phụ của mình?”


Trước Lữ Tứ Nương, Độc tý thần ni thu được bảy đồ đệ, người đứng đầu là Liễu Ân hòa thượng, tiếp theo là Châu Tầm, Lộ Dân Đảm, Tào Nhân Phụ, Bạch Thái Quan, Lý Nguyên, Cam Phụng Trì. Khi Lữ Tứ Nương nhập môn. Chỉ có Cam Phụng Trì là biết Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương nhập môn được ba năm, Cam Phụng Trì mới xuát sư, cùng với bọn Liễu Ân được gọi là Giang Nam thất hiệp, trong thất hiệp Liễu Ân võ công cao nhất, danh tiếng của Cam Phụng Trì lẫy lừng nhất, võ công của Bạch Thái Quan chỉ kém Liễu Ân và Cam Phụng Trì, cũng nổi danh trong thất hiệp. Từ ngày xông pha đất Giang Nam chưa bao giờ gặp đối thủ, chàng ta lại phong lưu nho nhã, nay bị chàng thiếu niên kia hỏi một câu, lại thấy võ công của chàng ta hơn cả mình, bất giác nhụt chí, thế rồi mới nghiêm mặt nói: “Dám hỏi cao tính đại danh của huynh đài?” chàng thiếu niên mới cười nói: “Tôi chẳng phải là hán tử đầu đội trời chân đạp đất gì cả. Tôi họ Lý tên gọi Song Song”. Đường Hiểu Lan đứng một bên nghe hai người đối đáp, song lại cảm thấy giọng nói của chàng thiếu niên này rấtg quen tai, hình như đã nghe ở đâu đó! Đến khi nghe chàng ta báo tên thì rất giống phụ nữ, thế rồi mới giật mình thầm nhủ: “Chả lẽ y là Lữ Tứ Nương cải trang? Nhưng chàng thiếu niên này trông rất hiên ngang”. Bất giác thầm cười mình vì quá nhớ nhung nàng ta nên mới đoán bừa.


Bạch Thái Quan và lão ngư phu cũng hửng, họ chưa bao giờ nghe cái tên Lý Song Song. Lý Song Song lại nói: “Theo lẽ đây là chuyện nhà của hai bên, người ngoài không tiện xen vào. Nhưng lúc nãy cứ liều mạng như thế, nếu không cẩn thận há chẳng phải hại đến hai vị anh hùng? Huống chi lại là cha vợ với con rể!” Bạch Thái Quan chỉ Đường Hiểu Lan, cười nói: “Chính vị tiểu ca này giữa đường thấy bất bằng chẳng tha, tôi đâu có động thủ”. Chàng ta không hề ám chỉ ai cả nhưng lão ngư phu nghe thế thì ho một tiếng nói: “Cha con chúng tôi và Bạch anh hùng có chút xích mích, nếu Lý huynh đã khuyên bảo, xin mời ngày mai đến nhà tôi uống rượu trò chuyện!” Lý Song Song nói: “Không dám, xin hỏi lão tiền bối sống ở đâu?” lão ngư phu ngạo mạn cười: “Chính là ở đảo Điền Hoành!”


Lý Song Song chợt thất kinh, nói: “Dám hỏi lão anh hùng họ gì?” lão ngư phu nói: “Tôi mưu sinh bằng nghề đánh cá, đã quên tên họ từ lâu!” Bạch Thái Quan nói: “Nhạc trượng của tôi chính là Ngư Xác đại vương danh lừng giang hồ!” Lý Song Song vội nói: “Ngưỡng mộ đã lâu! Ngư lão đã mới, tại hạ nào dám thất kính?” Đường Hiểu Lan cũng không biết Như Hồ là ai. Lão ngư phu lại cười nói với Đường Hiểu Lan: “Ta cũng mời vị tiểu ca này. Ta già đến nỗi lẩm cẩm, chưa hỏi họ tên của ngươi!” Đường Hiểu Lan báo họ tên, nói: “Sư phụ của tôi là Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Lý Song Song ồ một tiếng, Ngư Xác lạnh lùng nói: “Dương anh hùng đâu có được kiếm pháp giỏi thế này”. Đường Hiểu Lan không biết đáp thế nào, Lý Song Song lại nói: “Truy Phong kiếm pháp truyền đến Trung Nguyên cũng là điều may mắn lắm!” Bạch Thái Quan nói: “Té ra là kiếm pháp của phái Thiên Sơn, chả trách nào hiểm hóc như thế, nếu Đường huynh đệ có thêm hai năm công phu nữa, e rằng ta đã bị thương!” Đường Hiểu Lan nóng ran mặt, Bạch Thái Quan nắm tay chàng cười ha hả.


Lý Song Song nói: “Thời gian không còn sớm nữa, chúng ta đi thôi!” Bạch Thái Quan nói: “Để tôi tiễn huynh một đoạn!” Đường Hiểu Lan cũng cáo từ, Ngư Xác cung tay nói với Lý Song Song: “Đêm mai sẽ gặp lại. Thái Quan ngươi đêm nay cũng phải suy nghĩ rồi quyết định”. Sau khi lên bờ, Bạch Thái Quan chợt nói: “Lý huynh đệ, Đường huynh đệ, tôi thấy tối mai hai người không nên đến thì hơn!” Lý Song Song nói: “Tại sao? Có phải Bạch huynh đệ không muốn chúng tôi nhúng tay vào việc riêng không?” Bạch Thái Quan vội nói: “Không phải chuyện này, e rằng nhạc trượng tôi không có ý tốt, Lý huynh vừa gặp đã hiểu lầm tôi, Đường huynh vừa gặp cũng như bạn, tôi phải nói rõ cho hai người hiểu. Nào, chúng ta tìm một nơi trò chuyện”. Thế rồi hai người ngồi xuống bờ biển, chàng ta chợt thở dài nói: “Tình nghiệt dây dưa, chẳng thể tự cởi, nói ra thật đáng buồn cười”. Ngập ngừng rồi nói tiếp: “Hai vị có biết nhạc phụ của tôi là người thế nào không?” Lý Song Song nói: “Là đại đạo ngang dọc trên biển khơi, ngũ hồ tứ hải đều có vây đảng của ông ta!” Bạch Thái Quan gật đầu, thế rồi mới kể ra một câu chuyện.


Ba năm trước, Bạch Thái Quan chế phục Hoàng Hà ngũ bá, uy danh lừng lẫy, một ngày nọ đến Thái Hồ, chợt thấy con gái của Ngư Xác, vừa gặp đã đem lòng thương mến. Bạch Thái Quan võ công vừa cao lại tuấn tú. Mấy năm qua không ít người muốn mai mối cho chàng nhưng chàng chẳng hề màng tới, từ ngày gặp con gái của Ngư Xác, dây tình đã trói chẳng thể nào cởi nổi. Nói đến đây, Đường Hiểu Lan tò mò hỏi: “Vậy khi Bạch huynh gặp nàng, chắc chắn có một đoạn kỳ ngộ, nếu không chỉ với vẻ đẹp bên ngoài thì làm sao khiến cho Bạch huynh đem lòng thương yêu”. Bạch Thái Quan cười nói: “Đường huynh đệ tuổi tuy nhỏ nhưng cũng rành rẽ chuyện tình nam nữ, chắc là người cũng có kinh nghiệm. Nói ra cũng chẳng phải kỳ ngộ gì cả, sau khi ta đánh bại Hoàng Hà ngũ bá, lại không biết họ là thuộc hạ của Ngư Xác, càng không để ý Thái Hồ chính là sào huyệt thứ hai của Ngư Xác, Ngư Xác sai người bắt tôi, sau khi kịch chiến, tôi đánh bị thương bọn cao thủ của y, bản thân cũng bị trọng thương, đang lúc nguy cấp, con gái của Ngư Xác xuất hiện, bảo bọn chúng ngừng lại tôi mới thoát. Sau đó nghe đồn rằng, nàng không đồng ý những điều cha mình đã làm nên mới cứu tôi”. Chàng ta kể xong, thở dài đánh sượt một tiếng.


Đường Hiểu Lan nghe mà xuất thần, cũng kêu ồ một tiếng. Lý Song Song cười nói: “Hình như Đường huynh có tâm sự!” lời nói của chàng ta nghe rất dịu dàng, Đường Hiểu Lan xao xuyến trong lòng, giọng nói này nghe thật giống Lữ Tứ Nương, chả lẽ chàng là huynh đệ của Lữ Tứ Nương. Thấy hai người chú ý nhìn mình, Đường Hiểu Lan gượng cười: “Lý huynh đường lên tiếng nữa, xin mời Bạch huynh để tiếp”.


Bạch Thái Quan nói: “Việc đó trôi qua, tôi nghĩ Ngư Xác là đại đạo trên biển, đã từng cướp không ít khách thương, nhưng biết chịu thay tà đổi chính sẽ có ích đối với việc phục quốc. Hơn nữa là đại đạo đâu hẳn giết người. Ông ta cũng không phải là kẻ hung tợn, trên giang hồ còn có danh hiệp đạo. Bởi vậy tôi một mình đến Thái Hồ, nói rõ ý định muốn cưới con gái của ông ta. Ông ta thấy tôi lớn gan thì rất bất ngờ, thế là mời tôi tỉ võ, tỉ thí cả nửa ngày mà đôi bên vẫn ngang tài ngang sức. Ông ta hỏi con gái của mình, nàng cũng chấp nhận. Thế rồi mối hôn sự ấy đã định!” Lý Song Song nói: “Nàng thiếu nữ ấy cũng không tệ!” Bạch Thái Quan nói: “Ai bảo nàng tệ? Kẻ tệ là nhạc phụ của tôi. Ông ta làm hải đạo thì thôi, không ngờ lại nhận lời Tứ bối lạc, giúp y lên ngôi, sau khi việc xong sẽ cắt Sơn Đông cho ông ta, để ông ta xưng vương trên biển, lại làm tổng đốc Sơn Đông, chỉ cần triều kiến chứ không nạp thuế. Nhạc phụ của tôi ham mê công danh lợi lộc, thế là chấp nhận. Tôi đã nhiều lần khuyên mà không nghe, cuối cùng đã tuyệt giao, cắt tình nhạc tế! Ngư Nương thương yêu tôi thắm thiết, nhờ người chuyển lời với tôi rằng nếu cha không chịu, nàng sẽ ở giá suốt đời. Bởi vậy tôi mới không quản đường xa định đến đảo Điền Hoành lý luận với nhạc phụ, không ngờ đã gặp trước ở đây”. Bạch Thái Quan không hay rằng, Ngư Xác đã biết chuyện chàng ta đến, định rằng lại đến đảo Điền Hoành lại ép buộc chàng nghe theo mình, Ngư Nương biết tính cách của Bạch Thái Quan, nàng ngờ rằng Ngư Xác không chịu thả chàng ta, dù lúc đó nàng ra mặt cũng cứu không được nên mới kiên quyết đòi chặn chàng ta lại ngay từ ban đầu.


Lý Song Song nghe Bạch Thái Quan kể xong mới bảo rằng: “Sen trắng gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Tôi thích lo chuyện bao đồng, nếu vị hôn thê của huynh đã làm thế, tôi nhất định sẽ giúp huynh. Tối ngày mai tôi phải đi cho bằng được!” Bạch Thái Quan trầm ngâm một hồi, Lý Song Song chợt nói: “Vả lại Giang Nam bát hiệp đâu phải là hạng co đầu rút cổ!” Bạch Thái Quan ngạc nhiên nhìn chàng ta, Lý Song Song lại cười: “Tôi muốn nói huynh, tôi là bằng hữu của Giang Nam bát hiệp, đâu phải là kẻ kém cỏi!” Bạch Thái Quan tựa như nhớ ra chuyện gì, chợt hỏi: “Võ công của nhạc phụ tôi rất ghê gớm, lúc nãy Lý huynh vừa đánh một chiêu mà đã đoạt được cây đao của ông ta, đúng là thần kỷ kinh người. Không biết Lý huynh sử dụng cao chiêu của phái nào, có thể nói chúng tôi mở rộng tầm mắt hay không?” Lý Song Song nói: “Bạch huynh, huynh cũng đã học qua, cần gì hỏi tôi?” Bạch Thái Quan càng kinh ngạc, đang định nói: “Lý huynh chỉ cười tôi”. Lý Song Song đã nói: “Loại công phu Tay không đoạt binh khí này, chẳng phải huynh đã học nhuần nhuyễn rồi sao? Chiêu thứ ba mươi sáu mà huynh học là gì?” Bạch Thái Quan nói: “Tinh hải phù sai!” Lý Song Song nói: “Chính thế! Nhưng tôi dùng hơi nhanh, lại bất ngờ nên mới đánh một đòn đã thành công!” Bạch Thái Quan kêu lên: “Lý huynh, làm sao huynh biết bí mật võ công của phái tôi?” Lý Song Song mỉm cười: “Tôi đã từng thấy người của quý phái dùng”. Bạch Thái Quan thầm nhủ: “Trong số các đồng môn chỉ có mình Liễu Ân sư huynh biết võ công này, mà thủ pháp của Liễu Ân sư huynh cũng chưa chắc nhanh như thế. Nếu y học lén, dẫu thế nào cũng chẳng có được thành tựu như thế”. Chàng ta cố nghĩ mãi mà chẳng ra. Đường Hiểu Lan lại không biết Bạch Thái Quan tại sao đột nhiên hỏi chiêu số của chàng ta.


Vầng trăng mới treo trên giữa trời, Lý Song Song nói: “Hoàng hôn chiều mai chúng ta sẽ gặp lại ở đây!” ba người chia tay nhau, Đường Hiểu Lan đi được mấy bước lại quay đầu, Lý Song Song chợt cười: “Kiếm thuật của Đường huynh đã tiến bộ lắm! Chắc lên đảo Điền Hoành chẳng lo gì!” Đường Hiểu Lan kinh ngạc quay người, chỉ còn nghe tiếng cười của Lý Song Song vọng lại!


Đường Hiểu Lan trở về khách sạn, đèn đuốc trong khách sạn sáng trưng, tên điếm tiểu nhị và trưởng quầy vẫn ngồi chờ chàng trở về. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, chỉ thấy tên trưởng quầy cung kính đứng dậy nói: “Chúng tôi không biết ngài là bằng hữu của Ngư Xác đại vương, đã tiếp đón chậm trễ, mong ngài đừng giận”. Rồi đưa một tấm bái thiếp, té ra đó là Ngư Xác sai người đem đến. Đường Hiểu Lan thầm kinh hãi: “Vây đảng của tên Ngư Xác đại vương này quả nhiên đông đảo, thần thông quảng đại, chỉ trong chốc lát mà y đã sai người tìm được tích của mình”. Thế rồi không dám nói nhiều, cầm tấm thiệp vào phòng nghỉ ngơi. Hai ngày nay chuyện lạ xảy ra liên tục, Đường Hiểu Lan trằn trọc mãi mới dỗ được giấc ngủ.


Hoàng hôn hôm sau, Đường Hiểu Lan ra bờ biển, Bạch Thái Quan và Lý Song Song đã đợi ở đấy, Đường Hiểu Lan nói: “Hai vị huynh đài đến thật sớm!” Lý Song Song cười rằng: “Ngư Xác đại vương đã chờ chúng ta từ lâu!” rồi chàng chúm môi huýt một tiếng sáo, giữa biển có một con thuyền lớn rẽ sóng lướt tới, trên thuyền có mấy đại hán mắt to mày rậm cúi người chờ đợi, Đường Hiểu Lan biết đó là thuyền cướp của Ngư Xác đại vương, thế là cùng hai người Bạch, Lý lên thuyền đi thẳng đến đảo Điền Hoành.


Ở Hoàng Hải có nhiều hòn đảo nhỏ, trừ đảo Điền Hoành, còn có đảo Linh Sơn, đảo Dương Oai, đảo Vệ Sơn... Đảo lớn hòn nhỏ tinh kỳ phất phới. Ở Thanh Đảo còn có hòn Lao Sơn, đây là hòn núi nằm ven biển, một bên là biển, một bên là núi, vách đá dựng đứng như bình phong, trông rất hùng vĩ! Bọn Đường Hiểu Lan đi được hơn một canh giờ, người trên thuyền chỉ hòn hải đảo nói: “Đó chính là đảo Điền Hoành!” ba người lên bờ, núi non trên đảo dựng đứng hùng vĩ, ở phía xa có tòa lầu cao khép chặt cửa, hai bên tường đỏ cao cả trượng dài dằng dặc, bên trong bức tường cây cối xum xuê, Lý Song Song cười nói: “Lệnh nhạc khai phá nơi này quả thật đã mất nhiều tâm cơ! Tại hạ không ngờ có khí thế hùng vĩ như thế!” Bạch Thái Quan cười khổ một tiếng rồi theo người dẫn đường bước vào, bên trong lại là một khoảng trời đất khác, khắp nơi đều là kỳ hoa dị thảo, nổi bật nhất là loại hoa sơn trà đỏ như máu, trong đêm mà cũng thấy chói mắt. Ba người bước vào cổng, một đại hán phất cờ nói: “Đại vương mời ba vị đến Thiên Trượng Nham gặp gỡ!”


Bạch Thái Quan nói: “Phiền Hương chủ dẫn đường”. Người ấy phất lệnh kỳ, phóng thẳng tới phía trước, bọn Lý Song Song đi sát theo sau, bốn người đều có võ công hạng nhất đẳng, sau một hồi rẽ trái lách phải, trong chốc lát đã đi vào u cốc xum xuê cây cối, nhìn từ xa cổ cao lên quá đầu gối, quái thạch lô nhô, Lý Song Song chợt thối lui một bước, khẽ nói bên tai Đường Hiểu Lan: “Đi sát theo tôi!” Đường Hiểu Lan không hiểu, chợt nghe người phía trước nói: “Đường lên núi rất khó đi, mong các vị để ý cho!” rồi phóng vọt người lên trên dốc. Đường Hiểu Lan ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên dốc toàn là gai góc, chàng thầm nhủ: “Nếu dùng Du Long kiếm mở đường còn có thể lên, làm sao có thể dùng khinh công vọt qua đám gai góc ấy”. Người dẫn đường phía trước vẫn sải bước tựa như chẳng hề có chuyện gì, chàng đang chần chừ, Lý Song Song đã vươn tay kẹp một cái đẩy tới, Đường Hiểu Lan thấy người mình nhẹ hẫng, tà áo của Lý Song Song kêu lên phần phật, chàng ta bay một mạch qua mảng gai góc, Đường Hiểu Lan cũng như cỡi mây đạp gió, chỉ cảm thấy tay mình chạm phải vật gì mềm mại, thế là rụt lại theo bản năng, lúc này Lý Song Song đã đưa chàng lên trên sườn núi. Ở đó lại có một con đường nhỏ hẹp dẫn thẳng xuống chân núi. Người dẫn đường không đi bằng con đường này, rõ ràng có ý muốn thử công phu của mình, nếu chẳng nhờ Lý Song Song giúp đỡ, chàng đã bị bẽ mặt. Người ấy vừa mới đứng vững chân, quay đầu lại nhìn thấy bọn Đường Hiểu Lan đã lặng lẽ đứng sau lưng mình, y mỉm cười nói: “Các vị có công phu thật giỏi!” rồi phất ống tay áo lên thẳng trên núi.


Ba người cứ bước theo, con đường núi quanh co trắc trở, đi một hồi đã lên đến đỉnh, trên đỉnh núi có cây tùng cổ to lớn che kín cả một khoảng rộng lớn, tiếng chim hót véo von. Đi một hồi, họ lại thấy một vách núi dựng đứng lên đến hai ba mươi trượng, từ phía dưới lên tới đỉnh bằng phẳng như gọt, chẳng có chỗ mượn lực leo lên. Lý Song Song thầm kêu: “Khổ đây! Vách núi như thế này, mình và Bạch Thái Quan còn có thể lên, làm sao có thể mang theo một người”. Người dẫn đường phía trước đi quanh một vòng, chợt thấy trên vách đá đối diện có cây cổ tùng ngàn năm cành lá xum xuê, dây leo bám trên cây tùng đung đưa theo gió. Người dẫn đường nói: “Chúng ta đã đến Thiên Trượng nham!” rồi lấy ra một sợi dây mềm, trên đầu sợi dây có buộc một cái móc sắt, y ném về phía trước, chiếc móc bám vào cây cổ tùng, rồi phóng vọt người bay lên cây tùng. Té ra khinh công của người ấy tuy cao nhưng cũng chưa đến mức lư hỏa thuần thanh nên đã chuẩn bị dây thừng. Lý Song Song mỉm cười, chỉ những sợi dây leo trên cây cổ tùng nói: “Có những dây leo này, chúng ta không cần lo!” Bạch Thái Quan phóng vọt người lên, tóm được một sợi dây, đu người lên trên cây tùng! Lý Song Song nói: “Đường huynh đệ, chuẩn bị đấy nhé!” rồi hai tay phân ra, hai chân điểm xuống đất phóng vọt người lên tóm lấy sợi dây rồi đột nhiên chàng ta đảo người chúc đầu xuống. Đường Hiểu Lan kêu hoảng, lúc này Lý Song Song đã kẹp hai chân vào sợi dây thừng, hai tay buông xuống, nói: “Lên!” Đường Hiểu Lan còn đang kinh hãi, chợt chàng hiểu ra! Khinh công của Lý Song Song cực kỳ giỏi, tư thế của đẹp đẽ lạ thường. Đường Hiểu Lan chợt nhớ lại khi gặp Lữ Tứ Nương ở Mang Sơn, nàng ta đã từng thi triển khinh công với Liễu Tiên Khai, đã cõng mình leo lên sườn núi, nay nhìn lại Lý Song Song cũng làm y như thế! Thế rồi chàng phóng vọt người lên, nắm lấy bàn tay mềm mại của Lý Song Song phóng lên vách núi.


Người dẫn đường thấy họ không dùng dây thừng mà phóng lên vách núi, trong lòng đã khâm phục, chẳng cố ý làm khó nữa mà dắt họ đi theo một con đường nhỏ lên tiếp phía trên.


Phong cảnh trên núi khác hẳn phía dưới, ba người lên đến Thiên Trượng nham, chợt cảm thấy tâm hồn thơ thới, bên trên cây cối xum xuê, đưa mắt nhìn ra xa thấy Hoàng Hải, biển rộng trời cao, thuyền buồm thấp thoáng. Lý Song Song nói: “Không ngờ nơi đây còn đẹp hơn cả Nhạn Thang Thiên đài”. Nhạn Thang Thiên Đài là hai ngọn danh sơn ở Trung Hoa, Bạch Thái Quan cười nói: “Nhạn Thang Thiên Đài cao đến trọc trời, hùng vĩ tú lệ. Ngọn núi này tuy cao nhưng phía xa xa là biển cả, bởi vậy mất vẻ hùng vĩ. Nếu nói một cách sinh động, Nhạn Thang Thiên Đài là danh tướng, trong lòng có thể chứa trăm vạn hùng binh, ngọn núi này thì như giang hồ hào khách, tuy hùng tâm vạn trượng nhưng rốt cuộc vẫn không lớn”. Lý Song Song biết chàng ta mượn núi chỉ người, ý muốn nói đến Ngư Xác, chỉ chứ không nói còn người đi đường thì biến sắc.


Bọn họ lại đi được nửa dặm, chợt phía trước có một tòa lầu cao, tường đỏ cao cao, bày đầy tật lê, ở giữa có một tòa môn lâu sáng ngời, dưới môn lâu có hai cánh cửa sắt lớn, xung quanh có hàng trăm võ sĩ đao kiếm tuốt ra sáng trưng, ba người chẳng hề sợ hãi, cứ hiên ngang đi thẳng qua rừng đao kiếm ấy bước vào một con đường dài, đi một lát đã vào vườn hoa, trong vườn bài trí rất khéo léo, nào là hòn non bộ, đình đài lầu tạ, lại còn có cả hồ nước khắp nơi trong vườn đều có hoa sơn trà. Đường Hiểu Lan thầm nhủ Ngư Xác đại vương quả nhiên biết hưởng thụ, có thể xây được một tòa nhà rộng lớn như thế này, quả thật không biết phải tốn bao nhiêu nhân lực vật lực!


Người dẫn đường vạch rèm, cao giọng kêu: “Quý khách đến!” Ngư Xác đại vương bên trong lên tiếng: “Mời khách vào ngồi!” lúc này vầng trăng đã lên cao quá đỉnh đầu, bên trong chợt một ả nô tỳ tóc dài tay cầm đèn bước ra đón khách!


Ba người vào trong sảnh, chỉ chợt thấy mắt như muốn hoa lên, bên trong toàn là kỳ trân dị bảo, món nào cũng có giá trị liên thành, dù là khảm trải dưới nền hay màn cửa sổ cũng đều đính châu ngọc, bên trong sảnh đã bày sẵn mấy bàn rượu.


Ngư Xác đại vương cười ha hả, đứng dậy nói: “Ba vị anh hùng quả nhiên không lỡ hẹn, bên trong có vài bằng hữu trên giang hồ, xin mời mọi người gặp mặt luôn thể!” Đường Hiểu Lan nhìn Ngư Xác đại vương, lúc này ông ta khác hẳn đêm trước, trên người khoác bộ áo bào bằng gấm có đính mảnh châu, đầu đội mũ thiên bình, trông giống với một bậc vương giả, đâu còn hình bóng của một lão ngư phu đêm qua? Trong sảnh có mấy chục người đang ngồi, thấy Bạch Thái Quan bước vào thì đứng dậy kêu lớn: “Người trong Giang Nam bát hiệp không ngại đường xa đến đây. May mắn, may mắn!” Đường Hiểu Lan đưa mắt nhìn, không khỏi thất sắc!


Trong số khách khứa có hai ông già gầy ốm mặt mũi vàng ệch, mặc bộ đồ bằng vải vàng, sắc mặt chẳng hề có tình cảm, đó chính là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích và Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô!


Tát Thiên Thích thấy Đường Hiểu Lan bước vào, chợt trợn mắt vươn tay tóm tới, miệng quát: “Tên phản đồ nhà ngươi còn dám gặp ta!” Bạch Thái Quan giơ tay gạt lại, Lý Song Song chợt nói: “Móng tay có độc!” Bạch Thái Quan biến chưởng thành trảo, hai ngón móc vào cổ tay của Tát Thiên Thích, Tát Thiên Thích vận chưởng đẩy ra, hai người thối lui mấy bước! Cổ tay của Tát Thiên Thích đau nhói tựa như chạm vào lửa, Bạch Thái Quan cũng thấy tức ngực tựa như bị búa sắt giáng vào, hai người chỉ mới đổi nhau một chiêu thì biết đối phương là cao thủ thuộc hàng nhất đẳng trong võ lâm. Ngư Xác đại vương trường mắt nói: “Sao? Tên tiểu tử này là đồ đệ của ông?” Đường Hiểu Lan lên tiếng: “Tôi không phải là đồ đệ của lão ma đầu, sư phụ của tôi là Châu Thanh và Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh!” Ngư Xác đại vương kều ồ một tiếng, gằng giọng nói: “Có lời gì lát nữa hẳn tính, tất cả mọi xích mích đều được giải quyết”. Thần Ma song lão vừa thấy có người của Giang Nam bát hiệp, lại nghe Ngư Xác đại vương nói như thế cũng không dám làm càn!


Mọi người ngồi vào chỗ, Ngư Xác đại vương mời ba người ngồi lên ghế đầu, ở ghế đầu có hai chỗ trống, Ngư Xác ngồi ở giữa, Thần Ma song lão cũng ngồi xuống, ngoài ra còn có bốn người ngồi cùng, Ngư Xác đại vương giới thiệu: “Bên phải là Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai, người kia là Hải Vân hòa thượng núi Ngũ Chỉ! Hai người bên trái, một người là Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công, một người là Thiên Diệp Tản Nhân ở biển Tinh Tú!” tiếp theo là giới thiệu Thần Ma song lão và bọn ba người Bạch Thái Quan. Bạch Thái Quan và Đường Hiểu Lan vừa nghe đã thất kinh, hai người này đều là nhân vật lừng lẫy trong võ lâm. Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai tinh thông thủy tính, công phu dưới nước có một không hai trên đời! Hải Vân hòa thượng là kiếm sư danh lừng miền Nam Cương, ẩn cư ở núi Ngũ Chỉ trên biển Nam Hải, hơn hai mươi năm qua chưa từng đến Trung thổ. Hỏa vân động chủ Long Mộc Công kẻ đã giết Châu Thanh là đồ đệ của lão ta. Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công là phó thủ của Ngư Xác, có sở trường Thiết Sa chưởng, đôi Nga Mi thích là loại binh khí ngoại môn sử dụng dưới nước và trên bờ, võ nghệ chẳng khác gì Ngư Xác, Thiên Diệp Tản Nhân ở biển Tinh Tú thì không ai biết lai lịch của y, nhưng nhìn lão tóc đã bạc mà mặt vẫn còn trẻ trung hồng hào, vừa nhìn đã biết là người có nội công thâm hậu. Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Cao thủ võ lâm thuộc hàng nhất đẳng đều tề tụ ở đây, dù Lý Song Song và Bạch Thái Quan cao cường đến mức nào cũng không chống trả nổi”. Khi nhìn lại hai người Bạch, Lý, chỉ thấy Bạch Thái Quan mặt chỉ hơi biến sắc còn Lý Song Song vẫn thản nhiên cười nói như thường!


Thiên Diệp Tản Nhân ngồi xuống, nhìn vào ghế đầu, lạnh lùng hỏi: “Sao đến giờ vẫn chưa thấy khách chính tới?” Thiên Diệp Tản Nhân võ công trác tuyệt, lần đầu đến Trung Nguyên, tưởng rằng y là khách chính, nào ngờ chủ nhân lại không mời y, trong lòng thấy không vui!


Ngư Xác đại vương mời mọi người ngồi vào chỗ, các Trại chủ lớn nhỏ khác và khách khứa cũng chia nhau ngồi hai bên, Ngư Xác đứng dậy nói: “Xin mời Cáp tổng quản!” Bạch Thái Quan thấy ghế đầu còn trống, chàng ta cũng không vui, thầm nhủ: “Té ra chỗ đó không phải giành cho mình mà còn có khách chính khác, không biết là nhân vật thế nào?”


Ngư Xác đại vương vừa lên tiếng, tiếng nhạc bên ngoài vang lên, trong chốc lát một đám nữ tỳ xinh đẹp đưa một hán tử cao lớn tuổi khoảng bốn mươi vạch rèm tiến vào. Người này ăn mặc theo kiểu người Hồi, ở bên eo có đeo hai trái cầu, y đưa mắt nhìn xung quanh rồi bước lên ghế đầu, Thần Ma song lão đứng dậy trước, bọn Mạnh Võ Công và Vệ Dương Oai cũng đứng dậy theo. Chỉ có Thiên Diệp Tản Nhân và Hải Vân hòa thượng chỉ hơi khom mình làm lễ. Đường Hiểu Lan vừa nhìn thấy người ấy thì thất kinh, khẽ nói với Lý Song Song: “Tôi nhận ra người này”. Lý Song Song và Bạch Thái Quan đều ngạc nhiên, thấy bước đi của người ấy mạnh mẽ, ánh mắt sáng quắc, võ công chắc chắn rất thâm hậu, nhưng luận về vai vế chắc là kém hơn Thần Ma song lão, không biết sao lại được ngồi ở ghế đầu. Thấy Đường Hiểu Lan biết lai lịch của y nên vội vàng hỏi. Đường Hiểu Lan nói: “Y là nô bộc của một bằng hữu mới quen!” Bạch Thái Quan hơi nhíu mày, lấy làm bực bội vì Đường Hiểu Lan nói đùa ngay lúc này. Không ngờ kẻ ấy vừa mới bước lên ngồi đã đứng dậy, đưa tay về phía Đường Hiểu Lan nói: “Đường huynh đến đây dự yến, may mắn, may mắn!” Đường Hiểu Lan cũng cười hòi: “Vương công tử có khỏe không?” người ấy cung kính đáp: “Khỏe! Đa tạ đã quan tâm”. Điều này không những khiến Bạch Thái Quan và Lý Song Song bất ngờ mà ngay cả Ngư Xác đại vương cùng tất cả các võ lâm cao thủ đều thầm lấy làm lạ! Thần Ma song lão mặt chợt biến sắc!


Ngư Xác đại vương đích thân rót một chén rượu, trịnh trọng nói: “Đây là đệ nhất cao thủ ở kinh sư tên gọi Cáp Bố Đà, Cáp tổng quản!” Lý Song Song và Bạch Thái Quan tuy không biết lai lịch của người này nhưng cũng buột lên tiếng: “Ngưỡng mộ từ lâu!” Cáp Bố Đà ngồi xuống, hỏi: “Hình như còn một người vẫn chưa tới?” Ngư Xác đại vương nói: “Bảo quốc thiền sư hơi trễ một lát, chúng ta cứ bắt đầu trước!” Bạch Thái Quan lại ngạc nhiên, bởi vì chàng ta chưa bao giờ nghe tên Bảo quốc thiền sư.


Rượu được ba tuần, tiếng nhạc bên ngoài lại vang lên, Cáp Bố Đà bưng bình rượu, rót rượu cho Ngư Xác, nghiêm mặt nói: “Xin chúc mừng đại vương!” tiếng hoan hô dậy lên như sấm động. Ngư Xác đại vương mặt mày rạng rỡ, thong thả nói: “Huynh đệ tài hèn đức mọn, được các vị giúp đỡ dựng nên cơ nghiệp này, lại được Tứ hoàng gia thương mến, cho phép xưng vương ở ngoài biển. Hôm nay khai phủ, mở tiệc mời cao hiền, ngày sau có chuyện lớn cần các vị giúp đỡ, mong được chỉ giáo!” Bạch Thái Quan tức giận, thầm nhủ: “Té ra ông ta không đợi Tứ bối lạc lên ngôi đã ăn mừng trước”. Thế rồi đứng dậy buột miệng nói: “Nhạc phụ đại nhân, tiểu tế có một việc muốn hỏi!” lời nói của chàng như sấm dậy, quần hào đều thất kinh! Ngư Xác đại vương lạnh lùng nói: “Bạch anh hùng, việc hôn sự đã tạm gác lại, có cao kiến gì xin chỉ giáo trước!” Bạch Thái Quan đang định lên tiếng, bên ngoài lại có tiếng ồn ào, Ngư Xác đại vương quát: “Có việc gì?” bọn thủ hạ bẩm báo: “Có một mụ ăn mày đột nhiên xông vào, mụ ta cũng đòi dự yến của đại vương!” Ngư Xác quát: “Cho bà ta vào!” rèm vạch lên, một bà già ăn mày bước vào, mái tóc óng ả như bà thiếu nữ nhưng khuôn mặt lại đầy vết chân chim, bước chân loạng choạng. Đường Hiểu Lan thấy thế thì vừa kinh vừa mừng, đây chính là bà già mà chàng đã gặp ở Vọng Hải lâu, có lẽ cây bảo kiếm Du Long của mình đã bị bà ta lấy đi rồi trả lại. Giờ đâu bà ta một mình đến nơi này, không biết là có dụng ý gì!


Ngư Xác đại vương ngang dọc nửa đời, kết giao với không biết bao nhiêu kỳ nhân dị sĩ, nhưng thấy bộ dạng của bà ta cũng không khỏi lấy làm lạ. Cáp Bố Đà đã nhận ra đó chính là bà già hôm trước, trong lòng đã thầm giới bị. Ngư Xác thầm nhủ: “Tóc tai của con người có liên quan đến khí huyết, người già cả tóc không rụng cũng bạc. Nếu biết thuật dưỡng sinh có thể giữ cho tóc đen mặt hồng hào, nhưng bà già này mặt đầy vết nhăn mà tóc óng ả như thiếu nữ thật là lạ kỳ. Vả lại ở nơi này phòng thủ nghiêm ngặt, mụ ta đột nhiên đến đây mà chẳng ai phát hiện, nếu không phải có võ nghệ kinh người chẳng thể làm nổi”. Ngư Xác đại vương hơi trầm ngâm, vội vàng bước ra nghênh tiếp! Bà già cười ha hả: “Ngư Xác đại vương quả nhiên rộng lượng, không trách lỗi mà còn mời tôi uống rượu. Hôm nay tôi leo lên ngọn núi này chẳng phí công”. Thế rồi giằng mạnh cây gậy xuống đất nghênh ngang bước tới ghế đầu.


Ngư Xác đại vương thất kinh, bởi vì chỗ ấy đang đợi khách quý làm sao có thể để cho một mụ ăn mày ngồi vào? Y lộ vẻ khó xử, cười rằng: “Xin mời lão thái thái qua bên kia”. Rồi dắt bà ta đến chỗ người ở phía Tây, bà ta không hề dừng bước, chợt chỉ Đường Hiểu Lan nói: “Ta hẹn ngươi ngày mai, hôm nay ngươi đến đây làm gì?” Đường Hiểu Lan thất kinh: “Quả nhiên vị kỳ nhân lấy kiếm trả kiếm chính là bà già ăn mày này”. Chàng ta vội vàng đứng dậy, cung kính nói: “Mong lão tiền bối đừng trách, chính Ngư Xác đại vương đã mời vãn bối đến dự yến!” bà già giằng cây gậy, chợt mắng: “Hừ, vãn bối cái quái gì! Tên khốn kiếp nhà ngươi cả xưng hô mà chẳng rõ ràng! Sư phụ của ngươi không cho ngươi biết vai vế của bổn môn sao?” Đường Hiểu Lan kinh hoảng muôn phần, Ngư Xác đại vương cười rằng: “Vị tiểu ca này là vãn bối của bà sao? Không biết lão thái thái và Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh xưng hô thế nào?” bà già cười ha hả: “Cái gì mà thiết chưởng với chẳng thiết chưởng, ta chỉ biết tên tiểu tử này quá lắm chỉ là đồ tôn của ta!” Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai ngạc nhiên nói: “Tại sao nói là ‘quá lắm’, cả bà cũng không biết rõ vai vế sao?”


Bà già giằng cây gậy, nói với vẻ kể cả: “Sao ta lại không hiểu, hôm trước ta mới gặp được hắn. Trước khi gặp hắn, ta cũng không định nhận hắn là đồ tôn! Có lẽ y còn thấp hơn đồ tôn của ta một bậc!” mọi người đều là bậc tiền bối trong võ lâm, hoặc tôn sư của một phái, nghe thế đều nhíu mày. Dương Trọng Anh tuổi quá năm mươi, lớp người trên ông ta đã qua đời, sao tự dưng lại xuất hiện bà già ăn mày này, rõ ràng bà ta đã nói dối. Ngư Xác lại nhớ Đường Hiểu Lan còn có một sư phụ nữa là Châu Thanh, ông ta chợt nhớ một người, không khỏi thất sắc, nhưng đây là người sống vào đầu thời Khang Hy, mấy mươi năm qua chẳng có tin tức, Ngư Xác cũng chỉ nghe các bậc tiền bối nhắc đến tên của bà ta. Chả lẽ bà ta còn sống? Đang hoài nghi, bà già ăn mày lại nói: “Sao đồ tôn của ta mà ngươi cũng mời lên ghế đầu, chả lẽ ngươi để ta ăn theo hắn ư?”


Đường Hiểu Lan lúng túng, vội vàng hành đại lễ với bà già, toàn trường đều kinh ngạc! Cáp Bố Đà càng thêm thất sắc! Y mới nhận bằng hữu với Đường Hiểu Lan, giờ đây bỗng dưng lại xuất hiện một bà già, theo lễ tiết giang hồ, y đã bị tuột xuống ba bậc. Hải Vân

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Giang Hồ Tam Nữ Hiệp
Hồi 8 Kiêu hãnh cười đời một mình xông vào tiệc Kiếm kinh đại tặc thiếu nữ lộ oai thần




Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai cười rằng: “Liễu Ân đại sư, công phu ám khí của lệnh sư đệ quả nhiên là thần kỷ, đạo sĩ còn nói không được, hình như không công bằng lắm!” Liễu Ân hừ một tiếng nói: “Ngươi đúng là hiểu biết nông cạn!” rồi quay sang Bạch Thái Quan nói: “Hoa là chết, người là sống! Mai Hoa châm của ngươi chỉ có thể đánh kẻ phàm phu tục tử, chẳng thể làm gì được người có võ công hơi cao!” Bạch Thái Quan trả lời: “Sư huynh nói phải!” nhưng trong lòng lại chẳng phục! Người khác đánh Mai Hoa châm nhiều nhất chỉ có thể hơn ba trượng, còn chàng lại có thể phóng hơn năm trượng, vả lại có thể tùy ý muốn phóng vào chỗ nào sẽ trúng ngay chỗ đó khiến người ta khó phòng nổi, Liễu Ân lại bảo ám khí của chàng không thực dụng, chàng làm sao có thể phục nổi?


Liễu Ân liếc Bạch Thái Quan, lạnh lùng nói: “Ngươi không phục ư? Ta đứng ra đây cho ngươi phóng thử xem sao!” Bạch Thái Quan nói: “Tiểu đệ không dám!” Liễu Ân cười lạnh nói: “Lúc nãy ngươi còn đem lời dạy của sư phụ ra, giờ sao lại không dám? Hơn nữa ngươi học nghệ chưa thành, làm sao có thể đả thương ta?” Bạch Thái Quan nghe y khích như thế, lửa giận lại bốc lên, thầm nhủ: “Xem ra đại sư huynh đã theo giặc, như thế y chính là kẻ địch của mình, cần gì phải luận tình huynh đệ với y nữa?” thế rồi mới bước ra nói: “Mong đại sư huynh để ý!” Liễu Ân bước ra giữa sảnh, khách khứa đều lui đến góc tường, Liễu Ân giằng cây thiền trượng, chợt nói: “Thong thả đã!” rồi vẫy tay nói với Ngư Xác: “Ông có ám khí không?” Ngư Xác cười rằng: “Món gì tôi cũng có, đại sư cần loại gì?” “Cứ đem ra cả đây, ông hãy bảo người đem hai túi ám khí ra!” Ngư Xác đại vương quả nhiên bảo người khiêng ra hai túi ám khí, Liễu Ân đặt một túi ám khí trước mặt Bạch Thái Quan, một túi lại chia cho bọn vệ sĩ, nói: “Thái quan, ngươi dùng hết Mai Hoa châm có thể lấy ám khí trong túi!” lúc này Bạch Thái Quan mới biết y chuẩn bị túi ám khí ấy cho mình, lòng rất tức giận.


Liễu Ân hòa thượng múa tít cây thiền trượng quanh đầu kêu lên vù vù, nến đặt trên bàn tiệc đều tắt ngấm, những ngọn đèn lồng cũng lập lòe chực tắt, Liễu Ân kêu lên: “Ngươi phóng tới đi!” Bạch Thái Quan vung tay lên, chỉ nghe tiếng soạt soạt vang lên, Mai Hoa châm tựa như rơi vào biển khơi, Liễu Ân hòa thượng múa cây thiền trượng thành một vòng tròn kín kẽ đến gió mưa không lọt. Bạch Thái Quan thầm nhủ: “Với công lực của sư huynh, Mai Hoa châm quả thực khó đành vào”, đang định dùng mẹo, trượng pháp của Liễu Ân chợt chậm lại, Đông điểm một trượng, Tây điểm một trượng, môn hộ mở rộng, Bạch Thái Quan thấy thế lập tức vung hai tay lên, hai nắm Mai Hoa châm phóng tới như mưa, nếu là người khác chắc chắn sẽ trở thành một con nhím! Liễu Ân hòa thượng đứng ở giữa vòng tròn chẳng hề nhúc nhích nửa bước, thiền trượng cũng không nhanh hơn, Mai Hoa châm phóng vào chẳng hề có tiếng va chạm, khi bay đến gần vòng trượng chợt mất tăm như rơi vào biển khơi. Bạch Thái Quan cả kinh, thầm nhủ: “Mai Hoa châm rất nhỏ, phải dùng loại khí khác xem sao”. Thế rồi chợt có loại ám khí trong túi liên tục phóng ra. Liễu Ân cả cười nói: “Vẫn chưa thống khoái, Ngư Xác đại vương, ông hãy sai thuộc hạ cùng phóng ám khí đến đây!” Ngư Xác phẫy tay, các loại ám khí phóng tới như mưa, chỉ thấy cây thiền trượng tóe lửa, kêu lên leng keng, một hồi sau, ám khí càng lúc càng ít, không những Bạch Thái Quan đã không còn Mai Hoa châm mà ám khí trong túi cũng đều hết nhẵn.


Lúc này đèn đuốc được thắp sáng trở lại, toàn trường đều hoan hô, mọi người bước ra xem cho rõ ràng, ai nấy đều kêu lên: “Liễu Ân đại sư quả đúng là người trời tuyệt thế vô song, chúng tôi bái phục!” Liễu Ân hòa thượng mặt hớn hở, cầm ngang cây thiền trượng đứng yên. Dưới đất là một đống sắt thép nát, ám khí trong hai túi vỡ thành vô số mảnh nhỏ, trên ngọn thiền trượng cũng kết thành một trái cầu đen thui, Bạch Thái Quan chẳng nói lời nào, những loại ám khí bình thường bị trượng phong của y đánh vỡ thành từng mảnh chẳng có điều gì kỳ lạ, còn Mai Hoa châm của chàng rất nhẹ, hầu như vô ảnh vô hình, thế mà đã bị cây thiền trượng của y hút chặt! Liễu Ân hòa thượng thổi phù một tiếng, trái cầu trên cây thiền trượng vỡ thành từng mảnh nhỏ rơi xuống đất. Mọi người đều kinh hãi, Liễu Ân cười rộ, lớn giọng nói: “Thái Quan, ngươi có phục chưa?” Bạch Thái Quan nói: “Sư huynh võ công trùm đời, tiểu đệ nào dám không phục! Chỉ là...” Liễu Ân nói: “Chỉ là thế nào? Có phải chỉ là ngoài võ công, ngươi còn không phục điều khác?” Bạch Thái Quan ưỡn ngực nói: “Nếu sư huynh phản bội lời dạy của sư phụ, tiểu đệ vạn lần không phục!” Liễu Ân hừ một tiếng, cả giận nói: “Ta muốn ngươi hiểu rõ đại thế, biết thuận nghịch, theo Ngư Xác đại vương phù trợ Tứ bối lạc lên ngôi. Không những là ngươi, tất cả đồng môn đều phải nghe lời ta”. Bạch Thái Quan nói: “Lẽ nào đại sư huynh chẳng màng đến lời dạy của sư phụ?” Liễu Ân cười lạnh: “Lời dạy gì? Sư phụ đã chết, chỉ còn một mình ta! Nếu ngươi không theo thì hãy gọi đồng môn đến lý luận với ta! Lý lẽ của ta chính là cây thiền trượng này! Bạch Thái Quan, ngươi cũng lớn gan lắm, dám đối chọi với sư huynh, ngươi quỳ xuống nhận lãnh gia pháp trước!” Bạch Thái Quan vừa tức vừa lo, mấy năm không gặp mà võ công của Liễu Ân lại cao hơn rất nhiều, lúc nãy y có thể dùng thiền trượng hút ám khí đã đủ thấy y đã luyện đến mức đăng phong tạo cực, đừng nói là mình không phải là đối thủ của y, dù gọi tất cả đồng môn đến cũng chưa chắc đấu được y, vì thế trận này sẽ thua chắc, Liễu Ân hòa thượng lại mắng: “Bạch Thái Quan, ngươi có quỳ xuống hay không?” chợt một tiếng cười lạnh, có người nói: “Thật vô sỉ! Xương cốt của sư phụ chưa lạnh mà đã bức hiếp đồng môn!” Liễu Ân trợn mắt quát hỏi: “Ai dám vô lễ trước mặt ta!” nói chưa dứt, một người cười hì hì nhảy ra, lớn giọng nói: “Độc tý thần ni bảo ta đến quản giáo tên nghiệt đồ nhà ngươi!” vừa nghe câu ấy, mọi người đều biến sắc, tất cả mọi ánh mắt đều tập trung về phía người này! Người này mắt thanh mày tú, trông ra chỉ là một thư sinh yếu ớt nho nhã! Đó chính là Lý Song Song!


Liễu Ân hòa thượng thấy chàng ta là một kẻ vô danh tiểu tốt, tuy tức giận nhưng không thể lập tức phát tác. Dẫu gì y cũng là người đứng đầu Giang Nam bát hiệp, làm sao có thể đôi co với kẻ hậu bối? Rồi y cố kìm giận, cười lạnh nói: “Độc tý thần ni nhờ tên tiểu tử nhà ngươi đến quản giáo ta. Ta muốn hỏi ngươi là đệ tử của ai? Xuất sư từ khi nào? Ngươi miệng còn hôi sữa mà đã dám nói càn! Ta phải bắt sư phụ của ngươi đến, trị tội không biết dạy đồ đệ!” mọi người đều cười lớn vì cho rằng chàng thiếu niên yếu đuối ấy khoác lác, dám đòi quản giáo Liễu Ân hòa thượng giùm Độc tý thần ni. Liễu Ân võ công trùm đời, nếu Độc tý thần ni có di lệnh, lẽ ra phải nhờ bậc cao nhân tiền bối, tôn sư trong võ lâm chứ sao lại nhờ một thiếu niên yếu đuối miệng còn hôi sữa?


Lý Song Song vẫn thản nhiên, tiếng cười vừa dứt thì chàng ta đã lạnh lùng nói: “Liễu Ân, ngươi dám bắt sư phụ ta? Dù ngươi có bản lĩnh to bằng trời, thấy sư phụ ta ngươi cũng phải quỳ xuống xin tội!” Liễu Ân tức giận nói: “Sư phụ ngươi ở đâu, hẹn ngươi ba tháng dắt y tới gặp ta, ngươi dám không tuân lệnh, ta sẽ phanh thây xẻ thịt ngươi! Ngươi đụng đến ta chính là đụng đến Diêm vương, có chạy đằng trời cũng chẳng thoát! Ba tháng sau ta bảo sư phụ ngươi đến đảo Điền Hoành, nghe có rõ không?” Lý Song Song bật cười: “Lúc này sư phụ ta đang ở đây, cần gì đến thời hạn ba tháng?” Liễu Ân đưa mắt nhìn toàn trường, kêu: “Ra đây!” Lý Song Song giơ cao tay phải, quát: “Quỳ xuống!” trên tay là một mảnh kim bài, Liễu Ân thấy mặt biến sắc!


Mảnh kim bài này chính là di vật của Độc tý thần ni, trên có khắc mười điều giới quy, trong ngày nhập môn, Giang Nam bát hiệp đã từng nghe sư phụ cầm mảnh kim bài này đọc mười điều giới quy, nghe xong ai cũng phải quỳ xuống! Độc tý thần ni tuy đã chết nhưng oai thế vẫn còn, Liễu Ân thấy mảnh kim bài không khỏi cả kinh, mặt biến sắc! Mọi người thấy thế đều lấy làm lạ, xem ra kẻ này là do Độc tý thần ni phái tới! Ngư Xác thấy thế vội vàng khẽ nói bên tai Liễu Ân: “Nếu đại sư chịu lép trước tên tiểu tử này, há chẳng phải khiến cho thiên hạ anh hùng đều chê cười sao?”


Liễu Ân nghe nhắc thế thì không còn sợ hãi nữa, ác niệm lại nảy ra! Y thầm nhủ: “Mảnh kim bài tuy là di vật của sư phụ, nhưng sư phụ đã chết, trên đời này chẳng ai chế phục nổi mình, cần gì phải sợ y?” Lý Song Song quát: “Ngươi dám khi sư diệt tổ? Còn chưa quỳ xuống?” Liễu Ân chợt quát một tiếng, vỗ vù tới một chưởng toan đánh nát mảnh kim bài, Lý Song Song vung tay trái, tay phải đút mảnh kim bài vào áo, chưởng phong quét tới, khăn trùm đầu Lý Song Song sổ tung ra, lộ ra mái tóc óng ả, Bạch Thái Quan kêu lên: “Té ra là bát muội!”


Người cải trang thành thư sinh yếu đuối Lý Song Song chính là Lữ Tứ Nương! Đường Hiểu Lan vừa mừng vừa kinh, trong lòng xao xuyến, tim đập thình thịch! Chàng thầm nhủ: “Song Song có nghĩa là tứ, hai chữ song song rõ ràng là ngoại hiệu của Lữ Tứ Nương, mình thật ngu xuẩn không nghĩ ra ngay từ đầu”. Khi nhìn lại Lữ Tứ Nương, nàng ta vẫn bình thản đối diện với Liễu Ân!


Liễu Ân vỗ ra một chưởng không đánh ngã nổi Lữ Tứ Nương, trong lòng hơi kinh ngạc. Thế rồi y mới cầm cây thiền trượng bước ra lớn giọng nói: “Ngươi có phải là Lữ Tứ Nương, đệ tử quan môn của sư phụ không? Bổn môn xưa nay coi trọng tôn ti, lần đầu tiên gặp đại sư huynh mà sao ngươi không quỳ xuống hành lễ?” Lữ Tứ Nương hừ một tiếng, cười lạnh nói: “Ngươi không nghe lời dạy của sư phụ, đã là phản đồ của bổn môn; thấy kim bài mà không quỳ, càng vô lễ hơn. Ngươi còn dám đem môn quy ra lý luận với ta? Ngươi còn muốn làm đại sư huynh của ta?” Liễu Ân lúc tái xanh lúc đỏ ửng, thẹn quá hóa giận: “Lữ Tứ Nương, ngươi dám làm gì ta?” Lữ Tứ Nương nói: “Ta phải tuân theo di lệnh của sư phụ, triệu tập đồng môn hỏi tội ngươi! Nếu ngươi không cải tà quy chánh sẽ cắt đầu ngươi đến tế trước mộ sư phụ!” Liễu Ân nghe thế cười ha hả, chắc là đã giận đến cùng cực, nói: “Tiểu sư muội, ngươi học được mấy năm võ công mà dám phóng túng trước mặt đại sư huynh?” Lữ Tứ Nương xoay người vọt một cái vào trong trường, nói: “Liễu Ân, ta phải xem ngươi rốt cuộc học được bao nhiêu bản lĩnh của sư phụ?”


Liễu Ân hòa thượng cười rộ nói: “Ta tung hoành nửa đời mà chưa ai dám khiêu khích trước mặt ta, không ngờ hôm nay sư muội lại khiêu chiến sư huynh!” Lữ Tứ Nương rút thanh kiếm ra khỏi bao, chĩa về phía trước, mắng: “Ai là sư muội của ngươi!” Liễu Ân ngừng cười, giằng cây thiền trượng xuống quát: “Ngươi cũng không xứng khiêu chiến với ta, bằng hữu ở đây có ai thay ta bắt con tiện tì này!”


Bọn người ở đây toàn là đạo tặc trên giang hồ, cao thủ võ lâm, thấy Lữ Tứ Nương chỉ là thiếu nữ trẻ tuổi, tưởng rằng võ công vẫn còn kém, mọi người đều muốn lấy lòng Liễu Ân, không hẹn mà đều rút binh khí nhảy vọt ra, Lữ Tứ Nương vẫy thanh kiếm, ánh hàn quang lóe lên, cười lạnh nói: “Bọn vô sỉ, muốn quần đả sao?” những kẻ ấy đều là người có tên tuổi trên giang hồ, nghe thế thì khựng lại, đồng thời rụt tay, lúc này Cáp Bố Đà chợt nói: “Muốn đánh nhau hãy ra bên ngoài!” y nói câu ấy tuy không lớn nhưng đều vang lên trong tai của mọi người, tựa như có người kề sát bên tai mình quát lớn, đúng là như sét đánh ngang tai, người đứng bên ngoài cũng nghe như sấm nổ giữa trời xanh. Thế là mọi người lặng hẳn, quần hùng lúc này mới biết sở dĩ Cáp Bố Đà được xếp vào hàng thượng khách là bởi võ công cao cường chứ không chỉ nhờ vào thế lực. Lữ Tứ Nương thấy Cáp Bố Đà thi triển nội công, dùng công phu Sư tử hóng trấn áp quần hào, nàng hít sâu một hơi, đang định trả đũa, Thiên Diệp Tản Nhân đã nhảy ra: “Cáp tổng quản nói rất đúng! Ở đây toàn là bậc anh hùng trong võ lâm, bởi vậy không thể quẩn đả. Lão hủ tuy bất tài nhưng cũng mong mở đường cho các vị anh hùng” nói xong nhảy ra giữa trường, cung tay vái xung quanh, kình phong chợt thổi mạnh, chỉ nghe cửa sổ pha lê vỡ răng rắc, Thiên Diệp Tản Nhân hú một tiếng, toàn bộ cửa sổ bằng pha lê đều đã bật ra, bên ngoài hoa rơi xuống đất, cây cối ngã rạp sang hai bên, tựa như có người đã dụng công mở ra một lối nhỏ! Chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân lợu hại đến mức ấy, rõ ràng có thể đánh rạp cỏ cây trong vòng ba mươi trượng mà pha lê không vỡ, đừng nói là các Trại chủ lớn nhỏ, dù có cao thủ như Liễu Ân, Cáp Bố Đà, Lữ Tứ Nương và Hải Vân hòa thượng cũng đều bất ngờ, lập tức tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy. Thiên Diệp Tản Nhân đắc ý dương dương cùng Ngư Xác bước ra khỏi sảnh.


Bạch Thái Quan thấy bọn người ở đây ai nấy đều võ công tinh thâm, không khỏi lo lắng, khẽ nói với Lữ Tứ Nương: “Bát muội cẩn thận!” Lữ Tứ Nương đang tính toán làm thế nào để thoát hiểm, chợt thấy bà lão ăn mày nở nụ cười lạnh cũng bước theo mọi người, nàng muốn chạy đến chào hỏi, bà ta đã lẩn vào trong đám người, đi bên cạnh Thiên Diệp Tản Nhân.


Mọi người ra khỏi sảnh, vòng qua hòn giả sơn đến một mảnh sân rộng, ở sân đã có bày sẵn binh khí. Mọi người đứng vây thành một vòng tròn, Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan và Đường Hiểu Lan ngồi ở một nơi, Cáp Bố Đà, Liễu Ân, Ngư Xác ngồi ở đối diện, Ngư Xác đứng dậy nói: “Bạch Thái Quan, Lữ Tứ Nương ỷ mạnh phạm thượng, không phục sư huynh, Bảo quốc thiền sư không hề động thủ với kẻ tiểu bối, giờ đây theo quy củ võ lâm, một chọi một để phân thắng bại, anh hùng nào thay Bảo quốc thiền sư ra quản giáo tiểu bối?” nói vừa xong, Liễu Ân đã chợt nói: “Hãy thong thả!” Ngư Xác đại vương nói: “Bảo quốc thiền sư còn có điều gì chỉ giáo?” Liễu Ân nói: “Tôi đã từng phụng lệnh sư phụ khảo hạch võ công của đồng môn, Lữ Tứ Nương, ngươi là đệ tử quan môn của sư phụ ta, lại đưa lời răn của sư phụ ra đối chọi với ta, hôm nay mới gặp, ngươi không bái sư huynh thì thôi, nhưng cũng phải mang võ công đã học ra luyện cho ta xem thử ngươi đủ tư cách xếp vào Giang Nam bát hiệp hay không!” theo quy củ võ lâm, sau khi sư phụ chết, nếu có phản đồ, Chưởng môn có trách nhiệm thanh ly môn hộ, mà Chưởng môn nhân đa số là đại đệ tử. Nếu Chưởng môn nhân phản bội sư môn, tất cả các đệ tử cùng quyết định, bẩm cáo trước linh tiền của sư phụ, trước tiên đuổi y ra khỏi sư môn, sau đó mới thanh lý môn hộ. Giờ đây Lữ Tứ Nương có lệnh của sư phụ, tuy có thể tùy tiện hành sự nhưng cũng phải công cáo cho thiên hạ mới có thể phủ định thân phận của Liễu Ân, nếu không võ lâm đồng đạo vẫn thừa nhận Liễu Ân là người đứng đầu Giang Nam bát hiệp. Giờ đây Liễu Ân dùng thân phận đại sư huynh khảo hạch võ công của Lữ Tứ Nương, y hoài nghi sư phụ thiên vị, không biết có truyền võ công bí quyết gì cho Lữ Tứ Nương hay không, bởi vậy muốn xem công lực của nàng trước. Còn Bạch Thái Quan lại nghĩ rằng y cố ý làm khó, lăng nhục mình chưa đủ, lại còn muốn lăng nhục cả sư muội. Mọi người nghe thì nghĩ rằng Liễu Ân tuy nghênh ngang phách lối nhưng lời lẽ cũng rất có lý.


Lúc này toàn trường đều tập trung chú ý tới Lữ Tứ Nương, xem thử nàng có chịu lép hay không. Họ cũng muốn xem công phu của nàng như thế nào. Lữ Tứ Nương cười lạnh, Liễu Ân mắng: “Ngươi cười cái gì? Rốt cuộc ngươi có làm theo môn quy hay không?” Lữ Tứ Nương chẳng thèm màng đến, cười không ngừng, Liễu Ân lúc đầu tức giận, sau đó lại biến sắc. Tiếng cười của Lữ Tứ Nương nghe trong trẻo, chỉ thấy nàng khẽ mấp máy môi, tất cả mọi người đều nghe tiếng cười rất nhỏ, tựa như từ xa vọng lại, âm thanh trong trẻo nhưng sợi chỉ xuyên trên không trung, lúc thì chợt cao vút, tựa như tiếng cười từ trên không trung giáng xuống, một lúc sau chỉ thấy Lữ Tứ Nương cười lớn, tiếng cười vang vọng khắp nơi. Trong tiếng cười ham chứa vẻ khinh bỉ, lại như vạn mã chạy rầm rập, ngàn quân đuổi theo địch, chợt tiếng cười dần hẳn, thế nhưng dư âm vẫn còn vang mãi trong sơn cốc không ngớt!


Lữ Tứ Nương đã dùng tiếng cười để hiện lộ nội công thâm hậu của mình, tiếng cười của Lữ Tứ Nương cho thấy trung khí của nàng rất đầy đặn, nội lực thâm hậu, tuy âm thanh không mạnh nhưng Cáp Bố Đà nhưng còn cao minh hơn Sư tử hống của Cáp Bố Đà! Lữ Tứ Nương rất thông minh, nàng mượn tiếng cười lạnh để hiện lộ võ công, vừa không vi phạm môn quy, vừa thỏa mãn được yc của Liễu Ân, lại không mất thân phận của mình. Tất cả các cao thủ đều thầm khen nàng cơ trí dũng cảm. Liễu Ân tuy biến sắc nhưng cũng không làm gì được, lòng lấy làm lạ, không biết nàng tại sao có được công lực cao như thế, xem ra chẳng kém gì mình.


Lữ Tứ Nương cười xong, phóng vọt lên rút kiếm nói: “Tình đồng môn đã dứt, giờ đây ta phải thay sư phụ thanh lý môn hộ!” nàng nói vừa dứt, chợt nghe tiếng hú dài vang lên, trong trường lại xuất hiện thêm một người!


Người này đội mũ sừng dê, mình khoác cà sa màu đen, tay cầm một cây trường kiếm lạnh lẽo, người ấy lớn giọng quát: “Ta thay Liễu Ân đại sư quản giáo tiểu bối”. Người này chính là Hải Vân hòa thượng! Lúc nãy y mất mặt bởi bà già ăn mày, trong bụng đang bực bội, vốn lúc đầu y chẳng hề muốn đấu với Lữ Tứ Nương, sau đó thấy Lữ Tứ Nương hiển lộ nội công thâm hậu của chính tông huyền môn, cảm thấy đấu với nàng cũng không đến nỗi mất thân phận, bởi vậy muốn ra hạ nàng để kiếm lại chút sĩ diện.


Lữ Tứ Nương mặt lạnh như nước, nhún hai vai một cái đã lùi đến bảy tám trượng, dùng kiếm thức Vô Cực Hàm Nhất Khí, hai tay buông xuống, mắt nhìn mũi kiếm, chân đứng tấn vững như núi, tĩnh như mặt hồ, lạnh lùng nói: “Hải Vân đại sư kiếm pháp siêu đẳng, giang hồ đều biết tiếng, hôm nay chịu ban chiêu, kẻ làm vãn bối này thấy vinh hạnh vô cùng!” những câu nói này tựa như khiêm nhường nhưng bên trong rất cứng cỏi, Hải Vân hòa thượng đỏ mặt, thấy nàng cầm kiếm đứng im, công lực chẳng phải tầm thường, không khỏi thầm lo cho uy danh một đời của mình, nếu thắng thì thôi, nếu thua sẽ khó xử lắm. Trong lòng thấy chần chừ, chỉ vung kiếm lên chứ chưa dám xuất chiêu.


Lữ Tứ Nương biết đối phương lợi hại, bởi vậy mới dùng khỏe đợi mệt, chặn kín môn hộ, thản nhiên nói: “Nếu đại sư đã muốn dạy dỗ tiểu bối, xin cứ mặc sức ra tay!” mấy trăm cặp mắt đều nhìn vào, có người cười lạnh liền liền. Hải Vân hòa thượng thấy lửa giận bốc lên đầu, thầm nhủ: “Tư thế Thái cực kỳ môn của ngươi lấy khỏe đợi mệt, muốn chút phần tiện nghi, ta sẽ dùng thủ pháp sấm sét để hạ ngươi!” thế rồi tay phải cầm ngược chui kiếm, quát: “Xem kiếm!” một luống kình phong quét vù tới, Lữ Tứ Nương vẫy mũi kiếm lật lên, đánh ra một chiêu Diệu Thủ Trích Tinh, chặn vào cây trường kiếm của Hải Vân hòa thượng, thuận thế xỉa vào phía trước, mũi kiếm đâm vào vai của y, Hải Vân hòa thượng vừa ra tay đã bị nàng chiếm mất tiên cơ, thế là vội vàng xoáy mũi kiếm, chỉ trong chớp mắt đã hóa giải mũi kiếm của Lữ Tứ Nương, y đột nhiên thâu chiêu, xoay người hai vòng, chợt kiếm quang mở rộng bọc Lữ Tứ Nương vào ở giữa.


Hai người vừa đánh một chiêu đều biết đối phương là kẻ cực kỳ lợi hại, lúc này mới phát động thế công, lấy nhanh chế nhanh, trong khoảng sát na đã đánh nhau đến hơn năm mươi chiêu mà chẳng phân được thắng bại. Lữ Tứ Nương cảm thấy kiếm pháp của đối phương rất quái dị, lúc ở phía trước, lúc lại phía sau, lúc bên trái, lúc chợt bên phải, thầm nhủ: “Chả trách nào tên này danh lừng Thiên Nam, kiếm pháp quả nhiên khác hẳn Trung thổ”. May mà Lữ Tứ Nương khinh công cực giỏi, thân pháp lanh lẹ, tuy chưa biết cách phá nhưng cũng không đến nỗi thất bại.


Đấu một hồi nữa, Hải Vân hòa thượng tấn công không ngớt, chiêu nào cũng hiểm hóc lại biến hoa đa đoan. Lữ Tứ Nương chợt du tẩu xung quanh như bươm bướm xuyên hoa, tà áo trắng phất phới, khi đến lúc nhanh chỉ thấy một bóng trắng lượn lờ trong trường! Trong màn kiếm quang bao bọc, người ta đã dần dần không phân biệt được đâu là bóng kiếm với bóng người nữa, các cao thủ trong trường thấy Lữ Tứ Nương du tẩu né tránh, thủ nhiều công ít đều nghĩ rằng khí lực của nàng không đủ nên dùng thân pháp khéo léo để kéo dài cuộc đấu, thừa cơ phản công. Chỉ là kiếm pháp của Hải Vân hòa thượng nhanh như sấm sét, chỉ nhờ nhảy nhót né tránh làm sao ứng phó nổi?


Đường Hiểu Lan kinh hoảng, lòng bàn tay toát mồ hôi, giật tay Bạch Thái Quan hỏi: “Lữ tỷ tỷ đấu không lại tên lừa trọc ấy làm thế nào đây?” Bạch Thái Quan thấy Đường Hiểu Lan mặt biến sắc, an ủi chàng: “Đừng sợ, sư muội còn chống trả nổi!” tuy là như thế nhưng chàng cũng rất lo lắng.


Thiên Diệp Tản Nhân rất thân thiết với Hải Vân hòa thượng, thấy Hải Vân tấn công mạnh mẽ liên tục, chiếm hết thượng phong, mừng rỡ cười rằng: “Hải Vân đại sư quả nhiên bất phàm, kiếm pháp kỳ ảo vô cùng. Nàng ta có thể cầm cự đến lúc này cũng hiếm có lắm. Không hổ là người trong Giang Nam bát hiệp”. Y nói là để lấy lòng Hải Vân và Liễu Ân. Liễu Ân chợt mỉm cười, nhíu mày không nói. Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích chợt nói: “Thiên Diệp Tản Nhân, võ công của ngươi rất giỏi, nội công của ngươi lại thâm hậu, nhưng hình không nghiên cứu kỹ kiếm pháp”. Thiên Diệp Tản Nhân nổi sùng nói: “Sao? Lẽ nào ngươi nói ta hoa mắt?” Tát Thiên Thích nói: “Không dám, không dám! Nhưng theo ta thấy, kiếm pháp của ả thiếu nữ này cao minh hơn Hải Vân đại sư một bậc!” té ra Tát Thiên Thích cũng không tinh thông kiếm pháp, chỉ là y đã từng thua Lữ Tứ Nương ở Mang Sơn, sau đó cả hai huynh đệ hợp lực mà cũng chẳng khắc chế được nàng. Đó là chuyện năm năm trước, giờ đây y thấy thân pháp của nàng còn cao minh hơn trước rất nhiều, bởi vậy y biết Hải Vân hòa thượng tấn công mạnh chính là đi vào vết xe đổ năm xưa của mình, bởi vậy mới dám như thế để khoe mẻ trước mặt Cáp Bố Đà, đồng thời hạ uy danh của Thiên Diệp Tản Nhân.


Bởi vì Thần Ma song lão được Tứ bối lạc dùng lễ quốc sư mời, tưởng rằng có thể duy ngã độc tôn, nào ngờ sau đó lại có nhiều người giỏi hơn, cả Liễu Ân hòa thượng cũng xuất hiện. Nay lại thêm Hải Vân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân, mà vai vế và võ công của Thiên Diệp Tản Nhân lại hình như hơn cả mình, sợ rằng địa vị của anh em mình càng lúc càng thấp nên mới thừa cơ làm Thiên Diệp Tản Nhân bẽ mặt. Thiên Diệp Tản Nhân nào biết Bát Tý Thần Ma lại hẹp dạ đến thế, tức giận nói: “Hình nhưng hiền côn trọng cũng chẳng phải là danh gia kiếm pháp!” Tát Thiên Thích nói: “Không phải tôi thổi phồng kẻ địch, tôi thấy Hải Vân hòa thượng trong vòng nửa canh giờ chắc chắn sẽ thất bại! Nếu Tản nhân không tin có dám cá cược với tôi không?” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Cá cược cái gì?” Tát Thiên Thích nói: “Nếu tôi nói sai, anh em chúng tôi sẽ trở về đảo Miêu Ưng”. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Được! Nếu nói sai, tôi sẽ trở về biển Tinh Tú!” hai bên đang định vỗ tay lập thệ, Cáp Bố Đà và Liễu Ân đã nói: “Cần gì phải như thế, chúng ta đều giúp Tứ bối lạc lên ngôi, làm thế rõ ràng là gà nhà đá nhau! Theo tôi thấy, chi bằng cứ đổi cách cá cược, nếu Hải Vân hòa thượng thắng thì thôi, nếu không thắng, hai vị cứ lần lượt ra đấu với ả, xem ai bắt sống được ả!” Tát Thiên Thích im lặng không nói, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Ta không thèm đấu với kẻ hậu bối. Vả lại ả này cũng chưa chắc là đối thủ của Hải Vân, cần gì ta phải ra trận!” lúc này sắc giận đã hiện trên mặt, Liễu Ân và Cáp Bố Đà vội vàng kéo hai người không để họ ngồi chung nữa. Hai bên cãi cọ xong, lại tiếp tục nhìn vào trận đấu, trận lúc càng lúc càng kịch liệt, Lữ Tứ Nương tuy du tẩu khắp trường Hải Vân hòa thượng vẫn tấn công mạnh mẽ, bề ngoài chẳng có gì thay đổi nhưng cao thủ thuộc hàng nhất lưu đều có thể thấy, Lữ Tứ Nương đã liên tiếp phản kích trong màn kiếm quang bao bọc, đã có thủ có công!


Tình thế thay đổi khiến Cáp Bố Đà cảm thấy kinh hãi, thầm nhủ: “Lẽ nào Tát Thiên Thích nói đúng, kiếm pháp của ả thiếu nữ này tinh diệu còn hơn cả Hải Vân hòa thượng?” lúc này Bạch Thái Quan cũng thấy có hy vọng, chỉ có Đường Hiểu Lan vẫn lo nơm nớp.


Té ra Hải Vân hòa thượng và Lữ Tứ Nương đọ nhau một chiêu, đã biết nàng là đối thủ hiếm có trong đời! Bởi vậy mới dốc hết bản lĩnh muốn dùng thủ pháp sấm sét để đánh nhanh thắng nhanh. Y vốn tưởng kiếm pháp của Lữ Tứ Nương tuy cao nhưng rốt cuộc vẫn là một thiếu nữ trẻ tuổi, khí lực và kinh nghiệm chắc chắn không đủ. Nào ngờ Lữ Tứ Nương học được bản lĩnh đắc ý nhất của Độc tý thần ni. Độc tý thần ni tốn mấy mươi năm để nghiên cứu Huyền Nữ kiếm pháp, đến khi Lữ Tứ Nương nhập môn được hai năm, bà ta mới ngộ ra, không những đã đến mức xuất thần nhập hóa mà còn có thể quán thông, thêm vào nhiều biến hoa trong Huyền Nữ kiếm pháp vốn có. Trước khi Độc tý thần ni đạt được thành tựu, bà ta không truyền cho đồ đệ nên Giang Nam thất hiệp đều không có sở trường về kiếm pháp. Lữ Tứ Nương gặp được cơ duyên, nhập môn khi sư phụ đã già, một mình học được tinh túy kiếm thuật. Hôm nay nàng thi triển kiếm pháp để ứng phó với cường địch, bề ngoài tựa như chỉ né tránh nhưng bên trong lại ẩn chứa những biến hóa phức tạp, mỗi chiêu đều có hư lẫn thực, trong chiêu có chiêu, đấu được một lúc nàng thấy nhuệ khí của Hải Vân hòa thượng đã giảm, đột nhiên thay đổi kiếm chiêu, cây bảo kiếm Sương hoa dài ba thước phát ánh hàn quang loang loáng, nửa thủ nửa công. Đúng là tĩnh như mặt hồ, động như nước chảy, Hải Vân hòa thượng là đại hành gia kiếm thuật, y đã nhận ra kiếm pháp của kẻ địch kỳ ảo hơn mình, vừa lo sợ vừa nôn nóng, y đã dốc ra hết toàn lực mà kẻ địch vẫn cứ khí định thần nhàn chẳng hề tổn thương.


Hải Vân hòa thượng thấy lạnh mình, biết không xong, vội vàng tìm thắng trong bại, liên tục đánh ra hiểm chiêu, cây trường kiếm đánh một chiêu Bạo Quyển Thiên Hà, tà tăng bào phất lên, lưỡi kiếm cuộn từ dưới lên trên, Lữ Tứ Nương đột nhiên rút kiếm đứng lại, hai mắt sáng quắc, Hải Vân hòa thượng cuộn cây trường kiếm tới, nàng vẫn tựa như chẳng hề hay biết. Trong lúc này toàn trường đều lặng yên, ai nấy đều kinh hoàng, Đường Hiểu Lan nhắm mắt không dám nhìn. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, trong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt, chợt nghe Lữ Tứ Nương hú lên một tiếng lanh lảnh, nàng tung người vọt lên, mũi giày đạp về phía mũi kiếm của kẻ địch, mượn thế đạp ấy toàn thân người bốc lên tựa như chim bay, vù một tiếng lướt qua đầu Hải Vân hòa thượng! Nàng không đợi mũi chân chạm đất, tay đã múa cây Sương Hoa kiếm một vòng trên không trung, đánh ra tuyệt chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, đâm kiếm xuống cái đầu trọc của Hải Vân hòa thượng, Hải Vân hòa thượng kêu lên: “Không xong!” rồi y vẫy cây trường kiếm chém lướt lên trên hộ đỉnh đầu, hóa giải thế địch, hai kiếm chạm nhau, Lữ Tứ Nương từ trên cao đánh xuống, chỉ nghe rắc một tiếng, cây trường kiếm của Hải Vân hòa thượng đã bị chặt làm hai đoạn, bị Lữ Tứ Nương hất ra xa. Khi mọi người nhìn lại, Lữ Tứ Nương đã mỉm cười đứng dưới đất, ôm kiếm trước ngực, vái bốn hướng nói: “Hải Vân đại sư, tiểu bối đã được nhường!” Hải Vân hòa thượng mặt đỏ như gấc, hận không thể chui tọt xuống đất!


Cuộc đấu kiếm ấy khiến cao thủ trong toàn trường đều chắt lưỡi kêu lạ, Tát Thiên Thích vừa đắc ý vừa kinh hãi. Y đắc ý là vì đã thắng trong cuộc cá cược với Thiên Diệp Tản Nhân, kinh hãi là vì bản lĩnh của Lữ Tứ Nương đã đến mức đăng phong tạo cực, xem ra khó trả được mối thù trước kia. Thiên Diệp Tản Nhân mặt từ đỏ chuyển sang xanh, nghiến răng đứng bật dậy, toan ra quyết đấu với Lữ Tứ Nương!


Thiên Diệp Tản Nhân vừa đứng dậy, đã có người đè vai mình xuống, Liễu Ân hòa thượng khẽ nói: “Thiên Diệp đạo huynh, để tôi thu thập con tiện tì này!” bởi vì Liễu Ân hòa thượng tuy đã đi vào lối tà, nhưng cũng là một hán tử giang hồ, y phải giữ thân phận người đứng đầu Giang Nam bát hiệp. Lúc đầu y không dám đấu với Lữ Tứ Nương là vì sợ người ta bảo lớn hiếp nhỏ, tưởng rằng cứ tùy tiện phái một cao thủ nào đó là có thể bắt được nàng, không ngờ sự việc đã vượt ngoài ý liệu, một nhân vật kiếm pháp cao siêu như Hải Vân hòa thượng mà vẫn thua trong tay nàng! Tuy y biết Thiên Diệp Tản Nhân võ công cao hơn cả Hải Vân hòa thượng nhưng sợ rằng chẳng may gặp bất trắc, không những uy danh một đời của Thiên Diệp Tản Nhân hỏng bét mà mình sẽ bị đồng đạo chê cười rằng đã cố ý để sư muội phóng túng, lăng nhục tiền bối, hạ uy phong của nhân vật thành danh, hiển lộ tuyệt kỹ của bổn môn, chính vì điều đó Liễu Ân mới ngăn cản Thiên Diệp Tản Nhân.


Thế là mọi người lại hoan hô như sấm dậy. Các cao thủ đều biết Liễu Ân võ công trùm đời, từ ngày xuất đạo đến nay chưa từng gặp địch thủ. Ai cũng muốn xem ông ta bắt sống Lữ Tứ Nương như thế nào. Bạch Thái Quan thầm lo nhưng giờ đây đã thành thế cỡi cọp, muốn ngăn cũng không được nữa.


Liễu Ân hòa thượng cầm cây thiền trượng bằng thép tinh luyện to như miệng bát sải bước ra, Lữ Tứ Nương giơ ngang kiếm trước ngực, ngưng thần chờ đợi. Liễu Ân cao giọng quát: “Lữ Tứ Nương, ngươi chẳng coi tôn trưởng ra gì, đừng trách cây thiền trượng của ta vô tình. Nếu ngươi sáng suốt hãy mau buông kiếm xin tha!” Lữ Tứ Nương trợn mắt, lớn giọng mắng: “Liễu Ân, uổng cho ngươi nhiều năm theo sư phụ mà không chịu giữ thanh quy, vi phạm giới luật, sư phụ có lệnh bảo ta triệu tập đồng môn, lấy đầu ngươi! Nghĩ tình ngươi là kẻ đồng môn, nay chỉ cho ngươi một con đường sống, nếu ngươi chịu cải tà qui chánh, mau chóng theo ta trở về Mang Sơn, thắp nhang báo tội trước linh tiền của sư phụ, các đồng môn có thể tha chết cho ngươi, nếu không hôm nay ngươi khó thoát khỏi công đạo. Ta chỉ nói đến đây, có nghe hay không thì tùy ngươi!” Liễu Ân đùng đùng nổi cáu, cười rằng: “Ngươi học võ công được vài năm, có được bản lĩnh gì mà dám làm càn trước mặt đại sư huynh, trên đầu ngươi còn có sáu vị đại sư huynh, sao ngươi không hỏi bọn chúng là ai đã giúp bọn chúng có được cái uy danh Giang Nam thất hiệp!” bởi vì năm nay Liễu Ân hòa thượng hơn năm mươi tuổi, khi Lữ Tứ Nương chưa ra đời, y đã được Độc tý thần ni thu làm đệ tử. Y đã thay Độc tý thần ni truyền võ nghệ cho bọn Châu Tầm, nên y cùng với sáu người họ tuy danh là huynh đệ nhưng có một nửa thực sự là thầy trò, sáu người sư đệ này đều e ngại y, dù cho Cam Phụng Trì là người võ công cao nhất, uy danh cũng lừng lẫy nhất nhưng cũng phải nhường nhịn Liễu Ân ba phần. Cũng chính vì thế nên Liễu Ân tự tin sáu người sư đệ chắc chắn sẽ theo chân y, nào ngờ hôm nay đầu tiên thì Bạch Thái Quan không chịu phục, tiếp theo Lữ Tứ Nương lại dám vuốt râu hùm, Liễu Ân sao không nổi cơn lôi đình cho được?


Lữ Tứ Nương lại cười lạnh một tiếng, mắng lớn rằng: “Có sư huynh như ngươi đúng là nỗi nhục của Giang Nam bát hiệp, vậy mà ngươi còn dám nói đem lại uy danh cho các sư đệ! Từ hôm nay trở đi, chỉ có Giang Nam bát hiệp, đồng thời ngươi không được nói đến tên của sư phụ nữa!” Liễu Ân làm sao có thể chịu nổi, Lữ Tứ Nương chưa nói dứt lời y đã quét tới một trượng!


Trượng này cương mãnh vô cùng, kình phong quét đến đâu cát bay đá chạy đến đó! Lữ Tứ Nương phóng vọt người lên, cây thiền trượng quét vù qua gót chân nàng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Liễu Ân quét một trượng không trúng, lập tức đẩy trượng về phía trước, đánh ra một chiêu Độc Xà Tầm Huyệt đâm thẳng vào huyệt Huyết Hải của Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương lộn người hạ xuống đất, cây thiền trượng quét qua mặt, nàng chưa đứng vững, trượng thứ ba của Liễu Ân đã quét tới, y đánh ra một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân quét vào eo của nàng! Lữ Tứ Nương xoay người né tránh ba lần. Bạch Thái Quan và Đường Hiểu Lan thấy Lữ Tứ Nương liên tục thối lui, nguy hiểm muôn phần nên đều kinh hãi!


Lữ Tứ Nương né tránh ba trượng, thối lui ra sau mấy bước, cao giọng nói: “Các vị anh hùng ở đây làm chứng, tiểu nữ đã liên tục nhường ba chiêu, tình đồng môn đã dứt, hôm nay thay tiên sư chỉnh đốn môn hộ, mong các vị đừng trách!” lúc này Bạch Thái Quan mới biết Lữ Tứ Nương nghe theo di lệnh của sư phụ, tuân theo quy củ võ lâm nhường trưởng bối ba chiêu. Chàng thầm khen nàng tiểu sư muội này tuổi còn trẻ mà hành xử rất già dặn, nhân chí nghĩa tận, vừa nhu vừa cương, dù trận quyết đấu này thế nào, tên tuổi của Lữ Tứ Nương cũng lừng lẫy trên giang hồ!


Liễu Ân liên tục đánh ba trượng mà trượng nào cũng hụt, y nghiến răng trầm trượng xuống quét một cái, mắng rằng: “Nha đầu thối, ai cần ngươi nhường!” Lữ Tứ Nương nhướng máy, tay trái nắm kiếm quyết, tay phải đâm soạt kiếm tới một chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ, xỉa thẳng vào be sườn của Liễu Ân, Liễu Ân dựng cây thiền trượng lộn người quét ngang một chiêu Ô Long Bàn Trụ vào trung lộ của Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương phóng vọt người lên, lao cả người lẫn kiếm đâm một chiêu Ngọc Nữ Đầu Thoa vào vai phải của Liễu Ân, mũi kiếm loang loáng ánh hàn quang xỉa vào huyệt Kiên Tỉnh, Liễu Ân lật đuôi trượng đánh keng một tiếng, gạt cây kiếm của Lữ Tứ Nương ra. Lữ Tứ Nương thấy cánh tay tê rần, nàng dùng một chiêu Dạ Xoa Thám Hải, dẫn cây thiền trượng của Liễu Ân ra ngoài, hóa giải thế đánh của y. Hai người đọ nhau một chiêu, ai nấy đều cẩn thận bước vòng quanh trường tìm chỗ hở, không ai dám tiến liều tới!


Lần này toàn trường đều kinh hãi, cả Bạch Thái Quan cũng không ngờ rằng Lữ Tứ Nương có thể đánh tay đôi với Liễu Ân. Bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Thần Ma song lão, Ngư Xác đại vương, Cáp Bố Đà đều vươn dài cổ nhìn vào trong trường. Những người này đều là cao thủ thuộc hàng nhất đẳng trên võ lâm, ai nấy đã nhận ra cả hai đấu thủ đã dùng võ công thượng thừa để bảo vệ cho toàn thân, đồng thời tìm thời cơ tấn công.


Cả hai người đều ngưng thần trầm khí, đi quanh trường một vòng, cây kiếm xuyên hoa dài ba thước của Lữ Tứ Nương dẫn về phía trước, đánh hờ ra hai chiêu, Liễu Ân cũng không màng đến. Lữ Tứ Nương thấy y không mắc bẫy, thế là trong lòng nảy ra kế, dùng chiêu kiếm tựa hư tựa thực trong Huyền Nữ kiếm pháp liên tục đánh ra mười mấy hư chiêu, quấy nhiễu nhãn thần của Liễu Ân, chờ đến khi có thời cơ thì kiếm quang lóe lên, chợt chuyển hư thành thực, đánh một chiêu Bạch Hạc Dịch Linh đâm thẳng vào ngực của Liễu Ân. Hỏa hầu của Liễu Ân đã đến mức già dặn, vừa thấy thủ pháp của Lữ Tứ Nương thì biết nàng từ hư hóa thành thực, thế là tương kế tựu kế thu người về phía sau, mũi kiếm của Lữ Tứ Nương xem ra sắp chạm vào gấu áo của y đột nhiên hụt tay, người cũng mất đà, Liễu Ân gầm lớn một tiếng, vung cây thiền trượng lên chặn đường rút lui của Lữ Tứ Nương! Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, trượng ảnh như núi, quét ngang đè dọc bổ xuống đầu Lữ Tứ Nương, xem ra chiêu ấy hiểm hóc lạ thường, rõ ràng y quyết dồn Lữ Tứ Nương vào chỗ chết! Lữ Tứ Nương lâm vào tuyệt cảnh, xem ra muôn phần khó thoát!


Đường Hiểu Lan lo lắng kêu hoảng, chợt thấy Lữ Tứ Nương phóng vọt người lên cao hơn ba trượng. Vốn là người đã bị thiền trượng vây kín, chặn đường thối lui, dù né tránh sang một bên đều có thể trúng đòn, không ngờ trong khoảnh khắc sinh tử, nàng đã thi triển khinh công tuyệt đỉnh phóng vọt người lên, cây bảo kiếm vươn về phía trước, mũi kiếm điểm vào đầu trượng, mượn mãnh lực của Liễu Ân bật ngược người lên, lộn người ra cách đó mấy trượng! Thế là khiến cho cao thủ trong toàn trường đều không khỏi reo lên!


Người tiếng reo, Liễu Ân hòa thượng múa trượng đuổi gấp theo, Lữ Tứ Nương chưa đứng vững lại gặp phải hiểm chiêu, nàng vội vàng phát kiếm chiêu chống trả, lần này cũng bị Liễu Ân chiếm mất thượng phong. Nội công của Liễu Ân tinh thâm, lực tay hùng hậu, y múa cây thiền trượng kêu lên vù vù, trượng ảnh lan tỏa bốn phương tám hướng, đúng là thế như dời núi lấp biển, oai như sấm sét lôi đình, người bình thường đừng nói là bị trúng một trượng, dù chỉ bị trượng phong quét phải cũng nát bấy cả ngũ tạng. Lữ Tứ Nương tuy nhờ vào khinh công tuyệt đỉnh, kiếm pháp thượng thừa nhưng cũng chẳng thể nào phản công được trong màn trượng phong, thân người cứ chao đảo như con thuyền nhỏ bé trong biển khơi, nàng thầm nhủ: “Liễu Ân công lực thâm hậu quả nhiên mình chẳng bằng. Nếu cứ đấu như thế này mình chỉ có nước chống đỡ chứ không thể trả đòn, thời gian mà kéo dài chắc không tránh khỏi bất hạnh”. Thế là nàng nghiến răng, thi triển kiếm chiêu tinh diệu nhất trong Huyền Nữ kiếm pháp liều mạng tấn công, thế là nàng đâm soạt soạt mấy kiếm, từ trên xuống dưới người tựa như tỏa ra hàng ngàn tia điện khiến Liễu Ân hoa cả mắt, bất đồ mất tự chủ thối lui mấy bước. Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió đâm tới liền liền, lấy công làm thủ, hóa giả thế vây, thoát ra khỏi màn trượng ảnh, chiếm được phương vị có lợi, lại tử chiến với Liễu Ân!


Liễu Ân thấy Lữ Tứ Nương có thể thoát khỏi màn trượng ảnh kín kẽ của y, không khỏi thầm trách sư phụ đã thiên vị. Thất sư đệ xuất sư chưa được mười năm mà uy danh đã hơn cả mình, con Lữ Tứ Nương vừa mới xuất đạo mà võ công càng kinh người hơn, bản thân có mấy mươi năm công lực mà chẳng làm gì được nàng ta, trong lòng làm sao không lo. Bởi vì từ sau khi sư phụ qua đời, Liễu Ân dám phóng túng làm càn là thấy võ công của mình cao cường, trên đời này chẳng ai chế phục nổi, nay các sư đệ sư muội kéo đến đây hỏi tội mình không khỏi lửa giận bốc lên, thế là ác niệm nảy ra, y vung cây thiền trượng, dùng loại trượng pháp hung mãnh tuyệt luân để đối phó với nàng sư muội vừa mới xuất đạo!


Liễu Ân có kinh nghiệm phong phú, hỏa hầu già dặn, đánh một trận với Lữ Tứ Nương đã biết nàng kiếm pháp tuy cao, khinh công tuy giỏi nhưng luận về nội công kém xa mình. Bởi vậy mới dám hao phí tinh lực, sử dụng Phục Ma trượng pháp cây trượng hất ngang bổ dọc, chặn trái ngăn phải, tựa như một con độc long nhe nanh múa vuốt, nhốt Lữ Tứ Nương trong màn trượng ảnh! Nhưng Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, bộ pháp lanh lẹ, trong thủ có công, tuy lọt xuống hạ phong nhưng Liễu Ân cũng chưa làm gì được nàng cả!


Hai người giằng dai với nhau được hơn trăm chiêu, Liễu Ân vẫn mạnh như ban đầu còn Lữ Tứ Nương vẫn lanh lẹ như cũ nhưng lúc này vầng trăng đã lên đến đỉnh đầu, trong mảnh sân đèn đuốc vẫn sáng trưng, không ai cảm thấy mệt mỏi!


Đang đấu đến lúc căng thẳng, Lữ Tứ Nương lại du tẩu khắp trường, muốn dùng kiếm thuật vừa mới đối phó với Hải Vân để chống cự với Liễu Ân, nào ngờ cây thiền trượng của Liễu Ân vừa dài vừa to, công lực của y hơn hẳn Hải Vân, Lữ Tứ Nương vừa du tẩu y đã đuổi theo, mà loại binh khí dài là khắc tinh của bảo kiếm, cây trượng điểm vào bối tâm, hai người cứ đuổi nhau vòng vòng trong sân, Lữ Tứ Nương gặp nguy ngập mấy lần, chợt nhớ phải tùy theo người mà sử dụng chiến thuật, đối phó với Liễu Ân mà tỏ ra yếu đuối chẳng phải là cách. Nàng đột nhiên lộn người, quay trở lại tấn công Liễu Ân! Nàng đâm liên tiếp mấy kiếm, Liễu Ân múa tít cây thiền trượng gạt hết tất cả, nhưng Lữ Tứ Nương cũng nhân thời cơ này đứng vững bộ pháp, lấy công đối công với Liễu Ân, thế là hai người lại ngang tay!


Trận này lại đánh hơn một canh giờ, hai người vẫn chẳng ai hơn ai. Liễu Ân hơn ở chỗ lực tay mạnh mẽ, nội công thâm hậu còn Lữ Tứ Nương hơn ở chỗ khéo léo nhẹ nhàng, kiếm pháp tinh kỳ, hai người càng đấu càng dữ, càng đấu càng hiểm, chỉ hơi không cẩn thận thì sẽ có đầu rơi máu chảy. Tất cả những cao thủ trong trường thấy thế đều kinh hãi, Ngư Xác đại vương khẽ nói: “Không biết đấu như thế này đến lúc nào mới xong, Cáp tổng quản, Thiên Diệp Tản Nhân, hai vị thấy nên thế nào?” Ngư Xác đại vương thầm nhủ có lẽ Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà mới có được công lực này, nhờ vậy có thể tách Liễu Ân và Lữ Tứ Nương ra bởi vậy mới lên tiếng dọ ý. Thiên Diệp Tản Nhân mỉm cười, Cáp Bố Đà cũng lắc đầu. Thân phận và võ công của hai người đều chẳng kém Liễu Ân bao nhiêu, nếu chưa đến lúc cuối cùng mà đã ra ngăn lại, e rằng người ta sẽ cười là cậy lớn hiếp nhỏ.


Lại đấu được nửa canh giờ, Liễu Ân càng đánh càng dũng, Lữ Tứ Nương cũng càng đánh càng nhanh. Liễu Ân chỉ cảm thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương mềm mại như cành liễu, nhanh như phi hồng, chẳng thể nào khắc chế nổi nàng.


Lữ Tứ Nương cũng thấy Liễu Ân mạnh như hổ, trượng nặng như núi, muôn lần khó thắng! Hai người đánh ngang tay nhau, lại đều không thể ngưng kiếm, chỉ đành dốc hết sức mình ra, đánh đến chỗ nguy cấp, Lữ Tứ Nương hầu như cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng bạch quang, Liễu Ân cả người lẫn trượng tựa như trở thành bức tường đồng. Một kiếm một trượng đã đánh đến mức khó phân thắng bại, kỳ phùng địch thủ!


Lúc này không những Ngư Xác kêu khổ mà cả Lữ Tứ Nương và Liễu Ân cũng thầm than trong lòng. Lữ Tứ Nương một mình mạo hiểm, nếu không thắng làm sao thoát hiểm xuống núi? Liễu Ân là sư huynh, trước mắt mọi người mà không thắng làm sao có thể ăn nói với anh hùng trong thiên hạ? Nên cả hai người đều biết chẳng cách nào thủ thắng nhưng đã thành thế cỡi trên lưng cọp, chỉ đành phải nghiến răng khổ đấu! Lữ Tứ Nương đã đánh hơn hai canh giờ, mồ hôi tuôn ra như tắm, Liễu Ân nội lực tuy thâm hậu nhưng cũng bắt đầu thở dốc!


Ngư Xác thấy thế kêu “không xong”, nếu cứ đánh tiếp, chỉ e rằng hai người đều ôm nhau chết chung, Lữ Tứ Nương chết không sao, còn Liễu Ân mà chết há chẳng phải y sẽ bị Tứ bối lạc trách tội? Thế rồi y không màng đến quy củ giang hồ nữa, định nhờ Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân ra trường, ngầm giúp Liễu Ân để kết thúc trận chiến. Y chưa kịp lên tiếng, cả hai người đều không hẹn mà phóng vọt ra!


Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân mỗi người đều có lòng riêng. Cáp Bố Đà và Liễu Ân là cá mè một lứa, đến lúc này y không thể không cứu! Thiên Diệp Tản Nhân thì ganh tị Liễu Ân ngồi trên ghế chính, muốn thấy Liễu Ân bẽ mặt, nay thấy y đánh sư muội mãi mà không thắng, đúng là đã bẽ mặt thật, y cũng muốn nhân thời cơ này hiện lộ võ công, sau khi can hai người y sẽ tiện tay bắt luôn Lữ Tứ Nương để cứu vãn sĩ diện cho mình.


Hai người Liễu Ân và Lữ Tứ Nương đang dốc hết sức mình ra, chẳng hề biết có người nhảy vào trong trường, Thiên Diệp Tản Nhân chưa tới, đã phát ra vù vù hai chưởng từ xa đánh tới. Liễu Ân và Lữ Tứ Nương hơi lắc lư, chưa kịp tách ra, Cáp Bố Đà đã nhảy theo, đồng thời phóng ra hai trái cầu.


Ngay lúc này một bóng đen phóng vọt lên như chim, đột nhiên hạ xuống giữa trường, hai trái cầu của Cáp Bố Đà đã bị bóng đen này đánh rơi, phi đao bung ra như mưa! Té ra hai trái cầu chính là Huyết Trích Tử có thể lấy đầu người ta trong vòng một trăm bước nhanh như điện chớp! Thiên Diệp Tản Nhân vừa vỗ ra chưởng thứ ba và thứ tư, chợt thấy luồng kình phong chụp tới, buộc y phải bật ngược trở lại! Thân pháp của người này nhanh đến lạ lùng, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân chưa kịp nhìn rõ đã bị người ấy chụp cổ tay giật mạnh ra ngoài. Hai người trầm vai rụt tay kìm người lại, khi nhìn kỹ mới biết đó chính là bà lão ăn mày!


Lúc này toàn trường đều rúng động kinh ngạc hơn cả cuộc chiến giữa Liễu Ân với Lữ Tứ Nương! Bởi vì công lực của Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân chẳng kém gì Liễu Ân, Huyết Trích Tử của Cáp Bố Đà lợi hại phi thường, còn chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân cũng đến mức đăng phong tạo cực, nhưng hai người này ra tay ám toán đều bị bà già dễ dàng hóa giải rồi kéo bật hai người ra.


Bà già cầm cây gậy cười hì hì, chợt mắng: “Quân vô liêm sỉ, thế mà cũng gọi là can ngăn à? Xem ta đây!” rồi ba ta lắc người lướt vào giữa Liễu Ân và Lữ Tứ Nương, Liễu Ân đang đánh đến chiêu Phiên Giang Lạo Hải trong Phục Ma trượng pháp, y đã dốt hết toàn lực cho chiêu này, bị cây gậy gạt qua, lửa bắn tung tóe, cây thiền trượng mẻ mất một miếng nhưng cây gậy vẫn cẳng hề hấn gì! Lữ Tứ Nương cũng dùng đến tuyệt chiêu Ưng Kích Trường Không, nàng ta đâm tới một kiếm trúng vào cây gậy, lửa cũng bắn tung tóe, mẻ mất một miếng. Bà già rút cây gậy lại, cười nói: “Đây mới gọi là can ngăn công bình, ai muốn ám toán hãy xông về phía ta!”


Liễu Ân và Lữ Tứ Nương chợt tách ra, Liễu Ân trừng mắt nhìn và già, chẳng nói nửa lời, y chưa từng thấy ai có công lực cao như bà già này. Dù Độc tý thần ni sống lại cũng chẳng bằng bà ta! Liễu Ân cầm ngang cây thiền trượng, hỏi: “Xin hỏi tiền bối danh hiệu là gì?” bà già cười ha hả: “Sư phụ của ngươi không nhắc ta trước mặt ngươi sao? Ba mươi năm trước sư phụ ngươi mới học được Huyền Nữ kiếm pháp đã từng đến Thiên Sơn gặp ta!” Liễu Ân chợt thất kinh, nhớ đến một người, rung giọng hỏi: “Có phải lão tiền bối là Dịch nữ hiệp trong Thiên Sơn thất kiếm không?” Liễu Ân vừa nói, toàn trường đều kinh hãi.


Chính là:


Tái ngoại trở về đầu chưa bạc, vượt đường vạn dặm tìm truyền nhân.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 9

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 9 Truy đuổi lẫn nhau giữa biển gặp dị sĩ Liên hoàn phá án đại lâu thấy kỳ tình




Bà già cười lạnh nói: “Ngươi cũng biết tên của ta?” Ngư Xác đại vương mặt trắng bệt, chợt y nghiến răng phẫy tay, tất cả cao thủ trong trường đều phóng vọt ra, Liễu Ân hòa thượng cầm cây thiền trượng thối lui mấy bước, sánh vai cùng với Ngư Xác đại vương, bên trái có Thiên Diệp Tản Nhân, Hải Vân hòa thượng, Thần Ma song lão, bên phải có Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai, Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công, Cáp Bố Đà, chín cao thủ thuộc hàng nhất lưu đứng thành một hàng, ai nấy đều nhìn bà lão không chớp mắt, tình thế giữa hai bên đang rất căng thẳng.


Té ra bà già này chính là Dịch Lan Châu trong Thiên Sơn thất kiếm. Thiên Sơn thất kiếm thành danh vào đầu thời Khang Hy (mời xem trong bộ “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”), cách đây đã bốn năm mươi năm, Phi Hồng Cân, Lăng Vị Phong, Trương Hoa Chiêu, Quế Trọng Minh, Mạo Hoàng Liên lần lượt qua đời, trong Thiên Sơn thất kiếm chỉ còn lại một mình Dịch Lan Châu và Võ Quỳnh Giao. Thiên Sơn thất kiếm ở biên cương phía Tây, người ngoài không biết tưởng rằng họ đã chết cả, không ngờ Dịch Lan Châu lại từ Thiên Sơn đến đây!


Kiếm pháp của Dịch Lan Châu giỏi nhất trong Thiên Sơn thất kiếm. Vốn là Lăng Vị Phong võ công cao cường nhất, sau đó Lăng Vị Phong bị chặt ngón cái trên tay phải, không thể cầm kiếm được bởi vậy mới truyền hết sở học cho Dịch Lan Châu. Ba mươi năm trước Độc tý thần ni học được Huyền Nữ kiếm quyết, lúc đó võ công của bà ta tuy cao cường nhưng chỉ mới học kiếm pháp, tuy lấy được kiếm quyết nhưng chẳng có ai chỉ điểm vì thế mới một mình lên Thiên Sơn xin Dịch Lan Châu dạy bảo, Độc tý thần ni lớn tuổi hơn Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu và bà ta đối xử với nhau bằng vai phải lứa, hai người nghiên cứu kiếm pháp ở Thiên Sơn, đến nửa năm mới chia tay, chính vì thế Dịch Lan Châu cũng coi như là trưởng bối của Giang Nam bát hiệp.


Lúc này luận về tuổi tác Dịch Lan Châu đã hơn sáu mươi, nhưng bà ta đã từng ăn hoa ưu đàm trên ngọn Lạc Đà ở Thiên Sơn nên mái tóc mãi mãi không bạc, lại thêm nội công tinh thâm nên trông chỉ hơn bốn mươi tuổi. Còn cây gậy trong tay của bà ta chính là di vật của trượng phu Trương Hoa Chiêu, số là Lăng Vị Phong đã dùng cây gỗ giáng long ở Thiên Sơn đẽo ra cây gậy này tặng cho Trương Hoa Chiêu nên gọi là giáng long bảo trượng, loại gỗ giáng long trên Thiên Sơn cứng như sắt thép, đao kiếm chẳng chém nổi nên Sương Hoa kiếm của Lữ Tứ Nương và thang ma trượng của Liễu Ân chạm vào cây gậy cũng tóe lửa.


Đường Hiểu Lan đã nghe Châu Thanh nói đến Dịch Lan Châu từ lâu, trong lòng mừng rỡ, vội vàng chạy tới, cũng không biết xưng hô thế nào mới phải, (Châu Thanh là đệ tử gởi danh của Lăng Vị Phong, Phùng Quảng Triều lại là đệ tử gởi danh của Châu Thanh. Đường Hiểu Lan được Châu Thanh chỉ điểm mới đến học kiếm ở Phùng Quảng Triều) chỉ đành kêu lớn: “Bà tổ”, Dịch Lan Châu ngưng thần không đáp, chín cao thủ cũng không dám ra tay. Lữ Tứ Nương kéo Đường Hiểu Lan lại, khẽ nói: “Đừng chạy bừa!” Dịch Lan Châu chợt vươn tay rút cây Du Long kiếm của Đường Hiểu Lan, cao giọng nói: “Các ngươi thật muốn làm khó bà lão ăn mày này?” Liễu Ân cúi người nói: “Tiểu bối làm sao dám làm khó Dịch nữ hiệp”. Nói xong cầm cây thiền trượng chỉ về phía Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương, lớn giọng nói: “Nhưng hai người này là sư đệ và sư muội của bần tăng, không dám làm phiền lão tiền bối quản giáo!” Dịch Lan Châu nổi sùng lên nói: “Nói thế ngươi muốn bắt bọn chúng?” Liễu Ân nói: “Chính thế”.


Liễu Ân thầm nhủ: “Mình tuy không phải là đối thủ của Dịch Lan Châu nhưng hợp lực chín người chắc sẽ nắm được phần thắng”. Dịch Lan Châu cũng trừng mắt, mắng rằng: “Dù sư phụ ngươi còn sống ta cũng phải quản!” rồi cây kiếm Du Long vẫy tới kêu xẹt một tiếng, hóa thành một luồng bạch quang quét về phía Liễu Ân, Liễu Ân vội vàng giở ngang cây thiền trượng gạt qua, keng một tiếng, thân kiếm Du Long rung lên bần bật, đâm thẳng xuống be sườn của Liễu Ân, bọn Ngư Xác đồng thời ra tay, cây Nga Mi thích của Vệ Dương Oai và Hổ Đầu câu của Mạnh Võ Công xé gió đâm tới, Dịch Lan Châu xoay người một vòng, cây Du Long kiếm đánh ra một chiêu Lực Hoạch Hồng Câu, chặt gãy hai cây Nga Mi thích, còn cây Hổ Đầu câu thì bắn vọt lên không trung! Liễu Ân thừa thế đánh tới một chiêu Thương Long Quyện Vĩ, cây thiền trượng vung lên gạt thanh kiếm ra, chín cao thủ tấn công lên từ bốn hướng. Dịch Lan Châu thầm nhủ: “Chả trách nào tên này lại cuồng ngạo đến thế, quả nhiên y đã học được chân truyền của Độc tý thần ni, công lực chẳng kém sư phụ của y bao nhiêu!” rồi bà ta quát lên một tiếng, sử dụng Tu Di kiếm thức trong Tu Di kiếm pháp ra, thân và kiếm hợp nhất, cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng bạch quang lách trái đâm phải. Lúc này chợt nghe Đường Hiểu Lan kêu thảm một tiếng, té ra chàng bị Mạnh Võ Công đánh trúng một chưởng ngay vai. Dịch Lan Châu cả giận, liên tục tung ra đòn sát thủ! Ánh kiếm quang loang loáng không rời những chỗ yếu hại của Liễu Ân. Chợt nghe Ngư Xác đại vương quát lên: “Ngừng tay!” chín tên cao thủ lui xuống. Dịch Lan Châu giơ kiếm ngang ngực, ngừng bước chẳng đuổi theo nữa, ngưng thần lắng nghe, thì ra có tiếng khóc từ trên cao vọng lại! Quần hào đều ngừng tay nghe ngóng, bên cạnh tòa phủ của Ngư Xác đại vương vốn có một tòa tháp mười ba tầng, trên đỉnh tháp thấp thoáng một thiếu nữ mặc đồ đỏ, Lữ Tứ Nương tinh mắt đã nhận ra nàng ta chính là Ngư Nương con gái của Ngư Xác đại vương, đến khi nhìn kỹ lại, thì ra nàng bị cột dưới mái tháp, tay phải cầm một con dao sáng loáng đặt trên sợi dây, chỉ cần lưỡi dao cứa qua một cái, sợi dây sẽ đứt, dù có võ công cao cường đến mức nào cũng cứu chẳng nổi! Ngư Xác đại vương và Bạch Thái Quan cùng kêu lên kinh hoảng, đứng như trời trồng ngay tại chỗ!


Lúc này một tên đầu mục hấp tấp chạy tới trước mặt Ngư Xác đại vương, bẩm rằng: “Đại vương, không xong rồi, chúng tôi chỉ lơ đễnh một lát mà tiểu thư đã tự trói mình lên mái tháp, đòi đại vương phải thả bọn Bạch Thái Quan đi nếu không sẽ tự cắt đứt dây thừng, mãi mãi chẳng gặp đại vương nữa!”


Ngư Nương là con gái duy nhất của Ngư Xác, Ngư Xác vốn rất cưng chìu nàng, lần này chỉ vì Bạch Thái Quan không chịu nghe theo y nên y mới ngăn cấm con gái mình gặp chàng, nhốt nàng trên đỉnh bạch tháp. Ngư Nương không biết Dịch Lan Châu đến đây trợ giúp, chỉ tưởng rằng Bạch Thái Quan bị cao thủ võ lâm bao vây đã lâm vào nguy hiểm nên liều mạng đem mình ra uy hiếp! Bạch Thái Quan thấy thế vừa kinh vừa mừng, không ngờ rằng Ngư Nương lại thương yêu mình như thế, chàng cảm động, bất giác rơi nước mắt!


Ngư Xác trầm tư trong chốc lát, phẫy tay nói: “Thôi được, các người hãy cút đi!” Dịch Lan Châu bị chín cao thủ thuộc hàng nhất đẳng bao vây, muốn tự cứu mình không khó, nhưng lại lo cho Đường Hiểu Lan và Bạch Thái Quan, thấy thế cười lạnh nói: “Liễu Ân, ta dắt sư đệ và sư muội của ngươi đi đây, việc ngươi phạm vào giới quy của sư phụ ngươi, người trong phái Mang Sơn sẽ tự giải quyết lấy, ta không xen vào! Nếu ngươi làm điều ác mà gặp phải ta, kể như ngươi xong đời!” nói xong thì cung tay bảo với Ngư Xác: “Đã nhường!” rồi trao thanh kiếm lại cho Đường Hiểu Lan, sau đó cùng bọn Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan triển khai khinh công lướt xuống núi nhanh như điện chớp.


Ngư Xác thất kinh, chợt tỉnh ra, dậm chân kêu lên: “Mau! Mau truyền lệnh bảo bọn chúng nhường đường!” lập tức cờ đỏ phất lên, bọn lâu la lớn giọng kêu: “Nhường đường tiễn khách, không được ngăn cản!” thế rồi từng trạm truyền xuống, nhưng lúc này đã muộn, bọn Dịch Lan Châu đã đến lưng chừng núi, bọn lâu la canh giữ bên dưới chưa nghe lệnh, một tiếng tiêu vang lên, từ trong lùm cây bụi cỏ từng loạt tên và phi hoàn phóng ra. Lữ Tứ Nương múa tít cây Sương Hoa kiếm, một màn hàn quang đánh rơi toàn bộ số phi hoàn và tên. Dưới bóng trăng mờ sao thưa, bốn bóng người như bốn luồng khói lướt qua làn mưa tên và phi hoàn. Bọn lâu la mai phục hai bên đường vung câu liên ra cuộn vào chân bốn người, Dịch Lan Châu quét cây trượng giáng long, chỉ nghe tiếng kim khí vang lên, bảy tám cây câu liên đã bị chặt gãy. Phía bên kia Lữ Tứ Nương ra tay càng dữ hơn, nàng quát lớn một tiếng, cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng ngân hồng quét vào bụi cỏ, bốn tên lâu la mai phục đều đã trúng kiếm ngã xuống! Dịch Lan Châu vội nói: “Không cần giết bọn lâu la này!” lúc này lệnh nhường đường của Ngư Xác đại vương đã truyền xuống từng trạm, bọn lâu la ở lưng chừng núi vội vàng một mặt truyền lệnh một mặt né tránh, Dịch Lan Châu cười nói: “Đây mới giống như lễ tiễn khách!” Ngư Xác đại vương đứng trên cao nhìn xuống, thấy bọn họ trổ thần oai không khỏi biến sắc!


Bốn người ra khỏi đảo Điền Hoành, vẫn cỡi con thuyền của Ngư Xác đại vương về đến hải cảng Thanh Đảo. Lúc này vầng nguyệt đã chìm về phía Tây, trời hửng sáng. Một chốc sau từng mảng mây trắng tụ lại, ở đằng Đông sắc trắng mờ mờ dần dần đỏ ửng, chỉ trong chớp mắt, vầng mặt trời từ dưới biển nhô lên, những áng mây trắng cũng đỏ ửng trong buổi ban may. Đường Hiểu Lan vỗ tay khen rằng: “Triều hôn phủ kiểm, hồng đào bất kinh; thủy diện hà quang; sáng lạn vạn đạo; quân luân đột hiện, tiêu mạc đốn thanh!” đây là bài thơ do tài tử đầu thời Thanh là Hầu Phương Vực tả cảnh đẹp buổi sáng ở Đông Hải, Lữ Tứ Nương nghe thế ngạc nhiên, mỉm cười rằng: “Đường huynh đệ, mấy năm qua ngươi đọc không ít sách!” Đường Hiểu Lan đỏ ửng mặt, vừa đắc ý vừa hổ thẹn, khẽ nói: “Chỉ đọc bừa vài quyển sách, biết được vài chữ mà thôi! Tỷ tỷ gia học thâm sâu, tôi bái tỷ tỷ là, lão sư, chỉ e tỷ tỷ không chịu nhận học trò như tôi!” Dịch Lan Châu và Bạch Thái Quan chợt nghe họ nói đến chuyện chữ nghĩa thì rất ngạc nhiên!


Lữ Tứ Nương nghe chàng nói thế, tươi cười trả lời: “Tiểu huynh đệ, đệ thấy ta có làm khảo sư được không?” rồi nghiêm mặt nói: “Nếu nói đến học chữ nghĩa, ít nhất cũng phải bỏ ra mấy chục năm, điều cần phải học ở người xưa rất bao la, đệ tưởng rằng dễ học sao? Ta cũng chỉ là mới nhập môn mà thôi, cha của ta có một môn sinh tuổi không lớn hơn chúng ta bao nhiêu, nhưng học cao hiểu rộng, nếu đệ có chí hướng muốn học hành, ta sẽ giới thiệu y làm lão sư cho đệ”. Lữ Tứ Nương phóng khoáng, coi chàng như tiểu đệ, trong lòng không hề có tạp niệm, Đường Hiểu Lan nghe thế thì rầu rĩ, cúi đầu nói: “Xin đa tạ”.


Dịch Lan Châu nôn nóng ngắt lời: “Đừng nói đến chuyện chữ nghĩa nữa, Hiểu Lan, ngươi biết tại sao ta tìm ngươi, lấy kiếm rồi lại trả kiếm cho ngươi không?” Đường Hiểu Lan buông tay nói: “Thưa không biết”. Dịch Lan Châu nghiêm mặt: “Chính là vì thanh kiếm này của ngươi”. Đường Hiểu Lan lo lắng nói: “Tôi biết thanh kiếm này là thái sư tổ truyền cho Châu bá bá, tôi không xứng dùng nó!” Dịch Lan Châu lắc đầu: “Không phải ý này, mấy ngày qua ta thầm quan sát ngươi, có điều võ công của ngươi quá kém, ta sợ ngươi không thể giữ được nó!” Dịch Lan Châu ngập ngừng rồi nói tiếp: “Thanh kiếm này là một trong hai báu vật trấn sơn của phái Thiên Sơn, không thể để lọt vào tay người ngoài. Giờ đây chỉ còn một mình ta là môn hạ của Hối Minh thiền sư, mà tuổi ta cũng đã đến lúc về chiều, bởi vậy ta phải tìm tung tích của thanh kiếm này, cuối cùng đã tìm được. Ngươi là nghĩa tử của Châu Thanh, ta đã sớm biết điều đó. Giờ đây ta quyết định truyền thanh kiếm này cho ngươi, nhưng kiếm thuật của ngươi không ổn, sẽ làm mất tiếng tăm của Thiên Sơn kiếm phái, bởi vậy ngươi hãy theo ta học kiếm thuật ba năm!” Đường Hiểu Lan cả mừng, vội vàng khấu đầu bái sư, Dịch Lan Châu kéo chàng dậy, nghiêm mặt nói: “Ta chỉ có thể truyền kiếm thuật bổn môn cho ngươi, còn các võ công khác đã không kịp nữa. Ta và ngươi cũng bắt chước theo Lăng đại hiệp và Châu Thanh, chỉ có thể là thầy trò thực tế. Đến khi ngươi đến tuổi hoa giáp hoặc tới ngày bế môn phong đao, ngươi hãy đem thanh kiếm này về Thiên Sơn giao cho đệ tử Chưởng môn. Sau đó Chưởng môn nhân sẽ khảo hạch công phu của ngươi, lúc mới quyết định ngươi có được là môn hạ chính thức của phái Thiên Sơn hay không”.


Dịch Lan Châu giải quyết xong chuyện của Đường Hiểu Lan, bà ta đột nhiên nghiêm mặt quay sang Bạch Thái Quan trách rằng: “Bạch Thái Quan, trước mặt ta ngươi không được nói dối, có phải những vụ án hái hoa đều do ngươi làm hay không?” Bạch Thái Quan biến sắc, vội nói: “Lão tiền bối... sao lại nói thế? Tôi... tôi làm sao làm chuyện xấu như thế?” Dịch Lan Châu nói: “Có thực là không phải ngươi không? Ngươi hãy đợi một lát!” rồi chợt hú dài một tiếng, ở lùm cây bên bờ biển chợt xuất hiện một nàng thiếu nữ áo đỏ tuổi chỉ khoảng mười bốn mười lăm, Đường Hiểu Lan nhận ra đó chính là tiểu cô nương đi cùng với bà ta ngày hômt trước, Dịch Lan Châu hỏi: “Cẩm Nhi, có phải đêm ấy hắn theo dõi con không?” tiểu cô nương liếc nhìn Bạch Thái Quan rồi nói: “Chính là y!” Dịch Lan Châu chợt cười: “Bạch Thái Quan, ngươi có biết ả là điệt nữ của ngươi không? Sao ngươi lại theo dõi điệt nữ của ngươi?” Bạch Thái Quan và tiểu cô nương đều lộ vẻ ngạc nhiên, tiểu cô nương nói: “Ồ, té ra là Bạch ngũ thúc!” Bạch Thái Quan nói: “Té ra ngươi là Cẩm Nhi, công phu đã tiến bộ lắm! Dịch lão tiền bối, xin người đừng cười, chuyện này là hiểu lầm cả thôi!”


Dịch Lan Châu vẫn quát hỏi: “Hiểu lầm thế nào?” Bạch Thái Quan nói: “Hôm ấy tôi đi tìm Ngư Nương, suýt nữa đã phát điên, đêm xuống chợt phát hiện Cẩm Nhi, tôi đuổi theo một đoạn đường, thấy không phải là Ngư Nương, định quay trở về nhưng vì tò mò muốn xem thử nó làm gì nên định theo dõi thêm một đoạn”.


Đường Hiểu Lan lúc đầu thấy Dịch Lan Châu nghiêm giọng, kinh hoảng không yên, lúc này thấy Bạch Thái Quan nói có lý, thầm nhủ: “Té ra tiểu cô nương này là điệt nữ của y”. Chợt nghe Dịch Lan Châu lại nghiêm giọng hỏi: “Ngươi nói có thực không? Ta hỏi ngươi, tại sao suốt mấy đêm nay ngươi xuất hiện ở phủ khâm sai, những đại đạo thái hoa có phải đang ở đấy? Chả lẽ bọn chúng không phải là đồng đảng của ngươi?”


Bạch Thái Quan đã định thần, lúc này mới cười ha hả: “Chả trách nào lão tiền bối nghi ngờ, tôi đến Thanh Đảo trùng hợp gặp phải mấy vụ án thái hoa quái lạ, có vài lão bổ đầu cũng nghi tôi. Trong đó có một người tên Trương Minh võ công không kém, người này ngay thẳng, y đã điều tra ở nhiều nơi, cuối cùng tìm đến tôi, tôi bảo vụ án này không phải do tôi làm. Y bảo y cũng biết vụ án này tuyệt đối không phải do tôi nhưng vì có người hoài nghi nên y đòi tôi phải ra tay! Tôi nghĩ cũng có lý, nên tuy nôn nóng tìm Ngư Nương nhưng ban đêm cũng bỏ công giúp y điều tra. Sự việc rất kỳ lạ, hình như thủ phạm không chỉ một người, bọn chúng võ công đều rất cao cường, đã mấy lần tôi phát hiện tung tích nhưng đuổi theo không kịp. Có điều kỳ lạ là, bọn chúng lại mất dạng ở gần phủ khâm sai!” Dịch Lan Châu trầm ngâm một chốc, nói: “Đúng rồi, thực ra lúc đầu ta không hề nghi ngờ ngươi, sau đó nghe bọn bổ đầu bàn bạc, nói rõ là ngươi ta mới âm thầm theo dõi ngươi, đáng buồn cười ngươi chẳng hề biết gì cả”. Bạch Thái Quan thấy mặt nóng ran, không những là vị bị theo dõi mà chẳng hề hay biết mà còn bị người ta nghi ngờ. Té ra Bạch Thái Quan là một chàng công tử trẻ tuổi, nổi tiếng phong lưu phóng khoáng trong Giang Nam bát hiệp, trước khi quen biết Ngư Nương cũng từng qua lại với danh kỷ, ngâm thơ thưởng nguyệt, nhưng thực ra chàng chỉ là một danh sĩ phong lưu chứ chẳng hề có ý trêu hoa ghẹo nguyệt. Có thể nói chàng là một đấng quân tử háo sắc mà không dâm, nhưng người thế tục làm sao hiểu được chàng.


Dịch Lan Châu nói: “Thực ra ngay từ ban đầu ta đã có ý phá vụ án này, vì theo dõi ngươi nên mới để sổng mất thủ phạm. Sau đó ta thấy không phải là ngươi nhưng không đoán nổi tại sao ngươi lại theo dõi họ, mà họ đều không động thủ với ngươi? Võ công của họ đều cao hơn ngươi rất nhiều!” Bạch Thái Quan lại hổ thẹn thầm nhủ: “Chả trách nào bà ta hoài nghi mình là đồng đảng của bọn thái hoa tặc. Mìn còn tưởng rằng những kẻ này sợ tiếng tăm của mình nên mới tránh né, không ngờ võ công của bọn chúng cao hơn cả mình vậy tại sao bọn chúng không ra tay?” Bạch Thái Quan suy đi nghĩ lại mà cũng chẳng đoán nổi.


Dịch Lan Châu nói: “Bình sinh ta thấy nhiều chuyện lạ, nhưng chưa bao giờ thấy vụ án quái dị như thế này, theo lẽ thường, cao thủ thuộc hàng nhất lưu trên giang hồ rất ít làm những chuyện hạ lưu như thế này!” Bạch Thái Quan trầm ngâm một lúc, chợt hỏi: “Viên khâm sai ấy là nhân vật như thế nào?” Dịch Lan Châu nói: “Ta đã điều tra, kẻ này tên gọi là Trương Đình Ngọc, là đại học sĩ Văn uyên các, kiêm Hàn lâm bộ hộ, thích nói lý học Tống Minh, tuy là một tên nô tài nhưng tiếng tăm thường ngày cũng không tệ, chả lẽ y che giấu cho thái hoa tặc?” Lữ Tứ Nương nói: “Nói như thế, Trương Đình Ngọc là trọng thần của triều đình, sao đột nhiên lại đến nơi này?” Dịch Lan Châu nói: “Ta cũng không biết”. Bà ta trầm ngâm một lút rất lâu rồi vỗ tay nói: “Việc này càng lúc càng kỳ lạ! Trương Đình Ngọc đến chưa được ba ngày, thái hoa án đã liên tục xảy ra, chả lẽ có liên quan đến y? Không thể nào! Trương Đình Ngọc là quan nhất phẩm đương triều, dù là kẻ đê tiện cũng không cần dùng những thủ đoạn như thế, hơn nữa các nhân vật võ lâm siêu phàm làm sao chịu cúi đầu trước y?” Bạch Thái Quan nói: “Dịch lão tiền bối, bọn thái hoa tặc này đều biến mất ở gần phủ khâm sai, chúng ta có cần đi xem thử không? Tiểu điệt bị nghi ngờ, lần này phải tìm cho ra manh mối mới cam lòng!” Dịch Lan Châu nói: “Cũng chỉ đành như thế”. Thế rồi năm người đến Huyền Diệu quán ở ngoại ô phía Tây nghỉ ngơi, trụ trì của Huyền Diệu quán là cô cô của Tào Nhân Phụ, mấy ngày trước Dịch Lan Châu và Tào Cẩm Nhi đã đến nơi này trú ngụ.


Trong tám đồ đệ của Độc tý thần ni, Tào Nhân Phụ xếp hàng thứ tư, nhưng tuổi lại lớn nhất, hai mươi năm trước ông ta và nhị sư huynh Châu Tầm từng đến Hồi Cương gặp Dịch Lan Châu. Lần này Dịch Lan Châu đến Trung Nguyên tìm bảo kiếm cũng đã đến gặp ông ta. Tào Nhân Phụ rất muốn Dịch Lan Châu nhận con gái của mình làm đồ đệ nhưng Dịch Lan Châu lại không chịu, chỉ hứa dạy cho nàng một bộ kiếm pháp và dắt nàng ra giang hồ học hỏi. Dịch Lan Châu cố tình bảo nàng xuất hiện ở trong thành để dụ bọn thái hoa tặc ra, nào ngờ Bạch Thái Quan lại đi theo nàng.


Nghỉ ngơi một ngày đến tối Dịch Lan Châu và Đường Hiểu Lan đi một hướng, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương đi một hướng đến mai phục ở gần phủ khâm sai, đợi từ canh ba đến canh năm, chẳng thấy ma nào xuất hiện, chỉ đành tiu nghỉu quay về. Trời hửng sáng họ về đến Huyền Diệu quán, nào ngờ đã xảy ra chuyện lạ, hành lý của Dịch Lan Châu và Bạch Thái Quan bị người ta lục soát! Tào Cẩm Nhi ở lại canh giữ mà chẳng hề hay biết.


Ngoài ra trên bàn còn có một bức thư tạ tội, thư viết rằng: “Nữ hiệp đến miền Nam, bần tăng xuống phương Tây, cùng lúc gặp vụ án lạ, có ý điều tra, mắt hoa lầm lẫn, mạo phạm đáng trách, nữ hiệp rộng lượng mong thứ lỗi cho”. Dịch Lan Châu nhíu mày, thầm nhủ: “Thế ra ta bị người ta theo dõi mà chẳng hay biết. Đúng là châu chấu bắt ve, không biết chim sẻ ở phía sau!” những người bằng vai phải lứa trong võ lâm làm sai chuyện gì thường để lại những bức thư như thế này. Vai vế của Dịch Lan Châu, nhưng bà ta không biết trong võ lâm có ai đồng vai phải lứa với bà ta? Đường Hiểu Lan không hiểu quy củ, hỏi rằng: “Người để lại thư có phải là lão lừa trọc Liễu Ân không? Chúng ta đi điều tra bọn chúng, bọn chúng cũng điều tra chúng ta, thật là lớn gan!” Dịch Lan Châu hơi bực bội nói: “Liễu Ân dẫu lớn gan cũng không có được võ công như thế, y theo dõi ta, lẽ nào ta không biết? Trong thư tạ tội cũng đã nói rõ, xem ra người này là một cao tăng hữu đạo, cũng có tâm ý như chúng ta, có điều chuyện đời khó đoán, nếu có cao nhân như thế xuất hiện, chúng ta phải cẩn thận mới được!”


Dịch Lan Châu rầu rĩ không vui, Lữ Tứ Nương muốn gợi chuyện cho bà vui lòng, mời bà chỉ điểm kiếm pháp, Dịch Lan Châu nói: “Huyền Nữ kiếm pháp của sư phụ ngươi là chân truyền thời cổ, chẳng kém gì Thiên Sơn kiếm pháp. Trên đời này chỉ có kiếm pháp của ba nhà có thể tề danh cùng nhau, ngoài hai nhà chúng ta, còn có Đạt Ma kiếm pháp của Quế Trọng Minh. Kiếm pháp của ba nhà có điểm tương đồng nhau, ngươi đã học được chân truyền của sư phụ, cần gì phải nhờ ta chỉ dạy?” Lữ Tứ Nương lo lắng nói: “Sư phụ của tôi cũng được tiền bối chỉ điểm!” Dịch Lan Châu cười nói: “Điều đó thì khác, lúc đầu sư phụ ngươi lấy được kiếm phổ, vẫn chưa thông hiểu kiếm pháp nên cần phải có người chỉ điểm yếu quyết, giờ đây ngươi không những đã đăng đường mà cũng sắp nhận thất, không cần ta phải chỉ điểm kiếm pháp nữa, ta sẽ dạy ngươi bí quyết luyện công!” Lữ Tứ Nương vui mừng bái tạ. Dịch Lan Châu chợt nói: “Nội công của sư phụ ngươi cực cao, nếu bà ta theo dõi ta có lẽ ta không biết, nhưng người khác sao lại làm được như thế? Mấy mươi năm qua ta tránh ở ngoài tái ngoại, không biết ở Trung Nguyên còn có bao nhiêu Chưởng môn?” Bạch Thái Quan nói ra mấy cái tên, Dịch Lan Châu lắc đầu: “Đều là vãn bối của ta!” rồi tiếp tục hỏi: “Kim Quang đại sư của phái Nga Mi và Bản Không đại sư của phái Thiếu Lâm vẫn còn sống chứ?” Bạch Thái Quan nói: “Hai người ấy đều đã chết cả!” Dịch Lan Châu kêu ồ một tiếng, trong lòng càng kinh hãi hơn.


Đêm ấy bốn người vẫn chia ra hai đường đến mai phục gần phủ khâm sai, canh ba vừa qua, chợt thấy một bóng người nhảy vọt vào bên trong, người ấy kẹp dưới nách một thiếu nữ, chắc là đã bị y điểm Á huyệt nên chẳng hề kêu la gì được. Một hồi sau lại có một bóng đen nhảy tọt vào bên trong, ở nách cũng kẹp một thiếu nữ, Đường Hiểu Lan vừa nhìn đã nhận ra đó chính là Cáp Bố Đà, thầm nhủ: “Té ra y là thái hoa tặc!” đang định lên tiếng, Dịch Lan Châu kéo chàng khẽ nói: “Theo ta! Cầm sẵn phi mãng, nếu nguy hiểm phát ám khí trước!” rồi gọi Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan, bốn người cùng nhảy vọt vào bên trong. Khinh công của Đường Hiểu Lan tuy không bằng hai người Dịch, Lữ nhưng thành tựu cũng đã bất phàm, bốn người lướt vào bên trong, hạ xuống đất chẳng hề phát ra tiếng, từ xa đã thấy Cáp Bố Đà khuất dạng trong dãy đình đài lầu tạ!


Trong phủ có hồ sen núi giả, cây cỏ rậm rạp, ánh trăng lạnh lẽo bao trùm khắp nơi, Dịch Lan Châu thấy xung quanh chẳng có người, thế là phóng vọt lên hòn núi giả, chỉ thấy một tòa lầu được xây theo kiểu cung điện, thế là bà ta điểm mũi chân phóng vọt lên mái cung điện. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan, Đường Hiểu Lan cũng lần lượt nhảy lên, nhìn xung quanh có rất nhiều phóng ốc, đình đài lầu tạ, Dịch Lan Châu không biết tìm từ đâu. Bên dưới có một dãy hành lang hình chữ vạn, trên mái hành lang có treo mấy mươi ngọn phong đăng hình bát giác, chợt nghe một tiếng chuông vang lên, cánh cửa một căn phòng lớn kêu kẹt một tiếng, hơn mười hán tử cao lớn cúi eo kiểng chân bước ra tựa như sợ kinh động người khác, bộ dạng trông rất buồn cười, kẻ đi sau cùng là một viên quan trông khí độ bất phàm, bọn người này chui ra khỏi lối, ở đầu hành lang lại xuất hiện một nhóm người ăn mặc giống như nhau, cả hai nhóm người sắp gặp nhau, nhóm người từ bên ngoài vào im lặng thin thít, một viên quan cúi người chào: “Trương đại nhân, ti chức xin thỉnh an!” Viên quan có điệu bộ hiên ngang nói: “Điền đại nhân, không cần ông vào nữa!” rồi bước tới khẽ nói mấy câu, kẻ được gọi là Điền đại nhân lộ nụ cười bí hiểm, cúi người thối lui. Bạch Thái Quan từng hành hiệp trượng nghĩa ở Sơn Đông, cũng biết sơ qua tình hình quan phủ, nghe bọn chúng gọi nhau như thế mới biến viên quan khí độ phi phàm kia chính là khâm sai Trương Đình Ngọc, còn kẻ được gọi Điền đại nhân chính là Tuần phủ Sơn Đông Điền Văn Kính. Điền Văn Kính cũng là danh thần thời Thanh, y là người có uy vọng trong số các phủ đài. Bạch Thái Quan thầm nhủ: “Trương Đình Ngọc tuy là khâm sai nhưng chức quan của hai người hơn kém nhau không đến một cấp. Trương Đình Ngọc là chính nhất phẩm, Điền Văn Kính là tùng nhất phẩm. Theo quy củ quan trường, nếu Trương Đình Ngọc đến Tế Nam, Điền Văn Kính phải đón tiếp long trọng, nhưng giờ đây Trương Đình Ngọc đã ra khỏi Thanh Đảo, Điền Văn Kính cũng không cần đích thân bái kiến như thế! Huống chi Điền Văn Kính lại khúm núm trước viên khâm sai, rõ ràng khắc hẳn thường ngày”.


Một lúc sau, hai nhóm người vừa mới đi xa, Dịch Lan Châu khẽ nói: “Chúng ta vào lục soát căn phòng lớn ở giữa! Hiểu Lan, ngươi theo ta. Tứ Nương, ngươi chờ ta phát hiệu lệnh rồi mới ra tay”. Rồi hai chân điểm một cái, dắt Đường Hiểu Lan phóng vọt lên mái nhà cao đến bảy tám trượng, chỉ thấy trên tám tấm bình phòng còn có một dãy cửa sổ, lập tức nảy ra kế, lại tung mình lên, đu người ở bên trên, dùng nội công tinh thâm nhẹ nhàng đánh vỡ vài mảnh ngói mà chẳng hề phát ra tiếng. Bọn Lữ Tứ Nương cũng làm theo bà ta, nhìn xuống bên dưới thì thấy có treo ngọn đèn trường minh phát ra ánh sáng vàng nhạt, xung quanh là bốn cây cột có khắc hình rồng phượng giỡn nhau. Ở giữa nhà có một công tử trẻ tuổi, Đường Hiểu Lan thất kinh, chàng ta chính là Vương Tôn Nhất! Thiên Diệp Tản Nhân, Hải Vân hòa thượng, Thần Ma song lão ngồi ở hai bên, vẻ mặt trông rất cung kính! Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan cũng nhìn nhau, không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?


Vương Tôn Nhất vươn eo, vỗ tay nói: “Việc chính đã bàn xong, chúng ta phải nên vui chơi. Trương Đình Ngọc thật không biết điều, đến canh ba mới đi”. Rồi quay sang một vệ sĩ áo đen nói: “Gọi Cáp tổng quản đến!” Vệ sĩ áo đen kêu “vâng” một tiếng, buông tay lui ra.


Một hồi sau, một làn u hương xộc vào mũi, ở nơi cửa phòng Cáp Bố Đà và một vệ sĩ khác đỡ hai thiếu nữ bước vào, đó chính là hai người đã bị bọn họ bắt. Lúc này cả hai đã được thay đồ đẹp, nhưng chỉ có điều mặt mũi u ám, hai mắt vô thần. Vương Tôn Nhất cười hì hì, quay đầu sang nói: “Hai người này cũng tạm được, nhưng trông cứ giống như tượng gỗ. Cần phải đưa đi huấn luyện trước, một tháng sau hãy dắt đến gặp ta!” tên vệ sĩ kêu vâng một tiếng, đang định dắt hai thiếu nữ lui ra, Vương Tôn Nhất nói: “Chúng ta đến Sơn Đông, trước sau đã chọn được bao nhiêu tú nữ?” Vệ sĩ áo đen nói: “Tổng cộng mười hai người!” Vương Tôn Nhất nói: “Đã được quan môi kiểm nghiệm chưa?” Vệ sĩ nói: “Ngoài hai ả này, tất cả đều được kiểm nghiệm, có tám người phù hợp!” Vương Tôn Nhất nói: “Cứ trả những người đã hợp quy cách về, đừng làm khó bọn chúng”. Cáp Bố Đà cười nói: “Sao không tặng cho Bảo quốc thiền sư?” Vương Tôn Nhất nói: “Nếu không thể làm tú nữ trong nội đình, e rằng chưa chắc đã hợp ý Bảo quốc thiền sư, ta sẽ chọn người đẹp khác tặng cho ông ta”. Dịch Lan Châu thầm giật mình, nhủ rằng: “Sao thái hoa tặc lại nghênh ngang đến thế? Chả lẽ bọn chúng là những kẻ triều đình ngầm phái đi chọn tú nữ? Vậy Vương Tôn Nhất là ai?” Đang suy nghĩ, chợt Thiên Diệp thiền sư quát lớn: “Gian tế thật lớn gan, xuống đây cho ta!” rồi hai chưởng vung lên, đánh vỡ mái ngói, bọn bốn người Dịch Lan Châu từ trên mái ngói rơi xuống. Té ra Bạch Thái Quan không thể kìm được nỗi phẫn nộ, vô tình đã nghiến răng, hơi thở nặng nề truyền xuống bên dưới, chính vì thế mà việc mới hỏng!


Bạch Thái Quan chân chưa chạm đất đã phóng hai mũi trủy thủ về phía Vương Tôn Nhất, quát lớn: “Té ra thái hoa tặc là ngươi!” Vương Tôn Nhất phóng vọt người lên, vỗ một ngọn trủy thủ cắm vào lưng ghế sâu đến năm tấc, còn ngọn kia bay tới, bị Vương Tôn Nhất dùng hai ngón tay kẹp chặt. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lữ Tứ Nương vọt người nhanh như gió, chỉ một lần trồi hụp đã nhảy bổ đến bên cạnh Vương Tôn Nhất, cây Sương Hoa kiếm vung lên đánh ra một chiêu Long Đỉnh Trích Châu, đâm vào cổ họng của y. Vương Tôn Nhất lướt người né qua, trong chớp mắt đã vòng đến bên cạnh một cây mãn đường hồng, cây mãn đường hồng là một cây trụ sắt, dưới có chân, trên có đặt hoa sen, trên hoa sen lại có bốn ngọn đèn cầy, Vương Tôn Nhất không tìm ra binh khí, thế là vung tay giở cây mãn đường hồng lên, Lữ Tứ Nương đánh ra chiêu thứ hai Phi Bọc Lưu Tuyền, ánh bạch quang loang loáng tựa như mười mấy mũi kiếm đồng thời đâm tới, Vương Tôn Nhất xoay cổ tay, quét ra một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, gạt kiếm của Lữ Tứ Nương! Lữ Tứ Nương thất kinh, không ngờ Vương Tôn Nhất đã sử dụng Phục Hổ côn pháp chính tông của phái Thiếu Lâm.


Vương Tôn Nhất gạt được thanh kiếm, lập tức đánh tới một chiêu Hiệp Sơn Siêu Hải, y phóng vọt người đến bên trái của Lữ Tứ Nương, đẩy cây mãn đường hồng về phía trước sử dụng chiêu Ô Long Xuất Động trong phép đánh thương của phái Thiếu Lâm, hất thẳng vào bụng dưới của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương thấy y đánh chiêu này quá khinh bạc, thế là cả giận cổ tay lật lại, ánh kiếm quang xoáy từ trái sang phải, thi triển công lực nội gia chặn vào mặt ngoài của cây mãn đường hồng, rồi nàng tiện tay đánh thêm một chiêu Phi Ưng Hổ Thố, đâm vào ba lộ trên dưới của Vương Tôn Nhất. Vương Tôn Nhất cũng bất đồ thất kinh, kiếm pháp của nàng ta quả nhiên hiếm thấy, thế là cây mãn đường hồng xuống, đánh một chiêu Tướng Quân Hạ Mã chặn thanh kiếm lại.


Lữ Tứ Nương đánh đã hăng, Dịch Lan Châu đánh càng hăng hơn! Thiên Diệp Tản Nhân vừa thấy Dịch Lan Châu hạ người xuống đã đánh ra một đòn Kim Long Thám Trảo, hai chưởng liên tục vỗ ra vù vù, y nhanh, Dịch Lan Châu càng nhanh hơn, trong màn chưởng phong nhanh ảnh, Dịch Lan Châu điểm cây gậy giáng long vào hai mắt của y, với chiêu này nếu là người khác đã không tránh nổi, nhưng Thiên Diệp Tản Nhân là đệ nhất cao thủ ở miền Tây Vực, võ công quả thực cũng có chỗ độc đáo, thế là y phất ống ta áo vỗ ngược ra một chưởng, lấy công làm thủ, hóa giải thế, tấn công, Dịch Lan Châu nói: “Đáng tiếc, võ công của ngươi như thế này mà cam chịu làm chó săn cho người khác!” thế là cổ tay lật lại, quét cây gậy giáng long xuống đất, Thiên Diệp Tản Nhân tung mình vọt lên né tránh, biến chưởng thành trảo, thi triển tuyệt chiêu trong thủ pháp Phân Cân Thác Cốt, tấn công vào chỗ trống của Dịch Lan Châu. Nào ngờ Dịch Lan Châu đột nhiên dùng gậy làm kiếm, tay phải cầm ngược chui gậy, lướt qua một bên, đâm gậy vào eo của đối thủ. Phía bên kia Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích cũng đã chặn Bạch Thái Quan, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô thấy Dịch Lan Châu quá lợi hại, gầm lớn một tiếng vén ống tay áo, lộ ra hai cánh tay to như hai cây trụ gỗ. Thiên Diệp Tản Nhân bị Dịch Lan Châu đánh đến nỗi chẳng thể nào trả đòn được, Tát Thiên Đô ỷ có thần lực, chân trái đá hất lên, quyền phải đấm thẳng ra trước ngực, vừa khéo che chắn cho Thiên Diệp Tản Nhân. Dịch Lan Châu đâm cây gậy vào eo của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô ỷ mình có mình đồng da sắt, thế là ưỡn ngực về phía trước, quát: “Mụ ăn mày già làm gì được ta?... Ối chao, ngươi sử dụng yêu pháp gì?” ở eo vừa đau vừa ngứa, y nhảy dựng lên rồi ngã xuống đất lăn lộn! Đột nhiên y lại ôm bụng cười to, khắp người mềm nhũn, té ra Dịch Lan Châu đã đâm trúng huyệt Tiếu Yêu của y, y vốn không sợ điểm huyệt, nhưng Dịch Lan Châu đã dùng chân lực nội gia mấy mươi năm, Tát Thiên Đô dẫu sao cũng chẳng phải là mình đồng da sắt, làm sao có thể chống chọi nổi?


Cáp Bố Đà vốn định giúp Vương Tôn Nhất cự Lữ Tứ Nương, thấy Thiên Diệp Tản Nhân gặp nguy, quát lớn: “Bảo quốc thiền sư mau tới đây!” rồi cùng Hải Vân hòa thượng đánh tới hai bên, Cáp Bố Đà sử dụng chùy Lưu Tinh, Hải Vân hòa thượng dùng trường kiếm, Cáp Bố Đà nhảy tới trước, bị Dịch Lan Châu dùng cây gậy hất một cái, quét đôi chùy Lưu Tinh qua một bên, Hải Vân hòa thượng xông tới, cây trường kiếm đánh ra một chiêu Trường Hồng Kinh Thiên, đâm tới trước ngực. Đột nhiên chợt thấy phía trước mắt bóng người xẹt tới, chỉ nghe Dịch Lan Châu cười nói: “Ngươi đến thật đúng lúc!” Hải Vân hòa thượng chợt thấy cổ tay tê nhói, té ra cây trường kiếm trong tay đã bị đoạt mất!


Dịch Lan Châu vốn có một cây bảo kiếm tên gọi là đoạn ngọc, đó là một trong hai thanh kiếm trấn sơn mà Hối Minh thiền sư để lại, có thể chém sắt như chém bùn, nhưng lần này bà không mang theo. Không ngờ đột nhiên bị mấy cao thủ tấn công, dùng cây gậy dẫu sao cũng không quen lắm. Lúc này thấy Hải Vân hòa thượng đâm kiếm tới thì vung tay đoạt mất, cười lớn: “Nếu các ngươi đã vây công, đừng trách ta bắt các ngươi tế kiếm!” rồi múa tít thanh kiếm loang loáng, chỉ trong chớp mắt Hải Vân hòa thượng đã trúng một nhát kiếm, nhảy ra khỏi vòng chiến, giật kiếm đấu tiếp! Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà liều mạng chống trả nhưng vẫn lọt xuống thế hạ phong!


Lúc này bên ngoài tiếng người ồn ào, cửa lớn bị đá binh một tiếng, Liễu Ân hòa thượng cầm cây thiền trượng bước sải vào, y trợn mắt không khỏi kêu lên kinh hãi: “Té ra là ngươi!” rồi vung cây thiền trượng nhảy bổ tới, đánh ra một chiêu Tấn Lôi Kích Đỉnh, bổ xuống đầu Dịch Lan Châu. Dịch Lan Châu xoay người, tay trái cầm cây gậy giáng long gạt lên, tay phải đâm xéo cây trường kiếm ra ngoài bằng một chiêu Bạch Hạc Tróc Ngư, điểm vào ngực của Liễu Ân, Liễu Ân lập tức giở thiền trượng, lộn ngược người trở lại, quét ngang cây gậy vào trung lộ của Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu gạt cây kiếm, lộn sang một bên, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân nhảy bổ tới, công lực của hai người này đều không khỏi tầm thường, Liễu Ân thì càng kinh người hơn, y múa tít cây thiền trượng kêu lên vù vù, Dịch Lan Châu một mình đánh với ba người nên chỉ ngang tay.


Lữ Tứ Nương đang quần thảo rất hăng với Vương Tôn Nhất, thấy rất nhiều vệ sĩ áo đen dồn vào, kiếm pháp chợt gấp gáp, đánh ra như điện chớp, quét ra mấy đường kiếm, Vương Tôn Nhất võ công tuy cao cường, nhưng chưa bao giờ thấy kiếm pháp lợi hại như thế này, khi y luống cuống thối lui, Lữ Tứ Nương đã chém ngang kiếm qua, đề vào cây mãn đường hồng, rồi phạt ngang vào ngón tay của Vương Tôn Nhất, Vương Tôn Nhất gầm lên một tiếng, ném cây mãn đường hồng nặng đến mấy chục cân ra, Lữ Tứ Nương lướt người né tránh. Cây mãn đường hồng ấy bay thẳng qua đâm vào cổ họng một tên vệ sĩ áo đen, y kêu ối chao một tiếng, ngã ngửa xuống đất, máu chảy lênh láng.


Đường Hiểu Lan nhờ có Du Long kiếm liên tục chặt gãy binh khí của bọn vệ sĩ, lúc này Tát Thiên Đô đã bớt ngứa ngáy, chỉ là khí lực vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, thấy bọn vệ sĩ không chống trả nổi, y bật người dậy nhảy bổ về phía Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan vung mũi kiếm lách người đâm tới. Tát Thiên Đô sợ thanh kiếm của chàng, chẳng dám liều mạng, chỉ quát lớn: “Hảo tiểu tử, đưa kiếm đây!” thế rồi y phóng người lên lướt qua một bên, dùng thủ pháp Cầm Nã giật thanh kiếm của Đường Hiểu Lan, y vốn tưởng rằng võ nghệ của Đường Hiểu Lan vẫn còn kém, chẳng chịu nổi một đòn, nào ngờ Đường Hiểu Lan đã theo Dương Trọng Anh học võ nghệ năm năm, tuy Dương Trọng Anh không phải là nhân vật thuộc hàng nhất đẳng nhưng cũng chẳng kém hai tên ma đầu này bao nhiêu, vả lại Dương Trọng Anh luyện tâm pháp nội công chính tông của phái Tung Dương, truyền cho Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan luyện được năm năm, căn cơ đã vững chãi, kiếm pháp cũng tiến bộ hơn rất nhiều. Truy Phong kiếm pháp của chàng lanh lẹ lạ thường, Tát Thiên Đô quá sơ ý, đánh liều nhảy bổ tới, không ngờ Đường Hiểu Lan lật cổ tay, hất kiếm từ dưới lên trên, quát: “Trúng!” Tát Thiên Đô vừa mới bị Dịch Lan Châu đánh một gậy, di chuyển không lanh lẹ, cánh tay trái trúng thêm một nhát kiếm!


Du Long kiếm sắc bén lạ thường, mũi kiếm đã đâm vào thịt đến năm tấc. Tát Thiên Đô đau quá gầm lớn: “Hảo tiểu tử, nộp mạng đây!” y không thèm đổi chiêu, hai chưởng vẫn tiếp tục đè xuống. Tát Thiên Đô được người ta gọi là Đại Lực Thần Ma, lực của hai chưởng đâu chỉ ngàn cân, Đường Hiểu Lan đâm y trúng một kiếm chẳng qua chỉ là may mắn, lúc này chàng vẫn chưa rút kiếm về, hai chưởng của Tát Thiên Đô đã đánh xuống nhanh như điện xẹt, làm sao có thể né tránh, chỉ tưởng rằng mạng đã xong, không ngờ chưởng phong lướt qua, chàng chỉ cảm thấy đỉnh đầu như bị kiếm chém vào, nóng bỏng đau nhói nhưng không hề bị thương.


Khi Đường Hiểu Lan mở mắt ra, chỉ thấy Lữ Tứ Nương đã múa kiếm như gió đâm về phía Tát Thiên Đô! Chàng sờ lên đỉnh đầu thì thấy có vệt máu, tóc trên đầu rơi xuống một mảng lớn! Lúc này bọn vệ sĩ lại xông tới lần nữa, Đường Hiểu Lan thấy cường địch đã lui, lòng đã bớt lo, tay phải vung lên một nắm phi mãng, bọn vệ sĩ chưa từng thấy ám khí phi mãng, những kẻ võ công hơi kém đã bị trúng phi mãng của chàng. Vương Tôn Nhất giật được một thanh đơn đao, cười nói: “Đường huynh đệ, hãy trao kiếm cho ngu huynh giữ hộ! Chúng ta rất có duyên với nhau, ta không thể để bọn chúng đả thương đệ!” Đường Hiểu Lan nổi cáu nói: “Trông bề ngoài ngươi nho nhã mà té ra lại là thái hoa tặc. Ai thèm làm huynh đệ với kẻ đê tiện như ngươi!” rồi chàng vung kiếm, liên tục đánh ra những chiêu hiểm hóc. Vương Tôn Nhất vừa chống đỡ, vừa cười rằng: “Ha ha, thái hoa tặc? Đường huynh đệ, đệ bảo ta là thái hoa tặc? Chỉ e khiến cho võ lâm tiền bối ở đây cười đến rụng răng mất!” Đường Hiểu Lan nghiến răng nói: “Võ lâm tiền bối cái gì? Chỉ là một phường chó săn!” rồi lại liên tục đâm cây kiếm tới, Vương Tôn Nhất cười ha hả, đơn đao vung lên gạt kiếm của Đường Hiểu Lan ra, chém vào cổ tay của chàng ta, Đường Hiểu Lan vọt người tránh chiêu trả chiêu, lao về phía Vương Tôn Nhất. Vương Tôn Nhất tuy võ công cao hơn chàng nhưng trong nhất thời muốn đoạt kiếm của chàng chẳng phải chuyện dễ.


Lúc này bọn thị vệ đến càng đông hơn, Lữ Tứ Nương triển khai Huyền Nữ kiếm pháp đâm Tát Thiên Đô được một nhát kiếm, vội vàng rút lui cùng Đường Hiểu Lan sánh vai tác chiến. Nhờ Lữ Tứ Nương có kiếm pháp cao cường, Đường Hiểu Lan có bảo kiếm sắc bén, bọn vệ sĩ không dám đánh liều tiến tới gần. Nhưng vì ít địch nhiều, Vương Tôn Nhất lại sử dụng công phu thượng thừa của phái Thiếu Lâm, Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan dần dần rơi vào nguy hiểm!


Phía bên kia Dịch Lan Châu ác chiến với Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà, cả ba tên này đều là cao thủ thuộc hàng đệ nhất, tuy không thể thắng nhưng đã hoàn toàn chiếm được thượng phong. Bọn ba người Liễu Ân chỉ nhờ vào hô ứng lẫn nhau, tấn công liên hoàn mới có thể miễn cưỡng chống trả nổi. Dịch Lan Châu thấy bọn vệ sĩ kéo tới càng đông hơn, trong khắp sảnh đường đều là người, bà ta nhíu mày thầm nhủ: “Tổ sư ở trên, xin thứ con mở rộng sát giới!” Kiếm pháp chợt thay đổi, chỉ thấy kiếm hoa tơi tả, điện quang loang loáng, phiêu hốt vô định, khi đánh đến lúc gấp gáp, thanh kiếm của bà ta tựa như muôn vạn ngàn con ngân xà đang phóng tới, bọn ba người Liễu Ân thối lui liên tục. Thân pháp của Dịch Lan Châu nhanh như gió, bà ta cứ lướt đi nhẹ nhàng trong sảnh đường, lúc đâm ở Đông một kiếm, Tây một kiếm, bọn vệ sĩ vừa mới thấy bóng người lướt tới, trên mình đã trúng kiếm, chỉ trong chốc lát mấy chục tên vệ sĩ áo đen đều đã ngã xuống quá nửa, trên người ai nấy đều trúng một hai vết kiếm!


Lộ kiếm pháp mà Dịch Lan Châu sử dụng cũng là Truy Phong kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp, tuy cùng một bài kiếm pháp nhưng Dịch Lan Châu sử dụng lại lợi hại hơn Đường Hiểu Lan gấp mấy mươi lần! May mà Dịch Lan Châu lòng dạ từ bi, chỉ đâm vào các khớp hoặc những huyệt đạo không chí mạng, mục địch là giảm bớt sức mạnh của kẻ địch!


Dịch Lan Châu lướt một vòng quanh sảnh đường, bọn vệ sĩ đã ngã quá nửa, những kẻ võ công cao hơn chưa bị trúng kiếm cũng thối lui, bọn Liễu Ân hòa thượng thấy thế cả kinh, vội vàng lao tới, Dịch Lan Châu thầm nhủ: “Bắt giặc trước hết phải bắt vua, xem ra Vương Tôn Nhất là thủ lĩnh của bọn chúng, vả lại bắt tên này sẽ phá được vụ án thái hoa”. Thế là chủ ý đã định, bà ta vung cây trường kiếm, lướt người tới bên phải của Vương Tôn Nhất, đánh ra một chiêu Ngọc Nữ Đầu Thoa đâm ngang tới, Vương Tôn Nhất giơ cây đơn đao lên chặn lại đánh keng một tiếng, cây đao gãy thành hai đoạn. Liễu Ân kinh hãi, vội vàng quét cây thiền trượng tới, Cáp Bố Đà cũng liên tục đánh chùy Lưu Tinh tới, Dịch Lan Châu đánh một đòn không trúng, đã bị hai người bọn họ chặn lại.


Lữ Tứ Nương thấy Dịch Lan Châu ra tay như thế thì chợt hiểu ra, cây Sương Hoa kiếm chợt múa nhanh như gió, liên tiếp vượt qua bọn vệ sĩ, rồi nàng điểm mũi chân phóng vọt người lên, chợt đánh ra một chiêu Thiên Sơn Tuyết Băng, từ trên không đâm xuống cổ của Vương Tôn Nhất. Tát Thiên Đô phóng vọt người tới, dùng tuyệt kỹ Miêu Ưng Phốc Kích liều mạng chặn lại, mười móng tay dài gần cả thước nhất tề đâm tới, công phu của hai người đều cao cường cực kỳ, trên không trung chẳng ai né tránh được, Lữ Tứ Nương bị trúng một trảo ở vai, Tát Thiên Đô bị trúng một kiếm ở ngực, nhưng Lữ Tứ Nương công lực cao hơn, tuy trúng một trảo, cả người lẫn kiếm xoay một vòng tròn, chém bị thương bọn vệ sẽ đang dồn tới, vẫn tiếp tục đâm vào sau lưng của Vương Tôn Nhất! Tát Thiên Đô trúng một kiếm bổ nhào xuống đất, nằm ngay đơ cán cuốc!


Vương Tôn Nhất chạy vòng vòng ở sảnh đường, chợt thấy sau lưng có gió quét tới, y lập tức rùng người đánh ra một chiêu Phiên Thân Xạ Hổ, trở tay chụp lại, hai ngón tay cái điểm vào huyệt Khiếu Âm của Lữ Tứ Nương, tay phải đấm vào trước ngực của nàng, đó chính là tuyệt chiêu cứu mạng trong Phục Hổ quyền của phái Thiếu Lâm, chiêu này mục địch là tìm thắng trong bại. Lữ Tứ Nương buộc phải đổi công làm thủ, hóp bụng thu ngực, lách người né tránh, rút cây Sương Hoa kiếm quét tròn trở lại. Vương Tôn Nhất thấy nguy hiểm đã qua, lòng đã bớt lo, quyền trái chưởng phải phản kích vào hạ bàn của Lữ Tứ Nương, một tên vệ sĩ áo đen nhảy vọt như gió, tay cầm hai cây đồng giản phóng tới kịp thời, tên vệ sĩ này tên gọi Bành Vân Ấn, là phó thủ của Cáp Bố Đà, công lực cũng chẳng phải tầm thường, Lữ Tứ Nương thấy sắp đắc thủ, chợt bị cản lại, thế là đùng đùng cả giận lật cổ tay, chém ngược ra, sử dụng tuyệt chiêu Thu Thủy Hoành Châu trong Huyền Nữ kiếm pháp đâm xuyên vào hai cây đồng giản, vẫn xỉa thẳng vào ngực của Vương Tôn Nhất. Võ công của Bành Vân Ấn tinh thuần, y lui ngang hai bước, hai cây đồng giản vẫn bổ xuống, Lữ Tứ Nương tưởng rằng có thể đâm xuyên qua hai cây đồng giản, nào ngờ Bành Vân Ấn trước tiên thối lui sau đó mới phóng lên trở lại, bổ cây đồng giản xuống, dù nàng đâm trước Vương Tôn Nhất, bản thân cũng không khỏi bể đầu đổ máu.


Lữ Tứ Nương gặp nguy hiểm, thối lui cũng không kịp nữa, thế là nàng không màng tất cả, vẫn tiếp tục đâm mạnh cây Sương Hoa kiếm về phía trước. Trong khoảnh khắc sinh tử ấy, Bành Vân Ấn và Lữ Tứ Nương đều bị người ta kéo tách ra hai bên.


Chính là:


Người giỏi lại có người giỏi hơn, liễu rậm hoa thưa lại một thôn.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 10

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 10 Giới luật chẳng giữ thiền sư vào nẻo mê Để giấy giải thích đồng tử lộng quyền mưu




Lữ Tứ Nương và Bành Vân Ấn nhảy bổ vào nhau nhanh như điện chớp, thế đánh cực kỳ hung mãnh, thế mà bị người ta tách ra đều không khỏi kinh ngạc. Lữ Tứ Nương vọt ngang ba bước, thu kiếm lại nhìn thì thấy có một hòa thượng gầy ốm mình mặc tăng bào màu trắng, chân mang giày cỏ, cổ tay đeo một vòng tràng hạc, hai mắt không nộ mà oai, dáng bộ trông vững vàng.


Dịch Lan Châu đánh lùi bọn Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân, chợt thấy có một hòa thượng từ trên cao vọt xuống, một tay kéo Lữ Tứ Nương ra ngoài, bất đồ cả kinh, giơ ngang kiếm định nhảy tới, chợt nghe hòa thượng quát: “Vương Tôn Nhất, ngươi còn chưa ngoan ngoãn theo ta về núi?” Dịch Lan Châu nghe thế chưng hửng, chỉ nghe Vương Tôn Nhất lớn giọng nói: “Sư thúc từ xa tới đây, tiểu điệt không kịp nghênh đón, mong sư thúc ở đây nghỉ ngơi mấy ngày, tiểu điệt đang có việc, tạm thời không thể trở về núi được!” hòa thượng ấy chỉ tay gằng giọng mắng: “Trước mặt ta mà ngươi còn giả vờ giả vịt? Ngươi làm đầy chuyện ác, không theo ta về núi, chả lẽ buộc ta phải xuống tay?” Dịch Lan Châu thấy rất kỳ lạ, bước tới mấy bước, hòa thượng ấy chắp tay làm một lễ, khiêm nhường nói: “Dịch nữ hiệp xin thứ cho tội vô lễ, tiểu tăng là giám tự của Thiếu Lâm Tung Sơn, Thiếu Lâm bất hạnh có đồ đệ hạ tiện, không những đã phiền lụy đến sư môn mà khiến Dịch nữ hiệp mất công ra tay, chùa Thiếu Lâm chúng tôi rất ái ngại! Hôm nay tôi đến đây áp giải hắn về núi, trừng trị theo quy củ, nếu Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu chịu nể mặt, xin mời đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn nghỉ ngơi vài ngày, Thiếu Lâm chúng tôi quyết không bao che cho đồ đệ, nữ hiệp có thể làm chứng!”


Dịch Lan Châu vốn nghi ngờ Vương Tôn Nhất là con em hoàng tộc, Ngư Xác thế thì không khỏi bất ngờ. Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, môn đồ có khắp trong cả nước, thanh thế rất lớn, các phái khác không sao bì kịp. Trụ trì trước đây của chùa Thiếu Lâm, Bản Không đại sư là cao tăng hữu đạo được bốn phương kính ngưỡng, nếu Vương Tôn Nhất là người trong hoàng tộc, chắc chắn y không thể là môn hạ của Thiếu Lâm. Thế rồi bà mới cung tay nói: “Dám hỏi đại sư và Bản Không trụ trì xưng hô thế nào?” hòa thượng ấy đáp: “Bản Không đại sư là sư huynh của bần tăng, năm ngoái người đã không may viên tịch. Tên phản đồ này chính là đệ tử tục gia của người. Trụ trì hiện nay là Tam sư đệ Vô Trú thiền sư”. Dịch Lan Châu nói: “Vậy đại sư chính là Bản Vô?” hòa thượng ấy đáp: “Tôi và Lăng đại hiệp có duyên gặp mặt một mình, tôi đã sớm muốn lên Thiên Sơn gặp gỡ nữ hiệp, chỉ vì đường sá xa xôi, trong chùa có nhiều việc của cần phải giải quyết bởi vậy mới không đi được. Lần này mạo phạm nữ hiệp, thật là hổ thẹn!”


Dịch Lan Châu cũng thầm kêu “hổ thẹn” bởi vì thể nhớ nổi ông ta là ai. Bản Vô thiền sư tinh thông Thiếu Lâm thần quyền, công lực chẳng kém Bản Không. Luận về vai vế, ông ta bằng vai phải lứa với Dịch Lan Châu.


Bọn Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà tung mình thối lui ra sau, bảo vệ cho Vương Tôn Nhất. Bản Vô đại sư chắp tay chào Thiên Diệp Tản Nhân, lên tiếng rằng: “Thiên Diệp đạo huynh, bần tăng đã nghe đại danh từ lâu. Không biết tại sao đạo huynh lại bao che cho phản đồ?” Liễu Ân quát: “Bản Vô đại sư, sao ông không ở Tung Sơn tu hành mà lo chuyện bao đồng thế?” Bản Vô đại sư quét cây phất trần, lớn giọng nói: “Vị này chắc là Liễu Ân đại sư đứng đầu Giang Nam bát hiệp, nghe nói gần đây đại sư xung phong đắc ý, được Tứ bối lạc mời mọc, lại được phong làm Bảo quốc thiền sư. Bần tăng chỉ là kẻ tiểu dân ở chốn sơn dã, không dám qua lại với người cao sang, bần tăng tuy có một chút giao tình với Độc tý thần ni nhưng môn hộ khác nhau, bần tăng chính vì không thèm lo chuyện bao đồng nên tuy là cố hữu của thần ni, nhưng cũng không muốn xen vào chuyện trong môn phái của bà ta, tôi nghĩ chắc sẽ có người ra mặt. Không biết tại sao đại sư lại trách tôi là lắm chuyện?” Bản Vô đại sư chỉ biết Liễu Ân nhận lời mời của Tứ bối lạc chứ không biết Thiên Diệp Tản Nhân cũng cùng một giuộc. Những câu nói vừa rồi là ngầm mỉa mai, rõ ràng biết Liễu Ân vẫn là đại đệ tử của Độc tý thần ni thế mà không nhắc đến, bởi vậy còn lợi hại hơn là mắng thẳng vào mặt Liễu Ân!


Không những Liễu Ân thẹn quá hóa giận, Thiên Diệp Tản Nhân cũng đỏ mặt. Liễu Ân vung cây thiền trượng, nạt lớn: “Lão lừa trọc Bản Vô kia, ta kính lão là bậc trưởng bối nên mới tốt bụng khuyên lão, lão tưởng ta sợ lão đấy hử?” Bản Vô cười lạnh nói: “Bần tăng tuổi già sức yếu, làm sao dám ngang ngược bá đạo như bọn tiểu bối hậu sinh? Tôi đã nghe lời quốc sư không dám nhiều chuyện nữa, nhưng Vương Tôn Nhất là sư điệt của tôi, tôi phải quản giáo y! Tôi cũng khuyên quốc sư không nên xen vào chuyện của phái Thiếu Lâm chúng tôi! Nếu quốc sư nhất định phải làm thế, xin mời quốc sư hẹn anh hùng thiên hạ đến núi Tung Sơn ban dạy!” Liễu Ân gầm một tiếng, đánh cây thiền trượng to như miệng bát ra, Bản Vô đại sư quét cây phất trần, cuộn cây thiền trượng, với một người có thần lực như Liễu Ân mà vẫn bị ông ta chặn lại! Đang bị biến chiêu chợt nghe Vương Tôn Nhất vẫn lạnh lùng nói: “Sư thúc cứ nhắc mãi đến môn quy, không biết điều thứ mười ba trong môn quy Thiếu Lâm là gì?” Bản Vô đại sư chưng hửng, té ra là điều thứ mười ba là nếu môn hạ Thiếu Lâm bị hiểu lầm phạm vào thanh quy đại giới thì được phép biện bạch. Nếu không phục đối với những lời phán xét của giám tự thì có thể mời nhân chứng đến Tung Sơn lý luận. Thời hạn nhiều nhất là một tháng. Chùa Thiếu Lâm đưa ra điều này là sợ có người bị oan khuất, dám tự phán xét sai lầm.


Vương Tôn Nhất vừa nói ra câu ấy, Bản Vô thiền sư buông lỏng tay phải, thu phất trần trở về, trừng mắt nói: “Ta tận mắt thấy đồng đảng của ngươi bắt cóc thiếu nữ dâng lên cho ngươi, ngươi là chủ mưu, chả lẽ ta vu oan cho ngươi?” Vương Tôn Nhất vẫn bình thản mỉm cười!


Bản Vô đại sư thấy y chẳng nói chẳng rằng, mặt biến sắc: “Nếu ngươi muốn biện bạch, ta cho ngươi một tháng để ngươi mới nhân chứng lên Tung Sơn! Ngươi đừng hòng dựa dẫm vào người khác chạy tội!” Vương Tôn Nhất kiêu ngạo nói: “Tại sao tiểu điệt phải chạy? Một tháng sau tiểu điệt sẽ đến Tung Sơn!” Bản Vô đại sư thấy y ung dung như thế, chẳng hề có ý khiếp sợ, trong lòng thấy kỳ lạ! Thầm nhủ nếu chẳng phải ông ta chính mắt thấy, chắc chắn chẳng dám tin y là kẻ chủ mưu vụ án thái hoa này. Bề ngoài y vừa nho nhã vừa uy võ, mặt mày đàng tử tế, ai ngờ y lại làm ra chuyện hạ tiện như thế này.


Thế rồi Bản Vô đại sư lại nói với Dịch Lan Châu: “Đến lúc đó xin mời Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu lên Tung Sơn làm chứng”. Dịch Lan Châu cười nói: “Hai người này là sư đệ và sư muội của Liễu Ân, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương”. Bản Vô đại sư nói: “Vậy thì càng tốt! Chúng ta đi!” lúc này bên ngoài người đông nghìn nghịt, Tuần phủ Sơn Đông Điền Văn Kính đích thân dẫn quân lính bao vây tòa lầu, Vương Tôn Nhất phẫy tay, Cáp Bố Đà chạy ra ngoài một hồi, Vương Tôn Nhất nói: “Sư thúc, xin thứ cho tiểu điệt không thể đưa tiễn!” Bản Vô nhìn ra ngoài, chỉ thấy bọn lính đã rút đi chẳng còn một mống, cười lạnh nói: “Té ra ngươi còn cấu kết với bọn Thát Đát, là quý khách của khâm sai đại nhân!” Vương Tôn Nhất kiêu hãnh nói: “Mong sư thúc cứ ghi nợ cho tiểu điệt, muốn giết muốn mổ đến lúc đó xin mời chủ trì và tiền bối võ lâm phán tội!” Bản Vô đại sư tức đến nghẹn họng, chạy ra bên ngoài. Dịch Lan Châu ngại Vương Tôn Nhất là của phái Thiếu Lâm, vả lại Bản Vô đã ra mặt, đương nhiên bà cũng đành buông tay.


Năm người quay trở lại Huyền Diệu quán, Bản Vô đại sư lại xin lỗi Dịch Lan Châu. Hai ngày sau Bản Vô đại sư quay trở về Tung Sơn, Bạch Thái Quan mời Lữ Tứ Nương đi thăm Cam Phụng Trì, định rằng lên Mang Sơn tảo mộ sư phụ trước rồi mới đến Tung Sơn.


Dịch Lan Châu tính toán lộ trình, Sơn Đông và Tế Nam nằm kề nhau, từ Thanh Đảo đến Tung Sơn, với cước trình của bà và Đường Hiểu Lan trễ nhất nửa tháng sẽ tới. Nên Dịch Lan Châu bảo Đường Hiểu Lan lưu lại trong Huyền Diệu quán, trước tiên truyền thuật thổ nạp nội công cho chàng, Đường Hiểu Lan theo Dương Trọng Anh năm năm, học được nội công chính tông, đã có căn cơ, lại được Dịch Lan Châu chỉ điểm yếu quyết, bởi vậy mới càng học dễ dàng hơn.


Sau nửa tháng, hai người Đường, Dịch từ Thanh Đảo xuống miền Nam, đi ngang qua Lâm Tri rồi lại đến Tây Triết, từ Khúc Phụ xuống Tế Ninh, vào huyện Thương Khâu của tỉnh Hà Nam, đi được mấy ngày đã đến Tung Sơn. Chỉ thấy chùa Thiếu Lâm nguy nga to lớn, quả nhiên không hổ là thánh địa võ học trong võ lâm. Vào cửa chùa đã có người đợi sẵn dắt vào tri khách đường, đi ngang qua Đại Hùng bảo điện tiến vào La Hán đường, Bản Vô đại sư đích thân nghênh đón. Thế rồi Bản Vô dắt Dịch Lan Châu đến gặp trụ trì mới của chùa Thiếu Lâm là Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư sắc mặt hiền từ, vừa nhìn đã biết là cao tăng hữu đạo. Vô Trú tuy là sư đệ của Bản Vô nhưng cũng dày công nghiên cứu Phật kinh, võ công tuy không bằng sư huynh nhưng đạo đức tu hành có thể nói thuộc hàng đệ nhất trong chùa nên mới trở thành trụ trì. Nhưng sở trường của Vô Trú thiền sư cũng là sở đoản của ông ta, ông ta cố gắng thanh tu, không hỏi việc đời, tuy không cho phép môn đồ qua lại với quan phủ, nhưng cũng không khích lệ họ đối chọi với quan phủ. Ông ta chỉ cần tiêu giao hóa ngoại, hoàng dương Phật pháp, cho rằng cầu chính quả mới là pháp môn duy nhất.


Lại nói sau khi Đường Hiểu Lan vào chùa Thiếu Lâm, đã có tri khách tăng dắt chàng vào thiền phòng nghỉ ngơi. Căn thiền phòng này nằm bên cạnh La Hán đường, trong đường có ngọn đèn lưu ly lớn, treo trên đỉnh, tim đèn to như miệng bát, phát ra ánh sáng rực rỡ, trên bàn thờ còn có cây đèn cầy to như cánh tay, tim đèn ló lên cao đến hơn nửa thước, Đường Hiểu Lan ngồi trên giường không biết bao lâu, chỉ cảm thấy xung quanh yên ắng. Đường Hiểu Lan thầm nhủ, chùa Thiếu Lâm quả nhiên danh đồn không ngoa, nghe Bạch Thái Quan nói, trong chùa có ba mươi sáu tòa điện, hơn năm trăm nhà sư, nhưng màn đêm buông xuống lại thanh tịnh như thế này, đúng là một ngôi chùa giới luật nghiêm ngặt. Chàng đang suy nghĩ, chợt nghe bên ngoài có âm thanh rất nhỏ, Đường Hiểu Lan khẽ khàng bước xuống giường, đưa mắt nhìn ra khe cửa, chỉ thấy ở đại đường có một đứa trẻ khoảng mười ba mười bốn tuổi đi chân không, tóc buộc bằng vòng vàng, trên hai cánh tay trắng buốt cũng buộc hai vòng vàng, huơ chân múa tay trong tòa đại đường, lúc thì miệng lẩm nhẩm, lúc thì ngửa mặt cười lớn trông rất kỳ quái! Đường Hiểu Lan rất ngạc nhiên, không hiểu sao trong một ngôi chùa trang nghiêm thế này mà xuất hiện một đứa trẻ, mà La Hán đường chỉ quan trọng kém Đại Hùng bảo điện, tại sao các nhà sư trong chùa lại để cho một đứa trẻ nghịch ngợm vào đây?


Một hồi sau vẫn không thấy ai bước ra, Đường Hiểu Lan nhất thời hiếu kỳ, chàng mở then cửa định bước ra ngoài, chợt thấy trước mắt hoa lên, trên mái La Hán đường chợt có một người hạ xuống, đứa trẻ mỉm cười với người ấy, người ấy đưa tay ra, đưa trẻ móc ra một cái bọc ném về phía y, người ấy vươn tay chụp lấy, y quay đầu lại, Đường Hiểu Lan mới nhìn ra đó là Thiên Diệp Tản Nhân. Đường Hiểu Lan đang kéo then cửa vội vàng cài lại. Thiên Diệp Tản Nhân hú lên một tiếng quái dị, đứa trẻ chợt quát: “Có người đến!” Thiên Diệp Tản Nhân vỗ ra một chưởng, cánh cửa thiền phòng tựa như trúng một nhát chùy sắt, đột nhiên bật ra, Đường Hiểu Lan ngã phịch xuống đất!


Đường Hiểu Lan bật người vọt dậy, chỉ thấy xung quanh La Hán đường đã xuất hiện bốn tăng nhân đứng sừng sững, Đường Hiểu Lan nhận ra một người trong số họ chính là Ngộ Hư thiền sư, tri khách tăng đã dắt chàng vào chùa. Ngộ Hư thiền sư lên tiếng hỏi: “Này, ngươi ở đâu tới? La Hán đường trong chùa Thiếu Lâm há để cho ngươi làm càn?” Thiên Diệp Tản Nhân cười ha hả: “Mời trụ trì Vô Trú thiền sư ra đây nói chuyện!” bốn hòa thượng đồng thời nạt lớn: “Trụ trì của bọn ta đâu dễ gặp hạng vô danh như ngươi”. Thiên Diệp Tản Nhân cười rộ lên, lớn giọng nói: “Cả ta mà các ngươi cũng chẳng biết, đúng là mất mặt Thiếu Lâm!” rồi ưỡn ngực ngạo mạn nói: “Các ngươi không kêu trụ trì ra, chả lẽ ta không biết đi tìm y?” bốn nhà sư liền xông tới, bao vây Thiên Diệp Tản Nhân vào ở giữa. Thiên Diệp Tản Nhân lại cười lạnh, ra tay như điện chớp, chỉ thấy hai tay y vung lên, hai nhà sư té soài ra ngoài, hai người kia cũng loạng choạng thối lui mấy bước. Chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân lợi hại lạ thường, may mà bốn nhà sư đều là cao thủ trong lớp đệ tử thứ hai của chùa Thiếu Lâm, chứ nếu không đã chẳng chống nổi. Thiên Diệp Tản Nhân đắc ý dương dương, đang định xông về phía trước, chợt ở phía Đông đại đường có một bóng người lướt tới, Thiên Diệp Tản Nhân định quay trở lại, vai đã bị người ấy vỗ xuống một cái, người ấy trầm giọng nói bên tai: “A di đà Phật!” Thiên Diệp Tản Nhân hoảng hồn nhảy thối lui ba bước.


Thiên Diệp Tản Nhân tay trái hộ trước ngực, mũi chân xoay một cái, quay đầu lại thì thấy có một nhà sư mặt mũi hiền từ, nhà sư chắp tay nói: “A di đà Phật, Thiên Diệp Tản Nhân từ muôn dặm đến đây, không biết có gì chỉ giáo?” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Xin hỏi pháp hiệu của đại sư?” nhà sư đáp rằng: “Lão nạp chính là người Tản nhân muốn tìm!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Vô Trú thiền sư quả nhiên danh đồn không ngoa, đúng là một cao tăng khiêm nhường hữu đạo. Có điều bốn vị tăng nhân vừa rồi thật là vô lễ!” Vô Trú thiền sư cười rằng: “Bọn chúng làm sao biết Tản nhân đến đây, chúng chỉ tưởng là cuồng đồ trên giang hồ! Nếu lão nạp không nhận ra Linh sơn chưởng pháp của Tản nhân, cũng tưởng Tản nhân là hạng đầu trộm đuôi cướp. Mong Tản nhân bớt giận, bần tăng xin chịu tội!” những câu nói vừa rồi có cả cứng lẫn mềm, bề ngoài là xin lỗi nhưng thực sự trách Thiên Diệp Tản Nhân coi thường quy củ của chùa Thiếu Lâm xông vào chốn thiền viện. Phái Linh Sơn của Thiên Diệp Tản Nhân và phái Thiếu Lâm tuy cách xa muôn dặm, chẳng liên quan với nhau nhưng Linh Sơn thượng nhân, sư phụ của Thiên Diệp Tản Nhân đã từng đến nghe sư phụ của Vô Trú giảng kinh vào năm mươi năm trước ở chùa Thiếu Lâm, từng bái lễ “bán sư”, nên nếu luận về vai vế, Thiên Diệp Tản Nhân thấp hơn Vô Trú thiền sư nửa bậc. Bởi vậy Thiên Diệp Tản Nhân xong vào chùa Thiếu Lâm là điều không đúng, thế mà Vô Trú thiền sư vẫn nhún nhường, Thiên Diệp Tản Nhân đành phải thu lại vẻ cuồng ngạo của mình, thế rồi cung tay nói: “Lệnh sư điệt Vương Tôn Nhất đạo đức hay võ công đều lừng lẫy giang hồ. Quý giám tự Bản Vô đại sư không biết điều đó nên gán tội danh cho y, ta nửa đời nhàn rỗi nhưng cũng thấy không vừa mắt. Ngày mai lệnh sư điệt đến Tung Sơn xin tội, ta và vài vị tiền bối võ lâm cũng muốn đến chùa Thiếu Lâm xem thử trái phải!” té ra theo quy củ võ lâm, một phái thanh lý môn hộ, người khác không được can thiệp vào. Nhưng nếu người bị gán tội không phục, thì có thể mời tôn sư của phái khác lên tiếng hộ. Có điều những chuyện như thế này trăm năm khó gặp một lần.


Vô Trú thiền sư kêu ồ một tiếng, vẫn bình tĩnh nói: “Hơn một ngàn năm qua chùa Thiếu Lâm chúng tôi đều giữ giới luật, tuyệt không bao che cho môn đồ, cũng không xử oan cho môn đồ. Nếu Thiên Diệp Tản Nhân và các bậc tiền bối trong võ lâm chịu đến đây, bần tăng thật vinh hạnh!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Đắc tội!” rồi xoay lưng định bỏ đi, chợt ở cửa họng xuất hiện một người, người ấy chắp tay nói: “Thiên Diệp Tản Nhân từ xa đến đây, xin thứ chúng tôi không thể tiễn!” Thiên Diệp Tản Nhân chợt thấy kình phòng quét tới, thế là chắp tay trả lại một vái nhưng chẳng chịu nổi luồng kình phong ấy, bất đồ thối lui ra cửa đường! Thiên Diệp Tản Nhân xưa nay lấy làm kiêu hãnh vì chưởng lực của mình, không ngờ chẳng địch nổi người này, khi định thần nhìn lại, té ra đó là Bản Vô đại sư, y vội vàng lên tiếng: “Đã nhường!” thế rồi chẳng nói chẳng rằng phóng thẳng xuống núi.


Đứa trẻ ban nãy từ đầu đến cuối vẫn lắng nghe Thiên Diệp Tản Nhân và Vô Trú thiền sư đối đáp. Vô Trú thiền sư đuổi Thiên Diệp Tản Nhân, bước tới vuốt tóc nó, âu yếm hỏi: “Con có bị thương không?” Đứa trẻ trả lời: “Không có!” Bản Vô đại sư nói: “Thế thì không sao! Con hãy quay về nghỉ ngơi, hôm nay không cần luyện công, sư phụ đang đợi con đấy”. Đứa trẻ vâng một tiếng, quay vào hậu đường. Đường Hiểu Lan vốn muốn hỏi lai lịch của đứa trẻ, nhưng chàng mới tới, vai vế lại thấp, bởi vậy không tiện hỏi, chỉ đành giữ trong lòng rồi đi ngủ. Chàng nghe văng vẳng bên ngoài có tiếng của Bản Vô thiền sư, ông ta tựa như đang cãi cọ với Vô Trú thiền sư.


Sau khi Thiên Diệp Tản Nhân rút lui, Vô Trú thiền sư và Bản Vô thiền sư cùng vào Sơ tổ am. Sơ tổ am là nơi kỷ niệm Đạt Ma thiền sư. Truyền thuyết kể rằng Đạt Ma thiền sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa vào thời Lương Võ đế, đạp trên một cành trúc mà qua sông, đến đỉnh Thiếu Thất diện bích mười năm, khai lập Thiền Tông nên gọi là Sơ tổ. Khi chùa Thiếu Lâm cử hành đại sự, những người đứng đầu trong chùa vào Sơ tổ am bàn bạc. Vô Trú thiền sư ngồi xuống mỉm cười nói: “Đến nay sư huynh vẫn còn nóng tánh, sao đêm nay cớ gì phải làm khó người ta?” Bản Vô đại sư cười nói: “Ta không muốn thành Phật, đâu học được công phu nín nhịn như sư đệ. Thiên Diệp Tản Nhân biết rõ bổn tự là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm mà vẫn xông vào, không cho y biết lợi hại, y tưởng rằng chùa Thiếu Lâm chúng ta dễ bức hiếp”. Vô Trú thiền sư nói: “Y muốn ra mặt cho Vương Tôn Nhất theo quy củ võ lâm, ngày mai mới đến kỳ hạn, y đến sớm một đêm thông báo cũng không mất lễ nghĩa lắm, bởi vậy không nên trách y!” Bản Vô đại sư nói: “Khi ta bắt Vương Tôn Nhất ở Thanh Đảo, đã biết có nhiều cao thủ võ lâm giúp đỡ cho y, không ngờ Thiên Diệp Tản Nhân cũng trong số đó. Nếu Vương Tôn Nhất đã phóng túng như thế, ngày mai chúng ta phế đi là xong!”


Vô Trú thiền sư cuối đầu suy nghĩ một lúc lâu mới khẽ nói: “Sư huynh, việc này không bình thường!” Bản Vô thiền sư nói: “Không ngờ đồ đệ mà đại sư huynh chúng ta thương yêu nhất lại ra nông nỗi như thế!” sư huynh của Bản Vô là Bản Không vốn là trụ trì tiền nhiệm của chùa Thiếu Lâm, uy vọng trên võ lâm hơn hai vị sư đệ của mình rất nhiều nên người trên giang hồ nhắc đến Thiếu Lâm, chín phần chỉ biết Bản Không chứ không biết Vô Trú. Năm xưa chính Liễu Ân đã giới thiệu Vương Tôn Nhất, lúc đó Bản Vô đã nghi ngờ lai lịch của Vương Tôn Nhất, khuyên sư huynh không nên nhận y. nhưng Bản Không thấy Vương Tôn Nhất tướng mạo phi phàm, thông minh khác thường, chẳng những không nghe lời sư đệ mà còn truyền hết bản lĩnh cho y.


Vô Trú nói: “Đệ bảo chuyện này không bình thường, không phải chỉ vì Vương Tôn Nhất là ái đồ của sư huynh chúng ta, mà bởi vì tại sao nhiều cao thủ võ lâm chống lưng cho y?” Bản Vô thiền sư im lặng không nói, Vô Trú lại lên tiếng: “Dù Vương Tôn Nhất võ công cao cường nhưng y xuất sư được bao nhiêu năm có tài đức gì mà khiến tôn sư của một phái như Thiên Diệp Tản Nhân mà cũng phải khâm phục sát đất. Lại còn có tên hung tăng Liễu Ân, kẻ đứng đầu Giang Nam bát hiệp, xưa nay chẳng coi ai ra gì mà chịu làm bảo tiêu cho y?” Bản Vô thiền sư trầm ngâm một lúc, chợt kéo dài giọng nói: “Chả lẽ y...” Vô Trú thiền sư mặt trắng bệt, cắt lời: “Chúng ta đừng tùy tiện suy đoán, để rồi xem! Có điều đệ có một lời khuyên, sư huynh tính tình nóng nảy, nói không chừng ngày mai có liên quan đến kiếp số của Thiếu Lâm, sư huynh phải ráng nín nhịn”. Bản Vô thiền sư nổi cáu nói: “Sư đệ, đệ là trụ trì của bổn tự, đệ nói gì huynh sẽ nghe nấy”. Vô Trú thiền sư mỉm cười đứng dậy, nói: “Huynh đệ chúng ta sao lại còn nói đến lời đó? Sư huynh, huynh đừng đa tâm!” rồi hai sư huynh đệ dắt nhau ra khỏi am đường, nhìn ba mươi sáu tòa điện tắm mình trong ánh trăng, Vô Trú thiền sư chợt thở dài nói: “Cầu xin Phật tổ từ bi phù hộ, cơ nghiệp này không thể hủy trong tay của đệ!”


Sáng sớm hôm sau, Đại Hùng bảo điện trong chùa Thiếu Lâm khói hương nghi ngút, tượng Đạt Ma sư tổ đặt ở giữa, đợi cử hành một nghi thức không bình thường.


Đường Hiểu Lan với thân phận là người làm chứng cũng được mời đến, có điều chàng là kẻ vẫn bối, không được những cao tăng tiếp đãi như Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, chỗ ngồi cũng khác hẳn. Người tiếp đãi chàng chính là tri khách tăng Ngộ Hư, Đường Hiểu Lan đã thức dậy từ sớm, Ngộ Hư mời chàng đi tắm rửa chờ đợi, xong xuôi Ngộ Hư dắt chàng ra khỏi thiền phòng, chỉ thấy hai hàng tăng nhân đứng thẳng tắp, ai nấy mặc tăng y mới tinh, rồi họ bước vào Đại Hùng bảo điện, năm trăm tăng nhân đã đứng vào vị trí, Đại Hùng bảo điện trang nghiêm lạ thường, hầu như có thể nghe cả tiếng thở. Hai hàng tăng nhân tư lễ tay gõ văn bản, âm thanh du dương vọng xuống. Đường Hiểu Lan ngồi ở ghế khách thứ mười ba mé Tây, khoảng nguội một chén trà, chợt chuông trống vang rền, ở nơi nguyệt môn khói hương bốc lên nghi ngút, trong làn khói có ba người bước vào, đó chính là chủ trì Vô Trú thiền sư, giám tự Bản Vô thiền sư và quý khách của chùa Thiếu Lâm Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương đi theo sau, Vô Trú thiền sư đến trước tượng Lạt ma sư tổ, ngồi xếp bằng trên tấm nệm màu vàng, Bản Vô thiền sư ngồi trên chiếc bồ đoàn bên phải, ba người Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, Lữ Tứ Nương ngồi ở ghế bên phải. Các cao tăng của Lạt ma đường, La Hán đường, Chưởng kinh đường đều mặc cà sa, cung kính chắp tay thi lễ với Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư mặt nghiêm nghị, sau khi hành lễ trước tượng Lạt ma sư tổ, cất giọng nói: “Chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đã có hơn một ngàn ba trăm năm, giới luật nghiêm ngặt nổi tiếng thiên hạ. Lão nạp vô đức, mới tiếp nhiệm Chưởng môn, không may có môn nhân của bổn tự là Vương Tôn Nhất vi phạm thanh quy, đi ngược đại giới, có hành vi thái hoa ở Thanh Đảo, bị Bản Vô đại sư phát hiện, lẽ ra lập tức bắt về núi trừng trị nhưng Vương Tôn Nhất không phục, yêu cầu phải đối chất với giám tự, đồng thời mời trưởng lão của phái khác cùng lý luận. Việc này liên quan đến vinh nhục của Thiếu Lâm, lát nữa sẽ tra rõ ngọn ngành. Các tăng nhân trong chùa phải lấy đây làm điều tự răn”. Rất nhiều nhà sư chưa biết chuyện này, bởi vậy trong nhất thời xì xồ bàn tán, chùa Thiếu Lâm có thái hoa tặc quả là chuyện chưa bao giờ có.


Bản Vô đại sư nói: “Chưởng môn Phương trượng, nếu sau khi tra rõ ngọn ngành, Vương Tôn Nhất quả nhiên có tội, nhưng trưởng lão của phái khác ra mặt bao che thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nói: “Nếu có việc này chúng ta chỉ đành khuyên họ rồi trừng trị phản đồ”. Bản Vô đại sư nói: “Nếu họ không chịu thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nổi cáu nói: “Không thể vô lý như thế!” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường nói: “Hành vi thái hoa tội không thể tha, nếu có kẻ bên ngoài cậy mạnh bao che, toàn bộ tăng nhân trong chùa đều có trách nhiệm hộ phách!” chủ trì Chưởng kinh đường là người chấp chưởng truyền kinh giới luật của các đời, Bản Vô đại sư chính là muốn ép ông ta nói ra điều này. Vô Trú thiền sư nhíu mày, sắc mặt nặng nề.


Vừa đến giờ ngọ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Sao Vương Tôn Nhất vẫn chưa xuất hiện, chả lẽ y không dám tới?” chợt bên ngoài có tiếng khánh vang lên, ở nơi cửa chùa, Vương Tôn Nhất cùng một đám người nghênh ngang bước vào Đại Hùng bảo điện. Những kẻ ấy chính là Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão, ngoài ra còn có hai người, Đường Hiểu Lan không nhận ra, khẽ hỏi Ngộ Tính thì mới biết một người chính là cự khấu nổi tiếng miền Tây bắc tên gọi Cam Thiên Long, còn một người là trưởng lão của phái Hình Ý tên gọi Đổng Cự Xuyên, cũng là một nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ.


Vương Tôn Nhất vừa bước vào đại điện, đã hành lễ với Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi muốn ngồi ở chỗ đợi tội hay ở ghế thân biện, tùy ngươi chọn lựa!” số là theo quy củ võ lâm, khi xảy ra chuyện không tầm thường, môn đồ bị hạch tội nếu ngồi trên ghế đợi tội sẽ cho thấy mình từ đầu đến cuối vẫn theo bổn phái, chấp nhận tội danh, cầu mong đồng môn tha thứ. Nếu ngồi ở ghế thân biện, có nghĩa là tự mình tách rời khỏi môn phái, biện luận bằng vai phải lứa với Chưởng môn của bổn phái. Nếu làm thế dù kết quả thế nào cũng đã thoát ly khỏi môn phái. Vương Tôn Nhất ngẩng đầu lên nhìn, ghế thân biện và ghế của khách khứa đặt sát nhau, y không chần chừ mà bước thẳng tới ngồi xuống ghế thân biện. Bọn Liễu Ân, Thiên Diệp Tản Nhân cũng tuần tự ngồi xuống ở các ghế bên trái.


Mọi người ngồi xong, Vô Trú thiền sư nói lại một lượt giới luật của Thiếu Lâm, rồi cao giọng nói: “Bản Vô sư huynh, huynh là nguyên cáo, mời huynh thuật lại những hành vi của Vương Tôn Nhất cho mọi người cùng nghe”. Bản Vô đại sư đứng dậy nói: “Tháng trước ta phụng lệnh của Phương trượng đến Sơn Đông xem xét các môn đồ Thiếu Lâm, trong thời gian ở lại Thanh Đảo, nhiều vụ án thái hoa đã xảy ra, liên tiếp có mười hai thiếu nữ bị thái hoa tặc bắt cóc, sau khi ta tra xét, đã chứng thực là hành vi của Vương Tôn Nhất!” Vương Tôn Nhất cười lạnh nói: “Nếu ông thấy tôi thái hoa, tại sao không bắt ngay tại trận?” Bản Vô đại sư nói: “Không phải ngươi đích thân thái hoa nhưng chính là chủ mưu”. Ông ta hơi ngừng lại một chốc rồi nói: “Vương Tôn Nhất không chỉ phạm đại tôi thái hoa mà còn a dua theo quan lại triều đình. Y ở trong phủ khâm sai, nửa đêm sai người bắt cóc thiếu nữ, dùng phủ khâm sai làm sào huyệt thái hoa!” Vương Tôn Nhất lại cười lạnh: “Ở trong phủ khâm sai cũng có tội sao?” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường đứng dậy nói: “Chùa Thiếu Lâm chúng ta nhiều đời đã truyền, chỉ giữ thanh quy không màng đến triều chính. Ở trong phủ khâm sai không tính là có tội nhưng bắt cóc thiếu nữ chính là đại tội. Xin các vị đừng nói lan man sang chuyện khác, chỉ nói rốt cuộc Vương Tôn Nhất có sai khiến đồng đảng bắt cóc thiếu nữ cho y hay không mà thôi”. Hoằng Pháp nói như thế khiến Bản Vô cũng thấy hơi lúng túng. Số là nhiều đời phái Thiếu Lâm tương truyền, tuy không màng đến triều chính, nhưng từ sau khi nhà Minh sụp đổ, dị tộc xâm lăng, các nhà sư đều không xu phụ người Mãn, và mặc nhiên giúp đỡ các chí sĩ của triều Minh, Bản Vô cũng từng đề nghị đưa việc phản Minh phục Thanh vào tự quy nhưng Vô Trú thiền sư thấy việc này quan hệ quá lớn nên không chấp nhận. Trong lòng Bản Vô đại sư, xu phụ người Mãn còn đáng phỉ nhổ hơn cả tội thái hoa nên trong nhất thời mới trách cứ phản đồ, không nhớ rằng trong tự quy không có điều này.


Vương Tôn Nhất cãi rằng: “Ông nói tôi chủ mưu thái hoa, có gì làm bằng chứng?” Dịch Lan Châu đứng phắt dậy: “Ta làm chứng!” rồi chỉ Cáp Bố Đà và Cam Thiên Long: “Ta thấy hai người này bắt cóc thiếu nữ dâng cho Vương Tôn Nhất”. Rồi kể lại tình hình đêm ấy. Các nhà sư đều kinh hãi!


Vô Trú thiền sư nghiêm mặt nói: “Dịch nữ hiệp là truyền nhân duy nhất của Thiên Sơn kiếm, vai vế cao nhất trong chốn võ lâm, bà ta tuyệt không vu oan cho bọn tiểu bối, không biết nhà ngươi còn có thể nói gì nữa?”


Vương Tôn Nhất đứng dậy nói: “Có phải lúc nãy Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường bảo rằng bổn tự từ xưa đến nay không màng đến chuyện triều đình không?” Vô Trú thiền sư nói: “Việc thái hoa có liên quan gì đến triều đình? Ta chỉ hỏi ngươi, Dịch nữ hiệp nói đúng hay sai?” Vương Tôn Nhất hiên ngang nói: “Đúng thế!” lập tức trong chùa xôn xao, Hoằng Pháp đại sư cao giọng nói: “Theo giới điều của tổ sư, kẻ phạm tội thái hoa phải bị thiêu sống!”


Vô Trú thiền sư dập đầu ba cái trước tượng Lạt ma tổ sư, từ từ đứng dậy, trầm giọng quát: “Nghịch đồ Thiếu Lâm Vương Tôn Nhất sai khiến thái hoa, bắt cóc thiếu nữ, tội chứng đã rõ rành rành, sau khi được trụ trì Chưởng kinh đường tra xét giới điều rõ ràng, thấy rằng tội đáng xử tử, hôm nay lập tức chấp hành!” rồi phất tay một cái, bốn tăng nhân của Đạt Ma viện rời chỗ ngồi bước ra. Dịch Lan Châu và Bản Vô đưa mắt nhìn Liễu Ân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân, sợ rằng y giúp Vương Tôn Nhất. Nào ngờ bảy tên cao thủ đi cùng Vương Tôn Nhất vẫn ngồi yên chẳng hề nhúc nhích.


Bốn tăng nhân chưởng hình chậm rãi bước tới, Đại Hùng bảo điện chợt im ắng lạ thường, năm trăm tăng nhân nín thở chờ đợi, Vương Tôn Nhất đứng phắt dậy, cười lạnh quát: “Ai dám bắt ta?” rồi y cởi áo ngoài, trên ngực áo trong có thêu hình con rồng vàng năm móng, bốn bên có ngọc mắt mèo sáng chói, bốn tăng nhân chưởng hình bất đồ đứng lại, chỉ nghe Cáp Bố Đà quát: “Đây là Tứ bối lạc, các ngươi sao không quỳ xuống?”


Té ra Vương Tôn Nhất chính là tên giả của Dận Trinh, y lập tâm cướp đoạt ngôi vua nên vi phục xuất cung kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, còn mình cũng vào trong phái Thiếu Lâm học võ công trong vòng ba năm.


Năm ngoái Dận Trinh trở về Bắc Kinh, vâng lệnh phụ hoàng thành hôn cùng Nữu Cô Lộc thị, Nữu Cô Lộc thị dung mạo tầm thường, không được Dận Trinh thương yêu. Khi Dận Trinh xuất trinh mới chợt nghĩ rằng, trong cung tuy cứ mỗi vài ba năm chọn tú nữ một lần, nhưng nhà giàu có vì hạnh phúc suốt đời của con cái thường bỏ tiền bạc mua chuộc người trong phủ nội vụ, gạch tên con cái của họ, dù thiếu nữ nhà nghèo vừa nghe đến đợt chọn tú nữ cũng vội vàng lấy chồng hoặc trốn tránh, nên mỗi lần chọn tú nữ tuy có hơn ngàn người nhưng người xinh đẹp cực ít, Khang Hy có nhiều con trai, khi phân đi các vương phủ càng không hợp ý. Dận Trinh thầm nhủ: “Trong tay mình có nhiều người tài, sao không bảo bọn chúng tìm thiếu nữ xinh đẹp cho mình để khỏi chọn lựa phiền phức bởi vậy mới gây ra những vụ án thái hoa ở Thanh Đảo”.


Không ai ngờ đến chuyện này, Vương Tôn Nhất là bối lạc đã đủ lạ, mà bối lạc lại làm chuyện thái hoa lại càng không thể tưởng tượng nổi. Trong khoảng sát na, Đại Hùng bảo điện rộn lên tiếng bàn tán ồn ào, Bản Vô đại sư mặt nổi gân xanh, chợt quát lớn: “Bối lạc phạm pháp cũng trị tội như thứ dân!” Dận Trinh lớn giọng nói: “Tất cả mọi thứ trong gầm trời này đều là của nhà ta. Ta muốn bắt vài thiếu nữ dân gian để khỏi phiền phức lựa chọn thiếu nữ, đó cũng là việc công, làm sao nói ta phạm pháp? Dù ta phạm pháp cũng có phủ tông nhân, chùa Thiếu Lâm chẳng có quyền gì quản ta!”


Dận Trinh miệng lưỡi lanh lẹ, chỉ mấy câu đã khiến Bản Vô đại sư cứng họng. Các tăng nhân trong chùa đều phẫn nộ. Hoằng Pháp đại sư chợt lớn giọng nói: “Ta chỉ biết ngươi là Vương Tôn Nhất môn đồ của phái Thiếu Lâm chứ không biết Tứ bối lạc gì cả. Ở đây không có phủ tông nhân, chỉ có môn quy của phái Thiếu Lâm!” Bản Vô đại sư được ông ta nhắc nhở, lạnh lùng nói: “Triều đình có quốc pháp, Thiếu Lâm cũng có môn quy, ngươi là môn đồ của Thiếu Lâm, dù cho ngươi là đương kim Hoàng đế cũng phải trừng trị theo quy củ giang hồ!” Liễu Ân quát lớn: “Phản rồi! Phản rồi!”


Thiên Diệp Tản Nhân đứng dậy nói: “Tuy nói các phái trong võ lâm đều có môn quy, nhưng việc này không phải tầm thường, phải xử lý quyền nghi. Tứ bối lạc chọn thiếu nữ trong dân gian làm sao có thể tính là thái hoa! Tự quy của Thiếu Lâm tuy nghiêm ngặt nhưng cũng phải tuân theo quốc pháp!” Vô Trú thiền sư im lặng không nói, Bản Vô đại sư trợn tròn mắt, quát lớn: “Nếu chùa Thiếu Lâm e sợ kẻ quyền quý, từ rày về sau làm sao có thể lãnh tụ võ lâm? Chuyện hôm nay chính là khảo nghiệm cho phái Thiếu Lâm chúng ta! Chùa Thiếu Lâm có môn đồ như thế chính là nỗi nhục, Chưởng hình tăng nhân, hãy bắt Vương Tôn Nhất!” Thiên Diệp Tản Nhân nhảy ra khỏi chỗ, lạnh lùng nói: “Chùa Thiếu Lâm có quy mô như thế thật không dễ dàng. Bản Vô đại sư không chịu nghe lời tốt chỉ muốn làm theo ý mình, chẳng lẽ không màng đến tâm huyết của tổ sư các đời, muốn hủy cơ nghiệp trăm năm trong một ngày sao?” y nói ra câu ấy, Vô Trú thiền sư và trưởng lão Lạt ma việc đều không khỏi chần chừ, có một số tăng nhân trẻ tuổi càng phẫn nộ hơn, năm trăm tăng nhân bàn tán ồn ào, vô hình trung đã chia thành hai phái, một phái tuy tức giận nhưng vì muốn giữ vững cơ nghiệp của chùa Thiếu Lâm, nên chủ trưởng xử lý khoan dung, không hỏi tội danh. Còn một phái kia thì cứng rắn thà hủy chùa vong thân cũng phải giữ danh dự cho chùa Thiếu Lâm.


Vô Trú thiền sư niệm một tiếng Phật hiệu, lớn giọng nói: “Các vị võ lâm tiền bối và mọi người hãy tạm thời im lặng. Chuyện hôm nay chẳng phải tầm thường, lão nạp cũng không dám tự tiện làm chủ. Xin mời chủ trì ba đường và trưởng lão Đạt Ma viện theo lão nạp đến Sơ tổ am bẩm cáo tổ sư, bàn bạc rồi sẽ tuyên bố. Xin mời các vị khách đợi một lát”. Rồi cùng mười hai nhà sư bước vào trong bàn bạc. Năm trăm tăng đồ cũng giới bị nghiêm ngặt. Dù Dận Trinh gan lớn bằng trời cũng phải hơi run sợ.


Bọn Vô Trú thiền sư lui ra một lúc khá lâu mà vẫn không thấy quay lại, Đường Hiểu Lan đưa mắt nhìn, chợt thấy một bóng người dợm chân bước vào nhưng lại quay ra, Thần Ma song lão chợt đứng dậy thò đầu nhìn ra ngoài, bóng người ấy chợt biến mất, nhưng trông rất quan mắt. Các nhà sư thấy Thần Ma song lão đứng dậy cũng chạy tới bao vây, Thần Ma song lão tiu nghỉu ngồi xuống. Trong lúc hỗn loạn, có một đứa trẻ bước vào nội điện, đó chính là đứa trẻ kỳ mà Đường Hiểu Lan đã gặp. Đường Hiểu Lan bất đồ bước gần tới vài bước, nghe một tăng nhân cười nói: “Canh Nghiêu, ngươi cũng muốn ra xem náo nhiệt ư? Sư phụ của ngươi sao không đến?” Đường Hiểu Lan giật mình, thầm nhủ: “Hình như mình đã nghe cái tên Canh Nghiêu này ở đâu đó!” đứa trẻ mỉm cười, nói: “Làm sao ta biết?” Đường Hiểu Lan định bước tới gần, Vô Trú thiền sư đã cùng mười hai cao tăng bước ra trở lại.


Vô Trú thiền sư rất cẩn thận già dặn, vốn không muốn gây phiền phức, bàn bạc một hồi mới nói: “Thiên Diệp Tản Nhân tuy có ý uy hiếp, nhưng nếu cơ nghiệp của Thiếu Lâm sụp đổ trong lúc này, chúng ta làm sao có thể ăn nói với tổ sư các đời?” Hoằng Pháp đại sư chợt nói: “Trụ trì, xin hỏi từ ngày Thiếu Lâm dựng nghiệp đã trải qua bao nhiêu năm?” Vô Trú thiền sư ngạc nhiên nói: “Sao huynh lại hỏi tôi? Thiếu Lâm Tung Sơn đã trải qua hơn một ngàn ba trăm năm, tăng nhân trong chùa ai mà không biết?” Hoằng Pháp đại sư nói: “Đúng thế! Thử hỏi một ngàn ba trăm năm qua, bao nhiêu triều đại đã thay đổi? Cái uy của bậc đế vương chỉ được nhất thời chứ không thể đến trăm đời. Triều đại có thể đổi nhưng tự quy của Thiếu Lâm chúng ta không thể thay, chả lẽ danh dự ngàn năm của chùa Thiếu Lâm chúng ta không thể so với một bối lạc hay sao?” Bản Vô đại sư cũng nói: “Hoằng Pháp nói có lý, nếu hôm nay chúng ta không chấp hành giới quy của tổ sư, dù chùa Thiếu Lâm có còn tồn tại nhưng danh dự đã tiêu tan, chẳng qua chỉ có danh còn mà thực sự đã mất. Nếu chúng ta kiên quyết trừng trị, giữ vững tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, chùa Thiếu Lâm tuy danh mắt mà thực còn, mãi mãi là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, chúng ta phải có cái nhìn lâu dài. Sư đệ, đệ là chủ trì, cần phải kiên quyết mạnh dạn, dựng nghiệp tuy khó khăn, nhưng chùa bị hủy có thể xây dựng lại, người mất nhưng tuyệt kỹ có thể truyền lại. Với tiếng tăm và tinh thần đã vun bồi hàng ngàn năm qua, một khi hư hỏng sẽ không thể khôi phục được nữa”. Vô Trú thiền sư nhắm mắt trầm tư một lúc rất lâu mới thở dài đứng phắt dậy, cùng mọi người bước ra khỏi Sơ tổ am đi thẳng vào Đại Hùng bảo điện. Mọi người thấy ông ta sắc mặt nặng nề, không biết ông ta quyết định như thế nào, chẳng ai dám lên tiếng hỏi.


Vô Trú thiền sư bước vào điện, tăng nhân chấp sự lập tức khua chiêng gõ trống, tất cả mọi người đều im lặng, Hoằng Pháp đại sư chắp tay hỏi: “Vương Tôn Nhất có tội hay không?” Vô Trú thiền sư trầm giọng đáp: “Có tội!” bọn người đi theo Dận Trinh đều biến sắc. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Mong được nghe lý lẽ của chủ trì!” Vô Trú thiền sư nói: “Vương Tôn Nhất tuy là hoàng tộc nhưng khi y vào chùa Thiếu Lâm lại lấy thân phận của người bình thường. Bản Không đại sư là sư phụ của y, không phải là giáo đầu trong cung của y. Thiếu Lâm là một phái trong võ lâm, môn đồ phạm vào đại giới thái hoa, cần phải xử phạt theo giới luật!”


Bốn nhà sư chưởng hình nói: “Lãnh chỉ!” rồi thong thả bước tới, Liễu Ân và Cáp Bố Đà đứng hai bên Dận Trinh, các tăng nhân chưởng hình tựa như chẳng hề nhìn thấy, vẻ mặt vẫn rất nghiêm nghị, tiếp tục tiến về phía trước. Dận Trinh chợt quát: “Hãy thong thả!” Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi có gì muốn nói?” Dận Trinh lấy ra một tờ giấy, lớn giọng nói: “Sau khi ta nhập môn đã từng nói rõ thân phận với Bản Không sư phụ, ngày ta ra khỏi chùa, ông ta đã viết giấy nói rõ ràng, Chưởng môn Phương trượng, hãy xem rồi sẽ rõ”. Cáp Bố Đà cầm lấy tờ giấy đưa cho Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư đọc xong sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, cúi đầu không nói. Bản Vô và Hoằng Pháp vội vàng ghé đầu qua xem, xem xong Bản Vô nổi cáu: “Bản Không sư huynh của ta tuyệt không phải là người như thế. Tờ giấy này chỉ là giả”. Té ra trên tờ giấy viết rằng: “Bản Không chủ môn Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm, báo cho Phương trượng đời sau biết, đệ tử đời thứ bốn mươi tám Vương Tôn Nhất là bối lạc Dận Trinh, mến danh của chùa Thiếu Lâm ta, không nề gian khổ vào chùa học võ công để sau này ra sức cho triều đình, hoàng dương võ nghệ của chùa Thiếu Lâm ta, mong làm hộ pháp, giữ vững trang nghiêm. Thiếu Lâm may mắn nên mới được bối lạc ghé đến, theo nghĩa quân thần, theo quy củ võ lâm, Dận Trinh là đệ tử của Thiếu Lâm, nhưng bỏ đi danh sư đồ, Dận Trinh vào chùa, cho phép miễn lễ quỳ bái đối với trưởng bối, không chịu ức thúc bởi giới luật của Thiếu Lâm. Giấy này do Dận Trinh cất giữ, sau khi ta viên tịch sẽ truyền cho Phương trượng đời tiếp theo. Bản Không dự”.


Bản Vô nhủ: “Bản Không sư huynh là người ngày thẳng, tuy thanh tu nhưng trong lòng vẫn mong nhớ Hán thất, nếu biết y là hòang tử chắc chắn đã chẳng chịu thu nhận là học trò. Dù thu nhận y là học trò, khi viên tịch cũng phải nói với chúng ta. Mảnh giấy này tuyệt đối là giả!” Vô Trú thiền sư lại nghĩ: “Sư huynh vì giữ cơ nghiệp, chắc là cũng vì bất đắc dĩ nên mới thu nhận Dận Trinh. Chuyện này là đại cơ mật, nên ông ta mới không nói cho chúng ta biết”. Hai người suy nghĩ khác nhau, Bản Vô trong lòng bồn chồn, Vô Trú lại im lặng không nói.


Dận Trinh cười lạnh: “Giám tự bảo tờ giấy này là giả, xin hỏi chủ trì, có phải đây là bút tích của Bản Không đại sư hay không?” Bản Vô cướp lời: “Bút tích không đủ làm bằng, ngươi có người làm chứng hay không?”


Nói chưa dứt lời, chợt giọng nói trẻ con vang lên: “Ta đến đây làm chứng!” đứa trẻ ấy chợt nhảy ra, Hoằng Pháp quát: “Niên Canh Nghiêu, ngươi còn nhỏ biết gì, không được nói càn”. Đường Hiểu Lan chợt nhớ ra, bằng hữu của có thể là Chung Vạn Đường đã từng nói, ông ta thâu nhận được một đứa trẻ nghịch ngợm nhất trên đời làm học trò, họ tên là Niên Canh Nghiêu, chả lẽ là đứa trẻ này? Tại sao đột nhiên nó lại xuất hiện ở chùa Thiếu Lâm, mà lại không thấy Chung Vạn Đường? Đường Hiểu Lan không biết rằng, Chung Vạn Đường vốn cũng ở trong chùa, té ra Chung Vạn Đường là đồ tôn của Phó Thanh Chủ, Phó Thanh Chủ và sư phụ của Bản Không, tức là Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm Thống Thiền thượng nhân giao tình rất tốt, nên hậu bối của họ cũng quen biết nhau, cứ mỗi một hai năm Chung Vạn Đường đều đến chùa Thiếu Lâm ở mấy tháng. Niên Canh Nghiêu ở huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam, cách Tung Sơn không xa, Chung Vạn Đường rất yêu thương Niên Canh Nghiêu nên cũng dắt nó lên núi du ngoạn. Thiếu Lâm tam lão Bản Không, Bản Vô, Vô Trú thấy Niên Canh Nghiêu thông minh tuyệt đỉnh, nghe một hiểu mười, bởi vậy cũng rất yêu thương nó, nhất là Bản Không phương trượng càng coi nó như bảo bối, thường giữ nó trong phòng truyền dạy võ công. Đêm qua Đường Hiểu Lan huơ chân múa tay trong La Hán đường chính là lúc nó đang luyện La Hán Phục Hổ quyền. Sau khi Bản Không chết đi, Niên Canh Nghiêu vẫn thường lên núi, lần này nó và Chung Vạn Đường đã được hơn một tháng.


Chung Vạn Đường không phải là người làm chứng nên Vô Trú thiền sư không mời ông ta. Sau đó Đại Hùng bảo điện ồn ào, Niên Canh Nghiêu không kìm được, đòi Chung Vạn Đường dắt tới, đứng bên ngoài điện quan sát, không ngờ Chung Vạn Đường vừa nhìn vào đã thấy Thần Ma song lão. Mười năm này, Chung Vạn Đường mai danh ẩn tích, trốn chạy khắp nơi, chính là vị sợ Thần Ma song lão, vì thế ông ta mới vội vàng tránh mặt, còn Niên Canh Nghiêu thì đã lẩn vào trong chùa.


Niên Canh Nghiêu nghe Hoằng Pháp quát như thế, cười hì hì nói: “Làm sao tôi không biết? Tôi biết Vương Tôn Nhất chính là Tứ bối lạc, Bản Không đại sư đã từng nói với tôi, khi người viết thư, tôi cũng ngồi bên cạnh! Người căn dặn tôi đừng nói ra, tôi mới kìm nén mấy năm nay. Lúc đó tôi vì hiếu kỳ, đứng một bên xem nên vẫn còn nhớ mảnh giấy viết gì!” Bản Vô và Vô Trú biết nó có bản lĩnh vừa nhìn đã nhớ ngay. Thế rồi Vô Trú nói: “Trẻ con không được nói càn, ngươi hãy đọc lại cho ta nghe”. Niên Canh Nghiêu đọc lớn một lần, quả nhiên chẳng sai một chữ, Bản Vô nghe thế chẳng nói gì, Niên Canh Nghiêu đọc xong rồi lại nói: “Hai ngày trước khi Bản Không đại sư qua đời, còn viết thư để lại cho tôi, bảo rằng nếu có việc gì lớn hãy đi tìm vị sư huynh bối lạc này. Trụ trì, mời ông hãy xem”. Rồi lấy ra một phong thư, Bản Vô ghé đầu qua xem, thấy nét chữ trên bì thư quả nhiên là của Bản Không. Bản Vô thở dài: “Thôi đi! Thôi đi!” rồi tiu nghỉu ngồi xuống, các nhà sư trong chùa chạy tới, Vương Tôn Nhất hiên ngang đứng dậy, chào Vô Trú thiền sư rồi xông ra ngoài. Bản Vô chợt quát lớn: “Ngươi còn muốn chạy?”


Chính là:


Phật môn Sư Tử Hống, trẻ con trêu thiền sư.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 11

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Giang Hồ Tam Nữ Hiệp
Hồi 11 Dốc hết tâm sức danh sư bị mưu hại Lòng dạ ác độc hoàng thất có kiêu hùng




Dận Trinh ngạo mạn hỏi: “Thế nào?” Bản Vô đại sư quát: “Ngươi đã mời người ngoài lý luận cho, vậy từ rày về sau ngươi có còn là đệ tử của chùa Thiếu Lâm nữa không?” nếu theo quy củ võ lâm, sau trận này, Dận Trinh đã thoát ly môn hộ, đi theo phái khác. Dận Trinh nói: “Phải thì thế nào, không phải thì thế nào?” Bản Vô đại sư cười lạnh nói: “Nếu ngươi đã không phải là đệ tử của Thiếu Lâm, vậy hãy trả lại võ nghệ của Thiếu Lâm!” rồi vung chỉ điểm tới vai của Dận Trinh. Đó là tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm tên gọi Thiết chỉ thiền, chỉ cần bị ông ta điểm trúng, võ công sẽ hoàn toàn mất hết. Cam Thiên Long và Đổng Cự Xuyên đều ra tay, chỉ thấy chưởng phong quét tới, bóng người thấp thoáng, hai người Đổng, Cam lách vai thối lui bảy tám bước. Dận Trinh biết Bản Vô rất nóng nảy, nếu chọc giận ông ta thì ông ta sẽ làm liều, thế rồi vàng kêu lên: “Đương nhiên tôi vẫn là đệ tử của Thiếu Lâm, sư phụ đã viết rất rõ ràng, chỉ bỏ danh nghĩa sư đồ, vẫn coi tôi là đệ tử của Thiếu Lâm!” Vô Trú thiền sư vội vàng bước tới nói: “Sư huynh, cứ để cho hắn đi thôi”. Bản Vô vẫn quát: “Đã là đệ tử của Thiếu Lâm, tại sao vô lễ với trưởng bối?” Dận Trinh vội vàng cúi người thi lễ, Bản Vô đại sư trừng mắt, Dận Trinh thấy hai chân mềm nhũn, bất đồ quỳ xuống đất, đang định dập đầu, Liễu Ân, Cáp Bố Đà biến sắc, vội vàng chạy tới đỡ, Dận Trinh đã lộ thân phận, bối lạc làm sao có thể quỳ trước thứ dân. Vô Trú thiền sư quét cây phất trần lên vai kéo y dậy, mỉm cười nói: “Phương trượng đời trước đã miễn lễ quỳ bái cho ngươi, vậy ngươi cứ tùy tiện”. Dận Trinh nghe thế, vội vàng lui ra cửa.


Sau một hồi rối loạn, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Đường Hiểu Lan đâu?” Dịch Lan Châu đưa mắt nhìn xung quanh quả nhiên không thấy, ngạc nhiên nói: “Không biết thằng bé này lại đi đâu rồi?” Vô Trú thiền sư cũng hỏi: “Chung sư phụ đâu?” các nhà sư trong chùa tìm một lượt rồi quay về báo: “Chung sư phụ đã biến mất!” Lữ Tứ Nương hỏi: “Chung sư phụ là ai?” Bản Vô đại sư đáp: “Chính là Chung Vạn Đường truyền nhân của Vô Cực kiếm”. Dịch Lan Châu kêu ồ một tiếng: “Y là sư điệt của tôi. Năm xưa tôi và Phó Thanh Chủ đã từng đến Hồi Cương, không biết sao y lại ở đây?” Vô Trú thiền sư đáp: “Y dạy học ở Trần Lưu, đứa trẻ vừa rồi chính là đồ đệ của y”. Dịch Lan Châu nói: “Đứa trẻ này thật lợi hại, vậy hắn tên gì?” Bản Vô đại sư nói: “Niên Canh Nghiêu”. Rồi nhíu mày hỏi: “Còn Niên Canh Nghiêu đâu?” các nhà sư trả lời: “Niên Canh Nghiêu đã chạy ra ngoài”. Bản Vô đại sư ngạc nhiên nói: “Sao thầy trò họ không từ mà biệt?” Dịch Lan Châu giật mình, nhưng im lặng không nói.


Lại nói Chung Vạn Đường chợt gặp Thần Ma song lão nên vội vàng bỏ trốn về Trần Lưu. Cha của Niên Canh Nghiêu là Niên Hà Linh là cự phú ở một phương, hoa viên rất lớn, có tường cao bao quanh, Chung Vạn Đường nhảy vọt vào trong vườn, thấy bốn bên không có người vội vàng lẻn về phòng mình, lão bọc Đinh Phúc vẫn chưa ngủ say, trong phòng có đứa bé gái bảy tám tuổi cực kỳ lanh lẹ, nghe tiếng động nên mở mắt, kéo Chung Vạn Đường lại hỏi: “Chung bá bá, người đã trở về rôi ư? Canh Nghiêu ca ca đâu? Con nhớ hai người đến khổ!” Chung Vạn Đường vội khẽ nói: “Lâm nhi, im nào! Vào phòng rồi nói!”


Đứa trẻ này chính là Phùng Lâm. Trong đêm tròn tuổi, cô bé đã được Chung Vạn Đường cứu ra, dắt đến nhà họ Niên ở được hơn sáu năm, giờ đây đã là một bé gái tám tuổi. Chung Vạn Đường tinh thông y thuật, mỗi ngày đều dùng thuốc nước tắm rửa, truyền võ nghệ, bởi vậy xương cốt cô bé cứng cáp, tai thính mắt tinh, tay chân lanh lẹ, học được môn Đồng tử công chính tông. Lúc này, cô bé thấy Chung Vạn Đường lo lắng, mở to mắt hỏi: “Bá bá, chuyện gì đã xảy ra?” Chung Vạn Đường nói: “Có người xấu đến, lát nữa ta đánh nhau với người xấu, dù thắng hay thua, nếu kẻ xấu chưa đi con không được ra ngoài”. Phùng Lâm mò xuống gối lấy ra hai thanh tiểu đao dài ba tấc, nói: “Nếu có kẻ xấu, con sẽ đánh y”. Chung Vạn Đường mặt biến sắc, trầm giọng nói: “Con không nghe lời bá bá, từ rày về sau bá bá không màng đến con”. Phùng Lâm chưa bao giờ thấy ông ta nổi cáu, nghe thế nước mắt rân rấn, Chung Vạn Đường khẽ nói bên tai: “Ngoan ngoãn nào, đừng lên tiếng”. Rồi đẩy cô bé vào phòng. Trong mắt Phùng Lâm chứa đầy vẻ nghi hoặc và thắc mắc, cô bé mở to mắt nhìn Chung Vạn Đường, Chung Vạn Đường nghiêng tai lắng nghe, thở dài rồi chợt kéo Phùng Lâm ra, khẽ nói: “Vốn là ta chưa muốn cho con biết lai lịch quá sớm, giờ đây buộc phải nói cho con nghe. Con vốn không phải họ Niên, con họ Phùng. Cha của con đã chết rất thảm thiết, còn mẹ của con thì sống chết chưa biết, con còn một...” nói chưa dứt lời, trong đêm tối chợt vọng lại một tiếng hú quái dị, Chung Vạn Đường hoảng sợ đến nỗi im lặng, đẩy Phùng Lâm vào trong phòng.


Âm thanh quái dị ấy xé không trung từ xa vọng tới. Chung Vạn Đường nai nịt cẩn thận, đã nghe bên ngoài cửa có giọng nói trầm trầm: “Chung Vạn Đường, sao ngươi còn chưa ra?” Chung Vạn Đường cười lạnh, chợt rút then cài cửa, phóng hai mũi phi đao ra, nấp sau cánh cửa. Bên ngoài có một tiếng cười lạnh, phi đao bây ngược trở vào cắm trên vách tường, Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích và Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã nhảy vào phòng.


Tát Thiên Thích cười ha hả: “Gần hai mươi năm xa cách, không ngờ hôm nay gặp lại”. Chung Vạn Đường trầm giọng nói: “Chung mỗ chờ đợi đã lâu, ở đây không thể thi triển võ công, xin mời ra vườn hoa”. Tát Thiên Thích cười một tiếng quái dị, quát: “Ngươi còn muốn chọn chỗ chết?” rồi hai tay vung lên, mười móng tay dài cả thước bật ra như mười mũi đao đâm thẳng vào Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường xoay người né tránh, cây kiếm thép chặn lên phía trên, rồi quét vào eo của kẻ địch. Tát Thiên Thích tung người lộn ra cửa, quát rằng: “Chiêu này cũng không tệ, tiếp nào!” Chung Vạn Đường thấy đêm nay khó thoát, nên cũng đánh liều phóng vọt ra cửa sổ. Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra một chiêu Bài Sơn Đảo Hải, chưởng phong mười phần mạnh mẽ, Chung Vạn Đường đẩy thanh kiếm về phía trước, tay trái điểm vào huyệt Quan Nguyên của Tát Thiên Đô. Tát Thiên Đô cười nói: “Ta sợ ngươi điểm huyệt?” rồi chưởng trái biến thành quyền, vẫn tiếp tục bổ xuống, nào ngờ Chung Vạn Đường hai mươi năm khổ luyện, công lực đã tăng tiến rất nhiều, huyệt Quan Nguyên là một trong ba mươi sáu đại huyệt, Tát Thiên Đô bị ông ta điểm một cái, chợt thấy đau nhói, quyền phong hạ xuống lực đã mất, kiếm chiêu của Chung Vạn Đường rất nhanh nhạy, lập tức vặt mũi kiếm vào mặt Tát Thiên Đô.


Thân pháp của Tát Thiên Thích rất nhanh, thấy em trai gặp nguy thì lập tức nhảy vọt tới như tên bắn, tay trái kéo Tát Thiên Đô ra, tay phải vạch vào mạch môn tay cầm kiếm của Chung Vạn Đường. Hai người đều nhanh như lửa xẹt, Chung Vạn Đường thấy không thể đả thương được kẻ địch, lập tức thâu thanh kiếm về, hộ ở trước thân, nhảy ngang ra năm sáu bước. Tát Thiên Thích vỗ vào huyệt Khí Du của Tát Thiên Đô, nói: “Đệ đệ, nghỉ ngơi một lát, đừng nôn nóng”. Tát Thiên Đô bị Chung Vạn Đường điểm trúng, may mà y đã luyện mình đồng da sắt, chứ nếu không đã mất mạng ngay tại trận. Thế rồi cũng không dám làm hung, ngồi dựa vào vách tường điều hòa hơi thở hành huyết giải huyệt.


Chung Vạn Đường đả thương được một người, không còn nguy hiểm nữa, cây kiếm thép múa lên như điện chớp, đâm soạt soạt liên tục, Tát Thiên Thích tung mình vọt một cái phóng lên trên không trung, lướt ra hơn hai trượng, Chung Vạn Đường gằng giọng quát: “Chạy đi đâu!” rồi vung kiếm đuổi theo. Nào ngờ đó chính là thuật Miêu Ưng Phốc Kích của Tát Thiên Thích, y lập tức lộn người trên không trung, mười móng tay nhọn từ trên không đâm xuống, chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của Tát Thiên Thích bị Chung Vạn Đường chém trúng, vai trái của Chung Vạn Đường đã bị trúng một trảo, may mà ông ta né tránh lanh lẹ chứ nếu không đã bị chụp trúng xương. Tát Thiên Thích cười ha hả: “Một kiếm đổi một trảo, coi như chúng ta hòa”. Y vừa hạ xuống đất thì lập tức phóng lên trở lại nhảy bổ về phía Chung Vạn Đường.


Khoảng hai mươi năm trước, Chung Vạn Đường từ Tây Vực trở về, đến ven hồ Ô Tạng Khách Thập ở Thanh Hải, đã từng gặp Tát Thiên Thích, lúc đó Chung Vạn Đường tuổi trẻ khí thịnh, biết y là đại ma đầu trên giang hồ, bởi vậy mới rút kiếm tỉ thí, quần thảo nhau nửa ngày, Tát Thiên Thích trúng một kiếm nên giờ đây y mới bảo một kiếm đổi một trảo.


Hai mươi năm sau gặp lại, hai phen ác đấu, Tát Thiên Thích đã luyện xong môn võ công độc môn Miêu Ưng trảo, loại võ công này hiểm hóc vô cùng, Chung Vạn Đường đấu với y hơn năm mươi chiêu, lấy nhanh chọi nhanh, đã dần dần không cầm cự nổi nữa, Tát Thiên Thích đắc ý dương dương, càng đánh càng hung hăng, Chung Vạn Đường bình tĩnh ứng phó, chợt kiếm chiêu thay đổi, Đông chỉ Tây vạch, trên tay tựa như cầm một vật nặng ngàn cân, rõ ràng rất vất vả, kiếm chiêu đã chậm hơn trước nhưng kiếm quang loang loáng tựa như dựng một bức tường sắt xung quanh mình. Chung Vạn Đường là hậu duệ của Vô Cực kiếm Phó Thanh Chủ, loại kiếm pháp này công thủ đều có lợi, khi thu về có thể hộ toàn thân, khi đánh ra có thể tấn công ở bốn phương tám hướng, Miêu Ưng trảo của Tát Thiên Thích tuy lợi hại lạ thường nhưng cũng không thể nào xông tới nổi.


Hai người càng đấu càng hăng, khoảng nửa canh giờ sau mà vẫn chưa phân thắng bại. đang lúc kịch đấu, Chung Vạn Đường chợt thấy vai ngứa ngáy thì thất kinh, biết rằng trảo của Tát Thiên Thích có độc. Thế là ông ta vội dùng nội công vận khí chống cự, đồng thời kiếm chiêu từ thủ chuyển sang công, định rằng đuổi Bát Tý Thần Ma rồi sẽ dùng thuốc cứu giải. Nào ngờ Tát Thiên Thích tuy bị đẩy lùi ra phía sau nhưng lại cố tấn công lên, gằng giọng quát: “Nhà ngươi đã trúng độc trảo, đừng hòng thoát chết!”


Chung Vạn Đường cả giận, triển khai loại kiếm pháp Bát phương phong vũ hội trung châu, chỉ thấy ánh ngân quang tỏa ra, bốn phương tám hướng đều là kiếm quang nhân ảnh. Tát Thiên Thích biết ông ta liều mạng nên vội vàng thối lui. Chung Vạn Đường thét một tiếng, xém mũi kiếm tới, Tát Thiên Thích thối lui không kịp, cổ tay đã bị vạch một vết thương. Chung Vạn Đường thừa thắng truy kích, nào ngờ Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đột nhiên nhảy vọt dậy, quát lớn một tiếng đến nỗi cát chạy đá bay, té ra y đã nghỉ ngơi nửa canh giờ, khí lực đã hồi phục, y đã nhảy vọt lên lao tới như hung thần ác sát, Chung Vạn Đường kinh hãi. Chỉ thấy y cởi áo lộ ra bộ ngực đầy lông lá, nhảy ra giữa sân, hai tay ôm một gốc cây lớn, quát: “Lên!” rồi nhổ cả gốc quét về phía Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường phóng vọt người lên, chân điểm vào thân cây, đâm kiếm về phía Đại Lực Thần Ma, nào ngờ phía sau có tiếng gió quét tới, Tát Thiên Thích đã thừa cơ tấn công tới.


Thân cây này dài đến ba trượng, có thể quét từ bên này qua bên kia sân, Chung Vạn Đường nhờ có thân pháp khéo léo, nhảy nhót né tránh, may mà thân cây to lớn, xoay chuyển không tiện chứ nếu không đã trúng đòn.


Thế là tình thế thay đổi, Tát Thiên Thích nhảy bổ tới, bám sát Chung Vạn Đường chẳng hề rời, đánh một hồi nữa, cánh tay của Chung Vạn Đường lại trúng thêm một trảo, sâu vào đến tận thịt, máu đen chảy ròng ròng, đồng thời vai càng lúc càng ngứa ngáy khó chịu. Tát Thiên Thích kêu lên: “Chung Vạn Đường, sao ngươi chưa mau buông kiếm đầu hàng!” Chung Vạn Đường chợt nghiến răng, đột nhiên đút kiếm vào bao, nhân lúc cái cây quét tới, hai chân điểm vào cành cây phóng vọt người ra, hạ xuống bậc thềm, Tát Thiên Thích quát: “Chạy đi đâu!” rồi nhảy bổ tới nhanh như điện chớp, Chung Vạn Đường quay đầu lại quát: “Trúng!” hai tay vung lên, sáu mũi phi đao trên tay phải bay về phía Tát Thiên Thích, sáu mũi trên tay trái bay về phía Tát Thiên Đô. Loại Đoạt Mệnh thần đao này có tẩm độc, đây là tuyệt kỹ cả đời của Chung Vạn Đường, chỉ lúc nguy hiểm nhất mới sử dụng. Tát Thiên Thích phóng vọt người lên, xoay người trên không trung, hai mũi phi đao lướt qua đế giày, hai mũi lướt qua hông, còn hai mũi bay thẳng vào mặt, bị y phất ống tay áo đánh rơi xuống đất. Tát Thiên Thích dốc ra tuyệt kỹ cả đời mới tránh được phi đao, hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, lộn ngược trở về chỗ cũ. Phía bên kia Tát Thiên Đô múa cái cây, bốn mũi phi đao đều cắm vào trong thân cây lút đến cán. Hai mũi phi đao còn lại thì tựa như rẽ hướng lướt qua thân cây rồi đột nhiên bắn ra hai bên. Tát Thiên Đô hai tay đang ôm cây, né tránh không kịp, hai mũi phi đao đã cắm vào hai bên be sườn, dù y mình đồng da sắt cũng không chống chọi nổi, y thét lớn một tiếng, hai tay vung lên ném cái cây về phía trước, khi Chung Vạn Đường vội vàng né tránh thì ầm một tiếng, cái cây cắm thẳng vào trong nhà, chắc là va phải bàn trà nên nghe đồ vỡ kêu loảng xoảng. Lúc này một đứa bé gái đột nhiên chạy ra.


Chung Vạn Đường kinh hãi, định nhảy vào trong nhà, nào ngờ tay phải đã bị trúng trảo vì vận động quá sức lại thất kinh nên chân khí tản mát chẳng thể nào giở lên nổi. Tát Thiên Đô trúng hai đao, hung tính phát tác, y đưa tay rút phăng hai mũi Đoạt Mệnh thần đao ra nhảy vọt tới ôm Chung Vạn Đường vật ngã lăn xuống bậc thềm, còn Tát Thiên Thích lại cười gằn nhảy vào trong nhà. Y chợt thấy một đứa bé gái đang ngồi dưới đất trông rất dễ thương. Y vội vàng kêu: “Ồ, Yến nhi, té ra ngươi ở đây, các nghĩa phụ đang tìm ngươi! Ngươi bị người xấu bắt đi, có sợ không?” Phùng Lâm mở to hai mắt rất ngạc nhiên, không biết y nói gì, Chung Vạn Đường nghe thế càng kinh ngạc hơn, Tát Thiên Thích lại nói: “Thật đáng thương, không ngờ ngươi bị hành hạ như thế này, không đầy một năm mà đã quên hết tất cả, cả ta mà cũng không nhớ sao?” rồi đưa tay toan bế, Phùng Lâm đột nhiên vung tay lên, hai mũi phi đao bắn ra, Tát Thiên Thích cũng không ngờ rằng cô bé lại làm thế, vả lại khoảng cách lại rất gần, chẳng thể đề phòng nổi, hai mũi phi đao cắm vào ngực, may mà Phùng Lâm tuổi nhỏ sức yếu, chứ nếu không đã đâm thẳng vào tim. Tát Thiên Thích vận lực bắn một cái, hai mũi phi đao bật ra, quơ cánh tay về phía trước kéo Phùng Lâm lên lưng, Phùng Lâm kêu to, cố gắng vùng vẫy.


Chung Vạn Đường và Tát Thiên Đô đang lăn lộn dưới đất, Tát Thiên Đô sức mạnh như hổ, nhưng Chung Vạn Đường nội công tinh thâm, lúc đầu tuy Tát Thiên Đô chiếm thượng phong đè lên người ông ta vung quyền đánh xuống, mới đánh được hai quyền thì độc khí trong phi đao đã tản mát, chỉ cảm thấy trong miệng khát khô, đầu óc như muốn hôn mê, kêu lên một câu: “Ca ca đến đây!” thì đã ngất đi!


Chung Vạn Đường bị trúng độc cũng không nhẹ, nhờ vào nội công tinh thâm nên mới cầm cự được đến lúc này, nhưng cũng đã đèn khô dầu cạn, toàn thân đã mềm nhũn. Tát Thiên Thích cõng Phùng Lâm chạy ra. Chung Vạn Đường thầm kêu: “Mạng ta đã xong!” rồi lăn ra hai trượng, Tát Thiên Thích thấy sắc mặt em bầm đen, biết rằng trúng độc đã quá nặng, mà mình cũng cảm thấy đau nhói, vừa giận vừa lo, y trợn mắt bước từng bước về phía Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường nắm hai tay, trầm giọng quát: “Ngươi tiến tới ba bước nữa, ta dùng đao tẩm độc lấy mạng hắn!” Tát Thiên Đô nghe tiếng bước chân, y lăn lộn gào lên: “Ta muốn uống nước, nước... nước...” Tát Thiên Thích đã bị thương ở ngực, càng sợ phi đao của Chung Vạn Đường hơn, y nghiến răng vận khí ngăn chặn chất độc, tay trái kẹp Tát Thiên Đô phóng vọt lên vách tường nhảy ra hoa viên.


Chung Vạn Đường mở hai tay ra, thở phào, lúc nãy ông ta chỉ sử dụng kế phong thành, trong tay ông ta làm gì có phi đao, dù có phi đao cũng chẳng thể phóng nổi. Lúc này hai tên ma đầu cũng bỏ đi, ông ta cố gắng bò vào trong phòng, leo lên giường rồi khẽ gọi mấy tiếng: “Đinh Phúc! Đinh Phúc!” trong vườn yên ắng, chỉ có tiếng côn trùng kêu rả rích, vị danh gia kiếm thuật của miền Giang Nam, đệ tử của phái Vô Cực đang rơi nước mắt, khẽ gọi: “Lâm nhi, Lâm nhi!” một hồi sau lại kêu: “Canh Nghiêu, Canh Nghiêu, cả con mà cũng không đến đưa tiễn ta sao?” ông ta cố gắng muốn trích máu mình ra nhưng lực bất tòng tâm, lúc này độc khí đã xông lên, suýt nữa đã muốn ngất đi. Một ý nghĩ lướt qua trong đầu ông ta: “Quyền kinh kiếm quyết binh pháp y thư của mình vẫn chưa truyền cho Niên Canh Nghiêu, không được, mình phải gắng gượng đợi nó trở về”. Ý chỉ cầu sinh nổi lên trong lòng, ông ta há miệng cắn vào tay, hút ra mấy ngụm máu độc, thần trí đã hơi tỉnh táo hơn, khẽ kêu: “Canh Nghiêu, hãy về đây! Sao ngươi vẫn chưa về!”


Khu vườn rộng mênh mông vẫn yên lặng như tờ, chỉ nghe tiếng nói yếu ớt của Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường thở dài, bóng dáng của Niên Canh Nghiêu chợt hiện ra trong làn nước mắt, “đứa trẻ này thật nghịch ngợm và đáng yêu!” ông nhớ lại việc mình đã dốc hết tâm huyết để thuần phục con ngựa hoang này, đã không màng đến lời khuyên của bằng hữu, mạo hiểm vun bồi thành một bậc kiêu hùng, một viên tướng văn võ toàn tài. Căn vườn rộng lớn này cũng do ông ta thiết kế, nay ông ta đã trúng độc mà không có người đến giúp đỡ giải cứu, đó là điều ông ta chưa từng ngờ tới. Trong nỗi đau đớn và tĩnh lặng đến cực độ, Chung Vạn Đường bất đồ nhớ đến chuyện xưa: Năm xưa mình cải trang thành một lang trung lang bạc giang hồ, đến nhà họ Niên, gặp cậu bé Niên Canh Nghiêu với tính cách kỳ lạ và trí thông minh hơn người đã quyết ý thâu cậu bé làm đồ đệ, không những muốn phái Vô Cực có một truyền nhân mà còn muốn vun bồi một bậc hào kiệt đủ sức xua đuổi Hồ lỗ cho Hán tộc. Niên Hà Linh đang lo cho con mình, bởi vì nhiều vị lão sư đã bị nó đuổi đi, không ai dám dạy nó nữa. Chung Vạn Đường đã lộ chút bản lĩnh, đàm đạo suốt một đêm với Niên Hà Linh, nhưng Hà Linh cũng rất hào sản, bảo: “Được, tôi giao khuyển tử cho ngài. Tất cả đều nghe theo chủ ý của ngài, muốn bao nhiêu tiền cũng được”. Đêm ấy hai người đã ký một hiệp định gồm hai điều, điều thứ nhất là ông ta bỏ ra năm vạn lượng bạc, điều thứ hai là ngày Niên Canh Nghiêu thành tài mới cho phép nó được gặp cha mẹ. Niên Hà Linh chấp nhận điều thứ nhất, lập tức bỏ ra năm vạn lượng bạc đưa cho ông ta sử dụng. Nhưng Niên Hà Linh lại chần chừ ở điều thứ hai, ông ta hỏi: “Vậy phải bao nhiêu năm?” Chung Vạn Đường thầm nhủ đó là điều mấu chốt, dù cha mẹ Niên Canh Nghiêu thương yêu nó thế nào ông ta cũng phải giữ ý kiến của mình. Vì thế Chung Vạn Đường nói: “Có thể là mười tám năm sau, nếu ông lưu luyến, tôi chẳng thể nào dạy nó thành tài”. Niên Hà Linh nghĩ ngợi, cuối cùng đã chấp nhận.


Nghĩ đến đây, Chung Vạn Đường nở nụ cười, ông ta đã phí biết bao công sức vì đứa trẻ này! Sau khi ông ta có tiền bạc, đã mua một mảnh đất trống ở sau nhà họ Niên, thuê nhiều thợ mộc xây nên hoa viên này, trong hoa viên có một tòa nhà chứa sách, chỉ có Chung Vạn Đường và lão bọc Đinh Phúc của nhà họ Niên sống ở đây. Hôm đó là ngày mưởi sáu tháng Giêng, đó là ngày Niên Canh Nghiêu bắt đầu học, Niên Hà Linh bày tiệc rượu, mời rất nhiều bằng hữu đến uống rượu cùng Chung Vạn Đường, tiệc tàn Niên Hà Linh đích thân đưa con trai đến học, lại còn vái Chung Vạn Đường ba lạy, nói những lời nhờ vả, rồi Chung Vạn Đường đưa ông ta ra khỏi vườn, sau đó sai thợ mộc bít kín cửa vườn lại, chỉ giữ một cửa sổ nhỏ để đưa thức ăn. Từ đó ba người cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Suốt ngày Chung Vạn Đường ngồi trong thư phòng, đọc binh pháp y thư, luyện nội công kiếm thuật, chẳng hề hỏi đến Niên Canh Nghiêu, cậu bé cũng tự do tự tại, vui chơi trong vườn, chưa bao giờ bước vào phòng, cũng chưa bao giờ nói với ông ta một câu, khi vui thì cởi phăng quần áo nhảy xuống hồ bơi một vòng hoặc trèo cây bắt chim, mùa đông thả diều, mùa hạ câu cá, mùa thu bắt dế, mùa đông vò tuyết ném chơi, có lúc chơi chán lại đào đất nhổ hoa, chơi bời suốt một năm, cả một khu vườn rộng lớn mệnh mông bị cậu bé xới tung lên chỉ trừ phòng sách của Chung Vạn Đường. Một ngày nọ Chung Vạn Đường đang trầm tư, chợt thấy Niên Canh Nghiêu cầm một cây gậy đánh về phía mình!


Chung Vạn Đường giật mình “Đây có phải là ảo giác không? Không phải!” Niên Canh Nghiêu đã chơi chán, lão bọc Đinh Phúc cũng chẳng rỗi hơi chơi với cậu bé, Chung Vạn Đường chẳng hề lên tiếng, nhưng cậu bé đã tìm đến chỗ ông ta. Cậu bé đã chạy vào thư phòng nói: “Trong số các lão sư, coi như ông là tốt nhất, chưa bao giờ dám la mắng tôi. Nhưng giờ đây tôi chơi đã chán, tôi muốn ra ngoài”. Chung Vạn Đường lạnh lùng nói: “Hoa viên này không có cửa, ngươi muốn ra ngoài cứ việc trèo tường mà ra”. Bức tường này cao đến hơn ba trượng, người không giỏi khinh công chẳng thể nào nhảy ra được. Cậu bé thấy Chung Vạn Đường không chịu đục cửa, cười lạnh một tiếng rồi cầm cây gậy đánh về phía ông ta, Chung Vạn Đường đưa tay gạt qua, cây gậy gãy làm đôi. Chung Vạn Đường chỉ đè nhẹ vào cánh tay, cậu bé đau quá kêu lên, ông ta bảo cậu quỳ xuống, cậu bé đành phải nghe lời nhưng vừa buông tay, cậu đã chạy ra khỏi phòng sách. Suốt hai ba tháng trời sau đó, cậu chẳng hề dám bước chân vào phòng sách, chớp mắt hạ đi thu đến, cảnh tượng tiu điều, cậu bé chẳng còn trò gì mới mẻ nữa, thế là lẳng lặng bước vào phòng sách, lúc đó Chung Vạn Đường đang vùi đầu xem Tôn Tử binh pháp, cậu bé cứ đứng đấy nhìn nửa ngày, rốt cuộc cũng lên tiếng: “Cả khu vườn rộng lớn mà tôi chơi cũng chán. Ông chỉ có một quyển sách nhỏ mà đọc từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, có gì hay ho?” Chung Vạn Đường cười khà khà: “Cậu bé, cậu hiểu gì? Trong quyển sách này có một thế giới rộng hơn cả khu vườn hàng ngàn lần, chơi đến suốt đời suốt kiếp cũng không hết”. Cậu bé lắc đầu nói: “Tôi không tin, ông nói tôi nghe thử, có gì đáng vui?” Chung Vạn Đường cũng lắc đầu nói: “Ngươi không chịu bái ta làm thầy, làm sao ta giảng cho ngươi nghe”. Cậu bé trợn mắt, vỗ bàn nói: “Bái cái quái gì, ta không thèm”. Chung Vạn Đường cũng trừng mắt, cậu bé hoảng sợ chuồn ra ngoài. Rồi mười ngày nữa, cậu bé không kìm được, chạy vào thư phòng nói: “Ông chỉ gạt một cái mà cây gậy gỗ đã gãy đôi, có phải cũng học được từ trong sách không?” Chung Vạn Đường trả lời: “Sách cũng có nhiều loại, sách dạy đánh gãy gậy gỗ chỉ là bình thường, sách hữu dựng nhất có thể dạy cho ngươi trị quốc bình thiên hạ!” cậu bé thè lưỡi rồi lại lắc đầu: “Ta không tin đọc sách có lợi như thế”. Chung Vạn Đường cười rằng: “Tại sao lại không thể, học được bản lĩnh, muốn ra ngoài lúc nào cũng được”. Chung Vạn Đường dắt tay cậu bé ra vườn, nhẹ nhàng vọt một cái lên tường, sau đó lại nhảy xuống: “Ngươi xem, chẳng phải lúc nào ta cũng có thể ra ngoài được sao? Đọc sách, luyện bản lĩnh, đừng nói là bức tường này, dù có thiên quân vạn mã cũng không chặn nổi ngươi”. Cậu bé dập đầu xuống bái, nói: “Tôi đã phục, xin tiên sinh hãy dạy cho tôi!” Chung Vạn Đường đỡ cậu bé dậy, đầu tiên ông ta giảng cho cậu bé nghe chuyện Thủy Hử, cậu bé thích thú đến nỗi huơ chân múa tay, tiếp theo lại giảng Tam Quốc Chí, Nhạc truyện và các sự tích anh hùng từ xưa đến nay, những câu chuyện về các hiệp khách, tiếp theo là giảng binh thư, sử ký, thế rồi lại dạy cậu bé ám khí, quyền cước, cậu bé cũng rất thông minh, chỉ cần liếc qua quyển sách đã hiểu, giảng qua một lần đã học được. Đến mùa thu năm thứ ba, Chung Vạn Đường vì có hẹn với Châu Thanh, bảo cậu bé tự tu luyện, ông ta lẻn ra ngoài đi đến Nhữ Châu, không ngờ gặp phải bọn Huyết Trích Tử, Châu Thanh chết đi, Chung Vạn Đường dắt Phùng Lâm trở về. Lúc đó Phùng Lâm chỉ mới được tròn một tuổi, cô bé dần dần biết nói, Niên Canh Nghiêu khi rảnh rỗi lại chơi đùa cùng cô bé, thân thiết hơn cả huynh muội, Chung Vạn Đường bảo rằng Phùng Lâm là con gái của một bằng hữu, cậu bé không hề biết Chung Vạn Đường có chủ y đặc biệt khác.


Nhớ đến đây, trên mặt Chung Vạn Đường nở nụ cười, cảm thấy phấn chấn, dần dần quên cả cơn đau. Ông ta thầm nhủ: “Phùng Lâm cũng là đứa trẻ thông minh, ngay từ năm một tuổi đã có căn cơ, còn vững chắc hơn cả Niên Canh Nghiêu. Hai đứa trẻ này đúng là trời sinh một đôi, sau này kết thành phu thê, mình cũng cảm thấy an ủi. Nhưng hiện nay lại gặp tai họa, Lâm nhi bị tên ma đầu cướp đi, còn mình dù tinh thông y lý nhưng không ai giúp đỡ. Chao ôi, Canh Nghiêu, sao ngươi vẫn chưa trở về?”


Chung Vạn Đường nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bức tường cao ngất, cây hòe tám năm trước vẫn chưa cao quá bức tướng, thầm nhủ: “Dù Canh Nghiêu trở về, hắn cũng không thể nhảy qua bức tường. Chao ôi, không biết chuyện ở chùa Thiếu Lâm thế nào rồi? Canh Nghiêu thông minh như thế, nếu không gặp mình có lẽ hắn cũng nhờ người trong chùa Thiếu Lâm đứa hắn về”. Nhắc đến chùa Thiếu Lâm, ông ta lại thấy dễ chịu, lòng thầm nhủ: “Canh Nghiêu cũng thật là may mắn, Thiếu Lâm tam lão đều thương yêu, coi hắn như bảo bối. Hắn học võ được ba năm, mình mới len lén dắt ra ngoài. Mỗi khi ra ngoài mình giao Phùng Lâm cho Đinh Phúc coi sóc. Nhưng không biết Đinh Phúc đã đi đâu rồi? Đánh nhau đến trời long đất lở như thế này mà sao lão ta vẫn chưa thức dậy? Năm ngoái, có lúc mình đưa Canh Nghiêu ra ngoài, cứ để mặc cho hắn đi đâu thì đi. Tháng ba năm nay, hắn một mình ra ngoài đến nửa tháng mới trở về, thật là kỳ lạ! Mình nghĩ đi đâu thế này!” Chung Vạn Đường định thần, chợt thấy rung rẩy, ông ta nhớ lại lần đó Niên Canh Nghiêu đã nói rằng: “Sư phụ, năm mười hai tuổi Cam La trở thành Thừa tướng, năm nay con đã mười bốn tuổi, lớn hơn Cam La hai tuổi, con không thèm làm Thừa tướng, tốt nhất là nên làm Đại tướng quân, thống suất binh mã trong cả nước, Thừa tướng cũng phải sợ Đại tướng quân. Sư phụ, người bảo thử xem, con có thể làm Đại tướng quân không?” Chung Vạn Đường nói: “Cũng có thể lắm, nhưng phải trải qua thời gian rất lâu...” Chung Vạn Đường vốn muốn bảo cậu bé phải học binh pháp cho xong, luyện võ công cho giỏi, sau này kêu gọi anh hùng cùng dựng cờ khởi nghĩa, xua đuổi Thát lỗ quang phục Trung Hoa, lúc đó đâu chỉ là một đại tướng quân mà còn là một khai quốc công thần! Nhưng cậu bé tuổi vẫn còn nhỏ, sợ rằng cậu lỡ dại miệng nói ra, bởi vậy Chung Vạn Đường mới không nói. Không ngờ cậu bé hiểu nhầm ý của Chung Vạn Đường, bảo rằng: “Có phải sư phụ bảo là phải đợi đến khoa thi lên kinh ứng thí, rồi sau đó tòng quân mới có thể làm đại tướng quân hay không?” Chung Vạn Đường bảo không cần. Cậu bé nói: “Năm mười hai tuổi Cam La làm Thừa tướng, chỉ vì Hoàng đế biết ông ta thông minh tuyệt đỉnh, có tài cán, nên mới lập tức nâng đỡ. Giả sử có một Hoàng đế, hoặc một bối lạc cũng được, y biết bản lĩnh của con, có thể không cần kinh qua thi cử, con đã làm đại tướng quân!” Chung Vạn Đường nghe thế vừa kinh vừa giận, tám năm qua, cậu bé không luyện công trong vườn thì đến chùa Thiếu Lâm, sao lại biết những chuyện này? Tại sao lại nghĩ như thế? Lúc đó Chung Vạn Đường mắng cho cậu một trận, cho đến khi cậu quỳ xuống nhận lỗi mới thôi.


Lúc này chất độc trong mình đã lan đến tim, Chung Vạn Đường hít một hơi cố vận nội lực kìm chế, trong miệng thấy khát khô, trong lúc hôn mê chợt nghe bên ngoài có người kêu thảm một tiếng ối chao, tiếp theo người ấy nói: “Sư phụ, con đã bị thương, có người cắm đao có độc dưới đất?” giọng nói ấy chín là Niên Canh Nghiêu.


Trong lúc nguy cấp, Chung Vạn Đường chợt nghe giọng nói của Niên Canh Nghiêu cũng giống như người đi trong sa mạc chợt vớ được một bình nước, tinh thần chợt phấn chấn, ông ta kêu lên: “Canh Nghiêu, mau vào đây!” nước mắt ông ta rơi lả chả xuống đất, quả nhiên Niên Canh Nghiêu đang loạng choạng bước vào, không khỏi lẩm bẩm, “Tạ ơn trời đất, thằng bé quả nhiên quay trở về”. Chung Vạn Đường vốn rất thông minh, nhưng vì quá mừng rỡ nên quên nghĩ rằng tại sao Niên Canh Nghiêu lại có thể vượt qua bức tường cao hơn ba trượng.


Niên Canh Nghiêu nhảy vào, ôm sư phụ khóc rằng: “Sư phụ, chân của con vừa đau vừa ngứa, đã dẫm trúng Đoạt Mệnh thần đao”. Chung Vạn Đường cố gắng đưa tay vuốt đầu cậu bé, trìu mến nói: “Đừng lo, con vào trong phòng lấy túi thuốc ra đây”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, lúc này mới chú ý đến sư phụ, hỏi: “Sư phụ, người làm sao thế?” Chung Vạn Đường đâu còn hơi sức kể rõ tường tận mọi chuyện, chỉ thúc cậu bé đi cho nhanh.


Một lát sau, Niên Canh Nghiêu kêu hoảng: “Lâm muội đâu?” Chung Vạn Đường lại thấy đau nhói lòng, Niên Canh Nghiêu cầm túi thuốc bước ra, Chung Vạn Đường khẽ gật đầu, Niên Canh Nghiêu quỳ phục bên cạnh ông, Chung Vạn Đường khẽ nói: “Lấy bình ngọc trong túi thuốc ra, trong bình có hai viên thuốc, một viên màu đỏ, một viên màu xanh, viên màu đỏ uống với nước, viên màu xanh nhai nát đắp bên ngoài, đó là thuốc giải độc Đoạt Mệnh thần đao”. Nói xông thì thở phì phò, thấy Niên Canh Nghiêu đã uống thuốc xong mới thều thào nói: “Con hãy dùng dao nhỏ rạch một vết thương ở nơi cách huyệt Kiên Tỉnh nửa tấc trên vai trái của ta, nặn máu độc ra ngoài sau đó mở hộp màu vàng trong túi thuốc ra”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, nhưng không lập tức ra tay, cậu bé đưa mắt nhìn xung quanh, chợt thấy bên ngoài có bóng người thấp thoáng, một chàng công tử thiếu niên và một hán tử cao lớn tuổi khoảng hơn bốn mươi mặc y phục người Hồi bước vào. Chung Vạn Đường thất kinh, chàng công tử thiếu niên ấy chính là phản đồ Vương Tôn Nhất của chùa Thiếu Lâm, làm sao y có thể vào được đây?


Vương Tôn Nhất mỉm cười nói: “May mắn được gặp Chung đại hiệp!” Chung Vạn Đường trầm giọng nói: “Ngươi đến đây làm gì?” Vương Tôn Nhất nói: “Tôi có cuộc hẹn nhỏ với lệnh đồ”. Niên Canh Nghiêu cười hì hì nhảy vọt lên phía trước, đưa bình thuốc cho người Hồi, Chung Vạn Đường kinh hãi, quát: “Ngươi làm gì thế?” người Hồi ấy cười rằng: “Chung đại hiệp, ông bị thương rất nặng, muôn vạn lần đừng nổi nóng, ta là tổng quản của Huyết Trích Tử Bắc Kinh, nay đến bái phỏng ông!” Chung Vạn Đường hừ một tiếng, ngất đi. Cáp Bố Đà cất bình thuốc, cười rằng: “Thần Ma song lão đang nôn nóng chờ đợi, tôi đem về cứu tỉnh họ trước”. Rồi giơ ngón tay cái về phía Niên Canh Nghiêu, khen rằng: “Tiểu ca, ngươi rất giỏi! Ta đành chịu thua!”


Một hồi sau, Chung Vạn Đường dần dần tỉnh lại, Niên Canh Nghiêu dùng nước lạnh tạt vào mặt ông ta. Chung Vạn Đường như nằm trong ác mộng, thử dùng lực cắn lưỡi, cảm thấy đau đến nhói tim mới tin rằng không phải mình nằm ác mộng. Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Sư phụ, công tử này chính là Tứ bối lạc đương kim, tôi đã kết nghĩa huynh đệ với ông ta”. Chung Vạn Đường nổi cáu đến cùng cực.


Niên Canh Nghiêu cười hì hì nói: “Sư phụ, Tứ bối lạc mời người đến Bắc Kinh. Ở Bắc Kinh rất vui, được ăn được chơi, thứ gì cũng có”. Chung Vạn Đường tức đến nỗi nghẹn lời, trong lòng mắng mấy câu “súc sinh”.


Té ra lần này việc ngụy tạo bức thư, giả truyền di lệnh của Bản Không cứu Dận Trinh đều cho Niên Canh Nghiêu sắp đặt. Ba năm trước Dận Trinh học võ ở chùa Thiếu Lâm đã quen Niên Canh Nghiêu, y thấy đứa trẻ này chẳng phải nhân vật tầm thường, cũng âm thầm kết nạp nó, xem nó như người lớn. Đầu năm nay Niên Canh Nghiêu lên Tung Sơn một mình, nửa đường lại gặp Dận Trinh, Dận Trinh giới thiệu cho nó gặp các tiền bối võ lâm như Thiên Diệp Tản Nhân, Liễu Ân hòa thượng, bọn người này thấy nó chẳng phải trẻ con tầm thường, đều khen ngợi không ngớt. Niên Canh Nghiêu thấy Liễu Ân có võ công cao hơn cả sư phụ của mình, cũng rất khâm phục! Càng hợp ý hơn đối với khí độ đế vương, đại chí hùng đồ của Dận Trinh. Sau đó Dận Trinh nói ra lai lịch, kết thành huynh đệ với Niên Canh Nghiêu. Nên sau khi Niên Canh Nghiêu trở về mới dọ ý Chung Vạn Đường. Một tháng trước, Dận Trinh sắp lên chùa Thiếu Lâm đối chất với Bản Vô, đang suy nghĩ kế sách lưỡng toàn, chợt nhớ rằng Niên Canh Nghiêu tuy chỉ là một đứa trẻ mười bốn tuổi nhưng đã cực kỳ túc trí đa mưu, lại được Thiếu Lâm tam lão thương mến, nên đã phái Thiên Diệp Tản Nhân tìm nó, Niên Canh Nghiêu nghĩ ra mưu kế, giả nét chữ viết của Bản Không đại sư, ngụy tạo một bức thư, cả Vô Trú thiền sư mà cũng bị nó lừa.


Lại nói Dận Trinh thấy hai mắt Chung Vạn Đường trắng dã, gân xanh nổi lên mới dùng thuật Thôi Nã học được ở chùa Thiếu Lâm xoa lên người ông ta, mỉm cười nói: “Chung tiên sinh cần gì phải tức tối cho mệt? Lệnh đồ là kỳ tài trăm năm khó gặp, tiên sinh cũng là bậc cao sĩ đương thế, trời sinh người tài tất hữu dụng, nương thân ở chốn thôn dã chi bằng về với triều đình”. Chung Vạn Đường nghẹn lời, ngưng thần, nghiến răng vẫy tay: “Canh Nghiêu, ngươi đến đây”.


Niên Canh Nghiêu cậy được sư phụ thương yêu, cười hì hì nói: “Sư phụ, người đã nhận lời mời của bối lạc ca ca rồi chứ? Độc thương của người rất nặng, đã hứa rồi, con sẽ trị cho người!” Chung Vạn Đường càng tức hơn, không ngờ Niên Canh Nghiêu lại xấu xa đến thế, dám uy hiếp tánh mạng của mình! Mấy mươi năm công phu của Chung Vạn Đường đâu phải tầm thường, lúc này tuy đã nguy cấp nhưng vẫn còn công lực. Ông ta liều hơi thở cuối cùng, đợi Niên Canh Nghiêu đến gần, đột nhiên vung tay chụp lấy mạch môn, gằng giọng quát: “Nghiệt đồ, ngươi bán đứng sư phụ, ta giết ngươi!” đây chính là tuyệt chiêu Cầm Nã đoạt mệnh thủ của phái Vô Cực, Niên Canh Nghiêu bị ông ta chụp trúng, toàn thân mềm nhũn, chẳng thể nhào nhúc nhích được nữa.


Điều này khiến Dận Trinh và Cáp Bố Đà đều bất ngờ, muốn cứu cũng không kịp nữa. Chung Vạn Đường chợt nhớ đến lời Châu Thanh: “Nếu tên đồ đệ này tâm thuật bất chính ông phải làm cho nó tàn phế, đừng nuối tiếc!” trong lòng thầm than: “Rốt cuộc thì Châu Thanh vẫn sáng suốt hơn mình”. Thế là ba ngón tay dùng lực chầm chậm bóp chặt!


Niên Canh Nghiêu sắc mặt trắng bệt, run giọng nói: “Sư phụ, xin người nghĩ đến tình thầy trò bảy năm, tha mạng cho con!” Chung Vạn Đường giật mình, việc bảy năm lướt qua trong đầu nhanh như điện chớp, một nhân tài mình đã dốc hết sức ra vun bồi, một đứa đồ đệ mình đã thương hơn con ruột, chả lẽ chính tay mình phải giết nó hay sao? Niên Canh Nghiêu lại nói: “Sư phụ, phái Vô Cực đơn truyền, đến đời con thì dứt, sư phụ nỡ lòng ra tay sao?” Chung Vạn Đường lại giật mình, ông ta đã truyền hết võ công của phái Vô Cực cho Niên Canh Nghiêu, nếu giết nó đi thì chẳng còn ai tái truyền y bát. Niên Canh Nghiêu lại nói: “Sư phụ, từ rày về sau con sẽ nghe lời người, buổi tối đi ngủ đúng giờ, buổi sáng dạy đúng giờ”. Té ra từ nhỏ Niên Canh Nghiêu đã nghịch ngợm, sau khi bị Chung Vạn Đường thâu phục, những điều khác thì tốt nhưng tính tình của nó lại rất ngang ngạnh, không hoàn toàn thay đổi, đến đêm khuya mà vẫn chưa đi ngủ, sáng sớm còn nằm nướng. Chung Vạn Đường vẫn thường khuyên răn nó như người cha hiền đối với đứa con. Lúc này nghe nó nói như thế, bất giác nước mắt trào ra, lời nói của Niên Canh Nghiêu khiến ông ta xiêu lòng, không màng đến lời khuyên của Châu Thanh nữa, tay vừa buông ra đã kêu thảm: “Canh Nghiêu, ngươi giỏi lắm!” rồi miệng phun ra một búng máu tươi, nằm ngay đơ chẳng hề nhúc nhích. Cáp Bố Đà chạy đến bắt mạch, mạch của Chung Vạn Đường đã ngừng, Cáp Bố Đà cười nói: “Lão già ngoan cố đã chết!” Niên Canh Nghiêu tuy hả hê nhưng bất giác cũng rơi mấy giọt nước mắt.


Dận Trinh nói: “Việc đã xong, chúng ta đi thôi!” Niên Canh Nghiêu lau nước mắt, chợt nhớ vẫn chưa lấy quyền kinh kiếm quyết y thư binh pháp của sư phụ, nói với Dận Trinh: “Bối lạc ca ca, đợi đệ một lát”. Đang định vào lục soát, chợt nghe bên ngoài có tiếng hú dài, một luồng ánh sáng màu đỏ phóng lên trời. Cáp Bố Đà nói: “Không xong, đi thôi!” rồi kéo Niên Canh Nghiêu chạy gấp ra ngoài.


Lại nói hôm ấy sau một hồi hỗn loạn trong chùa Thiếu Lâm, Dịch Lan Châu thấy Đường Hiểu Lan, Chung Vạn Đường và Niên Canh Nghiêu lần lượt biến mất, vội vàng cáo từ Vô Trú thiền sư cùng Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan đến Trần Lưu. Cước trình của ba người rất nhanh, buổi sáng lên đường, ngoại trừ dừng lại ăn uống nghỉ ngơi chốc lát, đến canh ba đã vào huyện Trần Lưu được hai ba mươi dặm. Dịch Lan Châu nói: “Tìm đến nhà Niên Canh Nghiêu có thể gặp sư điệt của ta, ta đoán Hiểu Lan đã đi tìm y”. Lữ Tứ Nương nói: “Niên gia là triệu phú ở Hà Nam, tìm đến đấy chẳng khó gì”. Nhưng lúc này đã canh ba, trên đường hiếm người qua lại. đang lo lắng chợt thấy ở đám rừng phía xa có ánh lửa, Dịch Lan Châu ngạc nhiên nói: “Lạ thật, lúc này còn có người tụ tập trong rừng làm gì?” chạy tới, một luồng gió từ trong rừng thổi ra, Dịch Lan Châu hít hơi gió, thấy trong gió có mùi thuốc, Dịch Lan Châu vẫy tay với Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan rồi tung mình vọt vào trong rừng.


Bên trong tối đen, cây rừng rậm rạp, Dịch Lan Châu vọt lên cây đưa mắt tìm nơi có ánh lửa. Chợt nghe bên cạnh có người cười lạnh: “Mụ ăn mày già, mụ gan thật dám từ chùa Thiếu Lâm đuổi đến đây, bọn ta chọn một nơi có phong thủy tốt làm nơi chôn thân cho mụ. Mụ không cần trở về Thiên Sơn chi cho xa xôi!”


Dịch Lan Châu tức giận nói: “Hay lắm, bà già này phải xem bọn tiểu bối các ngươi có bao nhiêu bản lĩnh?” rồi ba ta lách người phóng tọt vào trong rừng nhanh như mũi tên, người ấy định lên tiếng thì chợt thấy chưởng phong quét tới! Người ấy tuy thất kinh nhưng cũng lanh lẹ lạ thường, thì biết dù có xoay người nghênh địch hai tay lướt người về phía trước né tránh cũng không thoát nổi chưởng kình của Dịch Lan Châu, y lợi dụng địa hình, xoay người nhanh như cơn gió ra sau một gốc cây, phân tán chưởng lực của Dịch Lan Châu, rồi y xoay tiếp mấy vòng lẩn vào chỗ tối. Dịch Lan Châu hơi ngạc nhiên, thân pháp của người này thật kỳ lạ! Đang định đuổi theo chợt nghe tiếng vù vù, một vật đen thui từ phía sau bay tới, Dịch Lan Châu lách người, vật ấy bay lướt qua đỉnh đầu bà ta rồi bẻ ngoặt trở lại Dịch Lan Châu cả kinh phóng vọt người lên cây. Món ám khí ấy trông giống như một cái thước gắp, có thể bay vòng vèo tựa như có linh tính. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Dịch Lan Châu đã sớm rút kiếm trong tay, hất về phía món ám khí, món ám khí rơi ngay xuống đất, Dịch Lan Châu nhảy vọt xuống, không ngờ món ám khí lăn một vòng dưới đất rồi đột nhiên bay lên, quét ngang xuống hạ bàn của Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu kinh hãi, đột nhiên xỉa hai ngón tay về phía trước bằng Kim cương chỉ lực kẹp lấy món ám khí trong tay, miệng quát lớn: “Tên quái vật Hàn Trọng Sơn kia, dám đến hí lộng lão nương!” rồi vung kiếm Du Long đâm mấy nhát về phía người ấy!


Té ra kẻ này là Hàn Trọng Sơn, sư đệ đồng môn của Thiên Diệp Tản Nhân, y luyện được một món ám khí cực kỳ độc địa ở núi Côn Luân tên gọi là Hồi hoàn câu, hình dạng như cái thước gắp, hai đầu nhọn, dài hơn hai thước, ở giữa có chỗ nắm dài ba tấc, những chỗ khác đều lắp móc câu sáng quắc, lợi hại hơn là nó có thể bay tới bay lui. Khi ở núi Côn Luân, Hàn Trọng Sơn đã từng thấy người dân ở dưới chân núi dùng vật này bắt chim, thế là tạo ra một món ám khí độc môn, trải qua hơn ba mươi năm luyện tập và cải tiến, y đã đạt đến mức xuất thần nhận quỷ, không ngờ đã bị Dịch Lan Châu dùng kim cương chỉ lực kẹp lại!


Công lực của Hàn Trọng Sơn cao hơn Thiên Diệp Tản Nhân một chút, Thiên Diệp Tản Nhân bị Dịch Lan Châu làm nhục ở đảo Điền Hoành đã mời y đến đây. Cả hai huynh đệ quyết phải hạ cho bằng được bà ta. Lúc này Dịch Lan Châu vung kiếm nhanh như gió, Hàn Trọng Sơn đã cầm cây chày giã thuốc trong tay chặn được ba kiếm nhưng rất vất vả. Dịch Lan Châu từng bước tiến tới, chợt nghe Lữ Tứ Nương kêu lên: “Đường Hiểu Lan ở đây!”


Té ra khi Dịch Lan Châu bị Hàn Trọng Sơn phục kích, Lữ Tứ Nương đã phóng tới, chợt thấy có một người nhảy tọt ra vung chưởng đánh lệch kiếm của Lữ Tứ Nương sang một bên, Lữ Tứ Nương thâu kiếm lướt người, khi nhìn kỹ lại mới thấy đó chính là Thiên Diệp Tản Nhân, phía xa còn có một đống lửa, Liễu Ân hòa thượng canh bên đống lửa, Thần Ma song lão ngồi xếp bằng nhắm mắt chẳng hề nhúc nhích, Đường Hiểu Lan bị trói trên cây.


Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, thi triển tuyệt chiêu trong Huyền Nữ kiếm pháp đâm về phía Thiên Diệp Tản Nhân, chỉ lực của y tuy lợi hại nhưng chẳng chạm được vào người nàng, Thiên Diệp Tản Nhân thấy kiếm pháp của nàng quá lợi hại, tuy không đến nỗi bại trận nhưng thắng cũng rất khó, đang định gọi Liễu Ân đến giúp, chợt thấy Dịch Lan Châu đang tấn công tới tấp Hàn Trọng Sơn, y cả kinh chợt kêu lên: “Liễu Ân đại sư, cứu người của chúng ta chạy trước!” Liễu Ân thấy Dịch Lan Châu và Lữ Tứ Nương đã phóng tới, trong bụng cũng phát hoảng, vội vàng cắp Thần Ma song lão phóng ra khỏi rừng. Lữ Tứ Nương bị Thiên Diệp Tản Nhân chặn lại, chẳng thể nào đuổi theo.


Dịch Lan Châu thấy Liễu Ân đã chạy ra, nghĩ bụng không thể đuổi theo kịp, kêu: “Tứ Nương, cứu Hiểu Lan trước, ta phải đánh hai tên yêu nghiệt này”. Rồi bà ta xỉa cây kiếm Du Long tới, nhốt Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân vào màn kiếm quang, Bạch Thái Quan rút đao tương trợ, bị Hàn Trọng Sơn gạt ngang một gậy, chấn động đến nỗi tê rần cả cánh tay, Thiên Diệp Tản Nhân bị kiếm chiêu của Dịch Lan Châu đánh cho luống cuống tay chân, thấy Bạch Thái Quan tiến tới thì chợt nảy ra một kế, liên tục đánh ra hai chưởng, buộc Bạch Thái Quan mở ra chỗ trống ở bên trái của mình, chặn được chiêu kiếm của Dịch Lan Châu. Dịch Lan Châu vừa bị chặn, Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân đã phóng ra. Dịch Lan Châu kéo Bạch Thái Quan lại, nói: “Hãy giúp sư muội cứu người trước!” Bạch Thái Quan mặt đỏ ửng, chỉ đành lui xuống.


Lữ Tứ Nương tháo Đường Hiểu Lan xuống, thấy chàng đang mơ màng thì biết đã bị điểm huyệt đạo, thế là vội vàng cứu chàng tỉnh dậy. Đường Hiểu Lan chợt thấy Lữ Tứ Nương đang đứng trước mặt mình, vừa kinh vừa mừng, cảm kích nói: “Lữ Oanh tỷ tỷ, đa tạ cứu mạng”. Lữ Tứ Nương cười: “Chính là Dịch nữ hiệp đã cứu đệ, đâu có liên quan đến ta”. Đường Hiểu Lan định thần, nhớ lại một việc, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, mau cứu Chung đại hiệp!”


Té ra Đường Hiểu Lan một mình từ Thiếu Lâm đuổi theo, xông vào trong rừng, bị Liễu Ân chặn lại. Lúc đó Thần Ma song lão đã trúng Đoạt Mệnh thần đao, nấp trong rừng dưỡng thương. Không lâu sau, Niên Canh Nghiêu đã lừa lấy được thuốc về cứu Song ma, Dận Trinh khen ngợi Niên Canh Nghiêu một phen, rồi dắt Cáp Bố Đà cùng hắn bỏ đi. Đường Hiểu Lan nghe rất rõ ràng, vừa kinh vừa sợ, miệng kêu hoảng lên bị Liễu Ân dùng thủ pháp điểm huyệt đánh ngất, trong mờ màng chàng thấy có một bà già cõng một đứa trẻ bỏ chạy, sau đó thì chàng bất tỉnh nhân sự. Giờ đây thì Lữ Tứ Nương cứu tỉnh chàng, khi nghĩ lại chàng mới đoán chắc rằng đứa trẻ ấy chính là Phùng Lâm, Đường Hiểu Lan chịu ơn lớn của Phùng Quảng Triều, bởi vậy mới thúc giục Lữ Tứ Nương mau đi cứu. Chàng không ngờ rằng lúc này Phùng Lâm đã bị vợ của Hàn Trọng Sơn bắt đi được ba mươi dặm.


Dịch Lan Châu đã nghe tất cả những lời Đường Hiểu Lan nói, bà ta đánh gấp kiếm chiêu, đẩy bọn Thiên Diệp Tản Nhân thối lui mấy bước, kêu lớn: “Chắc chắn Niên gia ở gần đây, các ngươi hãy dắt Hiểu Lan đi, ta sẽ đuổi theo sau”. Lữ Tứ Nương đoán Dịch Lan Châu chắc chắn có thể hạ được hai tên ma đầu này nên vâng một tiếng, cùng hai người Đường, Bạch chạy ra khỏi rừng. Dịch Lan Châu đại triển thần oai, thế kiếm như cầu vồng kỳ ảo vô cùng, một mình quần thảo với Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân.


Phép đánh chày của Hàn Trọng Sơn gồm một trăm lẻ tám lộ tuy không bằng Thiên Sơn kiếm pháp nhưng nhờ có thêm chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, trong nhất thời Dịch Lan Châu cũng không hạ được bọn họ. Lại được một lúc nữa, Dịch Lan Châu tay trái nắm kiếm quyết chỉa thẳng tới, tay phải vung kiếm đánh một chiêu Thám Lệ Thủ Châu, điểm mũi kiếm vào yết hầu của Thiên Diệp Tản Nhân, Hàn Trọng Sơn bổ xuống một chày, bà ta nghiêng mình thâu chiêu, chuyển đâm thẳng thành chém ngang, Hàn Trọng Sơn hạ chày chặn xuống, đánh một chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét vào be sườn của Dịch Lan Châu để cứu Thiên Diệp Tản Nhân. Dịch Lan Châu vẫn không thay đổi kiếm thức, người hơi lách qua, lại đánh ra chiêu Xảo Nữ Xuyên Châm, tay trái phụ lên cánh tay phải chợt tiến mạnh tới một bước, trở lại hất xuống cổ tay của kẻ địch, liên tục đâm ra soạt soạt mấy kiếm, mũi kiếm phóng tới rút lui tựa như độc xà phun nọc, hết chiêu này tới chiêu khác, trong lúc kịch chiến chợt nghe soạt một tiếng ống tay áo của Thiên Diệp Tản Nhân bị cắt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn thấy thế, lấy ra một mảnh đạn lưu huỳnh, ném vù một tiếng lên không trung, nhất thời phát ra một màn pháo hoa màu xanh lè, quát lớn: “Sao còn không mau đến!” rồi y vung cây chày chặn cây Du Long kiếm lại, rồi cùng Thiên Diệp Tản Nhân sánh vai rút lui. Dịch Lan Châu chợt nhớ lại, vợ của Hàn Trọng Sơn là Diệp Hoành Ba võ công cũng rất lợi hại. Lòng thầm nhủ, nếu lại thêm một cao thủ, một mình chọi với ba người thắng bại khó đoán. Lại nhớ Thiên Diệp Tản Nhân và bọn Liễu Ân đã có mặt ở đây, vậy tất cả bọn cao thủ của Dận Trinh chắc cũng kéo đến, sợ Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan gặp chuyện bất trắc bởi vậy không tiếp tục đuổi mà để cho Thiên Diệp Tản Nhân cùng Hàn Trọng Sơn chạy ra khỏi rừng.


Lại nói bọn Lữ Tứ Nương chạy ra khỏi rừng được hai ba mươi dặm, quả nhiên thấy có một tòa nhà sừng sững, bức tường xung quanh cao ngất, Lữ Tứ Nương chợt thấy có mấy bóng đen từ sau hoa viên nhảy vọt ra, nói: “Chắc chắn Chung đại hiệp ở trong hoa viên”. Rồi cùng Bạch Thái Quan tung mình nhảy vào tường. Đường Hiểu Lan cũng dùng công phu Hoán chưởng di bộ vọt lên bức tường cao ba trượng. Ba người nhảy vào trong vườn, chỉ thấy gạch đá ngổn ngang, cây cối ngã rạp, rõ ràng ở đây vừa trải qua một trận ác đấu vì thế mới lần tìm theo dấu vết, đến thư phòng của Chung Vạn Đường, cửa phòng đã bị phá tung, Đường Hiểu Lan vừa nhìn vào thì thấy Chung Vạn Đường nằm dưới đất, chàng ta vội vàng chạy vào, cúi xuống kêu: “Chung đại hiệp, Chung đại hiệp!” chàng không thấy trả lời, dùng tay sờ thì người Chung Vạn Đường đã lạnh ngắt, Đường Hiểu Lan bất giác trào nước mắt khóc òa lên!


Một lúc sau Dịch Lan Châu cũng chạy tới, thấy thế kinh hãi, Đường Hiểu Lan mắng: “Cũng tại tên tiểu tặc Niên Canh Nghiêu!” Dịch Lan Châu hỏi: “Sao? Đứa trẻ ấy dám giết cả sư phụ ư?” Đường Hiểu Lan nói: “Đâu chỉ có thế”. Rồi kể lại những chuyện đã nghe trong rừng. Dịch Lan Châu không khỏi thở dài, thầm nhủ: “Thu nhận đồ đệ không thể không cẩn thận, Hối Minh thiền sư nhận nhầm Sở Chiêu Nam, Độc tý thần ni nhận nhầm Liễu Ân đều gây ra sóng gió, Niên Canh Nghiêu tuổi còn nhỏ mà đã lợi hại như thế, sau này chắc chắn sẽ làm nhiều chuyện ác hơn cả Sở Chiêu Nam và Liễu Ân”. Đường Hiểu Lan lại tìm khắp nơi một lượt, không thấy Phùng Lâm, chàng buồn bã nói: “Điệt nữ của tôi đã bị kẻ giặc bắt mất”. Dịch Lan Châu nói: “Ngươi có điệt nữ?” Đường Hiểu Lan kể lại chuyện xưa một lượt, Dịch Lan Châu chợt liền miệng kêu lạ. Đột nhiên bà ta nói với Đường Hiểu Lan: “Ngươi hãy đến Thiên Sơn, ta trả cho ngươi một điệt nữ”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên. Ngay lúc này, chợt nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, có người dùng búa đập tường.


Chính là:


Thiếu khách trải kỳ biến, kiêu hùng mới ra tay.


Muốn biết sau đó thế nào mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 12

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 12 Lời ẩn thiền cơ vi từ đâm Tuần phủ Tài kinh tứ tọa đại hiệp lộ thần thông




Dịch Lan Châu cất y thư và kiếm quyết của Chung Vạn Đường vào tay nải, thở dài nói: “Không biết chừng nào mới trả những thứ này cho truyền nhân của phái Vô Cực”. Tiếng người bên ngoài tường càng lúc càng lớn, té ra lão bộc Đinh Phúc rất khôn khéo, khi Chung Vạn Đường ác đấu với Thần Ma song lão, ông ta đã len lén bò đến vách tường, phát tín hiệu kêu cứu, gia đinh trong nhà họ Niên tụ tập đến, nhưng không ai có thể nhảy qua vách tường, chỉ đành dùng búa đục tường.


Dịch Lan Châu thu xếp xong mọi thứ, buồn bã nói: “Việc hậu sự của Chung Vạn Đường sẽ có người Niên phủ lo liệu, chúng ta không cần lo”. Rồi bà ta cùng ba người Lữ, Bạch, Đường phóng ra khỏi vách tường, lớn giọng nói: “Niên Hà Linh nghe đây, Chung sư phụ đã dốc hết tâm huyết vì con trai của ngươi, cả mạng già cũng mất trong tay con trai của ngươi, ngươi phải an táng ông ta cho tử tế”. Người nhà họ Niên nghe thế kêu hoảng, bốn người nhảy vọt xuống rồi phóng đi mất.


Khi trời sáng họ đã rời khỏi huyện Trần Lưu, Dịch Lan Châu cảm khái than rằng: “Lần này ta quay lại Trung Nguyên, không ngờ nhiều bằng hữu đã đi trước cả ta. Tứ Nương, ta phải lên Mang Sơn tế mộ sư phụ ngươi mới an lòng”. Lữ Tứ Nương rơi nước mắt bái tạ. Mang Sơn cách huyện Trần Lưu hơn tám trăm dặm, cước trình của bốn người rất nhanh, chạy được ba ngày đã lên tới nơi. Đường Hiểu Lan thấy danh sơn vẫn còn, việc người đã khác, nhớ lại Độc tý thần ni năm xưa cứu mạng mình mà không khỏi đau lòng. Sáng sớm hôm sau, cả bốn người cùng đến cúng mộ Độc tý thần ni, chỉ thấy bia mộ viết rằng: “Tiền Minh công chúa võ lâm hiệp ni chi mộ”. Dịch Lan Châu khẽ gật đầu: “Bia mộ đề rất hay”. Bà ta nhớ Độc tý thần ni một đời vất vả, số phận cũng giống mình, lại nhớ từ rày về sau, không còn ai có kiếm thuật ngang hàng với mình, lại thêm thấy quạnh quẽ. Đang lúc cảm khái, chợt thấy có một cặp chim điêu một đen một trắng giang rộng cánh bay lượn vòng trên mộ, Lữ Tứ Nương vẫy tay, cặp chim điêu hạ xuống kêu không ngớt. Dịch Lan Châu chép miệng: “Chim vẫn còn mà người ở đâu?” rồi buồn bã trở vào am đường, nhìn Lữ Tứ Nương một lúc rất lâu chợt nói: “Tứ Nương, ta truyền cho ngươi một ít yếu quyết nội công, hãy theo ta vào tịnh thất”. Té ra Dịch Lan Châu thấy Lữ Tứ Nương dung mạo xinh đẹp, muốn giúp nàng lưu giữ tuổi thanh xuân nên dắt nàng vào trong tịnh thất, truyền cho phép Kiểm tinh nội thị, đây là loại nội công chỉ có nữ giới mới tu luyện được, Dịch Lan Châu đã học được loại nội công này từ Bạch Phát ma nữ. Số là năm xưa Bạch Phát ma nữ vì bất hạnh trong tình trường, tuổi đời còn trẻ mà tóc đã bạc. Bà quý nhất là dung mạo của mình bởi vậy mới tìm cách tu luyện để giữ sắc đẹp, đến tuổi già mới nghĩ ra một loại nội công có thể giữ dung mạo chỉ có nữ giới mới luyện được. Loại nội công này tuy không thể giúp cho người ta trường xuân bất lão nhưng có hiệu quả trụ nhang, nếu luyện đúng cách, có khi đến bốn năm mươi tuổi mà vẫn như thiếu nữ đôi mươi. Lúc đó Bạch Phát ma nữ đã gần một trăm tuổi, bà ta không thể thử nghiệm ở bản thân mình nữa nên truyền cho Dịch Lan Châu. Lúc đầu Dịch Lan Châu cũng tu luyện, sau đó vì chồng mất, một mình sống ở chốn rừng sâu, cũng chẳng còn lòng dạ gì giữ gìn dung mạo nữa nên chẳng luyện tiếp. Nay thấy Lữ Tứ Nương xinh đẹp, bởi vậy mới truyền công phu Kiểm tinh nội thị cho nàng.


Mấy ngày sau Lữ Tứ Nương đã luyện tập thành thục, Dịch Lan Châu đưa Đường Hiểu Lan về Thiên Sơn luyện kiếm, Lữ Tứ Nương đưa bà xuống Mang Sơn, quyến luyến không rời. Dịch Lan Châu nói: “Mười năm nữa, kiếm thuật của ngươi có thể vô địch thiên hạ, ta có một đồ đệ, lúc đó ngươi hãy nên giúp đỡ cho nó”. Dịch Lan Châu ngạc nhiên nói: “Dịch tiền bối kiếm pháp thông huyền, lệnh đồ chắc cũng là cao thủ, cần gì mười năm nữa mới có thể xuất đạo?” Dịch Lan Châu nói: “Giờ đây nó chỉ là đứa bé gái bảy tuổi mà thôi!” Đường Hiểu Lan giật mình, nhớ lại lời mấy ngày trước của Dịch Lan Châu, không khỏi hỏi: “Tôi có biết đứa bé gái ấy không?” Dịch Lan Châu cười nói: “Đến Thiên Sơn sẽ khắc biết”.


Dịch Lan Châu xuống núi, Lữ Tứ Nương và Thái Quan ở lại thêm hai ngày, sửa sang vườn mộ của sư phụ rồi mới chia tay. Hai người đã hẹn các đồng môn hỏi tội Liễu Ân. Khi chia tay, Bạch Thái Quan chợt như suy nghĩ điều gì đấy, rồi nói với Lữ Tứ Nương: “Bát muội, muội thấy Đường Hiểu Lan thế nào?” Lữ Tứ Nương nói: “Cũng tốt lắm!” Bạch Thái Quan nói: “Vài năm nữa, hắn học được chân truyền Thiên Sơn kiếm pháp, lúc đó sẽ càng tốt hơn”. Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, nhưng sư huynh nói thế để làm gì?” Bạch Thái Quan cười nói: “Bát muội xin thứ huynh mạo muội, huynh là người lăn lộn trong tình trường, huynh thấy Hiểu Lan đối với muội...” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Cái gì?” Bạch Thái Quan nói: “Đối với muội hình như cũng có ý”. Lữ Tứ Nương tươi cười nói: “Ngũ ca, huynh đã quá đa tâm, muội chỉ xem Hiểu Lan là tiểu đệ, sao có chuyện này cho được”. Bạch Thái Quan thầm nhủ: “Chỉ e người ta không coi muội là tỷ tỷ”. Lữ Tứ Nương cười ngất, Bạch Thái Quan liếc nàng rồi nói: “Vậy phải chăng bát muội đã có ý trung nhân? Không biết là anh hùng hào kiệt nào?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu, lớn giọng nói: “Chả lẽ cứ phải là người trong võ lâm sao? Ngũ ca, đừng nói đến chuyện này nữa. Chúng ta hẹn đồng môn đến Mang Sơn tụ hội”. Rồi giơ tay cáo biệt.


Nàng về đến nhà đã đến mùa xuân, hoa đào mới nở. Lữ Tứ Nương hớn hở chạy đến trước cửa nhà, nàng chợt thất kinh, cửa nhà có dán giấy niêm phong của quan phủ, nhà trước nhà sau tịnh chẳng có bóng người, chợt nghe ba tiếng tên bay soạt soạt soạt, từ quả núi phía sau nhà phóng ra, đó là tín hiệu liên lạc của Giang Nam thất hiệp, Lữ Tứ Nương vội vàng thi triển công phu Lục địa phi hành phóng lên núi, lên đến đỉnh núi quả nhiên thấy nhị sư huynh Châu Tầm đang đứng, mặt lộ vẻ kinh hoàng.


Lữ Tứ Nương hỏi: “Nhị ca đến từ lúc nào? Cha của muội thế nào?” Châu Tầm nói: “Bát muội hãy theo huynh”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương vào một tòa miếu, tòa miếu này tên gọi Triều Nguyên tự, trụ trì của chùa Nhất Niệm hòa thượng là một hòa thượng là bằng hữu thân thiết của Lữ Lưu Lương, Lữ Tứ Nương vào thiền phòng, cha nàng đang nằm trên giường sắc mặt vàng ệch, sư đệ của Nhất Niệm hòa thượng là Nhất Phiêu đứng bên cạnh nước mắt chảy ròng ròng. Lữ Bảo Trung nghe tiếng bước chân mở mắt ra, khẽ hỏi: “Có phải Oanh nhi đã về đây không?” Lữ Tứ Nương vội quỳ xuống trước giường, ôm lấy cha, chỉ nghe cha hổn hển nói: “Ca ca con đã bị bắt đi, Nhất Niệm đại sư vì cứu cha đã hy sinh, con phải báo thù cho chúng ta!” giọng nói của ông càng lúc càng nhỏ, nói xong thì chân tay duỗi thẳng, đứt hơi mà ra đi!


Lữ Tứ Nương khóc òa lên, Châu Tầm nói: “Bát muội bớt đau buồn mà lo ứng phó với sự việc”. Lữ Tứ Nương cố kìm nước mắt, nghe Châu Tầm nói: “Thẩm tiên sinh bị bắt không quá hai ngày, xe tù vẫn chưa tới Bắc Kinh, lục đệ đã chờ ở phía trước, bát muội hãy đuổi theo chắc vẫn còn kịp. Báo thù cho cha, cứu người sống quan trọng hơn phát tang, việc tang sự của bá phụ cứ để huynh và mọi người trong chùa lo liệu, muội hãy mau cứu Thẩm tiên sinh”.


Té ra tổ phụ của Lữ Tứ Nương là Lữ Lưu Lương lòng nhớ đến cố quốc, chuyên tâm viết sách bài xích Hồ lỗ. Sau khi ông ta qua đời, con trai của ông ta là Lữ Bảo Trung, Lữ Nghị Trung, đệ tử Nghiêm Hồng Quỳ vẫn tiếp tục công việc của ông ta. Thẩm Tại Khoan là môn sinh của Lữ Nghị Trung, rất thân thiết với Lữ Tứ Nương. Sự việc này xảy ra là bắt nguồn từ nhật kỳ của Nghiêm Hồng Quỳ. Nghiêm Hồng Quỳ viết nhật ký có ý bài xích Mãn Châu, quyển nhật ký ấy bị một tên học trò đánh cắp đem báo quan, quan sai đến bắt, Nghiêm Hồng Quỳ và Lữ Nghị Trung vừa khéo ra khỏi nhà, Lữ Bảo Trung và Thẩm Tại Khoan đã bị bắt. Trong lúc ấy Châu Tầm cũng đang ở nhà Lữ Tứ Nương, sau khi chàng ta chạy thoát đã vội vàng chạy đến chùa Triều Nguyên tìm Nhất Niệm thiền sư, cả hai đuổi theo ba mươi dặm chặn lại, sau một trận kịch chiến, Nhất Niệm thiền sư bị trúng bảy vết thương, Châu Tầm trúng một nhát kiếm nhưng cũng cứu được Lữ Bảo Trung đem về chùa. Nhất Niệm thiền sư vì trọng thương đã qua đời.


Lữ Tứ Nương nghe mà nghiến răng nghiến lợi, vái Châu Tầm rồi phẫn nộ nói: “Thù này không báo thề không làm người. Sư huynh, hãy dưỡng thương cho khỏe, muội phải lấy đầu bọn Thát tử đem về tế mộ”. Rồi nàng hỏi nơi Châu Tầm hẹn với Lộ Dân Đảm, sau đó liền phóng đi.


Lần này đám Ngự lâm quân đến bắt khâm phạm do thống lĩnh Tần Trung Việt suất lĩnh, kẻ này sử dụng đôi Phán Quan bút, là một danh gia điểm huyệt. Ngoài ra Dận Trinh cũng giới thiệu hai người giúp đỡ cho y. Hai người này chính là Cam Thiên Long và Đổng Cự Xuyên. Cả ba tên đều là hảo thủ thuộc hàng nhất lưu trên giang hồ, không ngờ thủ phạm chính Lữ Bảo Trung đã bị người ta cướp đi giữa đường, bởi vậy trên đường cứ lo lắng, chỉ mong sớm ngày về đến tỉnh thành rồi nhờ Tuần phủ Triết Giang Lý Vệ cho thêm hảo thủ áp giải cả bọn về kinh sư.


Hôm nay đoàn xe tù đã đi qua Hiếu Cảm, đang tiến vào vùng núi Thiên Mục, chợt nghe phía sau có tiếng nhạc ngựa leng keng, Lữ Tứ Nương ngồi trên thớt ngựa trắng, bụi tung mù mịt, hai người Cam, Đổng mặt biến sắc, thúc bọn Ngự lâm quân chạy cho mau. Tần Trung Việt nói: “Chỉ là một ả thiếu nữ, hai vị sao phải sợ như thế?” Cam Thiên Long mỉm cười nói: “Nếu như thế, Tần thống lĩnh hãy đoạn hậu, chúng tôi đi trước mở đường”. Đổng Cự Xuyên nói: “Ả này là Lữ Tứ Nương cháu gái của Lữ Lưu Lương, kiếm thuật của ả rất cao cường, Tần thống lĩnh phải cẩn thận”.


Tần Trung Việt nói: “Vậy thì tốt, chúng ta hãy bắt con gái của Lữ tặc để lập công”. Hai người Cam, Đổng biết Lữ Tứ Nương lợi hại, bọn chúng tính nếu đơn đả độc đấu quyết chẳng phải là đối thủ của Lữ Tứ Nương, nếu lấy một địch hai lại sẽ mất tiếng tăm trên giang hồ, vả lại sẽ bị Tần Trung Việt chê cười nên mới bảo Tần Trung Việt đoạn hậu, mượn tay Lữ Tứ Nương hạ uy phong của y rồi sau đó sẽ quay lại cứu y. Hai người Cam, Đổng rất xảo quyệt, Tần Trung Việt nào hiểu dụng ý của họ, trong lòng vẫn cười thầm.


Tần Trung Việt thầm nhủ: “Hai tên này đúng là chỉ có cái danh hão, chỉ một ả thiếu nữ mà cũng sợ”. Thế rồi mới quay đầu ngựa phóng tới, chặn Lữ Tứ Nương, giơ đôi bút lên quát: “Nữ tặc thật lớn gan!” rồi y thúc ngựa xông vào, hai cây bút đánh ra một chiêu Phong Lôi Hiệp Kích, điểm vào huyệt Ấn Đường của Lữ Tứ Nương. Nào ngờ mắt hoa lên, Lữ Tứ Nương đột nhiên vọt khỏi lưng ngựa, cây trường kiếm từ trên không trung đánh ra một đóa kiếm hoa từ trên bổ xuống, Tần Trung Việt hoảng hốt lăn người xuống bụng ngựa né tránh, chỉ nghe thớt ngựa hí lên một tiếng thảm thiết, bốn chân chổng lên trời, Tần Trung Việt lộn xuống đất, té ra thớt ngựa đã bị Lữ Tứ Nương chém chết. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân xuống đất, ánh kiếm quang lóe lên, lại có vài tên Ngự lâm quân mất mạng, Tần Trung Việt chợt nổi cáu, bật người dậy lướt tới phía trước, hai cây bút quạt ngang một cái, chỉ nghe keng lên một tiếng, ánh lửa tóe ra. Tần Trung Việt thấy hai tay tê rần, Lữ Tứ Nương cũng thất kinh: “Công phu của tên này không kém!” rồi cây Sương Hoa kiếm đánh tới, một chiêu ba thức đâm vào eo chém vào be sườn xỉa vào ngực nhanh như điện chớp. Tần Trung Việt lách người thối lui, bút trên tay trái chặn ngang thanh kiếm, bút trên tay phải điểm vào huyệt Thái Ất trên be sườn của đối phương. Lữ Tứ Nương cười lạnh một tiếng, dùng thế Thu thủy hoành châu xoay người chặn lại, hai bút bị đánh bật ra, Lữ Tứ Nương đâm ra soạt soạt hai nhát kiếm, Tần Trung Việt thối lui liên tục, bị Lữ Tứ Nương đánh cho luống cuống chân tay. Đổng Cự Xuyên và Cam Thiêm Long nhìn nhau cười, Đổng Cự Xuyên nói: “Lão đệ, chúng ta ra tay đi thôi”. Cam Thiên Long vâng một tiếng thúc ngựa tới, đâm về phía Lữ Tứ Nương.


Lữ Tứ Nương nhận ra Cam Thiên Long chính là người đi theo Dận Trinh, mắng rằng: “Lão tặc, ta đã tha mạng chó của ngươi ở chùa Thiếu Lâm, ngươi lại đến đây làm càn”. Rồi nàng rút kiếm, đánh ra một chiêu Bạch Hạc Lượng Xí, gạt kiếm của Cam Thiên Long ra, trở tay đánh ra một chiêu Thần Long Điếu Vĩ, đẩy lùi Tần Trung Việt. Cam Thiên Long lại quét ngang kiếm nhảy bổ lên. Lữ Tứ Nương liên tục đánh ra ba kiếm đều bị y gạt ra. Võ công của Cam Thiên Long hơn hẳn Tần Trung Việt, chiêu số quái dị lạ thường, Lữ Tứ Nương cả giật, ánh kiếm quang loang loáng đánh ra như mưa gió, khiến Cam Thiên Long chỉ có thể chống đỡ chứ không thể trả đòn, may mà có Tần Trung Việt ở một bên tấn công, hai cây bút cứ tìm chỗ hở trong màng kiếm quang thừa cơ điểm huyệt khiến Lữ Tứ Nương không dám dốc hết toàn lực tấn công tới chứ nếu không Cam Thiên Long đã sớm mất mạng.


Hai người Tần, Cam quần thảo với một mình Lữ Tứ Nương mà vẫn lọt xuống thế hạ phong, Lữ Tứ Nương đánh như sấm sét, thủ như biển lớn lặng sóng, bọn Ngự lâm quân tuy đông nhưng không thể tiến vào nổi. Đổng Cự Xuyên phất tay, hai mũi Thấu Cốt đinh xé gió bay tới, hướng vào hai huyệt Hồn Môn ở sau ót và Trinh Bạch ở chân mày của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương vung kiếm gạt rơi một mũi đinh, rồi nàng lộn người né tránh mũi đinh thứ hai. Đổng Cự Xuyên cũng không khỏi thất kinh. Y tiếp tục phóng ra ba bốn mũi nữa. Lữ Tứ Nương tuy liên tục né tránh hết nhưng cũng cảm thấy rất vất vả, nhất thời thế công yếu đi, dần dần lọt xuống thế hạ phong.


Cam Thiên Long cả mừng, y quét cây trủy thủ tới, chuyển thủ làm công, đánh ra toàn những chiêu số hiểm hóc. Tần Trung Việt liên tục đâm bút tới, không rời ba mươi sáu đại huyệt của nàng, vì né Thấu Cốt đinh của Đổng Cự Xuyên, Lữ Tứ Nương đã phân tấm khiến bản thân rơi vào nguy hiểm, nàng nghiến răng gạt ngang một kiếm, đẩy trường kiếm và đôi Phán Quan bút ra, vọt người lướt qua vai Cam Thiên Long, gằng giọng mắng: “Ta phải giết chết tên lão tặc phóng ám khí này trước!” rồi nàng múa kiếm đâm thẳng về phía Đổng Cự Xuyên. Đổng Cự Xuyên quát lến: “Hay lắm!” rồi vung tay phóng ra ba mũi Thấu Cốt đinh, ba mũi đinh bay tới theo ba hướng, thủ pháp phóng đinh này rất lợi hại, dù kẻ địch có bản lĩnh cao cường đến đâu, cũng không thể né tránh trong khoảng sát na. Nào ngờ Lữ Tứ Nương chẳng hề chùn bước, nàng vung tay phóng vọt lên cao ba trượng, ba mũi Thấu Cốt đinh lướt qua chân nàng bay xa đến năm sáu trượng. Lữ Tứ Nương quát lớn một tiếng trên không trung, đột nhiên cả người lẫn kiếm bổ nhào xuống. Bọn Ngự lâm quân ùa lên, Lữ Tứ Nương múa tít thanh bảo kiếm, hạ được hơn mười tên, vẫn tiếp tục xông về phía xe tù, bọn Ngự lâm quân liều chết ngăn cản bởi vậy Lữ Tứ Nương trong nhất thời cũng không dễ xông tới. Cam Thiên Long và Tần Trung Việt vội vàng đuổi theo, Lữ Tứ Nương vung tay trái, phóng ra ba mũi hưởng tiễn, một lát sau ở mảnh rừng bên đường có tiếng tiêu vang lên, mười hán tử phóng tên ra như mưa, bọn Ngự lâm quân vội vàng nằm phục xuống đất bắn trở lại. Trong đám người này có một thiếu niên áo trắng đột nhiên phóng ra. Múa đao tiến thẳng tới trong làn mưa tên.


Thiếu niên này chính là đồ đệ thứ sáu của Độc tý thần ni tên gọi Lộ Dân Đảm, Lộ Dân Đảm là con nhà giàu có ở miền Triết Giang, lần này trở về dắt theo gia đinh ra giúp Lữ Tứ Nương cướp xe tù.


Đổng Cự Xuyên thấy Lộ Dân Đảm tới, quát: “Lộ công tử, ngươi dám tạo phản?” Lộ Dân Đảm bổ soạt soạt hai đao tới, Đổng Cự Xuyên dùng hai chưởng một đẩy một dẫn, động tác rất mềm mại nhưng hàm chứa nội lực kinh người, Lộ Dân Đảm chém hụt hai đao, bị chưởng lực của y đẩy lui. Đổng Cự Xuyên thừa thắng truy kích, tung ra một cú đá, Lộ Dân Đảm không kịp đề phòng, bị y đá bay cây đao lên không trung. Đổng Cự Xuyên là cao thủ của phái Hình Ý, chưởng lực lấy như khắc cương, đã luyện đến mức lư hỏa thuần thanh, y tung một cước đá bay binh khí, tay trái giở lên đánh ra một hư chiêu, tay phải xuyên tới, quát lên: “Nằm xuống!” chưởng tâm đè tới vừa nhanh vừa mạnh. Lộ Dân Đảm vội vàng hóp bụng thu ngực, chàng chỉ lắc người chứ không ngã xuống. Trong Giang Nam thất hiệp, Lộ Dân Đảm võ công bình thường, Đổng Cự Xuyên quá kinh địch, Lộ Dân Đảm nhân lúc Đổng Cự Xuyên dùng chiêu quá sâu, liên tục vỗ hai chưởng ra, tấn công vào hạ bàn Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên thất kinh, hai chưởng hợp lại phân xuống phía dưới, phá giải chiêu thế của Lộ Dân Đảm. Trong lúc hỗn chiến Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, xông ra khỏi vòng vây của Ngự lâm quân tiến thẳng về phía xe tù.


Tần Trung Việt và Cam Thiên Long không chặn nổi chiêu này, Đổng Cự Xuyên sợ khâm phạm bị cướp, chẳng còn lòng dạ nào ham đánh, thối lui một bước, Lộ Dân Đảm dấn tới, y vung tay điểm ngược vào huyệt Kỳ Môn ở dưới rốn của Lộ Dân Đảm, rốt cuộc Lộ Dân Đảm hỏa hầu vẫn chưa sâu, không ngờ y lấy lui làm tiến, biến chiêu nhanh chóng như vậy, thế là ngã ngửa ra sau, may mà có gia đinh đỡ cho chàng nhưng sắc mặt tái xanh, mồ hôi rơi xuống ròng ròng.


Lữ Tứ Nương nhảy bổ đến xe tù, Đổng Cự Xuyên đã phóng lên xe. Lữ Tứ Nương vung kiếm vạch rách mái xe, kêu lớn: “Thẩm ca ca, Thẩm ca ca!” trong xe có người trả lời: “Oanh muội, đừng mạo hiểm!” giọng nói rất yếu ớt nhưng Lữ Tứ Nương nghe rất rõ ràng, nàng phấn chấn tinh thần phóng vọt lên mái xe. Trong khoảnh khắc ấy, rèm xe chợt bật ra, Lữ Tứ Nương giơ kiếm ngang ngực phóng vào xe, chỉ nghe Đổng Cự Xuyên cười hì hì: “Lữ Tứ Nương, ngươi không nhảy xuống, ta giết tên này!” té ra Đổng Cự Xuyên ngồi xếp bằng trong xe, đầu của Thẩm Tại Khoan gác trên đùi y, y một tay giữ đầu Thẩm Tại Khoan, một tay bóp vào cổ họng của chàng ta, chỉ cần năm ngón bóp mạnh hơn, chàng ta sẽ lập tức mất mạng.


Lữ Tứ Nương toát mồ hôi lạnh, trong nhất thời luống cuống, Thẩm Tại Khoan mở to mắt, lại khẽ nói: “Chỉ cần sư phụ bình an, ta chết cũng không tiếc. Oanh muội hãy quay về!” lúc này đúng là thấy nhau mà chẳng được gần nhau, Lữ Tứ Nương thấy lòng nghẹn ngào, chợt nghe dưới xe có tiếng quát tháo. Lộ Dân Đảm đã bị trọng thương, gia đinh của chàng làm sao có thể chống nổi bọn Ngự lâm quân, thế là bị vây vào ở giữa, Lữ Tứ Nương buồn bã kêu: “Thẩm ca ca, hãy bảo trọng, muội thề cứu huynh!” rồi đột nhiên từ trên xe nhảy bổ xuống, múa kiếm nhảy vào giữa đám đông, bọn Ngự lâm quân chưa từng thấy uy thế như thế, thế là chạy tứ tán, Lữ Tứ Nương ra tay như điện chớp, trong chớp mắt đã chém đứt chân tay của bọn Ngự lâm quân, tiếng quát tháo vang lừng, rồi nàng giải huyệt đạo cho Lộ Dân Đảm, nhưng vì thời gian quá lâu, Lộ Dân Đảm vẫn chưa thể cử động được. Lữ Tứ Nương vung kiếm dẫn gia đinh của Lộ phủ đánh thốc ra, Đổng Cự Xuyên quát: “Cứ để mặc ả”. Tần Trung Việt bước dấn tới phía trước hai bước, Lữ Tứ Nương phóng ra một ngọn phi đao lướt qua vai y, Tần Trung Việt hoảng đến nỗi thối lui từng bước, lúc này Lữ Tứ Nương đã chạy vào núi Thiên Mục. Trong trận này, Ngự lâm quân tử thương đến mấy chục người, gia đinh Lộ phủ cũng tử thương một nửa.


Đổng Cự Xuyên sai ném những xác chết, bỏ những kẻ bị thương lên ngựa, chỉnh đốn xong địa hình vội vàng lên đường tiếp. Tần Trung Việt vẫn chưa hết hoảng hồn, cứ liền miệng kêu: “Ả này thật lợi hại!” Đổng Cự Xuyên cười nói: “Tần huynh vạn an, qua đến Vu Tiềm, phía trước đã dễ đi hơn. Sẽ có Tuần phủ Triết Giang gánh vác cho chúng ta”. Đi được hai ngày, quả nhiên bình an đến Hàng Châu. Tuần phủ Triết Giang Lý Vệ là đại thần mà Khang Hy tin dùng, tề danh cùng với Tuần phủ Sơn Đông Điền Văn Kính, đều là những quan lớn đương thời. Lý Vệ nghe tin chạy ra nghênh tiếp, thấy đội hình Ngự lâm quân tán loạn, hỏi xong mới kinh hoảng!


Lý Vệ sai thêm cao thủ hộ vệ, bọn Cam Thiên Long, Tần Trung Việt, Đổng Cự Xuyên thay phiên nhau canh bên cạnh Thẩm Tại Khoan. Lúc về già Khang Hy bỏ võ sửa văn, lôi kéo nhân tài trong thiên hạ bởi vậy mới có mật lệnh cho Tuần phủ Lý Vệ, bảo y thẩm vấn phản nghịch, điều đầu tiên là phải buộc y khai ra đồng đảng rồi đến bắt ngay, điều thứ hai là khuyên hai bậc danh nho ở miền Triết Đông là Lữ Bảo Trung và Nghiêm Hồng Quỳ quy hàng, nếu họ không chịu thì cứ áp giải về Bắc Kinh. Nay bọn chúng chẳng bắt được Lữ Bảo Trung và Nghiêm Hồng Quỳ, chỉ bắt được học trò của Lữ Bảo Trung là Thẩm Tại Khoan, Lý Vệ rất thất vọng, nhưng y nghĩ lại, Thẩm Tại Khoan cũng có danh tiếng, chi bằng cứ thẩm vấn chàng ta một phen. Lý Vệ có một đứa con gái tên gọi là Lý Minh Châu được nuông chìu quen thói nên rất ngang ngạnh, nghe nói bắt được một tên thư sinh thiếu niên phản nghịch, thế là tò mò chạy theo cha đòi xem. Lý Vệ mắng: “Việc lớn của triều đình, đàn bà con gái xem làm gì?” Lý Minh Châu đáp: “Con chưa bao giờ thấy phản nghịch, chỉ xem thử có hại gì?” Lý Vệ chỉ đành nói: “Bọn lính canh toàn là đàn ông, con làm sao có thể đi xem thẩm vấn? Không sợ người ta cười là thiên kim của đề đốc mà không biết lễ nghĩa sao?” Lý Minh Châu nói: “Điều này rất dễ”. Rồi nàng vào phòng trong, một lát sau khi bước ra đã mặc đồ đàn ông, đi mấy bước rồi nói: “Con sẽ giả thành thư đồng của cha, khi cha thẩm vấn, con không lên tiếng, ai biết con cải trang”. Lý Vệ vừa buồn cười, vừa bực bội, chỉ đành chấp nhận.


Đêm hôm ấy Lý Vệ dắt con gái vào phòng tù, Thẩm Tại Khoan sau một ngày nghỉ ngơi, tinh thần đã hồi phục. Lý Vệ thấy chàng ta trong cảnh lao tù mà thần thái vẫn rạng rỡ, tướng mạo bất phàm, không khỏi thầm khen, nhủ rằng: “Nhân tài như thế này nếu chịu quy thuận, đường may sẽ rộng mở thênh thang”. Thấy con gái nhìn chàng chăm chăm, trong lòng không khỏi giật mình. Thế rồi nói: “Túc hạ đọc rộng hiểu nhiều, nay Thánh thượng đang cần nhân tài, nếu thúc hạ chịu quy thuận, tránh tà thuyết, theo thánh triều, ắt hẳn sẽ thăng quan tiến chức. Cần chi cứ giữ rịt điều cổ hủ làm việc ngu muội chuốc họa tan nhà nát cửa?” Thẩm Tại Khoan nói: “Phủ đài đại nhân cũng xuất thân từ khoa bảng, thông hiểu chữ nghĩa. Xin hỏi phủ đài đại nhân, tiền bối tài nhân Ngô Mai Thôn thế nào?” Ngô Mai Thôn là tài tử cuối thời Minh, xuất thân bảng nhãn, sau đó quy thuận triều Thanh, làm đến Quốc tử giám tế tửu, Lý Vệ thấy chàng ta nhắc đến Ngô Mai Thôn, lòng thầm mừng: “Té ra y cũng hiểu vài phần đạo lý”. Vì thế mới nói: “Ngô Mai Thôn là tài nhân một đời, hiểu đường sáng, biết đại thế. Ta đang lấy ông ta làm gương”. Thẩm Tại Khoan cười nói: “Vậy sao?” rồi ngâm rằng: “Cố nhân khảng khái đa kỳ tiết. Dị niên trầm ngâm bất đoạn, thảo giang thôn hoạt” Lý Vệ biến sắc, Thẩm Tại Khoan nói: “Tôi muốn hỏi phủ đài, mấy câu từ này của Ngô Mai Thôn giảng thế nào?” té ra đây là bài từ tuyệt mệnh của Ngô Mai Thôn, trong lúc Ngô Mai Thôn bệnh nặng, tự hổ thẹn rằng mình đã thất tiết nên đã viết một bài từ đặt tên là Hạ tân lang.


Bài từ này chan chứa tâm trạng tự trách mình của tác giả. Lý Vệ thì nói đến mặt tốt của Ngô Mai Thôn còn Thẩm Tại Khoan thì như nhắc đến bài từ tuyệt mệnh từ trách mình làm Hán gian của Ngô Mai Thôn, lời lẽ nghe rất mỉa mai, Lý Vệ nghe xong rất lúng túng, hỏi rằng: “Gần đây tiên sinh có tác phẩm gì hay không?” Thẩm Tại Khoan trả lời: “Có, lần này tôi tự thấy sẽ chết, trong đêm qua làm được hai câu: ‘Lục trầm bất tất do hồng thủy, thùy vị thùy châu lý cựu cương?’ nhưng đoạn sau vẫn chưa xong, phủ đài đại nhân tài cao bát đẩu, có thể làm cho vãn sinh một đoạn nữa không?” Lý Vệ nghe giọng điệu của Thẩm Tại Khoan như có ý trách mình, bởi vậy không nói nữa mà phất áo lui ra.


Lui ra khỏi phòng giam, Lý Minh Châu khẽ nói: “Cha, kẻ này có tài, ăn nói cũng lợi hại lắm!” Lý Vệ mặt tái xanh, không thèm để ý đến con gái mà trở về thư phòng viết tấu chương.


Ba ngày sau thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt đến thỉnh thị, bảo rằng phải áp giải tù phạm về kinh, nhờ ông ta sai người giúp đỡ. Lý Vệ nói: “Ông đến rất đúng lúc, bổn phủ đang muốn chọn vệ sĩ, ba người các ông đều võ công tinh thông, hãy giúp tôi xem thử”. Tần Trung Việt đương nhiên chấp nhận.


Phủ đài chọn vệ sĩ cực kỳ ngặt nghèo, trước tiên phải có người đáng tin cậy tiến cử, sau đó mới tính đến võ công. Đến hôm ấy, Lý Vệ bày tiệc rượu trong luyện võ sảnh, xem các vệ sĩ ứng tuyển. Vì Tần Trung Việt bận canh giữ Thẩm Tại Khoan nên không đến, chỉ có Cam Thiên Long, Đổng Cự Xuyên và hai tổng quản vệ sĩ trong phủ. Trong lần này, từ mười bảy người chọn ra ba người, Lý Vệ bước vào nhìn, thấy có hai hán tử cao lớn, còn một người thì ốm yếu một vàng ệch, thân hình trung bình trông giống như một tên bệnh hoạn.


Lý Vệ nhíu mày hỏi: “Ba người này do ai tiến cử?” tên tì tướng phụ trách việc chọn lựa nói: “Một người là do Tả Phiên Tư tiến cử, tên gọi Vương Phấn, một người là Hàn Chấn Sinh”. Lý Vệ kêu ồ một tiếng, lại nói: “Còn tên mặt vàng ệt ốm yếu kia là ai? Ai tiến cử hắn?” tên tì tướng trả lời: “Đại nhân đã quên rồi sao? Người này là do chính tay đại nhân tiến cử. Đại nhân quả nhiên tinh mắt, công phu của y cũng không tệ! Trong số mười bảy vệ sĩ hầu tuyển, có lẽ y là người giỏi nhất”.


Lý Vệ chưng hửng, mới nhớ lại một chuyện. Một tháng trước, y đã mời mấy gánh hát đến diễn tuồng, mãi nghệ để chúc thọ cho mẫu thân, trong đó có một thiếu nữ diễn rất hay. Con gái của y thấy thế nổi hứng, gọi nàng ta vào nội phủ hỏi han, sau đó còn giữ lại mấy ngày. Lý Vệ tuy không thích con gái qua lại với bọn người giang hồ nhưng nghĩ cũng chẳng hề chi nên chỉ mặc kệ. Hơn mười ngày trước, nàng ta biết việc chọn vệ sĩ, nàng bảo cũng giới thiệu cho một người. Nhớ đến đây, Lý Vệ bất đồ nhìn lại hán tử mặt vàng ốm yếu trước mặt.


Lúc này y đã nhớ hình như hán tử chính là một người trong gánh hát. Hôm ấy Lý Minh Châu bảo cũng giới thiệu cho một người, Lý Vệ hỏi đó là ai, nàng ta bảo là biểu ca của thiếu nữ mãi nghệ. Chắc là người này.


Lý Vệ vẫn còn nhớ con gái mình bảo y là Đường Long nên mới gọi y tới nói: “Đường Long, ngươi chẳng phải diễn tạp kỷ sao, học võ công ở đâu thế?” Đường Long nói: “Tiểu nhân học võ nghệ gia truyền, bất đắc dĩ mới ra giang hồ mãi nghệ”. Lý Vệ nói: “Được, hãy tỉ thí xem sao”.


Ba hồi trống vừa dứt, Lý Vệ nhờ Đổng Cự Xuyên làm chủ khảo, Đổng Cự Xuyên kêu Vương Phấn ra hỏi: “Ngươi luyện loại võ công gì?” Vương Phấn nói: “Tiểu nhân luyện Thiết sa chưởng”. Đổng Cự Xuyên nói: “Được, luyện thử cho ta xem”. Vương Phấn xếp ba chồng gạch lên cái trống đá trước sảnh, y vận công bước tới gần trống đá đột nhiên chém vù xuống một chưởng, đánh vỡ nát chồng gạch thứ nhất. Tổng quản vệ sĩ Hứa Thành nói: “Ngoại công của người này cũng có chút căn cơ”. Vương Phấn lại bước trở về, nói với Đổng Cự Xuyên: “Mỗi chồng gạch có mười viên, bây giơ tôi dùng chưởng lực đánh vỡ một viên trong chồng thứ hai, xin hỏi chủ khảo, muốn tôi đánh vỡ viên nào?” Đổng Cự Xuyên trả lời: “Viên thứ bảy”. Người ấy tiếng: “Tuân lệnh!” rồi bước tới cái trống đá, vỗ xuống một chưởng buông tay nói: “Xin hãy xem thử!” một viên tì tướng dời từng viên gạch ra, dời đến viên thứ bảy, quả nhiên đã vỡ nát, sau khi đã phủi đi, lại thấy viên thứ tám và viên thứ chín không hề suy suyễn. Hứa Thành giơ ngón tay cái nói: “Hay lắm!” Cam Thiên Long cười rằng: “Nội công của người này cũng có căn cơ”. Vương Phấn bước lên, Đổng Cự Xuyên cười nói: “Vậy chồng gạch thứ ba ngươi định làm gì?” Vương Phấn nói: “Sẽ đánh vỡ nát”. Hứa Thành nói: “Chẳng phải ngươi đã thử rồi sao? Hãy làm trò gì mới mẻ hơn”. Vương Phấn bẩm rằng: “Lần này khắc hẳn lần thứ nhất, tổng quản đại nhân, xin mời ngài xem”. Rồi y bước đến gần cái trống đá, hai tay co lại rồi vươn ra, miệng hít mấy hơi rồi nhẹ nhàng vỗ xuống một chưởng, sau đó buông tay nhảy ra, chồng gạch vẫn còn nguyên, Hứa Thành thấy ngạc nhiên, Đổng Cự Xuyên gật đầu nói: “Tốt lắm!” rồi bảo Hứa Thành lấy tay sờ xem sao, Hứa Thành vừa chạm tay vào chồng gạch đã đổ xuống, dưới đất toàn là bột. Té ra chồng gạch đã bị Vương Phấn dùng nội lực đánh nát như đậu hũ. Hứa Thành cả kinh, cảm thấy công lực của Vương Phấn còn hơn cả mình. Đổng Cự Xuyên cười nói với Lý Vệ: “Thiết sa chưởng của người này cũng được tám phần hỏa hầu, có thể chọn”. Vì thế kêu Hàn Chấn Sinh bước lên.


Đổng Cự Xuyên hỏi Hàn Chấn Sinh: “Ngươi luyện võ công gì?” Hàn Chấn Sinh nói: “Tôi luyện công phu cung mã, chú trọng thái kình hạ bàn”. Đổng Cự Xuyên nói: “Được, ta sẽ xem thái kình hạ bàn của ngươi”. Hàn Chấn Sinh bảo người đem tới hai mươi bao cát, mỗi bao cát nặng hai trăm cân, xếp mỗi chồng mười bao. Hàn Chấn Sinh nói: “Tôi có thể tung cước đá bất cứ bao nào bay lên”. Đổng Cự Xuyên nói: “Được, vậy ngươi hãy đá bao thứ tư ở chồng thứ nhất, bao thứ sáu ở chồng thứ hai”. Hàn Chấn Sinh bảo người ghi ký hiệu rồi từ xa chạy đến hai chồng bao cát, chưa đến gần đột nhiên tung ra mấy cú đá liên hoàn, hai bao cát bay lên đến năm sáu trượng, xem lại quả nhiên là bao thứ tư trong chồng thứ nhất và bao thứ sáu trong chồng thứ hai. Đổng Cự Xuyên kêu y lại hỏi: “Còn có công phu gì khác không?” Hàn Chấn Sinh nói: “Ngoài ra còn có công phu Cung mã”. Lý Vệ bảo y thử xem, y liên tục bẻ gãy năm cây cung ngũ thạch, lại bắn ba mũi tên liên tiếp trúng hồng tâm. Lý Vệ nói: “Người này là tướng tài có thể xung phong trận mạc”. Đổng Cự Xuyên cười: “Y là con nhà thế tộc Ba Đồ Lỗ, công phu cung mã đương nhiên phải luyện thành thục. Luận về bản lĩnh thật sự, y chẳng bằng Vương Phấn. Đại nhân có thể để y cầm quân”. Cuối cùng gọi Đường Long lên, hỏi: “Ngươi luyện công phu gì?” Đường Long nói: “Tôi chẳng luyện công phu gì cả”. Lý Vệ nói: “Vậy ngươi có sở trường gì?” Đường Long bẩm rằng: “Sở trường của tôi là chịu đánh”. Lý Vệ chưng hửng, đang định mắng, Đổng Cự Xuyên cười nói: “Vậy ngươi sẽ luyện công phu chịu đánh! Luyện như thế nào?” Đường Long nói: “Bảo hai người họ, một người dùng chưởng đánh tôi, một người dùng chân đá tôi, tôi quyết không trả đòn”. Lý Vệ và Cam Thiên Long đều thất kinh, Vương Phấn và Hàn Chấn Sinh, một người có thể vung chưởng đánh nát gạch, một người có thể tung cước đá bay bao cát, thế mà y dám chịu đòn của hai người này đúng là hoang đường, Đổng Cự Xuyên phẫy tay nói: “Được, hãy thử xem sao!” Đường Long nhảy ra giữa sân, buông tay đứng đợi, Vương Phấn vỗ vù hai chưởng vào ngực của y, Hàn Chấn Sinh cũng liên tục tung cước đá vào hạ bàn của y. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ nghe hai tiếng bốp bốp vang kên, Vương Phấn bị chấn động bay ra hơn một trượng, vẫn còn có thể đứng vững nổi, Hàn Chấn Sinh càng thảm hơn, y té soài xuống đất chẳng thể nhúc nhích nổi! Đổng Cự Xuyên vội bước ra, đỡ Hàn Chấn Sinh lên, chỉ thấy hai chân của y sưng tấy, Đường Long bước tới, nói: “Đắc tội!” rồi xoa lên chân của Hàn Chấn Sinh, nói: “Huynh đài cứ về nằm nghỉ ba ngày tự nhiên sẽ hết”. Rồi nói với Đổng Cự Xuyên: “Chủ khảo đại nhân, tôi chịu đánh như thế có được chưa?” Đổng Cự Xuyên nói: “Ngươi chờ một lát, ta hỏi phủ đài đại nhân”. Đổng Cự Xuyên cúi đầu suy nghĩ bước về chỗ ngồi. Lý Vệ đã kinh hãi đến trợn mắt há mồm. Khi Đổng Cự Xuyên quay về mời vội vàng hỏi: “Tên Đường Long ấy có yêu pháp gì không?” Đổng Cự Xuyên giật mình, nói: “Người này là do đại nhân tiến cử, xin đại nhân cho biết lai lịch của y”. Cam Thiên Long chen vào: “Y luyện công phu thượng thừa Triêm Y thập bát điệt! Bình sinh tôi đã thấy ba người luyện môn công phu này. Một người là Liễu Ân hòa thượng, một người là Thiên Diệp Tản Nhân, một người là Cáp Bố Đà tổng quản Huyết Trích Tử, giờ đây có thêm y là bốn”. Lý Vệ cả kinh, nói: “Ta không biết lai lịch của người này”. Đổng Cự Xuyên nói:“Vậy đại nhân tại sao tiến cử y?” Lý Vệ đỏ mặt, chỉ đành kể mọi chuyện ra, Đổng Cự Xuyên trầm tư không nói.


Lý Vệ nói: “Có gì không ổn?” Đổng Cự Xuyên trả lời: “Người này là dị nhân phong trần, tại sao y lại chịu làm vệ sĩ cho phủ nha?” Lý Vệ nghe thế trong lòng không vui, thầm nghĩ mình là đại thần được Hoàng đế tin dùng, là quan lớn của một tỉnh, làm vệ sĩ cho mình có gì thiệt thòi. Bởi vậy y mới nói: “Hiện nay Thánh thượng ngồi trên ngai vàng, Bốn biển yên bình, kỳ tài xuất hiện, bậc tài trí đương nhiên muốn xuất đầu lộ diện. Y đã là dị nhân phong trần, vậy đương nhiên phải ưu đãi y”. Tế rồi bảo Đường Long tới, đích thân rót cho ba chén rượu mời y uống. Đường Long nhận chén rượu trong tay Lý Vệ, đột nhiên lật cổ tay chộp lấy mạch môn của Lý Vệ giở lên, Cam Thiên Long rút trường kiếm đâm hai nhát vào bối tâm của y, những động tác ấy đều nhanh như điện chớp lửa xẹt, Đường Long trở tay trái đánh lại một chưởng, gạt rơi thanh kiếm của Cam Thiên Long, giở Lý Vệ quay một vòng, quát lớn: “Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì ở đây, ai dám đến?”


Đổng Cự Xuyên kinh hãi, Cam Phụng Trì danh lừng hai miền Nam Bắc, tiếng tăm còn hơn cả Liễu Ân! Đổng Cự Xuyên đã từng nghe nói đến chàng ta, tại sao không nhận ra? Bọn vệ sĩ ùa tới nhưng ném chuột sợ bể đồ, không dám tiến tới gần. Vệ sĩ tổng quản Hứa Thành nói: “Nhà ngươi mạo danh Cam đại hiệp làm gì?” Đường Long giơ ống tay áo lên lau mặt, lập tức dung mạo thay đổi. Tám năm trước Hứa Thành đã từng gặp Cam Phụng Trì, lúc này nhận ra chàng ta, không khỏi luống cuống chân tay, vái dài nói: “Cam đại hiệp, tiểu nhân không biết ngài đến tỉnh thành, đã không nghênh đón từ xa, chả trách nào ngài nổi cáu. Mong ngài giơ cao quý thủ buông tệ chủ nhân xuống, tiểu nhân xin dập đầu”.


Cam Phụng Trì cười lạnh hì hì, lớn giọng quát: “Ai thèm nổi cáu với tên chó săn nhà ngươi, các ngươi hãy thả Thẩm Tại Khoan ra. Chúng ta một người đổi một người, nếu không ta vặn gãy cổ phủ đài đại nhân của các ngươi”. Hứa Thành nói: “Bẩm Cam đại hiệp, Thẩm Tại Khoan là do triều đình sai người bắt sống, không liên quan đến phủ đài đại nhân chúng tôi”. Cam Phụng Trì lại xoay Lý Vệ một vòng, trừng mắt nhìn Đổng Cự Xuyên nói: “Ồ, cao thủ phái Hình ý cũng trở thành thị vệ trong cung, thất kính, thất kính. Các ngươi tuy phụng chỉ bắt khâm phạm nhưng có lẽ cũng nên biết rằng, Lý Vệ là đại thần được Hoàng đế tin dùng, trong lòng Hoàng đế, Lý Vệ nặng ký hơn Thẩm Tại Khoan nhiều, đổi một tổng đốc với một thư sinh tay không tấc sắt, các ngươi cũng không thiệt thòi. Nếu không có mặt các ngươi ở đây mà ta giết đại thần, các ngươi dù lập công lớn bao nhiêu, Hoàng đế cũng trách tội, các ngươi hãy suy nghĩ kỹ đi”.


Đổng Cự Xuyên chớp mắt, khảng khái nói: “Được, Cam Phụng Trì, chúng ta sẽ thực hiện cuộc giao dịch này. Quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi, ta trả Thẩm Tại Khoan cho ngươi, ngươi cũng không được động đến một sợi tóc của phủ đài đại nhân”. Cam Phụng Trì nói: “Đương nhiên”. Đổng Cự Xuyên kéo Hứa Thành bỏ chạy, Cam Thiên Long lúng túng, thầm nhủ: “Sao đại ca lại tự tiện chấp nhận, sau này biết ăn nói thế nào!”


Đổng Cự Xuyên kéo Hứa Thành chạy như bay, Hứa Thành cũng ngạc nhiên chẳng hiểu gì cả. Đổng Cự Xuyên thì thầm: “Hứa tổng quản, hãy tìm Lý tiểu thư, bảo rằng đại nhân sai ông đi mời nàng, đừng nói là đại nhân bị Cam Phụng Trì bắt”. Hứa Thành không hiểu dụng ý nhưng cũng chấp nhận. Một hồi sau quả nhiên Lý Minh Châu bước ra. Sau rèm còn có một nàng thiếu nữ.


Chính là:


Đổ mưa lật mây, liễu rậm hoa thưa.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 13 Đúng là tình si mười năm như một ngày Mấy phen ảo mộng suốt đời ở cấm cung




Hứa Thành là người thân tín của Lý Vệ, bình thường cũng hay vào nội đường nên Lý Minh Châu không nghi ngờ, chỉ vén rèm hỏi: “Cha gọi ta có chuyện gì?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đổng Cự Xuyên lướt người lao bổ vào phòng trong. Nàng thiếu nữ ở phía sau né không kịp, chân phải tung ra một cú đá, Đổng Cự Xuyên đột nhiên thu người lại, gót chân xoay tròn, hai tay đẩy ra, nàng thiếu nữ đá hụt, chợt thấy chưởng phong quét vào, ống chân, vội vàng ngửa người ra sau tránh thế đánh của kẻ địch. Đổng Cự Xuyên không hề thâu thế, tay trái chụp vào cổ tay của kẻ địch, tay phải đấm vào mặt, thế công liên miên bất tuyệt, nàng thiếu nữ lạng người phất tay ra, hóa giải thế chưởng của Đổng Cự Xuyên, tay trái đấm về phía trước mặt, hóa giải quyền trái của kẻ địch, Đổng Cự Xuyên quát: “Trần Mỹ Nương, chồng của ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám chống cử?”


Nàng thiếu nữ giật mình, Đổng Cự Xuyên trầm tay trái xuống, tay phải đánh vào huyệt Huyền Cơ giữa ngực của nàng thiếu nữ, thiếu nữ cả giận xoay người, hai chỏ tán ra phía trước và phía sau, thế đánh cực kỳ hung mãnh. Đổng Cự Xuyên biết chỉ dựa vào công lực của bản thân, tuy có thể thủ thắng nhưng phải trải qua một cuộc ác đấu, chỉ e sẽ trễ nãi mất nên ngay từ ban đầu đã dọa nàng ta để nàng ta rối loạn tinh thần, kế đó dùng loại thủ pháp khinh bạc dụ nàng nổi cáu, mà hễ nổi cáu tất sẽ sơ xuất, Đổng Cự Xuyên giơ tay trái đẩy vào cổ tay của kẻ địch, tay phải chụp vào huyệt Khúc Trì của nàng ta, Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Hứa tổng quản, người này là ai? Tại sao vào phòng ngủ của ta bắt người?” Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không bắt ả, cha của tiểu thư khó sống!” rồi bước sấn tới, cùng Hứa Thành tấn công nàng thiếu nữ kia.


Nàng ta tên gọi Trần Mỹ Nương, là vợ của Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì. Võ công của Trần Mỹ Nương tuy kém Cam Phụng Trì rất nhiều nhưng cũng thuộc loại hiếm có trong giang hồ. Hai vợ chồng họ thích rong chơi đây đó, hành hiệp trượng nghĩa. Một tháng trước, họ đi theo gánh hát giang hồ đến Hàng Châu mãi nghệ. Vì Cam Phụng Trì quá nổi danh nên phải cải trang, đến Hàng Châu vừa khéo phủ đài Lý Vệ chúc thọ cho mẹ, gọi họ vào phủ nha biểu diễn, con gái của Lý Vệ quý mến Trần Mỹ Nương, thường gọi nàng vào phủ. Cam Phụng Trì chẳng có việc gì khác nên cũng ở lại. Càng ta muốn xem thử trong phủ nhà có những người tài nào nên tham giam cuộc tuyển vệ sĩ, khi Cam Phụng Trì đến Hàng Châu cũng liên lạc với Lộ Dân Đảm, Lữ Tứ Nương và Lộ Dân Đảm đuổi tới Hàng Châu, lập tức tìm Cam Phụng Trì nhờ chàng chỉ cách. Hôm nay gặp lúc Lý Vệ xem khảo thí, Cam Phụng Trì lộ thần kỷ, dùng thủ pháp Sấm sét bắt sống Lý Vệ. Nào ngờ Đổng Cự Xuyên biết có Cam Phụng Trì ở đây, đoán rằng nàng thiếu nữ kia chính là Trần Mỹ Nương nên thử vào nội đường, quả nhiên gặp phải.


Lại nói Cam Phụng Trì bắt Lý Vệ làm con tin, bọn vệ sĩ chẳng dám đến gần. Cam Phụng Trì nôn nóng, quát: “Tên lão tặc họ Đổng sao vẫn chưa quay lại?” nói chưa dứt lời dưới đường đã có người trả lời: “Cam đại hiệp đừng nóng nảy, ta tới đây!”


Đổng Cự Xuyên ba ngón tay nắm mạch môn của Trần Mỹ Nương, cười hì hì dắt nàng lên đường, Cam Phụng Trì thấy thế vừa kinh vừa giận. Đổng Cự Xuyên cười nói: “Đem phủ đài đại nhân trao đổi với hiền tẩu, chẳng phải hai bên đều không thiệt thòi sao?” Cam Phụng Trì tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng dù thế nào chàng ta cũng phải chịu phép, thế rồi nghiến răng nói: “Được, ngươi trả nàng ra, ta trả phủ đài lại cho ngươi”. Đổng Cự Xuyên nói: “Đại hiệp không cần ngầm hạ độc thủ đấy nhé”. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Giang Nam đại hiệp nói một không nói hai”. Đổng Cự Xuyên đẩy Trần Mỹ Nương về phía trước, Cam Phụng Trì cũng thả Lý Vệ ra. Lý Vệ chạy xuống bậc thềm, Trần Mỹ Nương chạy lên, lúc này trong nội đường có tiếng người quát tháo, bọn Ngự lâm quân đột nhiên bên trong phóng ra ngoài.


Lại nói Lý Minh Châu tận mắt chứng kiến Đổng Cự Xuyên bắt Trần Mỹ Nương, vừa kinh vừa giận, nàng không ngờ rằng thiếu nữ mãi nghệ chính là người tên tuổi lẫy lừng, thế là chạy vào phòng ngủ, đóng bình cửa phòng lại nằm khóc òa lên, tức tối vì vệ sĩ của cha nàng chẳng lễ phép với nàng. Đang khóc thút thít, cánh cửa tủ áo bật ra, một người chui ra, đó là một nàng thiếu nữ đẹp như thiên tiên, Lý Minh Châu ngẩn người ra, thiếu nữ mỉm cười: “Tiểu thư đang giận ai đấy? Nói tôi nghe, tôi sẽ có cách trả thù?” lời nói của nàng ta dịu dàng thân thiết, Lý Minh Châu hỏi: “Cô nương là ai?” thiếu nữ nói: “Tôi là tỷ muội của Trần tỷ tỷ”. Lý Minh Châu nói: “Tại sao tôi không thấy cô nương bước vào?” thiếu nữ trả lời: “Tôi nghe nói tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần, tôi cũng muốn cùng Trần tỷ tỷ đến gặp cô nương, nhưng cô nương chỉ mời một mình Trần tỷ tỷ nên tôi chỉ đành lén vào đây”. Lý Minh Châu tính vẫn còn trẻ con, nghe nàng ta khen mình xinh đẹp thì rất thích, cười rằng: “Cô nương mới đẹp! Có phải cô nương mới vào gánh hát không?” nàng ta đáp: “Đúng thế! Trước đây tôi cứ tưởng mình rất đẹp, nay gặp tiểu thư mới biết tôi kém hơn rất nhiều!” Lý Minh Châu càng vui hơn, nghĩ rồi chợt hỏi: “Cô nương có cách gì báo thù cho tôi? Tỷ tỷ của cô nương đã bị bọn chúng bắt”. thiếu nữ nói: “Có phải bọn Ngự lâm quân ở kinh thành không?” Lý Minh Châu khẽ gật đầu: “Hình như là thế”. Thiếu nữ nói: “Vậy chúng ta cứ lén thả phạm nhân ra...” Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Không được, cha sẽ mắng tôi”. Thiếu nữ cười nói: “Tiểu thư hãy nghe tôi nói, chúng ta âm thầm giấu đi, sau đó trao cho đại nhân, thế là phạm nhân vẫn ở trong phủ nha nhưng bọn Ngự lâm quân sẽ một phen mất mật. Ai bảo chúng không tôn trọng cha của tiểu thư, lại còn bức hiếp cả tiểu thư nữa?” Lý Minh Châu nói: “Nhưng chúng có người canh”. Thiếu nữ trả lời: “Chỉ cần cô nương dắt tôi vào nhà giam, tôi sẽ có cách”. Lý Minh Châu chỉ là thiếu nữ ngây thơ, chẳng biết trời cao đất dày, nàng cảm thấy việc này rất thú vị, vả lại cũng rất có thiện cảm với phạm nhân, thầm nhủ: “Mình giấu y để làm bạn, chắc chắn thú vị lắm. Tên phạm nhân này trông nho nhã, lại còn biết làm thơ nữa!” thế rồi mới nói: “Chúng ta đi”. Rồi lấy ra hai bộ quần áo nam nhân, nói: “Chúng ta hãy thay đồ”. Thiếu nữ khen: “Tiểu thư thật thông minh”. Chốc lát đã thay đồ xong, Lý Minh Châu dắt nàng đến nhà giam. Bọn vệ sĩ quát: “Ai đó?” Lý Minh Châu phát hoảng lên, chẳng nói ra lời.


Thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân nghe nói khâm phạm bị bệnh, sai ta đến xem thử có nên mời đại phu hay không!” tên lính canh kêu ồ một tiếng rồi nói: “Sao phủ đài đại nhân biết?” thiếu nữ khẽ thúc vào người Lý Minh Châu, nói: “Ngươi quay về bẩm cáo với tổng quản, bảo ông ta đi mời đại phu. Ta vào xem thử”.lúc đầu Lý Minh Châu còn hăng hái, giờ thấy bọn vệ sĩ canh cửa nhìn mình như hung thần ác sát, bất giác lòng hoảng lên, chợt nhớ rằng giơ đây mình chẳng còn là thân phận thiên kim của phủ đài, nếu bị vạch trần thì chẳng phải sẽ mất hứng sao, nghe nàng thiếu nữ nói thế lập tức quay người, vẫy tay nói: “Ngươi xem khâm phạm xong hãy mau chóng đến tìm ta!” thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt kêu lớn: “Ai đó? Không được vào” Lý Minh Châu đã chạy ra. Bọn vệ sĩ canh cửa đưa tay chặn nàng thiếu nữ, thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân muốn xem cũng không được sao?” tên vệ sĩ nói: “Đưa lệnh tiễn của phủ đài đại nhân đến đây!” nàng thiếu nữ mỉm cười, đưa tay búng một cái, điểm vào huyệt đạo của tên vệ sĩ, Tần Trung Việt ở bên trong nghe đánh sầm một tiếng, vội vàng nhảy ra, chỉ thấy một thiếu niên phóng tọt vào, giơ tay điểm vào hai mắt của y. Tần Trung Việt quát lớn: “Có thích khách!” thế rồi hạ bút đâm xéo ra, thân pháp của thiếu niên nhanh nhẹn lạ thường, chàng ta hạ người xuống, trong khi hai bút chưa hợp lại đã bước vào trung cung, chiêu thế không thay đổi, hai ngón tay trầm xuống, đâm thẳng vào huyệt Đương Môn trên ngực. Huyệt Đương Môn còn gọi là Huyết huyệt, là một trong chín tử huyệt của con người, Tần Trung Việt cả kinh né tránh không kịp, vội vàng lăn người xuống đất, phóng cây bút trên tay trái ra, chặn thế công của kẻ địch, thiếu niên ấy vung tay hớt cây bút, trở tay ném lại, đánh ngã một tên vệ sĩ vừa mới nhảy vào. Rồi chàng ta mau chóng đuổi theo, Tần Trung Việt bật người dậy, múa tít cây Phán Quan bút còn lại trong tay, sử dụng như ngũ hành kiếm chặn trước gạt sau. Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cũng dồn vào. thiếu niên này thật lợi hại, chàng ta xoay người vọt một cái vượt qua hai tên Ngự lâm quân. Tần Trung Việt chợt giật mình, vội chạy thẳng đến phòng nhốt tù phạm, nào ngờ tiếng gió kêu lên vù vù, mắt hoa lên, chàng thiếu niên đã lướt qua đầu mình, đứng chặn trước cửa phòng, hai chưởng đẩy ra một vòng tròn, tay trái hất lên, tay phải đè xuống, Tần Trung Việt chặn cây bút lại, chàng thiếu niên đổi chưởng làm chỉ, một chỉ đâm vào huyệt Kỳ Môn, một chỉ điểm vào huyệt Tướng Đài, hai huyệt đạo này là Hôn huyệt, Tần Trung Việt vốn là kẻ giỏi đánh huyệt, thấy chàng thiếu niên này đánh huyệt quá nhanh, sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, y vội vàng thối lui ra sau nào ngờ chẳng còn kịp nữa, vừa mới xoay người lưng đã thấy đau nhói, huyệt Tinh Túc ở be sườn trái đã bị điểm trúng. Huyệt Tinh Túc nằm ở giữa xương thứ hai và xương thứ ba từ trên đếm xuống, thuộc vùng tì vị, là một trong chín Á huyệt của con người, người bị điểm trúng toàn thân đã tê rần.


Sau khi đắc thủ, chàng thiếu niên kéo phạm nhân đứng dậy, khẽ gọi: “Thẩm ca ca!” Thẩm Tại Khoan khẽ rên rỉ, trả lời: “Không cần cứu ta!” chàng thiếu niên chính là Lữ Tứ Nương, nàng ta nghe Thẩm Tại Khoan vẫn còn có thể nói chuyện nên yên bụng. Thế là vác chàng ta lên vai, trong tay cầm thanh kiếm sáng loáng phóng ra ngoài!


Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cửa chỉ quát tháo om sòm chứ chẳng thể nào cản nổi! Lữ Tứ Nương vọt thẳng ra đến đại đường. Cam Phụng Trì lớn tiếng reo, Đổng Cự Xuyên rất kinh hãi. Lý Vệ nói: “Mau chặn lại!” Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long phóng lên. Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, dùng Đại Cầm Nã thủ chụp vào bối tâm của một tên vệ sĩ ném về phía hai người. Trần Mỹ Nương rút cây trủy thủ vượt qua mặt Cam Phụng Trì đâm về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên giơ hai tay che mặt, tung chân phải đá về phía trủy thủ của Trần Mỹ Nương, Trần Mỹ Nương xoay người, Cam Thiên Long đâm tới một kiếm từ bên mặt, Trần Mỹ Nương trở trủy thủ lại gạt ra, Đổng Cự Xuyên xông lên, toan bắt sống Trần Mỹ Nương lần nữa. Chợt nghe vù một tiếng, Cam Phụng Trì lướt tới như mũi tên, hai tay phân ra, bốn cánh tay chạm nhau, Đổng Cự Xuyên lảo đảo suýt nữa đã té sầm xuống đất, thế là rút ra ba mũi Thấu Cốt đinh phóng vèo vèo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, tay trái tóm một tên vệ sĩ đẩy về phía trước, ba mũi độc đinh đều cắm phập vào người tên vệ sĩ, rồi chàng ta vung chưởng tiếp tục đánh về phía trước. Đổng Cự Xuyên vội vàng chạy lòng vòng, Lữ Tứ Nương đã chém được hơn mươi tên vệ sĩ xông ra nguyệt môn, quay đầu kêu: “Thất ca thất tẩu, chúng ta đi thôi!” Cam Thiên Long có võ nghệ tương đương với Trần Mỹ Nương, đang giằng co với nàng, bọn vệ sĩ cũng bao vây nàng vào ở giữa. Cam Phụng Trì trong chớp mắt đã đánh tan bọn vệ sĩ bao vây Trần Mỹ Nương. Cam Thiên Long kinh hãi, y vội vàng thối lui thì đã bị Trần Mỹ Nương đâm cây trủy thủ vào be sườn sâu đến ba tấc, rồi phóng ra ngoài. Bọn vệ sĩ trong phủ nha chưa bao giờ thấy cảnh như thế này, thế là vội vàng tản ra. Trong tiếng cười rộ, vợ chồng Cam Phụng Trì đã đuổi theo Lữ Tứ Nương, ba người đều phóng ra khỏi phủ nha.


Lữ Tứ Nương đến nhà Cam Phụng Trì, Trần Mỹ Nương dắt nàng vào phòng ngủ rồi mỉm cười lui ra, thuận tay khép hờ cửa lại. Lữ Tứ Nương đặt Thẩm Tại Khoan lên giường, khẽ nói: “Thẩm ca ca, muội đang ở bên cạnh huynh!” sắc mặt Thẩm Tại Khoan trắng bệt, hai mắt trợn trừng, thở dài nói: “Muội cứu huynh làm gì?” Lữ Tứ Nương thấy tim đập loạn lên, vội vàng mở áo ra xem, nhưng chẳng thấy có thương tích gì, nàng vừa mới buông tay Thẩm Tại Khoan đã bổ nhào xuống. Lữ Tứ Nương ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, đưa tay khẽ vặn chân chàng, Thẩm Tại Khoan kêu ối lên một tiếng rồi nằm yên chẳng hề nhúc nhích. Lữ Tứ Nương kinh hãi, chỉ nghe Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh đã trở thành phế nhân, muội cứu huynh cũng vô dụng”. Té ra Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, sợ rằng có người cứu Thẩm Tại Khoan nên đã hạ độc thủ, dùng chưởng lực nội gia đánh đứt gân chi dưới của chàng ta, lại dùng âm lực đánh cho chàng bị nội thương, khiến chàng phải nằm liệt giường. Dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng cứu nổi. Lữ Tứ Nương nghe như sấm nổ bên tai, hồn bay phách tán, nhưng vừa nhìn thấy ánh mắt thê lương tuyệt vọng của Thẩm Tại Khoan, nàng vội vàng trấn tỉnh, cứng rắn nói: “Sao lại vô dụng? Tại Khoan, huynh uổng là một bậc danh nho biết bao bậc đại nho tiền bối dù bị khiếm khuyết thương tật nhưng vẫn để lại danh tiếng cho muôn đời sau! Tại Khoan, chết thì dễ lắm, đại trượng phu phải sống trong gian khổ!” Lữ Tứ Nương nói xong thì rơi nước mắt.


Thẩm Tại Khoan nghe nàng khích lệ như thế, chợt thấy sức sống lại trở về, chàng ta nắm chặt tay Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương cũng rơi nước mắt, nhưng lúc này không phải là nước mắt tuyệt vọng, nước mắt ấy đã xua tan nỗi u oán trong lòng Thẩm Tại Khoan, chàng ta đã thấy ý nghĩa của cuộc sống.


Thẩm Tại Khoan nắm tay Lữ Tứ Nương rất lâu, rất lâu, khẽ nói: “Oanh muội, xin đa tạ”. Lữ Tứ Nương mỉm cười, nước mắt rơi lả chả trên mặt chàng. Thẩm Tại Khoan khẽ nói: “Có điều đã phụ tâm ý của muội”. Lữ Tứ Nương đưa mắt, nhìn chàng thắm thiết, quả quyết nói: “Tại Khoan, dù huynh bị tàn phế, nhưng tâm hôn của huynh vẫn khỏe mạnh! Huynh nói như thế có nghĩa coi muội là người ngoài”. Những câu nói ấy kiên định vô cùng, Thẩm Tại Khoan cảm động đến nỗi nghẹn lời. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương lại nói: “Huống chi huynh chưa chắc mãi mãi tàn phế, chỉ cần huynh có nghị lực, muội có thể chỉ huynh phép thổ nạp, lúc huynh có thể tự dẫn khí huyết, lấy ý hành khí, huynh sẽ hoàn toàn hồi phục, lại còn khỏe mạnh hơn lúc bình thường”, Thẩm Tại Khoan nói: “Đó có phải là nội công không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, huynh bị người ta dùng nội công làm cho tàn phế, nên chỉ có tu luyện nội công mới chống cự lại được!” Thẩm Tại Khoan nói: “Phải mất bao lâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Có lẽ phải đến mười năm”. Thẩm Tại Khoan nói: “Được, vậy thì rất hợp với ta”.


Trần Mỹ Nương đứng bên ngoài nghe tiếng khóc, khẽ mở cửa, Lữ Tứ Nương mở cửa kể lại mọi chuyện với vợ chồng Cam Phụng Trì. Trần Mỹ Nương nghe thế thầm than, nhủ rằng dạy một người tàn phế luyện tập nội công, mà người đó lại là một thư sinh chẳng có căn cơ võ công, trói gà không chặt, mười năm chưa chắc đã được, há chẳng phải đã uống phí tuổi thanh xuân của sư muội sao! Cam Phụng Trì nói: “Mười năm thì mười năm, có điều huynh e rằng sư muội không có nội tịnh tu”. Lữ Tứ Nương nói: “Sư đệ của Nhất Niệm đại sư là Nhất Phiêu hòa thượng, nội trong ngày nay sẽ di cư đến Tiên Hà, muội có thể dựng nhà cỏ bên cạnh, chăm sóc cho Tại Khoan”. Cam Phụng Trì nói: “Được, vợ chồng huynh đưa muội lên núi”.


Lữ Tứ Nương thuê một chiếc xe lừa, cải trang dung mạo rồi về quê, sau khi an tán cha già sẽ cùng Nhất Phiêu hòa thượng đến ẩn cư ở Tiên Hà lĩnh. Khi xuống núi Cam Phụng Trì nói với Lữ Tứ Nương: “Sau này chúng ta đấu với lão giặc trọc Liễu Ân, có lẽ phải nhờ sư muội giúp đỡ”. Lữ Tứ Nương nói: “Điều đó đương nhiên, trong thời gian tới muội cũng phải chăm chỉ rèn luyện kiếm pháp”.


Từ đó Thẩm Tại Khoan được Lữ Tứ Nương chăm sóc, tình hình ngày càng tiến triển, bất giác đã năm năm trôi qua.


Một buổi sáng sớm nọ, theo lệ thường Lữ Tứ Nương đến phòng Thẩm Tại Khoan, chưa vào phòng thì chợt thấy một mình chàng ta vịn vách tường đi lại, nàng mừng rỡ đẩy cửa bước vào. Thẩm Tại Khoan nói: “Đêm qua sau khi huynh tập hít thở, chợt thấy khí dồn tùng quang, thăng trầm lên xuống, hình như trong ngực có một vật gì đó có thể chuyển động lên xuống, huynh thử dùng lực đã có thể ngồi dậy, sáng nay huynh vịn tường đã đi từ giường đến án thư được ba vòng”. Lữ Tứ Nương nói: “Huynh đã tiến bộ thần tốc, xem ra không cần đến mười năm. Nhưng huynh mới học không nên quá cực nhọc, hãy lên giường nằm nghỉ”. Nàng chợt thấy trên bàn có mảnh giấy viết mấy hàng chữ, giận dỗi nói: “Huynh vừa mới khỏe một tí đã lao tâm làm thơ, muội phải phạt huynh”. Rồi cầm tờ giấy lên, Thẩm Tại Khoan vội kêu: “Muội muội, trả lại cho huynh!” chàng lảo đảo bước tới, bước chân không vững thế là té soài vào người Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng đến giường, chỉ thấy chàng đỏ ửng cả mặt, Lữ Tứ Nương đọc xong mấy dòng chữ ấy, té ra chẳng phải là thơ mà là một bài từ của tiền nhân, viết – điệu “Cán khê xa”, từ rằng: “Thùy đạo phiêu linh bất khả liên, kim lô đoạn tận tiểu triện hương, nhân sinh hà xứ tự tôn tiền? Kiến liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên, đoạn lại năng hữu kỳ hồi trường?”


Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Té ra chàng ta vẫn còn nghi mình. Chàng yêu thương mình thắm thiết nhưng lại tự ti, sợ rằng mối nhân duyên tựa như hoa trong kính, trăng dưới nước, không dám thổ lộ chân tình với mình nên mới nói ‘kiến liễu hữu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận vẫn như thiên’.” Thẩm Tại Khoan ngẩn ra nhìn nàng, Lữ Tứ Nương thở dài: “Ca ca ngốc, chả lẽ năm năm qua huynh không biết cho tâm sự của muội sao? Dù huynh thế nào, muội vẫn ở bên cạnh huynh”. Thẩm Tại Khoan bất giác rơi nước mắt, hai người nắm tay dịu dàng nhìn nhau. Trong lúc ngây ngất, chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng gọi ở bên ngoài.


Lữ Tứ Nương khẽ nói: “Huynh hãy nghỉ ngơi một lát, đừng nghĩ ngợi chi nhiều, muội đi ra một lát sẽ về”. Bước ra khỏi căn nhà, nàng thấy Nhất Phiêu hòa thượng đang đứng vẫy tay. Lữ Tứ Nương chạy tới, hỏi: “Đại sư gọi có việc gì?” Nhất Phiêu hòa thượng chỉ xuống chân núi, nói: “Cô nương xem kìa!” Lữ Tứ Nương nheo mắt nhìn, chỉ thấy một người từ dưới chân núi chạy lên nhanh như sao xẹt, lúc này đã đến lưng chừng núi, Nhất Phiêu hòa thượng nói: “Kẻ nào biết ta ẩn cư ở đây? Chẳng lẽ là bọn ưng khuyển của triều đình?” Lữ Tứ Nương cười lạnh: “Nếu là ưng khuyển của triều đình chắc chắn bọn chúng đã tìm đến cái chết”. Một hồi sau, bóng người ấy càng lúc càng hiện rõ, Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại là y?” nói chưa dứt lời, người ấy đã nhảy vọt lên tới nơi, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, quả nhiên tỷ ở đây!” Lữ Tứ Nương mừng rỡ nói: “Đường Hiểu Lan, mấy năm không gặp mà ngươi đã lớn thế này”. Lữ Tứ Nương giới thiệu với Nhất Phiêu hòa thượng, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, đệ tìm tỷ đến khổ!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao? Ai bảo cho ngươi biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp. Nhưng ông ta lại không tin tôi. Lữ tỷ tỷ...” Nhất Phiêu hòa thượng thấy chàng ta nói chẳng đầu chẳng đũa, lại rất thân mật với Lữ Tứ Nương, lòng giật mình, nói: “Để ta vào pha trà cho các người”. Đường Hiểu Lan chờ Nhất Phiêu hòa thượng đi xong mới chợt nói: “Lữ tỷ tỷ, tỷ phải cứu đệ!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao phải cứu đệ?” Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, người ta đã vu oan cho đệ, chỉ có tỷ mới có thể cứu, tỷ có tin đệ không?” Lữ Tứ Nương dịu dàng cười nói: “Tiểu đệ, ta tưởng đệ đã lớn mà đệ vẫn cứ như trẻ con. Ai đã vu oan cho đệ?” Đường Hiểu Lan rung giọng nói: “Những người hiệp nghĩa trên giang hồ”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại có chuyện như thế? Là ai đã cầm đầu?” Đường Hiểu Lan nói: “Chính là sư phụ trước đây của đệ, Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Còn ai nữa?” Đường Hiểu Lan nói: “Còn có Quan Đông tứ hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Quan Đông tứ hiệp chẳng phải là bằng hữu của Châu Thanh hay sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Họ vốn đối xử tốt với đệ, coi đệ như con cái”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy đệ hãy nói cho ta nghe thử”. Thế là Đường Hiểu Lan bắt đầu kể lại từ lúc theo Dịch Lan Châu lên Thiên Sơn. Đường Hiểu Lan nói: “Tỷ tỷ có còn nhớ đệ có hai điệt nữ song sinh rất dễ thương”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Đúng thế, khi chúng ta mới gặp nhau ở Mang Sơn, Bát Tý Thần Ma cõng một đứa!” Đường Hiểu Lan nói: “Đó là cô chị tên là Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó Song ma lại cướp thêm một đứa trong tay Chung Vạn Đường nữa, có phải là đứa em hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế. Nó tên là Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy có nghĩa là đôi chị em song sinh đều đã lọt vào tay Thần Ma song lão!” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải, điều này thật kỳ lạ. Đệ theo Dịch tổ bà lên Thiên Sơn, người nói: ‘Ta đã bảo sẽ trả lại cho ngươi một đứa điệt nữ!’...” Lữ Tứ Nương chen vào nói: “Ta có nghe bà ta nói câu này ở nhà họ Niên. Có phải là bà ta nuôi dưỡng một đứa trẻ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải là nuôi dưỡng mà cướp về!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Cướp của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Là cướp của Song ma! Số là trước khi Dịch tổ bà gặp đệ, đã từng đến miền Bắc. Ngày nọ đến trước phủ đệ của Tứ bối lạc, thấy Phùng Anh và Song ma chơi đùa, Dịch tổ bà vừa nhìn đã thích, bà tuổi đã già, dang muốn tìm một đồ nhi lanh lẹ, lúc đó bà cũng lấy làm lạ, một đứa trẻ dễ thương như thế sao lại đi cùng hai tên ma đầu? Vả lại xem ra bọn họ không phải cha con. Nhất thời nổi hứng nên lẻn vào phủ, hỏi ra mới biết hai tên ma đầu cũng cướp đứa trẻ này thế là cướp ngay Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Trong phủ Tứ bối lạc cao thủ nhiều như mây, chắc là Dịch lão tiền bối đã gây náo loạn ở đấy?” Đường Hiểu Lan tiếp lời: “Đệ đến Thiên Sơn, Dịch tổ bà gọi Phùng Anh ra gặp đệ”. Lữ Tứ Nương nói: “Khoan đã, khi Dịch tiền bối rời Thiên Sơn, ai chăm sóc cho nó?” Đường Hiểu Lan nói: “Là Võ lão tiền bối”. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, té ra Võ Quỳnh Giao vẫn còn sống” Đường Hiểu Lan nói: “Võ tiền bối rất mến Phùng Anh, suýt nữa đã giành với Dịch tổ bà”. Ngừng một hồi lại nói tiếp: “Đệ gặp Phùng Anh, nó nhoẻn miệng cười với đệ, bên má trái có lún đồng tiền, đệ nhớ nó chính là Phùng Anh, đang định gọi. Dịch tổ bà lại ngăn đệ. Sau đó mới nói rằng Phùng Anh đang luyện công phu cơ bản, tâm thân phải chuyên nhất, vả lại nó chỉ là đứa trẻ bảy tuổi, không thể cho nó biết thân thế” Lữ Tứ Nương nói: “Thế chuyện này có liên quan gì đến đệ?” Đường Hiểu Lan đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thong thả!” rồi đứng dậy bước lên tảng đá.


Lữ Tứ Nương nói vọng xuống bên dưới: “Nhất Phiêu đại sư, một lát nữa tôi sẽ trở lại, không cần đợi tôi”. Rồi quay đầu lại ngắt một ít trái dại đưa cho Đường Hiểu Lan: “Đệ hãy ăn thử”. Mùi vị quả nhiên dịu ngọt, nồng nồng như có men rượu, Đường Hiểu Lan bất giác ngây ngất. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta qua bên này ngồi, phong cảnh bên này đẹp hơn nhiều”. Đường Hiểu Lan đi theo Lữ Tứ Nương một hồi, chợt gặp một thác nước từ trên cao đổ xuống, tạo thành một đầm nước, Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan ngồi xuống, Lữ Tứ Nương nói: “Ta thích ngồi nơi này nghe tiếng nước”. Đường Hiểu Lan xốn xang cõi lòng nhưng thấy Lữ Tứ Nương nói rất thản nhiên, trong dịu dàng có nét đoan trang, khiến người ta không dám nhìn thẳng, chàng vội vàng định thần, ngồi xuống bên cạnh Lữ Tứ Nương, nói: “Đệ chịu ân lớn của Phùng lão sư ở Nhữ Châu, mười hai năm trước nhà ông ta gặp họa, chuyện đó chắc tỷ cũng biết, lúc đó đệ từng thề rằng phải cứu cho được điệt nữ trong tay của Thần Ma song lão, giờ đây đã tìm được Phùng Anh nhưng Phùng Lâm vẫn trong tay của bọn chúng. Nên đệ học kiếm thuật ba năm, xuống núi liền dò tìm tin tức của Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Phùng Lâm ở trong phủ Tứ bối lạc, dù đệ bản lĩnh cao cường e rằng cũng khó được như mong muốn”. Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế! Nên sau đó mới gây ra chuyện. Cả đệ cũng không ngờ đến. Chuyện này cứ như một giấc mơ. Tỷ tỷ, tỷ đừng trách đệ, đệ coi tỷ như người thân nên mong tỷ hãy nghe kỹ”. Thế là Đường Hiểu Lan kể lại câu chuyện éo le ly kỳ mà mình đã trải qua.


Số là Đường Hiểu Lan rất cẩn thận, sau khi hạ sơn chàng không tìm ngay hai tên ma đầu. Chàng rong ruổi trên giang hồ, trước tiên đến bán đảo Liêu Đông, tìm Quan Đông tứ hiệp. Lúc này chàng đã là một thanh niên hai mươi tám tuổi, Quan Đông tứ hiệp lấy chàng đã lớn thành người, vui mừng lắm, Huyền Phong đạo trưởng nghe chàng sắp đến Bắc Kinh dò tìm Phùng Lâm, nói với chàng rằng: “Ta có một người quen tên gọi Cẩn Ngũ, khi nào đến Bắc Kinh cứ tìm y”. Đường Hiểu Lan cải dạng đến miền Bắc, vừa khéo Cẩn Ngũ đã ra ngoài. Đường Hiểu Lan chỉ đành trọ tại một ngồi chùa ở Tây Sơn, suốt ngày chẳng có việc gì làm nên đi thăm thú khắp nơi, một ngày nọ chàng mướn xe ngựa đến Nam Khẩu, leo lên Cư Dung Quan.


Vạn Lý Trường Thành từ Gia Dụ Quan đến Sơn Hải Quan, kéo dài hơn một vạn hai ngàn dặm, Cư Dung Quan băng qua Bát Đạt Lĩnh. Đường Hiểu Lan leo lên ngọn núi hiểm trở, chỉ thấy Vạn Lý Trường Thành kéo dài dằng dặc, tựa như một con trường xà. Quan thành Cư Dung Quan ở phía Bắc của Nam khẩu, hai bên là đỉnh núi nhỏ hẹp, trên núi hoa dại mọc um tùm, kết thành một bức tranh đẹp đẽ. Nơi đây chính là một trong Yên Kinh bát cảnh, Cư Dung Thúy Điệp. Đường Hiểu Lan ngắm một hồi lại đi qua những danh thắng như Lục Lan Ảnh, Mục Quế Anh điểm tướng đài, lên đến đỉnh cao của Bát Đạt Lĩnh, chỉ thấy có một vách núi có tạc hai chữ “thiên hiểm”, thế núi cực kỳ hiểm trở, Vạn Lý Trường Thành bắc qua sườn núi, Đường Hiểu Lan chợt bộc phát hào tình, leo lên trường thành cởi áo đón gió, cảm thấy đất trời rộng lớn bao la mà con người thì nhỏ bé.


Kiến trúc Vạn Lý Trường Thành rất hùng vĩ, trên tường thành có thể chứa năm con ngựa cùng phóng qua. Đường Hiểu Lan đứng trên trường thành đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy thế núi trùng điệp vô tận, Cư Dung Quan nằm ở phía Bắc, Vạn Lý Trường Thành tựa như một con trường xà băng núi vượt đèo. Hôm ấy trời trong sáng, đứng trên tường thành có thể thấy thấp thoáng ngọn Bạch tháp ở Bắc Hải trong kinh thành. Đường Hiểu Lan thấy xung quanh không có người, chàng chợt nổi hứng tháo kiếm ra múa, đang lúc đắc ý chợt nghe có người khen: “Kiếm pháp hay!” Đường Hiểu Lan thất kinh, khi thâu kiếm lại nhìn không biết có một ông già đã đứng trên tường thành từ bao giờ. Đường Hiểu Lan nói: “Làm kinh động đến lão trượng, xin thứ lỗi”. Ông già cười bước tới, chợt hỏi: “Châu Thanh là người thế nào với ngươi?” Đường Hiểu Lan nào dám nói, chỉ đáp: “Vãn bối kiến thức nông cạn, xin hỏi ai là Châu Thanh?” Ông già nói: “Ồ, ngươi đang nghi ngờ ta? Khi ta quen biết với Châu Thanh, chỉ e ngươi vẫn chưa ra đời. Đưa kiếm của ngươi cho ta xem”. Châu Thanh là khâm phạm của triều đình, Đường Hiểu Lan không biết ông già là người thế nào, trong lòng lo lắng, thấy ông ta cứ bước dấn tới, không khỏi nổi cáu nói: “Tại sao phải đưa cho ông xem?” ông già chợt nói: “Nghe nói Châu Thanh đã chết, có phải không?”


Đường Hiểu Lan nói: “Nếu ông đã là bằng hữu của người, sao lại không biết?” ông già biến sắc, quát: “Ai đã giết ông ta, khai ra cho mau!” Đường Hiểu Lan nói: “Ông có phải là đương sai trong cung không?” ông già giãn nét mặt, chợt cười: “Nếu ngươi đã biết ta là vệ sĩ trong cung, vậy Châu Thanh chắc chắn đã từng nói với ngươi, hãy đưa thanh kiếm cho ta xem có phải là Du Long kiếm hay không!” Đường Hiểu Lan nói câu ấy chỉ là muốn dò thử, thấy ông ta thản nhiên nhận, thất kinh quát: “Té ra ngươi là ưng khuyển của triều đình, có bản lĩnh thì cứ đến lấy thanh kiếm này!” rồi chàng vung thanh kiếm lên, ông già chưng hửng, tựa như đã nổi cáu, quát: “Thật không biết trời cao đất dày!” Đường Hiểu Lan lo ông ta còn có đồng đảng, thế là đâm tới một nhát kiếm, ông già lách qua, quát: “Ngươi đúng là không biết tốt xấu!” Đường Hiểu Lan ra tay nhanh như chớp, chỉ trong nháy mắt đã tấn công liền năm chiêu, ông già không ngờ rằng kiếm pháp của chàng hiểm hóc tinh kỳ đến thế, không thể lên tiếng nói chuyện được với chàng, chỉ đành ngậm miệng vung chưởng. Một hồi sau, Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, khiến ông già luống cuống chân tay, ông già thầm thất kinh, nhủ rằng: “Sao kiếm pháp của tên thiếu niên này còn hơn cả Châu Thanh, chả lẽ mình đã nhìn nhầm, y không phải là kẻ mình muốn tìm”. Ông ta thối lui từng bước, Đường Hiểu Lan nổi lên sát cơ, đuổi sát theo sau, ông già chợt quát lớn, rút một thanh kiếm trong eo ra, chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của ông già chập vào với cây Du Long kiếm, đánh một chiêu Thừa Long Dẫn Phụng, đẩy kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài. Đường Hiểu Lan thất kinh, vội vàng thừa thế đẩy về phía trước, hóa giải thế kiếm ấy rồi chém soạt soạt vào kiếm của ông già, thân pháp của ông ta phiêu hốt, kiếm chiêu vô định, không để cho kiếm của Đường Hiểu Lan chạm vào, khi không né tránh được thì dùng phương pháp lấy nhu khắc cương hóa giải thế công của chàng. Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, kiếm pháp thi triển ra nhanh như điện chớp, công lực của ông già cực kỳ cao cường, kiếm pháp tuy không bằng chàng nhưng chưa đến nỗi thất bại. Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan tinh kỳ nhưng nội lực kém người ta, đấu được một trăm chiêu mồ hôi đã toát đầm đìa. Chàng rất lo lắng, không ngờ rằng mình học được Thiên Sơn kiếm pháp mà chẳng hạ nổi ông ta.


Đường Hiểu Lan không biết rằng, nếu chẳng phải chàng theo Dịch Lan Châu học ba năm kiếm pháp đã sớm thất bại. Đấu một hồi nữa, kiếm thế của Đường Hiểu Lan tuy vẫn không hề chậm lại nhưng đã dần dần cảm thấy hơi thở nặng nề. Đang lúc ác đấu, chợt nghe dưới tường thành có người kêu: “Hầu lão gia tử, ông đang đùa với ai thế?” Đường Hiểu Lan biết đó là đồng đảng của ông già, nghĩ bụng ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là đâm soạt soạt mấy kiếm mạnh như mãnh sư, rõ ràng là tấn công gấp tới nhưng thật sự là bỏ chạy, trong lúc ông già chống trả, Đường Hiểu Lan đã lách người bỏ chạy, ở dưới chân thành có mấy người đã chạy lên trên đầu thành, trong lúc gấp gáp Đường Hiểu Lan quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy những kẻ ăn mặc theo kiểu vệ sĩ, chàng càng chạy càng nhanh, được khoảng hơn mười dặm mới ngừng chân, lúc này đã đến gần Cư Dung Quan, trên Cư Dung Quan cũng có binh lính, Đường Hiểu Lan nhảy xuống tường thành, lẩn vào trong núi cho đến hoàng hôn mới dám trở về.


Đường Hiểu Lan lo lắng mấy ngày, may mà chẳng có chuyện gì xảy ra. vì thế lại đến nhà Cẩn Ngũ hỏi thăm, té ra Cẩn Ngũ đã về mấy ngày trước. Đường Hiểu Lan lấy ra bức thư của Huyền Phong đạo trưởng đưa cho Cẩn Ngũ. Cẩn Ngũ nói: “Trong hoàng phủ có nhiều người làm, tiểu huynh đệ cứ lẩn vào cải trang thành kẻ nô bộc. Không cần cho tổng quản biết, chỉ nói với viên chấp sự là được”. Đường Hiểu Lan thầm nhủ cứ tìm cơ hội dắt Phùng Lâm đi cũng được, vì thế nhờ Cẩn Ngũ tìm cho mình một chân nô bộc quét vườn.


Phủ đệ của Tứ bối lạc không nằm trong Tử Cấm thành, vốn là thần miếu để hoàng thất nuôi dưỡng Lạt Ma, nay Tứ bối lạc chiếm một nửa làm nơi ở, sau khi Tứ bối lạc lên ngôi, đổi thành thiền viện của Hoàng giáo, được ban tên là Ung Hòa cung, là một nơi bí hiểm có tiếng trong kinh thành. cung điện này rất rộng, đền đài hùng vĩ. Vườn hoa rất lớn, cây cối cao chọc trời. Đường Hiểu Lan vào hoàng phủ, chỉ thấy khắp nơi đều là những tượng Phật kỳ lạ. Làm việc được nửa tháng mà chàng chẳng thấy Phùng Lâm, cả Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão cũng không thấy xuất hiện.


Một chiều nọ, Đường Hiểu Lan làm xong công việc, vốn cùng Cẩn Ngũ trở về nhà, chợt nghe hậu viên có tiếng cười của thiếu nữ, chàng len lén vào nhìn thì thấy có mấy đứa trẻ đang chơi trốn tìm trong vườn, trong đó có một bé gái khoảng mười hai mười ba tuổi, thân pháp rất lanh lẹ, bọn trẻ không thể nào bắt được cô bé, Đường Hiểu Lan nhìn một hồi, cô bé chơi rất vui, cứ cười khanh khách không thôi, ở má phải có lún đồng tiền trông rất xinh xắn. Đường Hiểu Lan đợi một hồi, bọn trẻ nói: “Không bắt được ngươi, không chơi với ngươi nữa”. Trời dần dần tối, bọn trẻ tản đi, Đường Hiểu Lan nhẹ nhàng đến bên cạnh nó, chợt nói: “Phùng Lâm, muội có còn nhớ Chung bá bá không?” đứa bé gái tròn mắt hỏi: “Ngươi nói gì? Ai là Phùng Lâm? Ai là Chung bá bá, ta có rất nhiều bá bá nhưng không ai họ Chung cả, có phải Chung bá bá mới đến không?” Đường Hiểu Lan thấy lòng đau nhói, thầm nhủ: “Khi Chung Vạn Đường chết, đứa trẻ này chỉ có bảy tuổi, làm sao có thể nhớ được chuyện gì”. Vì thế mới nói: “Muội đừng sợ, ta và cha của muội là hảo bằng hữu”.


Phùng Lâm nói: “Ta có nhiều nghĩa phụ, ngươi là hảo bằng hữu của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Cha mẹ ruột của muội muội”. Phùng Lâm nói: “Ta còn có cha mẹ ruột? Ngươi nói dối!” Đường Hiểu Lan nói: “Cha của muội bị người ta hại chết, mẹ của muội vẫn chưa chết. Khi còn bé ta đã từng bé muội, ta dắt muội ra ngoài học võ công, tìm mẹ của muội”. Phùng Lâm bật cười, nói: “Ngươi dắt ta ra ngoài? Học võ nghệ? Hừ, ngươi chính là kẻ xấu!” rồi vung tay, mấy mũi phi đao bay vút ra!


Đường Hiểu Lan xoay người, một mũi phi đao lướt qua hông chàng, Đường Hiểu Lan đột nhiên giơ ngang hai ngón tay, kẹp mũi phi đao thứ hai ném ra ngoài đánh rơi mũi thứ ba, Phùng Lâm vỗ tay nói: “Hay lắm, ngươi hãy thử tiếp xem sao, nếu tránh được cả, ta sẽ gọi ngươi là bá bá, học võ công của ngươi!” rồi bàn tay nhỏ nhắn tiếp tục vung lên, sáu mũi phi đao chia thành ba nhóm bay tới, bay được nửa đường đột nhiên tách ra hai bên trái phải, đó là tuyệt kỹ phi đao của Chung Vạn Đường, Phùng Lâm đã được ông ta chân truyền, Đường Hiểu Lan vốn muốn dùng tay không tiếp đao nhưng không thể nào để mắt nhìn xung quanh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, hai mũi phi đao bay lướt qua tai chàng. Phùng Lâm vung tay liên tục, phi đao bay ra liên tiếp, càng lúc càng nhanh, Đường Hiểu Lan buộc phải rút thanh Du Long kiếm quét tạt ngang một cái, chỉ nghe tiếng kim khí gãy leng keng, toàn bộ số phi đao của Phùng Lâm đã bị Du Long kiếm chặt gãy. Ngay lúc này, chợt nghe hai tiếng hú dài quái dị, có người quát: “Ai làm càn ở đây?” Phùng Lâm kêu: “Tát bá bá, kẻ này bảo điệt nữ theo y!”


Đường Hiểu Lan phóng vọt người lên, định lao qua tường, ở trên tường chợt có một bóng đen phóng xuống, mười ngón tay từ trên không chụp xuống, Đường Hiểu Lan vội vàng lia kiếm đánh ra một chiêu, rồi xoay người nhảy bổ về phía Phùng Lâm, chợt lại nghe một tiếng quát lớn, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã chặn đường chàng. Phùng Lâm nấp sau lưng Tát Thiên Đô, tay cầm sẵn phi đao, miệng thì cười hì hì.


Kẻ từ trên tường nhảy xuống là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích, cả hai huynh đệ kẹp Đường Hiểu Lan ở giữa, Tát Thiên Thích cười ha hả: “Đường Hiểu Lan, té ra là ngươi! Ngươi muốn đến đây bái sư ư?” Phùng Lâm nói: “Không phải, y muốn điệt nữ đi theo. Y nói sẽ dạy võ công cho điệt nữ!” Tát Thiên Đô quát: “Hay lắm, xem thử ngươi có cao chiêu gì?” rồi hai chưởng vung lên bổ thẳng tới, chưởng trái chém vào ngực, chưởng phải chụp vào cổ tay của chàng, Đường Hiểu Lan lia thanh kiếm nhanh như gió, Tát Thiên Đô không ngờ rằng kiếm pháp của chàng lại lanh lẹ đến thế, y vội vàng rút chưởng lại. Đường Hiểu Lan vẫy mũi kiếm, vạch một đường trên vai của y, Tát Thiên Thích vội vàng thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích phóng vọt người lên rồi bổ nhào xuống, Đường Hiểu Lan vẫy ra một đóa kiếm hoa, múa thành một đường ngân hồng che trên đỉnh đầu, Tát Thiên Thích xoay người trên không trung, chao liệng ba vòng mà chẳng tấn công được, chỉ đành hạ xuống đất. Tát Thiên Đô gầm lên như sấm, vung quyền đánh tới. Đường Hiểu Lan đâm soạt soạt hai kiếm về phía hai tên ma đầu, Tát Thiên Thích quát: “Kiếm pháp hay!” rồi trở tay chụp lại, mười móng tay chụp vào cổ tay của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đánh ra một chiêu Thu Thủy Hoành Châu, chém ngang qua, Tát Thiên Thích chợt đổi hướng chụp vào sườn trái, hai chưởng của Tát Thiên Đô cũng bổ tới trước mặt. Đường Hiểu Lan vung thanh kiếm, vội thi triển Hàn đào kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp ra, chỉ thấy lãnh điện sáng loáng, kiếm hoa tuôn ra như thác đổ, Tát Thiên Thích luồn qua lách lại trong màn kiếm quang, tìm cách tấn công Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không nhảy ra được, Tát Thiên Thích cũng không thể sấn tới gần. Tát Thiên Đô đứng bên ngoài phát chưởng, chưởng nào cũng có kình lực mạnh mẽ, chưởng phong kêu lên vù vù, mỗi chưởng đều khiến mũi kiếm của Đường Hiểu Lan đánh lệch qua, tạo cơ hội cho Tát Thiên Thích tấn công vào. Kiếm chiêu của Đường Hiểu Lan tuy thần diệu nhưng công lực lại không sâu, chỉ trong chốc lát đã khó cầm cự, Tát Thiên Thích nhe nanh múa vuốt, càng đánh càng hung dữ!


Phùng Lâm vỗ tay cười: “Không biết xấu hổ, bản lĩnh như thế mà cũng đòi là sư phụ của ta”. Đường Hiểu Lan quát: “Phùng Lâm, hai người này là kẻ thù của muội, dù y giỏi đến mức nào muội cũng không được nhận giặc làm cha!” Đường Hiểu Lan thấy mình nguy hiểm, khó thoát ra được, bởi vậy mặc cho Phùng Lâm vẫn chưa hiểu việc, cũng phải nhắc nhở cô bé. Tát Thiên Thích chợt biến sắc, nói: “Yến nhi, đừng nghe y nói”. Rồi tung đòn càng hung dữ hơn, Đường Hiểu Lan sấn tới mấy lần đều bị y đẩy trở lại, xem ra sắp nguy tới nơi. Tát Thiên Thích quát: “Còn chưa buông kiếm đầu hàng!” Đường Hiểu Lan nghiến răng, múa kiếm cố tấn công. Lúc này người trong hoàng phủ đã bị kinh động, kéo ùa ra hậu viên, xem hai lão ma đầu bắt thích khách. Cẩn Trung thầm kêu khổ, đang định chạy trốn, chợt nghe bên ngoài có tiếng quát: “Mọi người dạt qua hai bên”, một đám người bước vào. Kẻ đứng đầu quát: “Cáp tổng quản của các người đâu? Bảo Dận Trinh đến gặp ta”. Tát Thiên Thích nhảy vọt ra khỏi vòng, Đường Hiểu Lan không thể rút lui được nữa.


Kẻ dẫn đầu là con trai trưởng của Hoàng đế Khang Hy, Trực Quận vương Dận Đề. Tuy Khang Hy chưa lập bị quân, nhưng trong đám hoàng từ, Dận Đề có quyền uy lớn nhất. Lúc đó cuộc tranh đoạt ngôi vị đang diễn ra rất kịch liệt, thế lực của Tứ bối lạc Dận Trinh, Bát bối lạc Dận Tự, Thập bối lạc Dận Nga, Thập tứ bối lạc Dận Đê là lớn nhất. Dận Đề là con trưởng, đương nhiên không chịu buông ngôi vua nên cũng cấu kết với một đám quần thần, nuôi một đám tử sĩ. Tứ bối lạc thưởng cải trang xuất kinh, ngày Đường Hiểu Lan vào kinh là lúc Tứ bối lạc ra ngoài nên Cáp Bố Đà, Liễu Ân và bọn Thiên Diệp cũng theo y. Tứ bối lạc tự tiện xuất kinh vốn là chuyện tuyệt mật, không ngờ Dận Đề lại biết.


Bối lạc tự tiện xuất kinh là chuyện phạm pháp. Tứ bối lạc Dận Trinh mỗi lần xuất kinh đều báo với vua cha mình bị bệnh. May mà Khang Hy có nhiều con cái, vả lại chẳng thương yêu gì Tứ bối lạc, rất ít khi triệu vào cung dù đôi khi triệu y vào cung, nghe y bệnh cũng thôi. Nên Tứ bối lạc ngày càng lớn gan, ở ngoài thì nhiều mà ở trong cung thì ít. Lần này Dận Đề điều tra được Dận Trinh tự tiện xuất kinh, vậy là nảy ra một kế, đích thân đến bái phỏng. Vào đến hoàng phủ nghe có tiếng quát tháo, y rất ngạc nhiên nên vào hậu viên xem.


Tát Thiên Thích vừa thấy thì luống cuống, vội vàng bẩm: “Tứ điện hạ bị bệnh không ngồi dậy nổi, không thể đích thân tiếp điện hạ”. Dận Đề nói: “Ta phải đi thăm hắn”. Rồi ra lệnh cho Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Để tôi bắt tên thích khách này trước”. Dận Đề chợt quay lại một tên vệ sĩ bên cạnh, nói: “Hầu Tam Biến, ngươi hãy bắt tên thích khách này”. Rồi vẫn nói với Tát Thiên Thích: “Không cần ngươi nhọc sức, dắt ta đi gặp Dận Trinh”. Tên vệ sĩ bên cạnh Dận Đề vâng một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nhìn lên thì thất kinh, người đó chẳng phải ai khác mà chính là lão già mà chàng đã gặp trên Vạn Lý Trường Thành. Lúc này Đường Hiểu Lan đã nhụt chí, thầm nhủ: “Dù sao cũng chạy không thoát, rơi vào trong tay lão ta còn hơn lọt vào trong tay hai tên ma đầu”. Chàng đánh hờ vài chiêu, Hầu Tam Biến thi triển Đại Cầm Nã thủ nhấc bổng chàng lên.


Dận Đề nói: “Được, ngươi giải thích khách về trước”. Té ra Dận Đề nghi ngờ thích khách này có liên quan đến chuyện đoạt vị giữa các huynh đệ nên không giao chàng ta cho người của phủ Dận Trinh mà bảo Hầu Tam Biến giải về trước để đích thân thẩm vấn.


Dận Đề lại quát Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Tôi chỉ là một vệ sĩ, làm sao dám tự tiện bước vào nội phủ”. Dận Đề chợt biến sắc.


Ngay lúc đó, một bé gái ở phía sau lưng Tát Thiên Đô lách ra, nói: “Điện hạ, tôi dẫn đường cho ngài”. Dận Đề nói: “Ngươi là ai?” Phùng Lâm nói: “Tôi là tì nữ hầu hạ tứ điện hạ”. Dận Đề nói: “Được, ngươi rất ngoan ngoãn, đi thôi”. Phùng Lâm nháy mắt với Tát Thiên Thích, dắt Dận Đề vào nội phủ.


Hầu Tam Biến bắt Đường Hiểu Lan, vội vàng phóng ra ngoài, bọn thái giám đã thắng sẵn xe ngựa, chạy thẳng vào cấm thành. Dận Đề là trưởng tử nên được sống trong cung. Xe ngựa chạy một hồi, vào cung từ Thần Võ môn ở phía sau. Sau khi xuống xe, hai thái giám đi ở phía trước, Hầu Tam Biến kẹp Đường Hiểu Lan đi phía sau, đi được một lúc lâu trời đã tối, các cung đều đã đóng cửa, trong vườn chỉ có bọn thái giám đi tuần. Dận Đề sống trong cung Thừa Càn ở phía Đông. Ba mươi sáu cung điện ở phía Tây là nơi ở của Hoàng đế và hậu phi, nếu chưa được gọi vệ sĩ và gia nhân của các bối lạc không được vào, đi được một hồi, đã đến nơi giao giới giữa hai cung Đông Tây, Hầu Tam Biến chợt khẽ nói vào tai Đường Hiểu Lan: “Ngươi mau chạy vào Tây cung, vượt qua hộ tường, tiếp tục chạy về phía Bắc khoảng hai trăm bước có một hòn non bộ, vòng qua hòn non bộ có một hồ sen, tiếp tục đi về bên trái của hồ sen năm mươi bước sẽ có căn nhà đá, ngươi đẩy cửa vào đấy, thấy người không được sợ, đảm bảo ngươi sẽ thoát hiểm!” nói xong thì đột nhiên buông tay, quát: “Ôi chao, tên thích khách thật lợi hại!” rồi rút thanh kiếm đâm mạnh vào chân mình, hai tên thái giám quay đầu lại, Đường Hiểu Lan đã phóng vọt lên tường, chạy vào Tây viện.


Đường Hiểu Lan thấy tim mình đập thình thình, không biết tại sao Hầu Tam Biến lại tha cho mình nhưng chàng đã sa cơ, chỉ đành đi theo lời y. Hoàng cung rất lớn, Đường Hiểu Lan vượt qua hộ tường, phóng vào vườn hoa, chạy tiếp về phía Bắc hai trăm bước, quả nhiên thấy có một hòn non bộ, chàng chạy vòng qua hòn non bộ thì đúng là có một hồ sen, Đường Hiểu Lan lại tiếp tục đi về phía bên trái năm mươi bước, tìm thấy căn nhà đá. Trong cung điện huy hoàng, chỉ có căn nhà đá này là xấu xí nhất, chàng bước tới cửa, chỉ thấy cõi lòng lạnh lẽo, trước mái toàn là tơ nhện, nghĩ bụng bình thường rất ít người tới. Đường Hiểu Lan đẩy cửa tiến vào, bước lên bậc tam cấp, chợt nghe bên trong có giọng nói yếu ớt: “Ai thế?” Đường Hiểu Lan đẩy cửa phòng ra, chợt thấy có một phụ nữ tóc bạc, người gầy đét đang gãy đàn dao. Thấy Đường Hiểu Lan bước vào thì trợn mắt lên.


Đường Hiểu Lan nói: “Hầu Tam Biến bảo tôi đến đây!” người đàn bà kêu ồ một tiếng, mắt chợt sáng lên, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, cơ mặt cứ dần giật, hai dòng nước mắt tuôn dài, Đường Hiểu Lan tựa như cảm thấy đã gặp người đàn bà này ở đâu đấy, cõi lòng thấy lạnh lẽo.


Người đàn bà nhìn một hồi, khẽ nói: “Ngươi ngồi xuống đây!” giọng nói tuy nhỏ nhưng tựa như có một sức mạnh không thể chống cử nổi. Đường Hiểu Lan ngồi xuống, lại nghe bà ta khẽ nói: “Cởi áo ra!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đàn bà nói: “Ta bảo ngươi cởi áo, ngươi hãy nhìn thử xem ở trước ngực ngươi có một nốt ruồi đen rất lớn, hai bên vú ngươi có hai nốt ruồi đen nhỏ thành hình chữ “phẩm”, ngươi tự sờ thử xem có đúng không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh.


Chính là:


Thân thế như chim bao, thâm cung gặp chuyện lạ.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 14

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 14 Ảo mộng trần duyên thâm cung giấu hận sự Phiêu linh gặp người một kiếm lên Tiên Hà




Đường Hiểu Lan thất kinh, sao người đàn bà này lại biết rõ ràng như thế. Chàng rung giọng nói: “Không cần cởi nữa, trên người tôi đúng là có ba nốt ruồi”. Người đàn bà nói: “Có phải nghĩa phụ của ngươi tên Châu Thanh không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh, đáp: “Đúng thế”. Người đàn bà chợt khóc òa lên: “Con ơi, con lớn đến thế này sao!” Đường Hiểu Lan nhảy bật dậy: “Cha mẹ tôi đã chết sớm, bà... bà...” chàng vốn muốn nói: “Bà điên rồi sao?” nhưng nhìn ánh mắt thân thương của bà ta chàng không thể nói ra lời.


Người đàn bà chưng hửng, chợt lau nước mắt, cười thảm nói: “Chả trách gì con chẳng biết. Con ngồi xuống đây”. Đường Hiểu Lan lại ngồi xuống. Người đàn bà nói: “Con tưởng rằng cha ruột của con là Đường Vạn Anh sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải ông ta thì là ai?” người đàn bà nói: “Là đương kim Hoàng thượng!” Đường Hiểu Lan tựa như bị giáng một gậy, chàng chẳng thể nào nín nhịn nổi, nhảy bật dậy: “Bà nói bậy!” người đàn bà nói: “Con hãy ngồi xuống, nghe ta nói. Có một người cha làm Hoàng đế tuy không tốt lắm nhưng dẫu sao ông ta cũng là cha của con, ta không còn sống được bao lâu nữa. May mà ông trời cho chúng ta gặp lại, ta không thể để cho con mù mờ một đời. Con đừng nhìn ta, con hãy ngồi xuống đây!” nghe ta nói, nghe ta nói!” Đường Hiểu Lan ngồi xuống: “Được, bà hãy nói đi”.


Người đàn bà nói: “Hơn ba mươi năm trước, lúc đó ta chỉ mười sáu tuổi, cả nhà ta sống ở Tây Môn. Ta đã đính hôn, vị hôn phu tên Chúc Gia Thụ, là một quan sai nho nhỏ trong nội vụ, lúc đó Châu Thanh vẫn còn là vệ sĩ trong cung, ba người họ đều là bằng hữu tốt. Ta bị chọn làm tú nữ, nhà nghèo không có tiền đút lót, ta bị đẩy vào trong cung. Lúc đó ta chỉ muốn chết cho xong, nhưng Gia Thụ nói: “Cứ mười năm cung nga sẽ được đào thải một lần, chỉ cần giữ thân trong cung, mười năm sau lớn tuổi, Hoàng thượng sẽ khai ân cho về nhà lấy chồng. Ta nghĩ có nhiều tú nữ vào cung, chỉ cần ta không xuất đầu lộ diện, Hoàng đế cũng chưa chắc chú ý đến ta. Gia Thụ cũng nguyện cho ta mười năm. Nếu ta chết đi há chẳng phải phụ lòng ông ấy sao, thế là ta vào cung.


Vào cung được năm năm, ta chưa từng thấy mặt Hoàng đế, lúc rảnh rỗi ta học gãy đàn, có ngày nọ ta đàn tiểu điệu Giang Nam, nhà chúng ta từ Giang Nam di cư đến Bắc Kinh, từ nhỏ ta đã nghe quen tiểu điệu này. Trùng hợp ngay lúc đó Hoàng đế đi ngang qua nghe tiếng đàn của ta rất thích, đêm ấy đã triệu hành ta. Lúc ấy ta muốn chết cũng không thể chết nổi. Bởi vì phàm những cung nga hậu phi trong cung nếu tự sát thì sẽ liên lụy đến cửu tộc, ta chỉ đành gắng gượng sống cho qua. Lúc đó Châu Thanh đã làm phản, Hầu Tam Biến có lúc hầu hạ Hoàng đế, thường vào nội đình, ta nhờ ông ta báo với Gia Thụ tìm người con gái khác, đừng đợi ta nữa. Nào ngờ Gia Thụ vẫn si tình, hôm sau đã bỏ chức quan, sau đó mới biết ông ta đi tìm Châu Thanh, từ đó không biết ông ta đi đâu nữa, Châu Thanh cũng không gặp ông ta.


Một năm sau con ra đời. Lúc đó Hoàng thượng đã có mười bốn bối lạc, việc lập bị quân đã bắt đầu nổi lên. Theo quy định trong cung, vốn là không cho phép lập Hán nữ làm phi, từ sau khi xảy ra chuyện giữa tiên đế với Đổng Ngạc phi, quy củ càng ngặt nghèo hơn. Các quý phi khác ghen tị với ta, đã nói lời dèm pha trước mặt Hoàng hậu, đầy ta vào lãnh cung, lại còn mưu sát con!”


Đường Hiểu Lan kinh hãi, kêu ồ một tiếng hỏi: “Vậy Hoàng đế có biết không?” người đàn bà cười thảm nói: “Trong cung phi tần đâu chỉ ngàn người, những người được ông ta triệu hạnh cũng chẳng biết bao nhiêu, Hoàng đế nào nhớ đến ta. Ta cũng chẳng rõ ông ta có biết Hoàng hậu đày ta vào lãnh cung hay không”. Đường Hiểu Lan chỉ thấy cõi lòng lạnh như băng, chàng rùng mình khẽ nói: “Thế là người ở lãnh cung hơn hai mươi năm”. Người đàn bà gật đầu: “Ta cũng đã quen. Lúc đầu có người canh giữ, không cho ta bước ra khỏi gian nhà đá này, lâu ngày Hoàng hậu chết đi, ta cũng già, chẳng ai để ý đến ta nữa. Vì thế họ để cho ta tự sinh tự diệt, mỗi ngày đều có người đưa hai bữa cơm, ngoài ra chẳng ai để ý đến ta, ta có thể đi lại tự do trong vườn, nhưng ta đã quen ở lãnh cung. Hàng ngày ta cứ ngồi trong căn nhà này chờ chết!” Đường Hiểu Lan không kìm được nữa, ôm chặt lấy mẹ, khẽ nói: “Khổ thân cho mẹ!”


Người đàn bà thở dài, khẽ vuốt tóc con trai, từ tốn nói: “Quen rồi, quen rồi, nước mắt cũng cạn khô. Không biết là có phải vì nhớ đến con hay không mà mẹ sợ mình chết sớm”. Đường Hiểu Lan khóc lạc cả giọng, người đàn bà nói: “Đừng khóc, cảm tạ trời đất, cuối cùng con đã tới. Nhớ lúc mẹ nhờ Hầu Tam Biến âm thầm đưa con ra khỏi cung, con vẫn chưa tròn tháng, ồ, để tính xem, mẹ cũng không rõ nữa, năm nay con được bao nhiêu tuổi?” Đường Hiểu Lan nói: “Đã hai mươi tám tuổi”. Người đàn bà nói: “Vậy mẹ ở lãnh cung cũng được hai mươi tám năm. Ngày tháng thật dài! Ta cũng không biết mình vượt qua thế nào, sau khi con ra đời, ta đã nhờ thái giám phòng kín sự báo với Hoàng đế, nhưng thái giám lại báo với Hoàng hậu. Ta đợi được vài ngày, không thấy ông ta đến, cũng không thấy người của tông nhân phủ tới, ta biết sự việc không xong, ta cũng hiểu trong hoàng thất có việc cốt nhục tương tàn. Ta rất sợ, vì thế ta lấy món trang sức tặng cho một tiểu thái giám, bảo y bế con ra khỏi cung giao cho Hầu Tam Biến, còn ta thì nói dối rằng con đã chết ỉu. Dù sao Hoàng đế cũng chẳng biết, cũng chẳng có người tra hỏi, ba ngày sau ta đã bị Hoàng hậu đày vào lãnh cung. Người ta gán cho ta cái tội quyến rũ Hoàng đế, làm loạn pháp kỷ tổ tông, thế là hai mươi tám năm đã trôi qua!” Đường Hiểu Lan nghẹn ngào hỏi: “Sau đó thì thế nào? Làm sao con đến được Đường gia?” người đàn bà ngập ngừng nói: “Mẹ quên nói với con, mẹ còn có một muội muội, được Châu Thanh làm mai, lấy một tiêu sư họ Đường. Hầu Tam Biến đưa con đến Đường gia, muội của ta chưa có con cái, bởi vậy coi con như con ruột”. Lúc này Đường Hiểu Lan tựa như mới thoát khỏi cơn ác mộng, lạc giọng kêu: “Té ra di phụ và di mẫu con đã chết thảm”.


Người đàn bà nói: “Đúng thế, mẹ ở trong lãnh cung được hai mươi tám năm Hầu Tam Biến đã âm thầm đến thăm mẹ bốn năm lần, mẹ mới biết có kẻ dò ra con đang sống ở Đường gia, phái người đến bắt nên, giết cả nhà họ Đường. Lần đó Hầu Tam Biến ra ngoài gặp Châu Thanh, Châu Thanh nói đã nhận con làm nghĩa tử, định trao Du Long kiếm cho con sử dụng, bảo rằng Hầu Tam Biến để ý, nếu sau này gặp một thiếu niên sử dụng Du Long kiếm thì chính là con”. Lúc này Đường Hiểu Lan mới hiểu ra toàn bộ sự việc. Té ra khi chàng múa kiếm trên Vạn Lý Trường Thành, Hầu Tam Biến đã nhận ra chàng. Người đàn bà hỏi: “Châu Thanh đâu? Có còn sống không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thưa, đã chết được mười hai năm”. Rồi kể rằng mình và di mẫu bị đuổi đến miền tái ngoại, di mẫu chết thảm, Châu Thanh cứu được mình, sau đó đem đến nhà họ Phùng, lại bị bọn Huyết Trích Tử truy bắt, cha con họ Phùng và Châu Thanh đều chết. Người đàn bà rơi nước mắt, nghẹn ngào nói: “Đã bao nhiêu năm nay mẹ không rơi nước mắt, hôm nay phải khóc một trận cho thỏa thuê”. Đường Hiểu Lan nhìn mẹ mà lòng rối bời. Đã bao năm qua chàng căm hận người Mãn đến thấu xương. Từ đầu đến cuối Châu Thanh đều giấu thân thế của chàng, nên chàng cứ tưởng rằng mình là một người Hán, từ lâu đã có chí phản Thanh phục Minh. Không ngờ mình là một bối lạc Mãn Châu, sự việc này tựa như một cái búa tạ đánh vỡ nát con tim chàng, chàng hy vọng đó chỉ là một cơn ác mộng nhưng đáng tiếc lại không phải. Thù hận chủng tộc, thù hận thân thế giằng xé lòng chàng, chàng ngỡ ngàng hỏi: “Mẹ, con tên là gì?” người đàn bà lại vuốt tóc Đường Hiểu Lan, rất lâu mới nói: “Bị nhốt trong lãnh cung nhiều năm, mẹ rất đau lòng, cũng rất căm hận Hoàng đế. Sau đó mẹ ngồi ở đây chờ chết từng ngày, chẳng nghĩ ngợi gì nữa. Ôi, lạnh quá! Nỗi ái hận ngưng kết trong lòng mẹ. Con hãy để cho mẹ suy nghĩ. Con nên là một bối lạc, nhưng mẹ không muốn”. Đường Hiểu Lan đau đớn kêu lên: “Không phải chuyện này, thưa mẹ, con không thể làm một bối lạc. Con không chịu. Không phải việc này”. Người đàn bà nói: “Vậy con muốn gì?” bà ngẩng đầu lên, nhìn thấy ánh mắt đay khổ của con trai, cõi lòng bà rung lên, bà biết con mình đang nghĩ gì. Bà lo lắng con mình sẽ mất mạng trong biển đời. Bà buồn rầu nói: “Thôi, khóc cũng đã đủ, rốt cuộc mẹ con chúng ta cũng gặp lại”.


Bà ôm Đường Hiểu Lan rất lâu mới nói: “Con hãy nghe mẹ đàn, con chưa bao giờ nghe tiểu điệu của quê hương”. Rồi bà bắt đầu khảy đàn, đó là một tiểu điệu rất vui, nhưng tiếng đàn nghe sao đau khổ, Đường Hiểu Lan ngẩn người ra nghe, chợt thấy có một ông già râu tóc bạc phơ bước vào.


Ông già này chính là Hoàng đế Khang Hy. Năm tám tuổi Khang Hy lên ngôi, ở ngôi hơn sáu mươi năm, lúc này cũng gần bảy mươi tuổi. Gần đây ông ta không màng đến việc lớn, trải qua những năm tháng tuổi già trong điện dưỡng tâm, trăng đêm nay thật đẹp, ông ta nổi hứng cùng hai tên thái giám chậm rãi dạo bước trong vườn, nghĩ mình văn sự võ công một đời đều đã lên đến cực điểm, hiếm có vị Hoàng đế nào ở ngôi lâu như mình. Nhưng một đời sắp trôi qua, những văn sự võ công này tựa như áng mây trôi. Ông ta chợt cảm thấy quạnh quẽ, muốn tìm người bạn già trò chuyện, nhưng cũng chẳng còn mấy người. Hoàng hậu và các phi tần mình sủng ái thời trẻ đều đã chết cả. Ông ta chậm rãi bước đi dưới ánh trăng, đến gần tòa lãnh cung bên hồ sen.


Trong lãnh cung vong ra tiếng đàn, hình như ông ta đã nghe ở đâu đó? Ồ, đó là chuyện rất lâu, Hoàng đế Khang Hy lắng nghe tiếng đàn, hỏi thái giám: “Ai ở trong lãnh cung?” thái giám nói: “Nghe nói một cung nga rất già”. Khang Hy ngạc nhiên nói: “Tại sao vẫn chưa thả ra? Giam bao lâu rồi?” thái giám nói: “Bẩm Hoàng thượng, nô tài không rõ lắm. Khi nô tài vào cung, cung nga ấy đã ở đây, cũng thường gãy đàn, chẳng ai màng đến bà ta”. Hoàng đế Khang Hy lắng nghe một hồi, chợt nhớ lại gần ba mươi năm trước mình đã từng triệu hạnh một cung nga, lúc đó nàng ta cũng đàn bài này, sau đó mình quá nhiều việc nên quên bẵng đi. Ông ta nghĩ ngợi một hồi rồi hỏi tên thái giám: “Cung nga này có phải người Hán không?” thái giám nói: “Thưa hình như là thế”. Khang Hy nói: “Có phải mặt trái xoan, chân mày dài hay không?” thái giám nói: “Bẩm Hoàng thượng, nô tài chưa gặp. Bà ta suốt ngày ở trong lãnh cung chứ không ra ngoài”. Tên thái giám kia chen vào: “Đúng thế, Hoàng hậu qua đời, những người canh bà ta cũng rút lui, bà ta vẫn không chịu bước ra ngoài”. Khang Hy nhíu mày nói: “Vậy đã bị nhốt bao lâu? Các người đợi một lát, ta vào xem thử”. Lúc này Đường Hiểu Lan đang lắng nghe tiếng đàn của mẹ, chợt nghe tiếng bước chân, Đường Hiểu Lan vội vàng nấp sau rèm, Hoàng đế Khang Hy đẩy cửa bước vào. Người đàn bà ngẩng đầu lên, hỏi: “Ông là ai?” bốn mắt nhìn nhau, cả hai đều chưng hửng. Khang Hy nhìn một hồi, hỏi: “Bà có phải là Hải Đường không?” người đàn bà chẳng hề nhúc nhích, hờ hững trả lời: “Vạn tuế gia, Hải Đường đã chết vào hai mươi tám năm trước!” Khang Hy nói: “Bà không phải là Hải Đường?” người đàn bà đáp: “Ngài hãy xem tôi có khác gì chết?” Khang Hy thấy bà ta tóc bạc da mồi, nghĩ bụng mình cũng đã già, hai mươi tám năm qua mình làm một Hoàng đế trong nhung lụa, còn bà ta thì chờ chết trong lãnh cung, chợt cảm thấy hối hận, ngồi xuống nói: “Hoàng hậu quá tàn nhẫn, nhốt bà ở đây bao nhiêu năm, tôi chẳng hề biết gì cả. Bà phạm tội gì?” người đàn bà đáp: “Hoàng hậu bảo tôi quyến rũ Hoàng đế, làm bại hoại pháp kỷ”. Khang Hy thở dài: “Thật là thiệt thòi cho bà, nhưng Hoàng hậu đã chết hơn mười năm, món nợ này cũng không cần tính nữa. Ngày mai tôi sẽ thả bà ra ngoài, phong bà làm Thục phi”. Khang Hy tưởng rằng bà ta sẽ quỳ xuống tạ ơn, nào ngờ bà ta vẫn ngồi thừ ra, lạnh lùng nói: “Tạ Hoàng thượng, Hoàng thượng đừng trêu đùa tôi nữa, giờ đây người nhà của tôi đã chết, tôi cũng không sợ chết nữa”. Khang Hy nói: “Ồ, bà nói gì thế? Có phải bà hận tôi không? Chúng ta đều đã già cả, chẳng còn bao nhiêu năm nữa, bà hãy ra ngoài trò chuyện cùng tôi rồi mọi việc sẽ qua thôi”. Người đàn bà vẫn ngồi yên bất động. Khang Hy thở dài, hỏi: “Bà muốn gì?” người đàn bà chợt sáng mắt lên, đột nhiên nói: “tôi muốn ngài để con trai tôi an toàn ra khỏi cung!” Khang Hy chợt giật mình, hỏi: “Cái gì, con trai của tôi? Đêm ấy bà đã có thai? Tại sao thái giám phòng kính sự không cho tôi hay? Bà thật sự có một đứa con trai? Bao nhiêu năm qua nó trốn ở đâu?” người đàn bà nói: “Mấy năm nay nó lưu lạc trên giang hồ, lúc này đang ở đây, trong căn phòng này!” Khang Hy hoàng đế cả kinh.


Đường Hiểu Lan từ sau trướng nhảy ra, kích động kêu lên: “Ông đã hại mẹ tôi chưa đủ hay sao? Ông hãy để mẹ con tôi ra khỏi cung!” Hoàng đế Khang Hy chợt thấy một thiếu niên cao lớn đứng trước mặt mình, ánh mắt lạnh lẽo như băng tuyết, vẻ mặt quả nhiên hơi giống mình, bất giác rùng mình, chợt nhớ lại chuyện mình đã hại chết cha trên núi Ngũ Đài (mời xem tập một của “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”), ông ta lạc giọng kêu lên: “Ngươi... ngươi muốn báo thù cho mẹ?” Đường Hiểu Lan rầu rỉ ngồi xuống, xua tay nói: “Ông không chịu thả tôi, vậy hãy ra ngoài đi”. Khang Hy định thần lại, thấy chàng thiếu niên tuy phong trần nhưng chính khí lẫm liệt, bất giác thấy áy náy, nói: “Ngươi cứ ở lại đây”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thà chết chứ không ở lại đây!” Khang Hy thở dài: “Ngươi đi cũng tốt”. Ông ta cũng biết mười mấy đứa con trai của mình đang tranh quyền đoạt vị, nếu thêm một đứa là thêm một phần phiền phức. Huống chi Đường Hiểu Lan là con trai của phụ nữ người Hán, bao năm nay lưu lạc trên giang hồ, trong danh sách của phủ tông nhân không có tên chàng, dù muốn nhận lại chàng cũng rất phí công. Nhưng ông ta thấy hai mẹ con của chàng, trong lòng rất ái ngại, lại không muốn cốt nhục của mình phiêu bạt trên giang hồ, nghĩ ngợi một hồi rồi nói: “Vậy ta sẽ cho con một chức quan!” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi không cần!” Khang Hy nói: “Vậy con không nhận phụ thân sao?” Đường Hiểu Lan chợt khóc, chẳng thể nào thốt được hai chữ “phụ hoàng”.


Khang Hy nói: “Con ra ngoài định làm gì?” Đường Hiểu Lan nói: “Ông đừng buộc tôi!” Khang Hy nói: “Ta buộc con làm gì?” rồi mắt chợt sáng lên, nói: “Con cũng muốn tranh quyền đoạt vị? Cốt nhục tương tàn?” Đường Hiểu Lan nói: “Người muốn cướp ngôi vua của ông là người Hán, tôi không cần gì cả”. Khang Hy nói: “Nếu con nhất định ra đi, ta cho phép con. Sau này con có đến gặp ta không?” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chỉ muốn phụng dưỡng mẫu thân, đi thật xa, mãi mãi không quấy rầy ông”. Khang Hy càng ái ngại hơn, lại nói: “Cha chấp nhận hứa với con một việc, con có yêu cầu gì?” tựa như ông ta không cho mẹ con họ một điều gì thì trong lòng không yên. Đường Hiểu Lan thầm nhủ rồi nói: “Được, vậy tôi muốn gặp tứ điện hạ, xin y một điều, y chắc chắn làm được”. Khang Hy nhíu mày, nói: “Con có việc cần đến hắn, chả lẽ ta không làm được sao? Có lẽ tứ a ca của con cũng có chút bản lĩnh”. Khang Hy chẳng ưa gì Dận Trinh, ông ta nghĩ chả lẽ đứa con này nhận ra tứ a ca chắc chắn sẽ nối ngôi vua nên mới lấy lòng hắn trước? Lại nói: “Được, ta chấp nhận. Nhưng ta muốn con gần gũi thập tứ a ca. Ta có thể cho con là phó thủ của hắn”. Thập tứ a ca, người Khang Hy cưng nhất đang cầm quân chinh phạt ở phía Tây. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chỉ muốn gặp tứ điện hạ”. Khang Hy nói: “Được, hãy theo ta ra ngoài, ngày mai ta sẽ cho mẹ con xuất cung”. Rồi nắm tay Đường Hiểu Lan chậm rãi bước ra khỏi lãnh cung, hai thái giám thất kinh, Khang Hy nói: “Đây là thị vệ mới tới, ta đã bảo y vào lãnh cung”. Hai thái giám không dám lên tiếng, lúc này vầng trăng đã lên cao, thái giám nói: “Xin mời Hoàng thượng về nghỉ ngơi, ngày mai có miễn tảo triều không?” Khang Hy nói: “Miễn!” rồi lặng lẽ dắt Đường Hiểu Lan bước ra vườn, băng qua cung Vĩnh Thọ, bước vào điện Dưỡng Tâm. Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, kéo Khang Hy đến một góc tối, nói: “Có người dạ hành phóng lên đại điện bên ngoài!”


Khang Hy nói: “Tại sao ta không thấy?” Đường Hiểu Lan trả lời: “Thân pháp của người này rất nhanh!” Khang Hy thầm nhủ: “Nếu là vệ sĩ trong cung, ắt hẳn không dám phóng lên đại điện bên ngoài. Nhưng nếu là người ngoài, lại càng không thể”. Ông ta giật mình rồi khẽ nói: “Con đi từ đây sang trái, men theo lan can bằng bạch thạch trong vườn, đến cho tới tảng đá thứ mười ba, hãy lật tảng đá lên, ở dưới có địa đạo dẫn ra phía sau đại điện bên ngoài, con len lén chui ra, xem thử có người ở đấy không, nếu có hãy nhớ kỹ dung mạo của y”. rồi tháo một mảnh ngọc đưa cho chàng: “Nếu có người phát hiện, hãy đưa vật này ra, cứ nói là thị vệ mới đến”. Đường Hiểu Lan nhận lấy mảnh ngọc, từ địa đạo chui vào đại điện, nấp sau góc cột, chợt thấy có hai người bước vào, họ ngẩng đầu lên nhìn, rồi ghé tai nhau nói nhỏ điều gì đấy. Đường Hiểu Lan cũng ngẩng đầu lên, thấy bên trên có tấm biển lớn ghi bốn chữ “Chính đại quang minh”, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Hai người này xem gì trên tấm biển thế?” đợi một lát sau, cả hai người lại cúi đầu bàn bạc một hồi, sau tấm biển chợt thò ra một cái đầu, Đường Hiểu Lan vừa nhìn, suýt nữa đã kêu lên, té ra có một đứa bé gái nấp sau tấm biển, người đó chẳng phải ai khác mà chính là Phùng Lâm!


Té ra hôm ấy Phùng Lâm dắt Dận Đề thăm bệnh Dận Trinh, đi ngoằn ngoèo quăn co một hồi, cô bé đưa Dận Đề lên lầu sách, đẩy cửa một căn phòng, nói: “Tứ điện hạ dưỡng bệnh ở đây”. Dận Đề thò đầu vào nhìn, chợt thấy bên trong có tiếng xì xì, trong phòng rắn lớn rắn nhỏ bò từng đàn. Phùng Lâm kêu thét lên: “Tôi đã mở nhầm cửa phòng!” rồi lao bổ tới, cùi chỏ đột nhiên thúc vào eo Dận Đề, Dận Đề tựa như trúng chùy sắt, đau đớn kêu lên, Phùng Lâm lộn người xuống lầu. Rắn trong phòng phóng vút ra, Dận Đề sợ quá ngất xỉu.


Sau khi Dận Đề ra đi, Hàn Trọng Sơn và Thần Ma song lão trách cô bé: “Sao con lại làm càn như thế?” Phùng Lâm nói: “Việc gì phải sợ, con chỉ là một đứa nha đầu, khi y trách mắng tứ điện hạ, các người cứ bảo trong phủ có hàng trăm nha đầu, biết là ai? Vả lại dù huynh đệ họ tranh luận trước mặt Hoàng thượng, Hoàng thượng cũng chẳng tin một người to lớn như thế mà bị một đứa trẻ đánh ngất”. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, không ngờ ả nha đầu nhà ngươi lại lợi hại đến thế!” trong lòng thầm nhủ: “May mà Thần Ma song lão đã biết trước, dùng thánh dược khiến nó mê mẩn, không thể nhớ được những việc trước kia chứ nếu không khó mà lừa được nó”.


Hàn Trọng Sơn và Thần Ma song lão bàn bạc một hồi, đang định sai người gọi Tứ bối lạc về kinh, Tứ bối lạc Dận Trinh đã chợt quay về. Suốt một ngày lo lắng, đột nhiên trút được gánh nặng, Hàn Trọng Sơn cười rằng: “Nếu đại a ca dám bảo tứ điện hạ tự tiện xuất cung, tứ điện hạ sẽ bảo y vu khống”. Dận Trinh hỏi rõ tình hình, biết đó là mưu đồ của Dận Đề nên nghĩ ra một chuyện, té ra nhà Thanh truyền ngôi không theo thứ tự lớn nhỏ, Hoàng đế sẽ để lại di chiếu chỉ định một người đặt sau tấm biển “Chính đại quang minh” trong cung Càng Thanh. Lần này Tứ bối lạc vội vàng về kinh chính là vì nghe quốc cựu Long Khoa Đa báo tin Hoàng đế đã lập di chiếu, còn chỉ định ai thì không biết.


Dận Trinh liền cho các tử sĩ tâm phúc của mình biết việc này. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Nếu thế chúng ta phải đánh cắp di chiếu”. Dận Trinh nói: “Đánh cắp không phải là cách, Hoàng thượng phát hiện di chiếu bị mất sẽ viết lại, vả lại cũng chắc chắn nghi ta. Chỉ cần đánh cắp để xem thử ai sẽ là người nối ngôi”. Thế rồi bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Liễu Ân, Cáp Bố Đà đòi đi. Dận Trinh nói: “Lẻn vào cung Càng Thanh xem di chiếu không phải là chuyện tầm thường. Không nên đi quá nhiều người, chỉ cần một hai người có khinh công giỏi là được”. Luận về khinh công Thiên Diệp Tản Nhân cao nhất, Phùng Lâm lắng nghe chợt nói: “Tôi muốn đi cùng Thiên Diệp bá bá”. Bát Tý Thần Ma nói: “Ngươi đi làm gì?” Thiên Diệp Tản Nhân nghĩ, Phùng Lâm người nhỏ nhắn, sẽ dễ dàng leo lên tấm biển, vả lại khinh công của cô bé còn hơn cả Đại Lực Thần Ma, liền nói: “Được, ta dẫn ngươi đi. Ngươi không được làm càn đấy nhé”.


Lại nói con trai trưởng của Khang Hy là Dận Đề trở về phủ, đã tỉnh dậy, trong lòng rất căm tức. Chợt nghe báo Đại học sĩ Vương Dịch Thanh đến bái phỏng, Vương Dịch Thanh là người cùng phe Dận Đề, được Khang Hy tin dùng như quốc cựu Long Khoa Đa, hôm nay y mới biết việc Hoàng đế lập di chiếu nên vội vàng đến báo. Dận Đề và các tử sĩ tâm phúc bàn bạc, cũng nghĩ cách như Dận Trinh, phái ba vệ sĩ khinh công cao cường đến xem lén di chiếu. Đó chính là hai đại hán mà Đường Hiểu Lan thấy.


Ba tên vệ sĩ của Dận Đề bàn bạc một hồi, hai người canh cửa, một người vào điện leo lên, chợt thấy ở phía sau tấm biển có ánh sáng lóe lên, hai mũi phi đao đã cắm vào, y ngã sầm xuống. Phùng Lâm phóng vọt ra khỏi mái, nhảy lên mái ngói, rồi có người kêu lớn: “Có thích khách!” đó chính là kế giá họa giang đông của Thiên Diệp Tản Nhân, khi bọn thị vệ đại nội chạy tới, y và Phùng Lâm đã chạy qua điện Anh Hoa rồi nấp trên Cảnh Sơn.


Đường Hiểu Lan vội vàng chạy ra, chỉ thấy bên ngoài cung Càng Thanh đao kiếm sáng choang. Chàng chạy ra ngoài điện dưỡng tâm, Khang Hy từ xó tối thò đầu ra, định gọi chợt thấy bóng người phóng như bay, hầu như chạy đến cùng lúc với Đường Hiểu Lan. Tên thái giám kêu: “Ai dám kinh động thánh giá?” người ấy cười lớn, gằng giọng nói: “Hừ, ngươi chính là Hoàng đế!” rồi vỗ vù một chưởng tới Khang Hy, hai tên thái giám nhảy bổ tới cứu, cả hai bị đánh chết ngất. Người ấy quét chưởng xuống, tung chân trái lên, tình cha con trỗi dậy, Đường Hiểu Lan rút soạt thanh bảo kiếm, người ấy kêu hừ một tiếng phóng vọt người lên, Truy Phong kiếm pháp của Đường Hiểu Lan nhanh nhạy tuyệt luân, tấn công liên miên, người ấy tay không đánh được mấy chiêu, Khang Hy đã lẩn vào trong điện dưỡng tâm.


Người ấy gầm một tiếng, chưởng pháp chợt thay đổi dồn ra cuồn cuộn, lao bổ tới trong luồng kiếm quang, hoàn toàn như muốn liều mạng, Đường Hiểu Lan thấy Khang Hy đã nấp, cũng thâu kiếm lại nhảy ra khỏi vòng, nào ngờ thân pháp của người này rất nhanh, Đường Hiểu Lan tung người nhảy vọt, y thừa thế đuổi theo, chộp lấy vai của chàng, hạ giọng nói: “Lãnh cung ở đâu?” Đường Hiểu Lan giật mình, vội dùng tuyệt chiêu cứu mạng chồm người về phía trước, trở tay đâm soạt một kiếm từ dưới be sườn ra, nếu người ấy không buông tay sẽ bị kiếm đâm vào bụng.


Người này không ngờ kiếm pháp của Đường Hiểu Lan lại lợi hại đến thế, thế là y buông tay nhảy vọt ra ba trượng, Đường Hiểu Lan cũng bị chưởng lực của y đánh loạng choạng thối lui đến bảy tám bước mới ngừng lại được, vai đau nhói như lửa đốt.


Đường Hiểu Lan không biết rằng, người này chính là vị hôn phu Chúc Gia Thụ của mẫu thân chàng, ông ta mất tích hơn ba mươi năm, té ra là phiêu bạt trong giang hồ, tìm thầy học nghệ, cuối cùng trở thành môn hạ của bậc danh túc phái Chung Nam là Võ Thành Hóa, khổ học hơn mười năm, hai môn quyền kiếm đều đã có thành tựu. Sau khi học thành đã hai phen đến kinh sư, gặp Hầu Tam Biến, biết Hải Đường đã bị đày vào lãnh cung càng thêm đau lòng. Ông ta vốn muốn vào cung, nhưng Hầu Tam Biến đã cố gắng khuyên lơn. Hầu Tam Biến nói: “Võ công của ông tuy cao nhưng cao thủ trong cung nhiều như mây, nếu lỡ có việc gì xảy ra, phải rằng sẽ uổng mạng, vả lại còn hại Hải Đường”. Thế rồi Chúc Gia Thụ mới buồn bã bỏ đi.


Nhưng ba mươi năm trôi qua, Chúc Gia Thụ vẫn chưa nhụt chí. Ông ta nghĩ bụng mình và Hải Đường đều đã già, nếu không gặp nhau nữa chắc phải đợi kiếp khác, bởi vậy mới liều mạng vào cung, không ngờ ngay trong đêm ấy, hai bối lạc đều phái thị vệ đến, mà Đường Hiểu Lan cũng có trong cung.


Lại nói Chúc Gia Thụ bị Đường Hiểu Lan đánh lùi, chỉ thấy trong cung Càng Thanh đao kiếm sáng loáng, vệ sĩ đại nội chạy ùa tới, ông ta chọn một lối vắng, vòng qua hòn giả sơn, tóm được một tên thị vệ kéo vào bên trong, lột hết áo quần mặc vào rồi nghênh ngang bước ra, bất giác đã đến hồ sen trước lãnh cung, chợt thấy một bầy cung nữ khiêng một cái giường tre, trên giường có một người đàn bà đắp vải trắng.


Người đàn bà này chính là kẻ Chúc Gia Thụ mong nhớ hơn ba mươi năm nay, từ lúc Đường Hiểu Lan đi theo Khang Hy, bà ta khóc một hồi rồi lại cười một hồi, chợt thấy vạn niệm giai không, bao nhiêu sức lực tản mát, thế là té soài xuống đất.


Bọn thái giám đã biết Khang Hy đích thân vào lãnh cung, bọn chúng là những kẻ xu phụ quyền thế, sau khi Khang Hy bỏ đi, vội vàng bẩm cáo với nữ quan quản lý lãnh cung, nữ quan này đến thăm dò, phát hiện Hải Đường đã chết, sau khi bàn bạc thì quyết định dời bà ta ra khỏi lãnh cung, sau đó bẩm cáo với nhà vua.


Chúc Gia Thụ từ ven hồ chạy qua, gặp phải đám cung nữ này, cung nữ quát: “Ai mà chạy bừa như thế?” Chúc Gia Thụ ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy người đàn bà nằm trên giường tre phủ khăn trắng đầu tóc đã bạc trắng, sắc mặt rất đáng sợ, hai bên trái lộ ra ngoài, ngón tay cứ như móng gà, bất giác rùng mình, trong lòng thầm hối hận. Hơn ba mươi năm không gặp, Hải Đường là người ngọc vẹn toàn trong lòng ông ta, ông ta gặp mà không biết, nằm mơ cũng không ngờ rằng bà già mặt xấu xí kia chính là người tình trong mộng của mình.


Hải Đường chợt khẽ hé mắt, Chúc Gia Thụ đã vượt qua.


Lúc này hai tên vệ sĩ bị Dận Đề phái đi đã bị bắt, một trong hai tên đã trúng Đoạt Mệnh thần đao của Phùng Lâm trước, khi ác đấu lại dùng lực quá độ, cho đến khi sắp bó tay chịu trói thì độc phát thân vong.


Hoàng đế Khang Hy đích thân tra hỏi, mới biết chúng là người của Dận Đề, thế là cả giận lập tức hạ chiếu phế phong hiệu bối lạc của Dận Đề, giao cho tông nhân phủ tra xét.


Đêm ấy trong cung rối như canh hẹ, đến canh tư mọi việc mới yên. Khang Hy giữa Đường Hiểu Lan lại ở điện dưỡng tâm nghỉ một đêm, sáng hôm sau thái giám quản sự trong cung đến báo rằng cung nga trong lãnh cung đã chết đêm qua, Khang Hy nghe thế than thở không thôi, dặn lấy lễ thục phi hậu tán, gọi Đường Hiểu Lan vào thư phòng, buồn bã nói: “Con không cần đợi mẹ của con nữa, đêm qua bà ta đã qua đời”. Đường Hiểu Lan vốn đã đau lòng, lúc này chàng đứng chết sững, muốn khóc mà chẳng rơi được nước mắt, một lúc lâu sau mới hồi phục, kêu lên: “Tôi đi đây!” Khang Hy nói: “Con đợi một lát”. Rồi kêu quan giữ cửa vào, viết một tấm chiếu thư giao cho Đường Hiểu Lan, bảo quan giữ cửa dẫn chàng đến gặp Dận Trinh.


Đường Hiểu Lan thẫn thờ bước ra khỏi cửa cung, đến trước phủ của Dận Trinh, quan giữ cửa đẩy chàng, nói: “Đến rồi”. Lúc này chàng mới nhảy xuống ngựa như tỉnh cơn mơ. Quan giữa cửa thầm nhủ: “Hoàng thượng già đến nỗi lẩm cẩm, làm sao có thể chọn kẻ khờ khạo này làm vệ sĩ”. Đường Hiểu Lan đã tẩy thuốc dị dung ở trong cung, hai tên ma đầu vừa thấy chàng thì thất kinh. Nhưng chàng được quan giữ cửa dẫn đến đây, nghe quan giữ cửa nói chàng là thị vệ được Hoàng đế tin dùng, chỉ đành dắt chàng vào gặp Dận Trinh.


Dận Trinh thấy Đường Hiểu Lan cũng rất ngạc nhiên, Liễu Ân và Cáp Bố Đà đứng hầu một bên, mở trố mắt ra. quan giữ cửa quay về, Liễu Ân nén không được nói: “Đường Hiểu Lan, ngươi đang giở trò gì thế?” Dận Trinh xua tay, mỉm cười nói: “Bậc tài cao như Đường huynh phải xuất thân từ chính đồ. Đường huynh vào cung khi nào? Hoàng thượng có khỏe không?” Đường Hiểu Lan đáp: “Khỏe” chàng ngập ngừng rồi chợt nói: “Xin bối lạc hãy cho tả hữu lui ra”. Dận Trinh biến sắc nói: “Hai người này đều là tâm phúc, Đường huynh có việc gì cứ nói”. Đường Hiểu Lan nói: “Hai người chúng ta nói chuyện riêng vẫn tốt hơn”. Liễu Ân nổi sùng, nói: “Ngươi thật vô lễ!” Dận Trinh đảo mắt, đang định bảo Liễu Ân và Cáp Bố Đà lui xuống, chợt nghe ở dưới lầu có tiếng ồn ào, có người quát có “thích khách”, Liễu Ân cầm cây thiền trượng đứng bật dậy, nói thì chậm, sự việc diễn ra lúc đó rất nhanh, chỉ nghe gió phả vào mặt, cánh cửa thư phòng đột nhiên bật ra, một người cầm trường kiếm lao bổ vào! Đường Hiểu Lan nhìn lại, chính là người đêm qua. Chúc Gia Thụ vẫy một kiếm, đánh một chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm về phía Dận Trinh, Liễu Ân dựng cây thiền trượng, chỉ nghe keng một tiếng, kiếm của người ấy lệch qua một bên, đâm vào be sườn của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan thối lui đảo bước, vẫn không trả đòn, Cáp Bố Đà đã quét ngang chưởng trái, chưởng phải đấm ra, tấn công vào chỗ trống của y, người ấy tiếp một chiêu, biết công lực của Liễu Ân và Cáp Bố Đà hơn mình, đánh hờ ra hai kiếm, đột nhiên lại nhảy tọt ra cửa sổ. Cáp Bố Đà đuổi theo, Đường Hiểu Lan còn đang chần chừ, quát: “Ngươi có phải là thị vệ đại nội không, sao vẫn không trả đòn?” rồi y kéo phăng Đường Hiểu Lan xuống lầu, chàng không kịp đề phòng nên ghìm lại chẳng được, lúc này đã nghe tiếng binh khí giao nhau, có người kêu hoảng!


Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn, không khỏi thầm kêu khổ, dưới sân kiếm quang loang lóang, bóng người nhốn nháo, Quan Đông tứ hiệp đã tới. Điều tệ hơn là có Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh dắt con gái đến ác đấu, Dương Trọng Anh vừa thấy Đường Hiểu Lan thì kêu hoảng lên một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan kêu: “Sư phụ, là con!” Chúc Gia Thụ kêu lớn: “Y là gian tế!” Dương Trọng Anh mặt biến sắc, vỗ vù ra một chưởng!


Té ra từ lúc ác đấu với hai tên ma đầu ở Mang Sơn, Quan Đông tứ hiệp đã quyết lòng rèn luyện võ công, muốn có một ngày tỉ thí trở lại với Song ma, nhưng Song ma đang trong phủ Tứ bối lạc, Quan Đông tứ hiệp không dám vào bừa. Lần này họ nghe Tứ bối lạc đã dắt một đám cao thủ ra ngoài chỉ có Song ma và một người họ Hàn trấn thủ. Lúc này công phu độc môn của Quan Đông tứ hiệp cao hơn trước rất nhiều bởi vậy họ đến đấy với mục địch báo thù.


Vừa khéo Dương Trọng Anh và Dương Liễu Thanh cũng đến kinh sư để dò tìm tung tích Đường Hiểu Lan. Một ngày nọ họ gặp Chúc Gia Thụ. Mấy ngày sau lại gặp thêm Quan Đông tứ hiệp, Quan Đông tứ hiệp rủ Chúc Gia Thụ cùng đến đấu Song ma, lúc đó Chúc Gia Thụ đang muốn vào hoàng cung nên khéo léo từ chối, Quan Đông tứ hiệp rất không vui. Khi Chúc Gia Thụ thất bại trở về, họ hỏi kỹ thì mới biết Chúc Gia Thụ có việc đau lòng như thế. Thế là Chúc Gia Thụ và Quan Đông tứ hiệp cùng cha con Dương Trọng Anh ngay hôm ấy đến phủ Tứ bối lạc tìm hai tên ma đầu.


Đường Hiểu Lan thấy sư phụ không trả lời, chỉ thấy chưởng phong phả vào mặt, chàng vội vàng né tránh, chưởng pháp của Dương Trọng Anh rất kỳ dị, ông ta tiến tới một bước, hai chưởng đẩy ra, Đường Hiểu Lan né tránh không kịp, đành đưa chưởng ra phản kháng theo bản năng, hóa giải chưởng thế của Dương Trọng Anh rồi phóng vọt lên hơn một trượng, Dương Trọng Anh thấy võ công của chàng tinh tiến, Dương Liễu Thanh kêu lớn: “Cha!” Dương Trọng Anh ngừng lại thu chưởng, Cáp Bố Đà vỗ vù tới một chưởng đẩy Dương Trọng Anh thối lui đến mấy bước. Dương Liễu Thanh vội vàng thi triển tuyệt kỹ thần đạn yểm hộ cho cha già.


Đường Hiểu Lan đột nhiên gặp sự biến, chàng hoang mang chẳng biết làm thế nào. Huyền Phong đạo trưởng rất nóng nảy, hỏi Chúc Gia Thụ: “Ông nói có thật không?” Chúc Gia Thụ nói: “Hôm qua y đi với lão Hoàng đế, nếu tôi thoát không nhanh đã sớm mất mạng dưới kiếm của y!” Huyền Phong đạo trưởng bừng bừng cả giận, chợt nghĩ: “Võ công của Chúc Gia Thụ chẳng kém gì mình, sao chẳng phải là đối thủ của Đường Hiểu Lan?” rồi lướt tới, tay phải cầm trường kiếm, tay trái cầm gậy nhất tề đánh ra. Đường Hiểu Lan biết Huyền Phong ra tay rất hiểm hóc, chẳng thể nào né tránh được, chỉ đành rút kiếm chống trả, chiêu số của Huyền Phong vốn là nửa hư nửa thực, ông ta có ý thử võ nghệ của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không biết điều này nên đã thi triển loại kiếm pháp phòng thân huyền diệu của Thiên Sơn ra, gạt gậy sắc của Huyền Phong ra ngoài, lúc này Huyền Phong mới biết Chúc Gia Thụ chẳng phải nói dối, kiếm chiêu của ông ta chợt thay đổi, chẳng giả vờ tấn công nữa mà đâm vào các chỗ yếu hại trên người Đường Hiểu Lan.


Đường Hiểu Lan liên tiếp chặn mấy kiếm, kêu lớn: “Sư phụ, sư bá, con có lời muốn nói”. Huyền Phong quát: “Ngươi là tên phản đồ vong ơn phụ nghĩa, ai nghe lời ngươi nói”. Thế rồi kiếm chiêu đánh gấp tựa như gió quét. Đường Hiểu Lan né tránh chậm chạp, bị Huyền Phong đâm xuyên một kiếm vào ống tay áo, chàng buộc phải quét ngang thanh trường kiếm từ trên xuống dưới, Đường Hiểu Lan chỉ vốn có ý phòng thân chứ cũng không biết rằng uy lực của chiêu số này quá lợi hại, đã phát ra làm sao thu lại dễ dàng, chỉ nghe keng một kiếng, cây gậy sắt trên tay trái của Huyền Phong đã bị Du Long kiếm chặt gãy một đoạn! Huyền Phong chưng hửng, Đường Hiểu Lan nhảy vọt ra, nào ngờ trước mắt lóe lên, mùi rượu xộc vào mũi, Lang Nguyệt thiền sư phun rượu thành vòi phóng thẳng vào hai mắt của Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan vội nghiêng đầu né tránh, Lang Nguyệt thiền sư phun vèo một tiếng, vòi rượu biến thành giọt rượu cứng như đạn chì, trên áo của Đường Hiểu Lan bị bắn lủng như tổ ong, Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai đã phóng người tới nhanh như bắn, đột nhiên tóm rách ống tay áo của Đường Hiểu Lan, bức thư của Hoàng đế đã bị cướp mất.


Đường Hiểu Lan đứng ngây người ra, lắp bắp: “Tôi... tôi...” lời lẽ của chàng nghe nghẹn ngào bi thảm, Dương Liễu Thanh nói: “Tôi thế nào?” nàng vừa yêu vừa hận, giơ cao đạn cung bắn ra, Đường Hiểu Lan đang rối trí, cũng không biết đường né tránh, Liễu Ân hòa thượng gầm lớn, múa cây thiền trượng một vòng bắn ngược đạn trở về, y thấy Dương Liễu Thanh xinh xắn, ác niệm chợt nảy ra, y điểm cây thiền trượng xuống đất phóng vọt người lên, tay trái mở ra chụp về phía Dương Liễu Thanh! Huyền Phong cả kinh, múa kiếm đâm thẳng vào huyệt Thiên Liêu ở phía sau ót của Liễu Ân. Liễu Ân lấy trượng làm trụ, gót chân xoay một vòng vẫn không buông ra, tay trái chụp vào bối tâm của Dương Liễu Thanh. Kiếm pháp của Huyền Phong nhanh như chớp, ông ta không thèm thu kiếm mà vẫy mũi kiếm một cái, hóa thành chiêu số Dương Chi Trích Lộ, đâm vào huyệt Tinh Túc sau ót của Liễu Ân, Liễu Ân thấy kiếm pháp ông ta tinh diệu, không dám làm càn, thế là xoay người múa trượng tiếp chiêu. Liễu Ân công lực thâm hậu, trượng phong như đao, Huyền Phong chặn được mười chiêu đã biết không chống đỡ nổi, lúc này Tung Sơn đã trở nên hỗn loạn, người phía Tứ hiệp đã lọt xuống thế hạ phong, Dương Liễu Thanh càng nguy ngập hơn, Huyền Phong kêu lớn: “Đi!” rồi chia nhau đâm hai kiếm về Tát Thiên Thích, Tát Thiên Đô, cứu bọn Liễu Tiên Khai thoát ra. Dương Trọng Anh dắt theo con gái, nhờ có Chúc Gia Thụ yểm hộ ở phía sau cũng nhảy vọt ra khỏi vách tường. Liễu Ân đảo ngược cây thiền trượng, đang đuổi theo. Dận Trinh đã quát lớn: “Cứ để cho bọn chúng đi!” té ra khi Dận Trinh nghe được Thiên Diệp Tản Nhân kể lại việc xem di chiếu, y sợ rằng việc này xé ra to, các bối lạc khác sẽ thừa cơ tấn công nên mới gọi bọn Liễu Ân vào.


Đường Hiểu Lan lúc này lòng rối như tơ vò, khi biết về thân thế của mình chàng đã đau đớn, không ngờ hôm nay lại bị sư phụ hiểu nhầm, chàng muốn chết mà chẳng xong. Dương Trọng Anh và Quan Đông tứ hiệp đều có ơn lớn với mình, nếu chàng đột nhiên chết đi, tiếng xấu này thật khó rửa. Chàng từ từ hạ kiếm xuống, Liễu Ân cười lạnh nói: “Kẻ địch đã lui, ngươi còn đứng đây làm gì?” Đường Hiểu Lan bi phẫn vô cùng, chàng tung người vọt lên, quát: “Ta thà chết cũng không cứu các người”. Rồi phóng ra khỏi tường.


Đường Hiểu Lan thẫn thờ chạy ra cửa Bắc, trên tường thành chợt có người kêu: “Hảo tiểu tử, ngươi dám đuổi theo!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đó chính là Dương Trọng Anh, số là bọn Huyền Phong chạy ra khỏi hoàng phủ, cũng chạy theo con đường này trở ngược ra thành, Dương Trọng Anh đoạn hậu ở phía sau, chợt thấy một mình Đường Hiểu Lan chạy theo, chỉ tưởng rằng chàng truy kích mình.


Đường Hiểu Lan rung giọng kêu: “Sư phụ, hãy để con nói rõ”. Dương Liễu Thanh đang chạy ở phía trước, nghe tiếng chợt dừng lại. Nàng thấy lời lẽ của Đường Hiểu Lan rất đau khổ, liền bảo: “Cứ để y nói, chắc là có ẩn tình”. Huyền Phong nói: “Không thể đem tính mạng ra đùa!” rồi lớn giọng nói: “Dương huynh, đề phòng có người đuổi theo!” Dương Trọng Anh kéo cây đạn cung bắn ra hai tiếng, Đường Hiểu Lan đang thất thần, chẳng có ý né tránh, một viên bắn trúng vào trán một viên trúng vào cánh tay thế là té ngửa xuống đất. Chỉ nghe Dương Trọng Anh quát lớn: “Ngươi đã phạm vào đại giới của sư môn, ta không tha cho ngươi!” khi Đường Hiểu Lan đứng dậy, bọn Dương Trọng Anh đã đi xa.


Đường Hiểu Lan lủi thủi đi một mình, chàng nhớ lại giới luật của phái Tung Dương rất nghiêm ngặt, khi chàng mới vào môn đã nghe đọc mười hai giới điều này, trong đó điều thứ tư là không gần quan phủ, điều thứ mười hai là không được khi sư diệt tổ, thế nhưng nay chàng đã phạm tất cả. Nếu Dương Trọng Anh không sợ có bọn Liễu Ân đuổi ở phía sau chàng đã bị bắt. Nghĩ đến đây, chàng không lạnh mà rung. Chàng sợ rằng nỗi oan này mãi mãi chẳng thể nào rửa sạch.


Về đến Tây Sơn, chàng vẫn mãi mê suy nghĩ, trong biển người mênh mông chàng chẳng có người thân, cả người bạn để dốc lòng mà chẳng có, không khỏi thấy bi thương, suy nghĩ lại, chàng chợt nhớ đến Lữ Tứ Nương, chàng và Lữ Tứ Nương tuy chỉ gặp mặt mấy lần nhưng nàng là con gái của bậc danh nho, kiến thức bất phàm, rất quan tâm đối với mình, chàng suy đi tính lại, hình như trong khoảng trời đất này chàng chỉ có thể tin tưởng một mình Lữ Tứ Nương. Thế là rời khỏi kinh sư đến miền Triết Giang. Trên đường đi thường gặp các nhân vật võ lâm chặn đánh, té ra Dương Trọng Anh đã truyền việc Đường Hiểu Lan phản sư ra khắp giang hồ, may mà những người chặn đánh chàng chẳng phải hảo thủ, Đường Hiểu Lan mới an toàn đến Triết Giang. Tới nơi chàng mới biết năm năm trước Thẩm Tại Khoan bị bắt, Lữ Bảo Trung chết thảm, Lữ Tứ Nương đã dời đi nơi khác. Chàng dò hỏi mà chẳng biết Lữ Tứ Nương đang ở đâu, may mà Cam Phụng Trì rất nổi danh, vừa khéo cũng có ở Triết Giang, Đường Hiểu Lan đánh liều đến bái phỏng, Cam Phụng Trì tuy không tin nhưng rất thông tình đạt lý, thế là liền cho chàng biết nơi ở của Lữ Tứ Nương. Nhưng ông ta vẫn đề phòng chàng có vây đãng nên âm thầm đi theo phía sau cho đến Tiên Hà lĩnh, thấy một mình chàng lên núi mới thôi.


Đường Hiểu Lan ngồi bên dòng thác kể từ đầu đến cuối, bao nhiêu nỗi ấm ức trong lòng chàng đều được giải bày. Hai người đã nói được nửa ngày, Lữ Tứ Nương mỉm cười đứng dậy, kéo Đường Hiểu Lan leo lên một tảng đá, chỉ xuống núi cười nói: “Đệ lên cao nhìn xuống thử”. Đường Hiểu Lan cũng nghe lời leo lên tảng đá nhìn xuống, chỉ cảm thấy trong tầm mắt mình đồng ruộng mênh mông, bất giác lòng nhẹ nhõm, nỗi phiền muộn tiêu tan. Lữ Tứ Nương nói: “Đời người có quá nhiều chuyện không như ý, cần gì phải giữ trong lòng”. Rồi mỉm cười, Đường Hiểu Lan chợt thấy đám mây đen trong lòng đã bị nụ cười của nàng xua tan.


Chính là:


Núi sông như tranh vẽ, cung quắc thắng tu mi.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 15 Luận thế đàm từ một lời hiểu đại nghĩa Tìm hiểu bí mật du hiệp lộ thần oai




Lữ Tứ Nương lại cười nói: “Nghe nói khi đệ ở nhà Dương Trọng Anh, ban ngày học võ ban đêm luyện văn, đã từng viết một bài từ ‘Bách hoa lệnh’?” Đường Hiểu Lan đỏ mặt, ấp úng nói: “Bài từ này chẳng qua là đùa lúc còn thiếu niên, chẳng hay ho gì cả”. Té ra chàng viết bài từ này là vì nhớ Lữ Tứ Nương, không biết sao nàng đã biết, nghe nàng nhắc tới thì trong lòng lo âu. Lữ Tứ Nương nói: “Ta đã từng đọc bài từ này của đệ tuy cũng có ‘từ vị’ nhưng quá đau thương, người trẻ tuổi không nên như thế. Mấy câu mở đầu của đệ ‘Phiêu bình quyện lữ, toán mang mang nhân hải, bằng hữu tri phủ?’ nghe rất quạnh quẽ đau lòng. Thực ra trong biển người mênh mông, có rất nhiều người tri kỷ, vả lại chỉ cần đệ hành động hợp với nghĩa, cần gì lo không có người tri kỷ?”


Lữ Tứ Nương chỉ lấy từ luận thế, nửa câu chẳng nhắc đến tình nhi nữ. Đường Hiểu Lan cúi đầu không nói, trong lòng suy nghĩ mông lung.


Lữ Tứ Nương mỉm cười, lại nói: “Lúc còn bé ta đã từng làm một bài từ ‘Thủy long ngâm’, trong đó có hai câu: ‘Mạc học tân thanh hậu chủ, khủng từ tiên tiếu y hà khổ?’ ta thấy không bệnh mà ngâm đương nhiên không tốt, có bệnh ngâm cũng chẳng cần. Nếu bậc đại trượng phu gặp nguy nan, cần phải đứng vững như kiềng ba chân, gánh vác trách nhiệm, vượt qua cửa ải khó khăn, nếu học từ thì phải học theo Tô Đông Pha hay Tân Khí Tật, không nên theo đòi kẻ mất nước như Lý Hậu Chủ? Đệ đã từng đọc bài từ ‘Hạ tân lang’ của Tân Khí Tật chưa, ba câu đầu của bài từ này cũng giống như ba câu đầu trong ‘Bách hoa lệnh’ của đệ, nghe như than vắn thở dài, nhưng bài từ của ông ta lại có hào khí, khác hẳn với của đệ. Đệ có nhớ không, hãy thử đọc cho ta nghe”.


Đường Hiểu Lan ngẩng đầu lên, đọc rằng: “Thậm hĩ ngô suy hĩ! Trướng bình sinh giao du linh lạc, chích dương dư kỷ. Bạch phát không thùy tam thiên trượng, nhất tiếu nhân gian vạn sự, vấn hà vật năng lệnh công hỉ? Ngã kiến thanh sơn di ủy mị, liệu thanh sơn kiến ngã ứng như thị. Tình giữ mạo, lược tương tự. Nhất tôn sao đầu đông song lý, tưởng Uyên Minh, đình vân thi tựu, hà thời phong vị. Gian tả trầm cam cầu danh giả, khởi thức trọc lưu diệu lý? Hồi đầu khiếu vân phi phong khởi. Bất hận cổ nhân ngô bất kiến, hận cổ nhân bất kiến ngô cuồng da! Tri ngã giả, nhị tam tử”.


Tân Khí Tật viết bài từ này lúc tuổi đã về chiều nhưng hào khí tiêu thoát, còn hơn cả thiếu niên. Đường Hiểu Lan đọc xong, chợt thấy mình sao quá hẹp hòi, không khỏi tự cười mình, Lữ Tứ Nương không dùng lời an ủi chàng nhưng đã lấy từ để dẫn dắt chàng. Đường Hiểu Lan thấy lòng dần dần thư thái, chợt hỏi: “Tỷ tỷ hãy đọc lài bài ‘Thủy long ngâm’ cho đệ nghe thử”.


Lữ Tứ Nương nghĩ ngợi rồi đáp: “Cũng được”. Từ rằng:


“Vô biên phiêu diễu kỳ phong, tăng thụy ngã cựu thời gia xứ. Phất tụ khứ lai, nhuyễn trần sơ đạp, thạch môn tây trú. Đoản trợ tài hoa, trường thi tá tửu, kỹ hồi ngưng trữ. Quán liệt địch suy vân, cao ca tán vụ, chấn y thượng, thiên nham thụ.


Mạc học tân thanh hậu chủ, khổng từ tiên tiếu y hà khổ? Trích đẩu tinh duy, kinh sa lạc nguyệt, tụy khai vân lộ. Phùng đảo cựu du, viên kiều tân cảnh, tùng đầu phi độ. Thả bút tả tây giang, vân phiên bất hải, hoán thần long vũ”.


Bài từ này nghe sao hào tình muôn trượng, chí lớn cao vời, cõi lòng rộng mở. Nếu Lữ Tứ Nương không nói, Đường Hiểu Lan không dám tin rằng đây là một bài từ của một nàng thiếu nữ. Hai người nói chuyện rất hợp nhau, Đường Hiểu Lan thấy nỗi sầu muộn tuy tiêu tan nhưng cũng muốn hỏi đến đạo lập thân của nàng, đang suy nghĩ chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng kêu lớn: “Tứ Nương, Thẩm tiên sinh đang tìm”. Lữ Tứ Nương ngẩng đầu nhìn lên, cười rằng: “Đúng là nói chuyện vui đến nỗi chẳng biết thời khắc, vầng dương đã dời về phía Tây. Chắc đệ cũng đã đói bụng, vào chùa ăn lót dạ trước đã”.


Đường Hiểu Lan theo Lữ Tứ Nương xuống núi, hỏi: “Thẩm tiên sinh là ai?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Chính là người mà ta thường nhắc với đệ, Thẩm Tại Khoan”. Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, nói: “Chẳng phải y đã bị bắt năm năm trước rồi sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh không nói với đệ, sau này bọn ta đã cứu chàng”. Đường Hiểu Lan thấy lòng xao xuyến, sau đó mới nghĩ: “Lữ Tứ Nương coi mình như tiểu đệ, đã khiến cho mình ghi tâm khắc cốt, làm sao có thể mong muốn được nhiều hơn?” chính vì nghĩ thế nên cõi lòng đã bình lặng, chàng lầm lũi bước theo Lữ Tứ Nương vào thiền viện.


Thẩm Tại Khoan vừa mới thức dậy, ngẫm nghĩ những lời nói buổi sáng của Lữ Tứ Nương, chỉ cảm thấy ngọt ngào tình tứ, chàng lập lại hai câu: “Kiếm liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên” chàng đọc xong hai câu bất giác cười buồn. Thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương đã yêu thương sâu sắc đến thế, mình còn tự tìm khổ não là vì cớ gì?” rồi chàng lại nghĩ: “Lữ Tứ Nương xinh đẹp tuyệt trần, năm năm qua chịu đựng nỗi cô quạnh, bầu bạn với kẻ tàn phế như mình, vả lại còn muốn suốt đời theo mình, tình ý ấy thật hiếm có”. Lúc này bao nhiêu nỗi ưu phiền cũng tan biến.


Lữ Tứ Nương dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, hai người đi sánh vai bên nhau, Đường Hiểu Lan cao hơn Lữ Tứ Nương, trước thiền viện có một cái đầm nhỏ, nước trong đầm trong vắt, dưới đầm hắt bóng một chàng thiếu niên anh tuấn, một nàng thiếu nữ xinh đẹp. Lúc nãy nghe Đường Hiểu Lan than thở, Lữ Tứ Nương đang mãi nghĩ cách giải nguy cho chàng, trong lòng chẳng có ý gì khác, chẳng hề để ý đến hai chiếc bóng dưới mặt đầm, khi bước vào thiền viện chợt thấy bài từ của Thẩm Tại Khoan, nàng sợ Thẩm Tại Khoan vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng mình, thấy Đường Hiểu Lan sẽ hiểu nhầm, há chẳng phải khiến chàng bệnh nặng hơn hay sao? Nàng nghĩ đến đấy chân chợt chậm lại. Đường Hiểu Lan tựa như hiểu ra, chàng quay đầu hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đang nghĩ gì thế?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu lên, ánh mặt trời rực rỡ, hoa núi như đang cười, nói rằng: “Không sao cả!” nàng bước tới trước hai bước, dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, đến trước cửa một căn phòng, kêu lên: “Tại Khoan, có khách đến viếng thăm huynh!”


Giường của Thẩm Tại Khoan kê sát cửa phòng, chàng vươn tay là có thể mở then cài, nhưng chàng bước xuống giường, vịn vách tường ra mở cửa, Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng, nói: “Huynh vừa mới cử động được, không nên quá mệt nhọc”. Thẩm Tại Khoan thấy Đường Hiểu Lan, chỉ ngạc nhiên rồi nói: “Muội phải tiếp đãi khách trước”. Lữ Tứ Nương nói: “Đây là người bằng hữu rất thân của muội”. Rồi nàng liếc Thẩm Tại Khoan, thấy chàng chẳng đổi sắc, đỡ chàng lên giường rồi giới thiệu cho hai người. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin mời Đường huynh ngồi xuống, tôi đi đứng không tiện, xin được thất lễ”.


Đường Hiểu Lan thấy thế mới biết năm năm nay Lữ Tứ Nương bầu bạn bên cạnh một người tàn phế, trong lòng rất cảm động, càng cảm thấy Lữ Tứ Nương khắc hẳn người thường!


Lữ Tứ Nương vào nhà bếp lấy cơm chay bưng vào phòng, Đường Hiểu Lan đang nói chuyện với Thẩm Tại Khoan. Cơm nước xong Đường Hiểu Lan nói: “Tôi có một việc muốn thỉnh giáo Thẩm huynh”. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin cứ nói”.


Đường Hiểu Lan lại kể mọi chuyện một lượt. Thẩm Tại Khoan nghe xong, chợt ngồi bật dậy, nói: “Nếu Đường huynh không cho tôi là người ngoài, tôi cũng muốn giúp cho Đường huynh. Oanh muội, muội hãy đi theo Đường huynh một chuyến!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Còn huynh?” Thẩm Tại Khoan nói: “Nay huynh bệnh tình đã khá, có Nhất Phiêu đại sư chăm sóc là đủ. Việc của Đường huynh phải nhờ muội. Đường huynh và chúng ta là bằng hữu tri giao, y đang gặp nguy, lẽ chúng ta ngồi yên mà nhìn?” Lữ Tứ Nương không ngờ chàng lại phóng khoáng đến thế, bất giác cảm động đến rơi nước mắt.


Thẩm Tại Khoan lại nói: “Lần này Đường huynh gặp nạn, theo ta thấy, nạn ngoài dễ giải, giặc trong khó trừ”. Đường Hiểu Lan đã xem Thẩm Tại Khoan là ca ca, nói: “Mong được nghe dạy”. Thẩm Tại Khoan nói: “Đường huynh bị lệnh sư hiểu lầm, nếu có Tứ Nương ra giải thích, chắc mọi việc rồi sẽ yên. Chỉ có điều Đường huynh vừa biết thân thế, từ rày về sau sẽ rất khó xử”. Một lời nói trúng đích, Đường Hiểu Lan đang lo vì mình có huyết thống hoàng tộc. Thẩm Tại Khoan lại chậm rãi nói: “Cứ làm điều trăm họ thích, ghét điều trăm họ ghét, đó chính là đạo lập thân ở đời”. Đường Hiểu Lan cúi đầu suy nghĩ một lúc rất lâu, chợt ngẩng đầu lên nói: “Đa tạ Thẩm huynh chỉ giáo”.


Thẩm Tại Khoan nói: “Oanh muội, ngày mai muội hãy theo Đường huynh xuống núi”. Lữ Tứ Nương xao xuyến, chợt nói: “Vài ngày nữa là thắt tịch”. Thẩm Tại Khoan biết nàng vẫn còn lưu luyến mình, cười rằng: “Từ của Thiếu Du có viết rằng: ‘Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số’. Lại nói: ‘Lưỡng tình nhược thị cửu trường thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ’ năm năm qua chúng ta ở bên nhau, còn may mắn hơn cả Ngưu Lang Chức Nữ, đâu cần phải đau lòng vì một lúc tiểu biệt” Lữ Tứ Nương nghe xong, biết chàng đã hoàn toàn tin tưởng mình, chẳng hề có ý hoài nghi, tuy trong lòng có chút quyến luyến nhưng cũng thấy chút ấm áp.


Đang nói, Nhất Phiêu đại sư chợt gõ cửa nói: “Lữ Tứ Nương, không biết hôm nay có ngọn gió gì mà khách lại tới nữa!” Lữ Tứ Nương nói: “Ai thế?” Nhất Phiêu nói: “Chính là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp chỉ dẫn cho tôi đến dãy Hà Lĩnh, tôi tưởng rằng ông ta không đến”. Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh đến đây chắc có việc lớn”. Rồi cùng Đường Hiểu Lan bước ra nghênh tiếp.


Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan cùng Lữ Tứ Nương bước ra, biết những điều chàng nói không phải là giả, thái độ thân mật hơn trước nhiều, nắm tay chàng cười nói: “Ta âm thầm bảo vệ ngươi lên núi, ngươi có biết không?” Đường Hiểu Lan hơi hổ thẹn, nói: “Tiểu đệ chẳng hề hay biết”.


Lữ Tứ Nương hỏi: “Năm năm qua các sư huynh có khỏe không?” Cam Phụng Trì nói: “Một hai năm nay ta ít gặp mặt họ. Không ngờ lúc nãy vô tình nhặt được tín vật của đồng môn”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Vị sư huynh nào nhờ người đến gặp muội?” Cam Phụng Trì lấy ra một bức tranh, đưa cho Lữ Tứ Nương nói: “Muội hãy xem thử bút tích của ai trong bức tranh này?” trong bức tranh là một con chim ưng, trông rất uy võ nhưng bị nhốt trong lồng, mỏ chim ưng thì ra khỏi lồng, hai cánh giang rộng tựa như muốn kêu lên. Bên cạnh cái lồng chim có một nàng thiếu nữ dung mạo tựa như Lý Minh Châu con gái của Tuần phủ Triết Giang. Lữ Tứ Nương nhìn một hồi thì kêu lên: “Chả lẽ Lộ sư huynh bị Triết Giang tuần phủ giam lỏng?”


Lộ Dân Đảm là con em nhà thế gia, võ công tuy không cao nhưng tài vẽ nổi tiếng, nhất là vẽ chim ưng. Trong bức họa này chàng ta đã vẽ chim ưng trong lồng, tựa như lấy chim ưng để nói người, thầm bảo mình bị giam. Lữ Tứ Nương rung giọng hỏi: “Cam sư huynh, làm sao huynh có được bức tranh này?”


Cam Phụng Trì trả lời: “Sau khi huynh đưa Đường huynh lên núi, một mình quay trở về Triết Giang, đi được khoảng ba bốn dặm đường, chợt nghe sau núi có tiếng ngựa hí, lại còn có cả tiếng kêu thê lương”. Lữ Tứ Nương biến sắc, nói: “Chả lẽ triều đình biết muội ẩn cư ở đây?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng lo như thế nên vội vàng chạy ra sau núi xem sao, chỉ thấy trên dịch đạo bụi tung bay mù mịt, mấy thớt ngựa đã phóng đi. Huynh nghĩ đuổi theo không kịp nữa chỉ đành đến xung quanh quan sát kỹ càng, chợt thấy trên tảng đá dưới chân núi có mấy vệt máu, chắc là lúc nãy có người kịch đấu trên dịch đạo, giằng co đến đây thì đã bị bắt”. Đường Hiểu Lan nói: “Theo Cam đại hiệp thấy, bọn chúng có muốn lên núi không?” Cam Phụng Trì đáp: “Ta cũng không rõ. Dấu chân và dấu máu cho thấy tựa như có cuộc đánh nhau từ dịch đạo đến sườn núi, sau đó càng đánh càng kéo xa. Xem tình hình hình như có vài người vây đánh một người, sau đó người này đã bị bắt. Giả sử những người này muốn lên núi, bọn chúng không cần phải quay ra gấp như thế”.


Lữ Tứ Nương hơi lo lắng, nói: “Kẻ bị bắt không biết có phải là Lộ sư huynh hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Ta thấy cũng không phải. Lộ sư đệ không có võ công cao như thế”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Cam đại hiệp không tận mắt chứng kiến, làm sao biết võ công của người ấy giỏi hay giở?” Cam Phụng Trì nói: “Dấu chân rất rõ ràng dưới đất, từ sự phân bố của dấu chân và các dấu vết di chuyển có thể nhiều người vây đánh một người, còn bộ pháp của người bị truy đánh thì không hề bị rối loạn, tiến lui rất có phép tắc. Lộ sư huynh tuy cũng có được võ công như thế nhưng y ít có kinh nghiệm, khi lâm địch không hề binh tĩnh như thế”. Cam Phụng Trì phân tích rất có lý, không những khiến Đường Hiểu Lan phục lăn mà Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy chàng ta đúng là một đại hành gia trên giang hồ, dược lực chẳng kém gì mình.


Cam Phụng Trì nói: “Gần đây ta định đi xa, đến bái phỏng các vị sư huynh. Còn nữa, năm ngoái ta nghe nhị sư huynh nói, Quan Đông tứ hiệp rất muốn gặp mặt ta, có lẽ ta sẽ lên kinh sư, rồi từ đó đi sang Liêu Đông”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Vậy thì tốt quá, ngày mai muội và Đường Hiểu Lan sẽ đi xa, vậy chúng ta sẽ đi cùng một đường. Có sư huynh đi cùng, bọn muội cũng yên tâm hơn nhiều”. Cam Phụng Trì nói: “Còn Thẩm tiên sinh thì sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Gần đây chàng đã khá nhiều, hôm nay có thể vịn vách mà đi. Chàng biết chuyện của Hiểu Lan, bảo muội nên giải thích hộ cho giang hồ biết”. Cam Phụng Trì nói: “Thẩm tiên sinh can đảm tương chiếu, tuy là một thư sinh nhưng còn hiệp nghĩa hơn cả chúng ta!” thế rồi bảo Lữ Tứ Nương giới thiệu, đến tịnh thất bái kiến Thẩm Tại Khoan. Thẩm Tại Khoan nghe Cam Phụng Trì sẽ đi cùng họ, chàng càng thêm yên tâm.


Sáng sớm hôm sau, hai người cùng xuống núi rồi đi lên phía Bắc. Để cho tiện, Lữ Tứ Nương cải dạng nam trang, Cam Phụng Trì sửa đổi khuôn mặt cho Đường Hiểu Lan, trên đường quả nhiên không ai nhận ra.


Phía Bắc của dãy Tiên Hà là Triết Giang, ba người đi tới Du Long, Kim Hoa, rẽ sang phía Đông xuống Nghĩa Ô, Thiệu Hưng, đi thẳng đến Tiêu Sơn, định rằng đến nhà Lộ Dân Đảm thăm hỏi trước. Ra khỏi Tiêu Sơn là vùng ven biển Hàng Châu. Lữ Tứ Nương ở lâu trong núi, lúc này thấy biển rộng thì trong lòng thư thả. Hôm nay họ tiếp tục tiến về phía nhà Lộ Dân Đảm, con đường lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, Lữ Tứ Nương nhất thời nổi hứng, cùng hai người Cam, Đường lên núi, phóng mắt nhìn ra biển khơi, chỉ thấy đảo lớn đảo nhỏ nằm xen kẽ vào nhau, những con thuyền đánh cá như những đốm sao trên bầu trời, đang lúc ngắm cảnh, chợt nghe Cam Phụng Trì kêu.


Lữ Tứ Nương quay đầu lại, ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế thất sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Muội xem đây”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương đến phía dưới một mõm đá, phủi bụi trên đá chỉ thấy bên trên là những ký hiệu trông rất kỳ quái, Lữ Tứ Nương cũng không nhận ra, ngạc nhiên nói: “Những ký hiệu này có nghĩa là gì?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng không biết, có lẽ là ám hiệu của các bang hội trong giang hồ”. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta không cần lo chuyện bao đồng”. Cam Phụng Trì nói: “Không sao, muội hãy tới xem thử”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương bước xuống, có đến bảy tám hòn đá vẽ ký hiệu này.


Cam Phụng Trì nói: “Huynh hiểu đại khái hai loại ám hiệu, ý nghĩa là hẹn đến đây tụ hội”. Lữ Tứ Nương nói: “Chả lẽ hòn núi này là nơi hổ ẩn rồng nằm, có hào kiệt trên giang hồ? Nhưng chuyện đó cũng không liên quan tới chúng ta”. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, muội và Lộ sư huynh một người ở Triết Đông, một người ở Triết Tây, huynh cũng thường qua lại hai miền, các nhân vật có tiếng tăm ở miền này huynh cũng đều quen, nhưng chưa từng nghe nói quê Lộ sư huynh cũng có hào khách giang hồ ẩn cư”. Lữ Tứ Nương nói: “Có phải thất ca nghi ngờ chuyện này có liên quan đến Lộ sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không dám chắc, nhưng từ đây đến nhà Lộ sư huynh chỉ còn hơn mười dặm đường, huynh cũng chưa bao giờ nghe Lộ sư huynh nói quê hương của y có người võ công cao cường nên rất lấy làm lạ. Chúng ta tìm hiểu thử xem sao”. Ba người đi một hồi nữa, thấy ở sườn núi đối diện có khói bốc lên từng cuộn, Lữ Tứ Nương nói: “Hình như bên đó có nhà”. Cam Phụng Trì cười rằng: “Chúng ta qua đó xem thử”. Ba người đi xuống một hồi lại thấy có ruộng lúa, Cam Phụng Trì cười nói: “Đâu chỉ là nhà, còn có cả thôn làng!”


Ba người băng ngang qua thung lũng, đến chân núi đối diện, Cam Phụng Trì vừa lên núi vừa đưa mắt thăm dò, lên được nửa chừng phát hiện có ba ám hiệu của các bang hội. Đi một hồi nữa lên đến đỉnh núi, chỉ thấy phía bên núi khói cuộn lên mù mịt, Lữ Tứ Nương cười nói: “Chúng ta đi cả nửa ngày, người dưới chân núi cũng đã nghỉ ngơi, nổi lửa nấu cơm. Chúng ta không ra thì đêm nay phải đành ở lại đây”. Cam Phụng Trì nói: “Xem một lúc nữa”. Đột nhiên ngừng lại, lộ vẻ ngạc nhiên.


Xưa nay Cam Phụng Trì là người trầm lặng. Trong số các đồng môn chàng là người bình tĩnh nhất dù là có chuyện gì xảy ra. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Thất ca, huynh lại thấy gì thế?” Cam Phụng Trì trầm ngâm không nói, một hồi sau mới trả lời: “Chẳng lẽ có sư huynh nào bị vây ở đây, điều này thật khiến ta không hiểu nổi!” Lữ Tứ Nương bước ra khỏi mõm đá, bên cạnh mõm đá có một tảng đá nhọn như mũi kiếm, trơn láng như mặt kính, trên đá có khắc ám hiệu các đồng môn thường dùng, ám hiệu rất rời rạc đơn giản, chỉ có bốn chữ: “Bị vây, cứu viện”. Cam Phụng Trì nói: “Muội nhìn xong, đây có phải là ám hiệu của đồng môn chúng ta không?” Lữ Tứ Nương nói: “Có điều gì đáng nghi?” Cam Phụng Trì nói: “Nếu là ám hiệu của các sư huynh, sao không có các con số?” té ra các đệ tử của Độc tý thần ni khi liên lạc với nhau cũng phải sắp xếp theo thứ tự. Ví dụ khi Cam Phụng Trì để lại dấu hiệu sẽ ký chữ thất, Lữ Tứ Nương sẽ viết thêm chứ bát, Cam Phụng Trì nói: “Muội có thấy điều gì lạ hơn không?”


Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca, những ký hiệu này rất đơn giản, huynh làm sao thấy được nhiều điều? Còn có chuyện gì lạ nữa đâu? Muội chẳng thấy điều gì cả”. Cam Phụng Trì nói: “Những ám hiệu này tuy lấy móng tay thay bút, dùng chỉ lực vạch trên tảng đá. Xem ra công lực của người này hơn Lộ sư huynh nhưng kém Bạch sư huynh, tương đương với Châu sư huynh và Tào sư huynh, nhưng nếu hai người Châu, Tào viết, vết tích tất nhiên sẽ già dặn, nhưng những ký hiệu này xem ra rất non nớt, ta đoán rằng, người để lại ám hiệu không phải là người của bổn môn”. Lữ Tứ Nương thầm phục. Cam Phụng Trì nhìn một hồi rồi lại cười nói: “Lúc này huynh có thể đoán được đại khái ai”. Lữ Tứ Nương chợt cười nói: “Thất ca, huynh khoan nói, để muội đoán thử trước”. Đường Hiểu Lan cũng ngưng thần chăm chú, thế nhưng chẳng phát hiện được điều gì, đang lấy làm buồn bực. “Người để lại ám hiệu là nữ tử, còn trẻ hơn cả muội”. Cam Phụng Trì vỗ tay cười nói: “Đúng thế”.


Đường Hiểu Lan hỏi: “Các người rốt cuộc có nhận ra chưa?” Lữ Tứ Nương nói: “Đệ có nghiên cứu thư pháp không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ từ nhỏ đã thất học, sau này theo Dương sư phụ mới học chữ nghĩa, lúc đó chỉ ham đọc thư từ chứ ít cầm bút luyện chữ”. Lữ Tứ Nương nói: “Nét chữ của nữ tử mềm mại hơn nam tử, có lẽ đệ cũng biết điều này. Những ký hiệu này tuy không phải là thứ chữ vuông vức, vả lại dùng chỉ lực vạch vào nhưng vẫn còn mang theo cách khác. Móc, mác giống với loại chữ được viết như bình thường, làm sao không thể nhận ra?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không nhận ra người này có hiểu biết thư pháp nhưng những ký hiệu trông nắn nót, bởi vậy có thể đoán được do một người phụ nữ dùng ngón tay vạch vào. Bát muội, muội tuy thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng rất thông minh”. Lữ Tứ Nương đỏ mặt: “Có phải ký hiệu của đồng môn để lại hay không muội cũng chẳng biết mà còn bảo thông minh?” Cam Phụng Trì nói: “Điều đó chẳng trách muội, muội vẫn còn chưa gặp mặt vài vị sư huynh, đương nhiên không hiểu rõ công lực của họ bằng huynh”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi rồi lại nói: “Trong sư môn ngoại muội, chẳng còn nữ tử nào khác, nàng làm sao biết ám hiệu của chúng ta, điều này thật kỳ lạ. Đã đi đến đây, chúng ta hãy xuống ngôi làng phía dưới núi dò hỏi thử”.


Ba người leo lên đỉnh núi nhìn xuống, cảnh tưởng ở phía sau núi lại khác hẳn, chỉ thấy những hòn núi nhỏ chập chùng, tựa như núi non trùng điệp, nhưng ở sườn núi lại có con đường nhỏ lượn quanh. Cam Phụng Trì cười nói: “Tình thế ở nơi này cũng rất tốt”. Cả ba người từ trên đường núi đi xuống, đi được lưng chừng núi đã thấy dưới chân núi có hơn mười căn nhà. Lúc này mặt trời đã ngả về Tây, chim bay về tổ hót ríu rít nghe vui tai.


Ba người tiến dần vào thôn, người trong thôn đều đã dùng cơm, chỉ có vài người đang dạo bên ngoài, thấy ba người khách lạ đều rất ngạc nhiên. Trong thôn có một nhà họ Chu là đông nhất, Cam Phụng Trì vốn định hướng nhà người đó, có người bước tới hỏi: “Có phải quý khách tìm Trang chủ hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Đúng thế”. Người đó nói: “Xin đợi một lát”. Rồi chạy đi như bay, Cam Phụng Trì khẽ nói với Lữ Tứ Nương: “Lát nữa chúng ta bước vào, cứ mặc huynh ăn nói, nếu có sự biến gì, hãy nhìn ánh mắt của ngu huynh mà làm theo”. Lữ Tứ Nương gật đầu. Lúc này họ đã đến trước căn nhà, hai cánh cửa sơn son đã mở toang.


Hai đại hán bước ra ngoài cửa, đưa tay chỉ xuống đất, hỏi: “Hai vị là đồng nguyên cùng đạo hay thiên kim nhập thổ?” Đó là tiếng lóng thường dùng trong bang hội, có nghĩa là: “Các người là người của bang phái khác nhưng đồng đạo hay là huynh đệ trong bổn bang đến tìm Long Đầu đại ca?” Cam Phụng Trì dựng ngón tay cái chỉ lên trời, lớn giọng nói: “Nhật nguyệt tinh thần, không về bùn đất”. Hai đại hán mặt biến sắc, vội vàng cung kính nói: “Xin mời ba vị vào, để tiểu nhân bẩm cáo Trang chủ”. Té ra hai câu nói ấy thể hiện thân phận của Cam Phụng Trì, nói rõ chàng không phải là người trong bang hội, không ai quản được chàng. Người nói câu này nếu không phải là đầu lĩnh của một phái thì cũng là nhân vật có danh tiếng.


Hai đại hán dắt ba người vào khách sảnh, ngồi một hồi chỉ thấy một ông già khỏe mạnh tuổi khoảng lục tuần từ hậu được bước ra, chắc đây chính là Thượng trang chủ. Đường Hiểu Lan toan đứng dậy, Cam Phụng Trì đã bật dây trước, bước ra giữa ba bước, sau đó bước ngang sang trái một bước, lại nhảy ngang sang phải một bước, lùi ba bước, rồi mới tỏ ý bảo hai người Lữ, Đường đứng dậy ôm quyền hành lễ. Ông già này chưng hửng, trông rất tức giận.


Té ra Thượng trang chủ này rất có danh tiếng, nghe thủ hạ báo rằng có ba người đến gặp, vội vàng ra nghênh tiếp, vừa nhìn thì rất thất vọng, lão tưởng là nhân vật thành danh nào đó, nào ngờ chẳng quen biết ai. Vả hai người Lữ, Đường trông rất trẻ tuổi, nhất là Lữ Tứ Nương vì học thuật Kiểm tinh nội thị của Dịch Lan Châu nên trông cứ như một thư sinh yếu đuối khoảng hai mươi tuổi; trong ba người thì Cam Phụng Trì lớn tuổi nhất, thái độ tuy già dặn nhưng chẳng qua chỉ mới hơn ba mươi tuổi, vả lại sắc mặt vàng ệt ốm yếu, trông giống như một người bệnh. Thượng trang chủ tưởng rằng bọn họ là những tên lừa đảo. Nhưng Cam Phụng Trì tiến lên rồi lui lại, hành lễ nhưng người bằng vai phải lứa, lúc đầu Thượng trang chủ tức giận, nhưng nghĩ họ đã có thể đến tìm mình, chắc chắn đã biết danh tiếng của mình, đã dám dùng lễ bằng vai phải lứa, chẳng phải là nhân vật tầm thường. Trên giang hồ dị nhân rất nhiều, lão không dám coi thường, thế là cười ha hả, ôm quyền trả lễ, ngầm vận công lực nội gia quét quyền phong về phía Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì chẳng hề nhúc nhích, trả lại một vái, Thượng trang chủ hơi run người, vội vàng kìm người lại, cười rằng: “Lão huynh công phu thật giỏi, hai vị tiểu ca này có phải là môn hạ của huynh không?” Cam Phụng Trì nói: “Đều là bằng vai phải lứa với tôi”. Thượng trang chủ đưa tay ra nói vói Lữ Tứ Nương: “Lão phu lỡ lời, xin thứ tội không biết”. Lữ Tứ Nương đưa tay ra nắm lấy tay y, Thượng trang chủ chợt thấy cổ tay tê rần, công phu của Lữ Tứ Nương còn hơn cả Cam Phụng Trì. Trong ba người thì Đường Hiểu Lan tráng kiện khỏe khoắn nhất, Thượng trang chủ không dám thử nữa, vội vàng mời ba người ngồi vào chỗ.


Cam Phụng Trì nói: “Nghe nói Trang chủ sắp làm lễ mừng thọ, ba huynh đệ chúng tôi đến đây làm phiền”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên thầm nhủ: “Làm sao Cam đại hiệp biết lão già này làm lễ mừng thọ?” chàng nào biết đó chính là tiếng lóng trong bang hội. Cam Phụng Trì đến đây, thấy hơn mười ám hiệu của bang hội, liệu rằng chủ nhân ở đây chính là chủ của một bang hội, có thể gần đây sắp mời người khác bang hội đến gặp gỡ bí mật. Cuộc gặp gỡ này được gọi là làm lễ mừng thọ nên Cam Phụng Trì mới buông lời hỏi dò. Không ngờ Thượng trang chủ cười ha ha: “Ba vị cao hiền nếu đã chịu đến đây, thật là vinh dự cho chúng tôi rất nhiều, chỉ là còn mấy ngày nữa mới đến kỳ hạn, ba vị cao hiền đành phải ở lại chờ!” Cam Phụng Trì nói: “Nếu đã là như thế, chúng tôi chỉ đành quấy rầy”. Thế rồi hỏi họ tên, Cam Phụng Trì đổi tên thành Đường Long, Lữ Tứ Nương đổi tên thành Lý Song Song, Đường Hiểu Lan đổi tên thành Phùng Nghiêu. Thượng trang chủ hỏi: “Ba vị là người ở phương nào?” Cam Phụng Trì nói: “chúng tôi chỉ như nước chảy mây bay, không dừng lại một nơi nào cả”. Thượng chủ lại hỏi: “Danh hiệu của ba vị trên giang hồ là gì?” Cam Phụng Trì lại đáp: “Không có danh hiệu không có môn phái, có hoa cắm hoa, có rượu uống rượu, trong hồ bốn biển đều là bằng hữu”. Hai người dùng ám ngữ trên giang hồ hỏi đáp nhau khiến Đường Hiểu Lan càng thêm thắc mắc. Té ra Thượng trang chủ vẫn còn nghi ngờ, trước tiên hỏi chàng có phải là Trại chủ hay đại ca của một thương đường nào đó hay không, Cam Phụng Trì nói không phải, vì thế lại hỏi có phải là đại đạo cước trên giang hồ không, Cam Phụng Trì lại bảo không phải, lại còn nói họ Niên quan gì đến hai phái hắc bạch nhưng người trên giang hồ đều là bằng hữu. Thân phận như thế thật là không đơn giản, nếu không phải cao nhân tiền bối thì là hiệp khách đã thành danh. Dù Thượng trang chủ hiếu biết rõ ràng cũng không đoán được. Ông ta thầm điểm lại các nhân vật thành danh trên giang hồ mà chẳng thấy ai trẻ tuổi như họ cả. Thượng trang chủ chỉ đành lấy lễ thượng khách tiếp đãi, bảo trang đinh dắt họ đến phòng khách yên nghỉ. Thượng trang chủ thầm nhủ, Hàn lão quái nếu đêm nay không đến chắc sẽ ngày mai. Lão ta nhất định biết lai lịch của ba người này.


Ba người vào phòng khách, Lữ Tứ Nương khẽ hỏi: “Thất ca xưa nay thâm tàn bất lộ, không biết lúc này sao lại tỏ thân phận?” Cam Phụng Trì nói: “Thượng trang chủ chắc hẳn là đầu lĩnh của một bang hội, chúng ta ngang nhiên xông vào đây, nếu không lộ một chút thân phận, y làm sao chịu tiếp đãi. Chúng ta đã không phải là người trong bang hội, chỉ đành mượn danh du hiệp giang hồ”. Thực ra, Cam Phụng Trì là một du hiệp tiếng tăm lừng lẫy nhất trên giang hồ lúc này, chẳng hề “mượn danh” tí nào. Cũng chính vì thế, Thượng trang chủ không dám đoán đây chính là Cam Phụng Trì.


Nghỉ ngơi một hồi, Cam Phụng Trì sai người đưa cơm nước đến, Lữ Tứ Nương hơi ngần ngại, Cam Phụng Trì cười nói: “Y không biết lai lịch của chúng ta, làm sao dám ám toán?” rồi cứ mặc sức ăn, nên vào thu dọn, nói: “Trang chủ thỉnh an ba vị, xin thứ không thể đến tiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu Trang chủ có việc, không cần khách sáo”.


Đêm hôm ấy ba người ngủ cùng phòng, đến nửa đêm, Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, ra ngoài dò thử xem thử Trang chủ này có gì kỳ lạ?” Lữ Tứ Nương bước gần đến cửa, thấy bên ngoài cửa số có bóng người thấp thoáng, khẽ nói: “Thất ca, bên ngoài có người canh giữ”. Cam Phụng Trì nói: “Ta sẽ tìm cách dụ bọn chúng”. Rồi giơ ngón tay cái đâm vào vách tường, chàng tiện tay nhặt một phiến lá tre xuống đất cho vào trong cái lỗ ngoáy một hồi, nói: “Xong rồi”, chàng lại lấy một viên đạn trong túi ra, bắn vào cái lỗ, chỉ nghe soạt một tiếng, viên đạn bay ra ngoài. Tiếp theo là tiếng bước chân chạy rất nhẹ, Lữ Tứ Nương rất thông minh, biết rằng Cam Phụng Trì đang dùng kế dương Đông kích Tây, thế là phóng tọt ra cửa sổ! Bọn lâu la canh bên ngoài nghe thấy tiếng đạn tưởng rằng người dạ hành ném dá dò đường nên chạy về hướng có đạn rơi xuống. Khi quay lại, Lữ Tứ Nương đã vượt qua hai gian nhà, nấp sau hòn non bộ.


Hoa viên trong sơn trang rất rộng, sắp xếp trang nhã, chỉ thấy bốn bên là hòn giả sơn, ở giữa có một tòa lầu cao. Lữ Tứ Nương thầm ngạc nhiên: “Hình như mình đã đến nơi này?” nàng suy nghĩ một hồi chợt vỡ lẽ ra, té ra nơi này được bố trí theo kiểu viên lâm, mô phỏng theo kiến trúc tòa nhà của Ngư Xác ở Vạn Trượng Nham trên đảo Điền Hoành, tuy không hùng vĩ và hiểm trở như tòa nhà của Ngư Xác nhưng cũng rất khả quan. Lữ Tứ Nương nấp sau hòn giả sơn, đưa mắt nhìn xung quanh, đang định nhảy vọt ra chợt nghe tiếng bước chân vang lên, có bốn phụ nữ cầm đèn lồng đi ngang qua. Một thiếu nữ trong số đó nói: “Quận chúa thật ngang ngạnh, nàng ta trông thiên kiều bá mị thế kia, nào biết võ công lại cao cường”. Thiếu nữ khác nói: “Đúng thế, đêm qua nàng không chịu ăn cơm, Mạnh trại chủ khuyên nàng, không biết nói gì mà bị nàng tát cho một bạt tai, Mạnh trại chủ vội vàng lách đi, nàng đã vỗ gãy cái bàn”. Một người khác lại nói: “Sau đó Trang chủ vào nói một hồi nàng mới chịu ăn”. Nàng thiếu nữ thứ tư nói: “Nghe nói Mạnh trại chủ võ công chẳng khác gì Trang chủ chúng ta, đều là nhân vật đã thành danh trên giang hồ, thế mà ông ta vẫn nhịn được”. Thiếu nữ đầu tiên nói: “Nàng là Quận chúa kia mà! Làm sao ông ta không thể nhịn”. Lữ Tứ Nương thấy bốn thiếu nữ dần dần đi xa, tiếng cũng dần dần nhỏ. Nàng rất lấy làm lạ: “Ở đâu ra một Quận chúa? Chả lẽ đầu lĩnh của một bang hội mà dám bắt cóc tiểu thư của một vương gia?” lòng hiếu kỳ nổi lên, nàng lướt ra phóng theo sau lưng bốn thiếu nữ.


Đi một hồi, lại nghe một người nói: “Ngày mốt là đại điển khai bang, không biết đại vương có đến không?” Một người khác nói: “Con gái ông ta ở đây, sao không đến?” rồi nàng nói: “Tôi nghe thiếu chủ nói đại vương rất bận, chưa chắc có thể đích thân tới đây”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Thiếu chủ rất tốt với tỷ, thường nói chuyện với tỷ”. Nàng thiếu nữ ấy hừ một tiếng rồi lại nói nói cười, một hồi sau thiếu nữ đầu tiên nói: “Các người bảo Quận chúa xấu tính, nhưng tôi thấy nàng rất tốt, đêm hôm tôi hầu hạ nàng chải đầu, nàng giữ tôi hỏi ngắn hỏi dài tựa như tỷ muội”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Nghe nói đại vương không chịu cho nàng lấy chồng nên mới trốn đến đây”.


Bốn thiếu nữ vòng qua hòn non bộ, đi đến gốc cây của khu vườn, chỉ thấy một tòa lầu ba tầng, bên trên có treo mười tám ngọn đèn bát giác, tầng thứ ba cửa sổ mở rộng, ánh đèn hắt xuống, hiện rõ bóng dáng một nàng thiếu nữ trông rất quen, Lữ Tứ Nương không nhớ là ai. Nàng đang định phóng lên lầu. Đèn trên lầu vụt tắt, ở nơi góc vườn có hai người xuất hiện. Bốn thiếu nữ xuôi tay đứng yên, Lữ Tứ Nương vội vàng lẩn vào trong bụi cây, nàng đưa mắt nhìn ra, bất đồ thất kinh, hai người đó một người là Thượng trang chủ, một người là Hàn Trọng Sơn sư đệ của Thiên Diệp Tản Nhân. Chỉ nghe Thượng trang chủ nói: “Hôm nay lão huynh muốn đi sao, sao không đợi ngày mai, hôm nay có ba tên tiểu tử kéo tới, khẩu khí rất lớn, tôi muốn nhờ ông tìm hiểu lai lịch của bọn chúng!”


Lữ Tứ Nương càng thất kinh, thầm nhủ Hàn Trọng Sơn võ công cao cường, ám khí lợi hại. Nếu một mình y thì đỡ, chỉ lo bọn Liễu Ân cũng tới đây. Nàng đang suy nghĩ chỉ nghe Hàn Trọng Sơn nói: “Bằng hữu của tôi đang chờ, ngày mốt tôi chắc chắn đến đây. Lát nữa tôi sẽ đến xem ba tên tiểu tử kia, nếu chúng đúng là nhân vật đã thành danh, lẽ nào tôi không biết”. Thượng trang chủ nói: “Hay lắm, tôi lên thăm Quận chúa trước, mấy ngày nay nàng ta rất ngang ngạnh!” Hàn Trọng Sơn hừ một tiếng, nói: “Nha đầu đê tiện!” rồi cùng Thượng trang chủ lên lầu, Lữ Tứ Nương vội vàng chạy ra, thi triển khinh công tuyệt đỉnh trở về phòng.


Hai người Cam, Đường đang nóng lòng chờ đời, Lữ Tứ Nương phóng tọt vào cửa sổ, Cam Phụng Trì nói: “Muội có nghe ngóng được gì không?” Lữ Tứ Nương nói: “Lát nữa lão quái vật Hàn Trọng Sơn sẽ đến thăm chúng ta, chúng ta cứ giả vờ ngủ”. Căn phòng khách rất lớn, ba cái giường xếp kề nhau, Cam Phụng Trì ngủ ở giữa, một hồi sau chợt nghe tiếng gõ cửa, Cam Phụng Trì cố ý để cho bọn chúng đợi một hồi mới giả vờ ngái ngủ bước ra mở cửa, Hàn Trọng Sơn và Thượng trang chủ đứng ở cửa, Thượng trang chủ nói: “Lúc nãy có người dạ hành vào trang, ba vị có kinh hãi không?” Cam Phụng Trì kêu: “Hổ thẹn”. Nói: “Chúng tôi ngủ say quá, chẳng biết trời trăng gì cả”. Thượng trang chủ nói: “Tôi chỉ sợ kinh động đến quý khách, thật là ái ngại”. Rồi kéo Hàn Trọng Sơn giới thiệu cho ba người, Hàn Trọng Sơn nhìn một hồi, tuy Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan đã từng gặp y một lần nhưng giờ đã thay đổi dung mạo, Lữ Tứ Nương lại mặc nam trang. Trong ánh đèn nhập nhoạng, Hàn Trọng Sơn chẳng nhìn ra được gì cả.


Hàn huyên mấy câu, Hàn Trọng Sơn nói: “Đã quấy rầy” rồi cáo từ, Thượng trang chủ bước ra theo, Hàn Trọng Sơn nói: “Hình như ba tên tiểu tử này chẳng phải là nhân vật thành danh gì cả, nhưng xem ra võ công cũng rất khá, có lẽ là đệ tử danh gia, chắc là đến đây muốn gây rối”. Thượng trang chủ chợt nói: “Có phải là môn hạ của Thiên Sơn kiếm khách không?” Hàn Trọng Sơn nói: “Thiên Sơn kiếm chẳng còn truyền nhân, ông cứ ôm hận mãi làm gì?” rồi lại nói: “Trang chủ, xin thứ tôi lỡ lời, thực ra với võ công của ông, lại có Vệ đảo chưởng và Mạnh trại chủ ở đây chả lẽ sợ ba tên tiểu tử này gây rối?” Thượng trang chủ thấy y nôn nóng nên không nói gì nữa. Hàn Trọng Sơn cung tay, lướt ra khỏi trang nhanh như làn khói.


Ngày thứ hai, ngày thứ ba, đầu lĩnh của các bang hội lần lượt kéo tới, Thượng trang chủ bận rộn tối mày tối mặt, nhưng vẫn âm thầm sai người canh giữ bọn Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì rất già dặn kinh nghiệm giang hồ, lời ăn tiếng nói rất cẩn thận. Đến trưa ngày thứ tư, Thượng trang chủ nên đích thân đến mời, cả ba người cùng y bước ra vườn, trong vườn đã bày sẵn mấy bàn tiệc rượu. Lữ Tứ Nương chợt nhớ đến bữa tiệc của Ngư Xác đại vương, xem ra rất giống với hôm nay. Thượng trang chủ mời họ ngồi vào ghế, Lữ Tứ Nương thấy có hai người quen mặt, một người là Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai, một người là Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công không khỏi thầm kêu lạ trong lòng.


Chính là:


Sơn trang nhốt ngọc nữ, trong tiệc thấy quần ma.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 16

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 16 Tỉ thí tìm tiêu đường trường lộ thân thủ Giải mối nguy nan một lời chuyện đã rõ




Bọn ba người Cam Phụng Trì ngồi xuống chỗ, chỉ thấy có không ngớt người đến chúc mừng Thượng trang chủ, Cam Phụng Trì nghe khách chúc mừng đại điển khai bang, lòng thầm nhủ: “Sao một bang hội mới lập mà có khí thế như thế?” đang ngạc nhiên, Thượng trang chủ chợt bưng chén rượu, tay trái rút ra một cây quạt xếp bật ra, mặt quạt hướng ra ngoài đen bóng, nan quạt phát ánh sáng lấp lánh, Cam Phụng Trì vừa nhìn đã hiểu ra, nghĩ thầm: “Té ra Thiết Phiến bang đã hồi phục từ đống tro tàn!”


Năm mươi năm trước, Thiết Phiến bang là một bang hội lớn ở Giang Nam, Bang chủ Thượng Vân Đình võ công cực cao, chẳng chịu cả mềm lẫn cứng, không thèm lấy lòng hai đạo hắc bạch, tuy cậy mạnh xưng bá nhưng cũng là một nhân vật lừng lẫy. Không ngờ sau đó Thượng Vân Đình bị Nhân yêu Hách Phi Phụng mê hoặc, đối chọi với Thiên Sơn thất kiếm, bị Lăng Vị Phong bắt sống, cuối cùng mất mạng (xem trong bộ “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”) sau khi Thượng Vân Đình chết đi, Thiết Phiến bang như rồng không đầu, tuyên bố giải tán. Lúc đó Thượng Vân Đình có một đứa cháu nội vừa tròn mười tuổi, lớn lên có chí hồi phục tổ nghiệp, đi khắp nơi tìm danh sư học được võ nghệ cao cường, tự đặt tên cho mình là Thượng Phúc Sơ. Bôn tẩu hơn mười năm, được Ngư Xác giúp đỡ mới lập lại Thiết Phiến bang, hôm nay là đại điển khai bang. Mang tiếng là khai bang nhưng thực sự là lập lại. Cam Phụng Trì đương nhiên cũng cùng mọi người nâng ly chúc mừng cho Thượng Phúc Sơ.


Thượng Phúc Sơ phe phẩy cây quạt sắt, cất giọng nói sang sảng: “Hôm nay tệ bang trùng kiến, tế tổ khai bang, được các vị đồng đạo không chê, đích thân đến hàn xá. Được Ngư Xác đại vương dốc sức tương trợ, trên dưới tệ bang đều cảm kích không nguôi”. Ngư Xác ngập ngừng, nâng chén rượu uống cạn rồi lại nói: “Các bang các đà ở Giang Nam chúng ta xưa nay rải rác như cát vụn, thế mạnh hơn năm mươi năm trước đã tiêu tan như làn mây, há chẳng đáng thẹn với tiền nhân hay sao, nay Ngư Xác đại vương xưng vương ngoài biển, khiến chúng ta ai nấy đều nứt lòng, các bang ở Giang Nam chúng ta sao không cắt máu ăn thề, giúp Ngư Xác đại vương”. Lời ấy vừa nói ra, đầu lĩnh của các bang đều bàn tán xôn xao, tuy trước khi đến đây bịn họ đã biết ý của Thượng Phúc Sơ, nhưng vì việc này liên quan quá lớn, nay được chính thức đề ra, không ai dám lên tiếng trước tiên cả. Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương vẫn ngồi yên lặng, biết đầu lĩnh của các bang bất đồng ý kiến với nhau, lúc này Thượng Phúc Sơ đã lên tiếng: “Chuyện này liên quan đến sự hưng suy của các bang chúng ta, theo tôi thấy chỉ có trăm lợi mà không có hại”. Bang chủ của Hải Dương bang Đồ Cảnh Siêu đứng dậy nói: “Lời của Thượng trang chủ rất đúng. Việc này liên quan quá lớn, xin hãy cho chúng tôi bàn bạc kỹ càng đã!” Câu nói này của y bề ngoài là tán dương nhưng thực sự là muốn kéo dài. Thượng Phúc Sơ biết uy vọng vẫn chưa đủ, Bang chủ các bang đến đây một nửa là nể mặt Ngư Xác, một nửa là vì tiếng tăm của tổ tông mình; thấy thế không dám gượng ép, chỉ đành bảo: “Đồ bang chủ tính toán sâu xa, tiểu đệ nào dám không tuân. Việc này ngày mai hãy tính tiếp”. Mạnh Võ Công rất thất vọng, đang định lên tiếng, chợt thấy có hai bang hữu bưng một hộp vàng, Thượng Phúc Sơ mở ra xem, chỉ thấy bên trong có một nén vàng, một tấm thiệp đỏ.


Thượng Phúc Sơ cầm tấm thiệp lên xem, mặt biến sắc, nói: “Mời họ vào!” một hồi sau, bên ngoài có hai già một trẻ bước vào. Đường Hiểu Lan vừa nhìn đã suýt nữa kêu lên. Té ra trong hai người già này, có một người là Tháp Dực Thần Sư Trâu Minh Cao, người trẻ là Trâu Tích Cửu con trai ông ta, nhớ lại năm xưa hai cha con đến nhà họ Dương đề thân, Dương Liễu Thanh cố ý gây khó Trâu Tích Cửu, khiến cánh tay của chàng ta suýt nữa đã gãy. Đường Hiểu Lan rời khỏi nhà họ Dương ít nhiều cũng có liên quan đến việc này, cách biệt mấy năm, không ngờ họ lại xuất hiện ở đây. Lữ Tứ Nương thấy chàng ta ngồi sững ra, khẽ hỏi: “Đệ nhận ra họ?” Đường Hiểu Lan gật đầu, trong nhất thời chuyện xưa lướt qua trong đầu. Chàng thầm nhủ: “Không biết Trâu Tích Cửu có còn căm hận mình hay không?”


Trâu Minh Cao sải bước tới, cung tay với Thượng Phúc Sơ, đưa mắt nhìn toàn trường, cao giọng nói: “Té ra hôm nay Thượng trang chủ mời các vị cao hiền trong võ lâm, hì hì, tiểu lão đầu đến thật hợp lúc!” Thượng Phúc Sơ cũng cung tay nói: “Tháp Dực Thần Sư, ngưỡng mộ từ lâu! Hôm nay cùng Lăng tiêu đầu đến đây không biết có gì chỉ giáo?” Trâu Minh Cao ôm quyền vái dài đầu lĩnh các nơi, lớn giọng nói: “Tại hạ tên gọi Trâu Minh Cao, bằng hữu này chính là tổng tiêu đầu Lăng Nhạc của Thông Nguyên tiêu hãng tại Nam Kinh, còn đây là tiểu nhi Trâu Tích Cửu. Hai tháng trước, tiểu nhi giúp Lăng tiêu đầu đưa một chuyến tiêu đến miền Quảng Đông, nửa đường đã bị bằng hữu Thiết Phiến bang chặn lại, tiêu ngân tuy không nhiều, chỉ khoảng hơn năm vạn lượng, tuy trong mắt Thượng trang chủ chẳng là bao, nhưng đối với Lăng tiêu đầu và lão hủ lại là một số tài sản lớn, bồi thường không nổi, chúng tôi chẳng còn cách nào chỉ đành làm mặt dày đến đây mong Trang chủ nể mặt, trả lại số tiêu ngân ấy. Trâu Minh Cao này đã hữu lễ!” việc cướp tiêu trên giang hồ chỉ là chuyện cực kỳ bình thường. Huống chi Trâu Minh Cao và Dương Trọng Anh được người ta gọi là Bắc quốc song hùng, từ lâu lục lâm miền Nam đã nghe danh họ. Đầu lĩnh các bang nghĩ: “Chắc chắn Thượng Phúc Sơ sẽ trả lại. Năm vạn lượng bạc lại không nhiều, Thượng Phúc Sơ không thể gây xích mích với những nhân vật đã thành danh này”. Nào ngờ Thượng Phúc Sơ nghe xong thì cười ha hả, bảo: “Theo lý mà nói, Trâu lão anh hùng đã đích thân đến đây xin lại tiêu ngân, quả thực đã nể mặt tiểu đệ. Dù thế nào đi nữa cũng phải trả lại tiêu ngân này. Có điều hôm nay là ngày đại điển khai bang, nếu đem bạc suông ra cửa là điều kiêng kỵ. Chi bằng thế này vậy, coi như năm vạn lượng bạc là tiền thưởng, chúng tôi và cha con Trâu lão anh hùng cùng Lăng tổng tiêu đầu tỉ thí ba trận, giúp vui cho các vị bằng hữu ở đây, Trâu lão anh hùng chắc chắn sẽ thắng, chúng tôi thua cũng tâm phục khẩu phục!”


Thượng Phúc Sơ nói ra những lời ấy, quần hùng đều thấy bất ngờ. Cam Phụng Trì cũng cảm thấy người này không có phong độ Bang chủ. Chàng không biết rằng Thượng Phúc Sơ có suy nghĩ khác. Hơn mười năm nay Thượng Phúc Sơ bôn tẩu vì chuyện lặp lại Thiết Phiến bang, tuy cũng có danh tiếng nhưng uy vọng vẫn còn ít, nhất là lời đề nghị lúc ấy không có ai phụ họa khiến cho y càng cảm thấy lúng túng hơn. Ngay lúc ấy Trâu Minh Cao lại đến đòi tiêu ngân, Thượng Phúc Sơ đang hậm hực không có chỗ phát tiết, bởi vậy mượn cơ hội này hạ một nhân vật thành danh, tăng thêm uy phong cho mình.


Trâu Minh Cao thấy lửa giận bốc cao, ngửa mặt cười ha hả rồi vuốt râu nói: “Lão hủ chỉ có bộ xương già, nào dám tỉ thí võ nghệ để đòi tiêu, nhưng nếu Bang chủ đã không nể mặt, chúng tôi cũng không cần ép. Bang chủ đã đưa ra điều này, nếu chúng tôi không tiếp, tiêu ngân lại không thể bồi thường được. Đành chịu vậy, chúng tôi chỉ nghe theo lời của Bang chủ”. Thượng Phúc Sơ nói: “Được, nếu trong ba trận thắng hai, năm vạn lượng tiền thưởng này thuộc về người thắng. Các người là khách, xin mời!” Trâu Minh Cao đang định đích thân ra tay khiêu chiến Thượng Phúc Sơ, tiêu đầu Lăng Nhạc đã nhảy ra, cao giọng nói: “Tiểu đệ đã lãnh chuyến tiêu này, xin mời Bang chủ thưởng cho hai chiêu”. Thượng Phúc Sơ hừ một tiếng, tỏ ý khinh khi, rồi đưa tay vẫy một cái, một hán tử mặt đen nhảy tót ra, người ấy là một trong ba Phó bang chủ của Thiết Phiến bang tên gọi Tào Nguyên Lang, cao giọng cười nói: “Không cần làm phiền tới Bang chủ, ta xin tiếp cao chiêu của Lăng tiêu đầu”. Lăng Nhạc hỏi xong họ tên thì cung tay nói: “Chúng tôi đến đây là muốn đòi tiêu, nào dám coi quý bang là không thể địch, chúng ta nên dùng lại đúng lúc, xin phó tiêu đầu nương tay”. Việc tỉ thí đòi tiêu là chuyện bình thường trên giang hồ, Lăng Nhạc chặn đầu trước theo quy củ giang hồ, Tào Nguyên Lang lại là một hán tử thô hào, không hiểu lắm quy củ giang hồ, lòng thầm cười Lăng Nhạc chưa đánh đã sợ, nên bước ra, nói: “Quá lời, quá lời!” rồi lập tức khai chiêu, hai tay vươn vai, các khớp kêu lên răng rắc, đột nhiên y sấn tới, quét thẳng quyền tới, Lăng Nhạc là hảo thủ của phái Thái Cực, ông ta xoay người đánh một chiêu Tà Quải Đơn Tiên chém xéo vào cổ tay của kẻ địch, Tào Nguyên Lang cũng rất nhanh nhẹn, y xoay người đấm vù một chưởng vào be sườn của Lăng Nhạc, Lăng Nhạc đánh ra một chiêu Dã Mã Phân Tâm, chân trái đứng trụ, chân phải đứng hờ, tay trái giở lên, tay phải trầm xuống, cũng không biết ông ta đã xử lực như thế nào mà Tào Nguyên Lang đã bị ông ta đẩy lui mấy bước. Thượng Phúc Sơ nhíu mày, nói với Vệ Dương Oai: “Đối với Thái Cực quyền cần chi phải tấn công mạnh”. Câu này vốn là nói cho Tào Nguyên Lang nghe nhưng Tào Nguyên Lang đã thua một chiêu, y đang nóng nảy nào để ý lời của Bang chủ, ngón nghề của y là Hắc hổ quyền, đã luyện được một thân sức trâu, nghĩ thầm mình chịu một hai quyền của đối phương cũng chẳng hề gì, thế là đánh hờ một chiêu, đột nhiên lại xông lên, đánh ra một chiêu Ác Hổ Đào Tâm, quyền trái đánh nhanh như điện chớp vào ngực của Lăng Nhạc, Lăng Nhạc hơi lắc người, đột nhiên xoay cổ tay móc lấy cùi chỏ phải của kẻ địch, mà Thái Cực quyền là môn võ mượn lực sử lực, Tào Nguyên Lang đã dốc hết sức, bị ông ta đẩy một cái đã loạng choạng, chồm người về phía trước, Lăng Nhạc tống tay phải, đẩy chưởng trái Tào Nguyên Lang té sầm xuống đất, gắng gượng một hồi mới đứng dậy nổi. Đó là Lăng Nhạc nương tay, chỉ dùng ba phần sức chứ nếu không cổ tay của y đã bị vặn gãy.


Trâu Minh Cao mặt lộ vẻ vui mừng, cung tay nói: “Đa tạ đã nhường trận đầu”. Thượng Phúc Sơ đặt chén rượu xuống, nói: “Được, ta tiếp trận thứ hai!”


Trâu Minh Cao lập tức ra sân, cất giọng sang sảng nói: “Bang chủ đích thân chỉ giáo, thật là tốt quá”. Thượng Phúc Sơ cởi áo ngoài, đang đinh ra trường, chợt có một thiếu niên từ phía sau lách ra, nói: “Cha để cho con tiếp trận này!” đây chính là con trai của Thượng Phúc Sơ tên gọi Thượng Thiếu Đình, từ nhỏ đã nội ngoại kim tu, căn cơ rất vững chắc, Thượng Phúc Sơ trầm ngâm một lúc, thầm nghĩ con mình hỏa hầu tuy kém nhưng võ công đã tinh thuần, vả lại tuổi trẻ lực mạnh, trước tiên đã chiếm được tiện nghi, để hắn tỉ thí với Trâu Minh Cao thất bại cũng không nhục, nhưng thắng thì có thể lừng danh giang hồ, thế rồi gật đầu nói: “Được, con hãy cẩn thận đấy!” Thượng Thiếu Đình cởi áo khoác ngoài, Trâu Minh Cao mỉm cười thối lui một bên, Thượng Thiếu Đình ngạc nhiên nhìn chằm chằm, Trâu Tích Cửu đã nhảy ra, lớn giọng nói: “Ta tiếp Thiếu bang chủ trận này”. Thượng Thiếu Đình mới vỡ lẽ ra, té ra Trâu Minh Cao không thèm động thủ với mình.


Sau khi bị Dương Liễu Thanh dạy cho một bài học, Trâu Tích Cửu đã không còn nghênh ngang nữa, hai tay vươn ra, ngưng thần chờ địch. Thượng Thiếu Đình nói: “Xin mời Trâu anh hùng ra chiêu trước!” Trâu Tích Cửu nói: “Nào dám, tôi chỉ là kẻ học sau, mong Thiếu bang chủ chỉ giáo cho”. Thượng Thiếu Đình nói: “Ngươi là khách từ xa tới, chi bằng mời ngươi ba chiêu trước!” Trâu Tích Cửu lại nói hai câu khách sáo, tay trái lật ra ngoài, quyền phải đấm vù ra, Thượng Thiếu Đình đẩy xong chưởng, phá chiêu số của chàng ta. Trâu Tích Cửu thầm nhủ: “Té ra y cũng học võ công của phái Thái Cực”. Rồi đứng vững mã bộ, hai quyền tấn công. Công phu hạ bàn của Trâu Tích Cửu rất vững chắc, Thượng Thiếu Đình không thể mượn lực đánh lực để đẩy chàng ta ngã ngựa, đấu được khoảng hơn hai mươi hiệp, hai bên chẳng kiếm được phần hơn, Trâu Tích Cửu quyền nào cũng có lực, Đường Hiểu Lan toàn thần để ý xem, bất giác khen: “Ngũ Hành quyền của y đã có tiến bộ!” Lữ Tứ Nương ngồi bên cạnh hỏi: “Ngươi quen biết hắn?” Đường Hiểu Lan khẽ gật đầu, nhìn không chớp mắt, trong lòng thầm mong Trâu Tích Cửu đắc thắng.


Đánh một hồi, Trâu Tích Cửu hơi chiếm được thượng phong, nhưng không trầm ổn như trước nữa, quyền chiêu của Ngũ Hành quyền vốn lợi ở chỗ tấn công, phải phát chiêu trước mới có lợi. Trâu Tích Cửu chiếm được thượng phong, cảm thấy kẻ này chẳng qua chỉ có thế, thế là liền lách người tiến bước, từ thế Đăng sơn khoa hổ biến thành Trừu lương hoán trụ, chưởng trái hộ trước ngực, chưởng phải đánh vào ngực của kẻ địch. Thượng Thiếu Đình hơi lách người, đột nhiên đổi thành hầu quyền, lao bổ tới phía trước, vung tay chụp vào hai mắt của Trâu Tích Cửu, cú biến chiêu ấy khiến cho Trâu Tích Cửu bất ngờ, vội vàng thâu chiêu đã tấn công, chưởng trái hộ ở trước ngực lật úp xuống rồi gạt lên, nào ngờ Thượng Thiếu Đình hóa trảo thành chưởng, đột nhiên chụp vào cổ tay của Trâu Tích Cửu, chiêu này lại là Cầm Nã thủ, Trâu Tích Cửu rùng vai thối lui, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tay phải của Thượng Thiếu Đình đánh ra một quyền nhanh như lửa xẹt, Trâu Tích Cửu né không kịp, chỉ đành hích vai lên, chỉ nghe bin một tiếng, Trâu Tích Cửu chịu một quyền thối lui mấy bước, may mà vẫn chưa ngã xuống, người trong Thiết Phiến bang cười ầm lên!


Trâu Tích Cửu rèn luyện mấy năm, tuy đã trầm tĩnh hơn lúc trước nhiều nhưng giờ đây đã mất mặt, chẳng còn kìm nén được nữa, chàng ta tung mình phóng vọt lên, quyền đánh ra như gió, tấn công gấp gáp về phía Thượng Thiếu Đình.


Lúc này Thượng Thiếu Đình đã quen với đường quyền của Trâu Tích Cửu, y từ nhỏ đi theo phụ thân bôn tẩu trên giang hồ, thường tỉ quyền đấu kiếm với cao thủ các bang các phái, bởi vậy kinh nghiệm nhiều hơn Trâu Tích Cửu, lại thêm y học được nhiều món, không câu nệ bởi một loại võ công nào, Trâu Tích Cửu tấn công mạnh mẽ chính là hợp với ý của y, chỉ thấy y ung dung lướt qua lạch lại trong quyền phong của Trâu Tích Cửu, nhìn bề ngoài tựa như y bị Trâu Tích Cửu đánh thối lui, nhưng thực ra y đang chế địch chiếm tiên, chỉ đợi Trâu Tích Cửu đánh quyền chậm lại thì sẽ lập tức tung đòn sát thủ!


Trâu Minh Cao thấy thề thầm than, mắng con trai mình đã theo mình nhiều năm mà vẫn lỗ mãng như thế. Ông ta đã nói trước nhiều lần: “Thắng đừng kiêu, bại đừng loạn”. Thế nhưng Trâu Tích Cửu lại trước kiêu sau loạn, nếu cứ như thế chắc chắn sẽ bại.


Trâu Minh Cao vừa mắng vừa lo, xem ra Thượng Thiếu Đình chắc chắn nhân cơ hội này tung đòn sát thủ. Nhưng Trâu Minh Cao chỉ có thể lo suông, với thân phận và uy vọng của ông ta trên giang hồ, không thể nào giúp cho con mình, cả lên tiếng ngăn lại cũng không thể. Đang lúc lo lắng, chợt thấy Trâu Tích Cửu dùng chiêu Xung Vân Phách Vụ trong Ngũ Hành quyền, hai quyền đấm thẳng ra, tấn công vào hạ bàn của kẻ địch, Thượng Thiếu Đình cười lạnh một tiếng, chưởng phải vung ra chụp lại, tay trái đấm táng ngang vào huyệt Thái Dương của đối phương, nếu bị y đấm trúng, Trâu Tích Cửu sẽ nguy mất!


Trâu Minh Cao kêu hoảng một tiếng, không màng đến thân phận nữa, tung mình toan vọt ra, đột nhiên có người đè vào vai, bên tai nghe có người quát: “Ngươi làm gì thế?” người đè vai của ông ta chính là Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai. Trâu Minh Cao lòng lo như lửa đốt, nhún vai định nhảy vọt lên, trong khoảnh khắc ấy, chợt nghe Thượng Phúc Sơ quát lên một tiếng, một bóng đen lướt ra giữa sân nhanh như tên bắn, Thượng Thiếu Đình và Trâu Tích Cửu chợt tách sang hai bên, Vệ Dương Oai cũng buông tay ra, Trâu Minh Cao và Thượng Phúc Sơ nhảy vọt ra, chỉ thấy giữa sân có một chàng thiếu niên anh tuấn, ôm quyền cười hì hì nói: “Hai hổ đấu nhau tất sẽ có một bị thương, vãn bối mạo muội hòa giải cho hai người, mong hai vị lão tiền bối thứ lỗi”.


Cha con Trâu Minh Cao đã cách biệt Đường Hiểu Lan nhiều năm, lại thêm lúc này chàng đã thay đổi dung mạo, không nhận ra được. Trâu Tích Cửu rất cảm kích, Thượng Thiếu Đình tuy tức giận nhưng lúc nãy y bị Đường Hiểu Lan lôi ra, biết người này võ công trên mình, không dám bước tới làm khó, chỉ đứng một bên nói: “Ngươi có hiểu quy củ giang hồ không? Rõ ràng ngươi đã thấy ta thắng mà cứ xen vào, đây gọi là giúp đỡ chứ đâu phải hòa giải?”


Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan đột nhiên ra tay cũng rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Hỏng bét!” quả nhiên người của Thiết Phiến bang quát mắng inh ỏi, Thượng Phúc Sơ cười lạnh: “Trâu lão anh hùng giao thiệp thật rộng, đã mời được người giúp đỡ. Có điều không chịu nói trước lại âm thầm ra tay, chỉ e không phải là hành vi của anh hùng. Nào, vị tiểu ca đã giúp cho Trâu lão anh hùng, vậy xin hãy tiếp trận này!”


Lời lẽ của Thượng Phúc Sơ rất già dặn, ý như muốn chê bai Trâu Minh Cao, lại trực tiếp khiêu chiến với Đường Hiểu Lan. Lúc này ánh mắt tất cả mọi người đều nhìn về phía Đường Hiểu Lan, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đều thầm lo!


Trâu Minh Cao mặt tái xanh, chòm râu rung rung, ông ta là anh hùng đã có tiếng tăm, làm sao có thể chịu nỗi những lời chê bai của Thượng Phúc Sơ, thấy Thượng Phúc Sơ đang bước sấn tới, sắp giao thủ với Đường Hiểu Lan, Trâu Minh Cao quát lớn: “Thong thả!” rồi phóng tới chặn trước mặt Đường Hiểu Lan, cao giọng nói: “Ta có lời muốn nói!”


Thượng Phúc Sơ thấy đã chiếm được thượng phong về mặt đạo lý, chỉ cười nham hiểm nói: “Trâu anh hùng có điều gì dạy bảo?” Trâu Minh Cao sang sảng nói: “Chúng ta đã hẹn tỉ võ ba trận, trận thứ nhất quý bang đã nhường, trận thứ hai tuy chưa phân thắng bại nhưng Thiếu bang chủ đã chiếm được thượng phong, chúng tôi nhận thua, còn vị thiếu niên anh hùng này chẳng hề quen biết với tôi, y có lòng tốt hòa giải, tôi xin bái tạ. Tôi cũng không dám nhờ y ra mặt hộ, chúng ta cứ làm theo quy củ. Trận thứ ba này do tôi lãnh giáo cao chiêu của Thượng bang chủ. Bang chủ là nhân vật tiếng tăm lừng lẫy ở miền Giang Nam, nếu thua trong tay Bang chủ tôi cũng bại mà vinh. Chẳng may bộ xương già này vẫn còn chịu nổi, hoặc Thượng bang chủ nhường cho đôi ba chiêu, vậy tôi xin nhận đại ân của Bang chủ, tệ hữu cũng tránh khỏi họa tán gia bại sản”.


Những câu ấy của Trâu Minh Cao rất sắc bén, trước tiên nhận Trâu Tích Cửu đã thua trận này, sau đó vẫn đòi tỉ thí võ công để đòi tiêu, đồng thời chỉ ra khí độ hẹp hòi của Thượng Phúc Sơ. Đầu lĩnh các bang đều xì xầm bàn tán, cảm thấy Thượng Phúc Sơ muốn trả thù một thiếu niên hậu bối đã mất thân phận; vả lại vì năm vạn lượng bạc mà khiến cho người ta tán gia bại sản thật không nên. Bởi vậy sau khi Trâu Minh Cao nói xong, không ai đứng về phía Thượng Phúc Sơ, trái lại có rất nhiều người khen rằng: “Đúng là gừng càng già càng cay, lời lẽ của Tháp Dực Thần Sư vốn đã xoay chuyển được cục diện”.


Thượng Phúc Sơ biến sắc, phẫy tay nói: “Phùng thiếu hiệp hãy lui xuống, Trâu lão anh hùng, chúng ta tỉ thí bằng quyền cước hay binh khí?” Trâu Minh Cao phẫy tay, Đường Hiểu Lan và Trâu Tích Cửu cũng nhất tề lui xuống, Trâu Minh Cao đứng thủ thế, nói: “Dù quyền pháp hay binh đao, tôi cũng chìu theo”.


Thượng Phúc Sơ cả giận, phất ống tay áo chẳng thèm động thủ, chợt bên ngoài có người chạy vào, đó chính là tên hương chủ tri khách, tay cầm một cái tráp màu đỏ, cao giọng nói: “Bang chủ, Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh và Quan Đông tứ hiệp đến gặp!”


Thượng Phúc Sơ và Trâu Minh Cao đều thất kinh, Thượng Phúc Sơ nhảy phắt ra, vén ống tay áo cung tay nói với Trâu Minh Cao: “Chúng ta hãy tạm dừng!” rồi đích thân dẫn vài đầu mục trong bang bước ra nghênh tiếp.


Trâu Minh Cao giật mình, ông ta không ngờ gặp lại Dương Trọng Anh ở đây. Ông ta cũng không biết nên nói với Dương Trọng Anh những lời gì? Đường Hiểu Lan càng hoảng lên, Cam Phụng Trì mỉm cười, nắm tay chàng nói: “Đường huynh không cần lo lắng, lát nữa chỉ cần ngươi đường lên tiếng, cứ để cho ta gỡ mối gút cho ngươi”. Khi chàng ta đang nói, Dương Trọng Anh và Quan Đông tứ hiệp đã bước vào!


Dương Trọng Anh đảo mắt liếc nhìn cha con Trâu Minh Cao, bước tới ôm quyền nói: “Trâu đại ca, vẫn mạnh giỏi chứ?” Trâu Minh Cao hừ một tiếng, lạnh nhạt nói: “Vẫn mạnh giỏi!” Dương Trọng Anh chợt quay đầu lại, nói với Thượng Phúc Sơ: “Thượng bang chủ, hôm nay quý bang lập lại hương đường, Dương mỗ này đến đây chúc mừng, đồng thời cũng có việc nhờ vả”. Thượng Phúc Sơ nói: “Dương lão anh hùng có việc gì, xin hãy nói ra!” Dương Trọng Anh lớn giọng nói: “Nhờ Bang chủ cho mượn năm vạn lượng bạc!”


Thượng Phúc Sơ biến sắc, thế rồi ôm quyền nói: “Nếu Dương lão anh hùng thiếu bạc sử dụng xin cứ lấy, nhưng muốn biết tại sao nhất định phải là năm vạn?” Dương Trọng Anh nói: “Tôi có một người bằng hữu là sinh tử tri giao, con trai của ông ta cũng là cháu của tôi. Cháu của tôi áp tiêu cho người ta, mất năm vạn lượng bạc, họ phiêu bạt giang hồ, không phải là người giàu có hàng trăm vạn như Trang chủ. Họ không bồi thường nổi số bạc này, kẻ làm thúc phụ như tôi làm sao không thể lên tiếng hộ cho hắn?”


Thượng Phúc Sơ nói: “Ồ, thế ra ông đến đây là đòi tiêu ngân cho Tháp Dực Thần Sư?” Dương Trọng Anh nói: “Đúng thế, tôi và Quan Đông tứ hiệp mong ngài nể mặt cho!”


Dương Trọng Anh có đức cao vọng trọng trong võ lâm, Quan Đông tứ hiệp là anh hùng lừng lẫy trên giang hồ. Thượng Phúc Sơ nhìn sang bên mình, mình có võ công cao nhất là Hàn Trọng Sơn vẫn chưa quay về, mình và Mạnh Võ Công cùng Vệ Dương Oai e rằng không phải là đối thủ của họ, trong lòng tuy tức giận nhưng cũng đành cố nặn một nụ cười, ôm quyền nói: “Chỉ một chuyện nhỏ này mà khiến năm vị từ xa đến đây, tại hạ thật ái ngại, nếu Dương lão anh hùng và Quan Đông tứ hiệp đã ra mặt, đừng nói là năm vạn lượng bạc, dù nhiều hơn tiểu đệ cũng dâng lên”. Nói xong, một mặt sai người lấy ngân phiếu, một mặt cho người bày thêm một bàn rượu, mời Dương Trọng Anh và Quan Đông tứ hiệp thượng tọa, lại đến trước mặt Trâu Minh Cao và Lăng Nhạc bồi lễ, mời họ ngồi cùng Dương Trọng Anh. Trâu Minh Cao đã thấy võ công của Thượng Thiếu Đình, rõ ràng Thượng Phúc Sơ ắt hẳn còn cao hơn, nếu tỉ thí thì mình cũng nắm phần thắng. Dương Trọng Anh đã giúp ông ta giải mối nguy, trong lòng rất cảm kích, nhưng vì có xích mích lúc trước, trong nhất thời lại không nói ra lời. Huyền Phong và Trâu Minh Cao cũng quen biết nhau, mỉm cười nói: “Dương đại ca nghe chuyện của Trâu lão anh hùng, trong lòng cũng nôn nóng, thúc giục huynh đệ chúng tôi gấp đường đến đây, may mà kịp lúc!” Trâu Minh Cao thầm nhủ té ra ông ta đến đây chỉ là vì mình. Dương Trọng Anh rót rượu, nói với Trâu Minh Cao: “Chuyện năm ấy, tiểu đệ rất ái ngại”. Trâu Minh Cao bưng chén rượu, uống cạn rồi cười lớn: “Qua hoạn nạn mới thấy giao tình, chuyện của con cái xin đừng nhắc đến nữa”.


Phía Dương Trọng Anh cười nói hớn hở, còn Thượng Phúc Sơ tiu nghỉu, bởi vậy mới tìm cách hạ Đường Hiểu Lan, y lớn giọng nói: “Hôm nay tệ bang lập lại hương đường, các vị anh hùng không hẹn mà đến, thật sự khiến chúng tôi vinh hạnh thêm rất nhiều, lúc nãy Phùng huynh đã lộ công phu, chúng tôi rất khâm phục. Đáng tiếc chỉ mới đôi chiêu ba thức, bởi vậy muốn mời Phùng huynh tiếp tục ra tay để chúng tôi mở rộng tầm mắt”.


Đường Hiểu Lan không biết đáp thế nào, Vệ Dương Oai là kẻ khôn khéo, nhìn thấy bộ dạng của Đường Hiểu Lan, nghe giọng nói của chàng, tựa như đã từng gặp qua ở đâu đó. Y đứng dậy nói: “Chi bằng tôi đọ vài chiêu với Phùng anh hùng để trợ hứng cho các vị”. Đường Hiểu Lan lo âu, trong nhất thời ánh mắt của mọi người đều tập trung về phía chàng.


Huyền Phong đạo trưởng già dặn giang hồ, những người ông ta đã thấy mặt, dẫu mười năm sau ông ta vẫn có thể gọi tên. Nhìn một hồi, chợt nói với Dương Trọng Anh: “Lão huynh xem thử kẻ này có giống Đường Hiểu Lan không?” Dương Trọng Anh đã nghi ngờ, nói: “Đúng là có hơi giống”. Trần Nguyên Bá nói: “Nhưng diện mạo thì không phải!” Trâu Minh Cao vội vàng kể lại chuyện Đường Hiểu Lan đã giúp mình. Ông ta vốn muốn giới thiệu cho Huyền Phong đạo trưởng, nào ngờ Huyền Phong đạo trưởng lại điểm cây gậy xuống đất, phóng vọt ra ngoài!


Vệ Dương Oai đang khiêu chiến, chợt thấy Huyền Phong nhảy tót ra, không biết ý ông ta thế nào, y mới chưng hửng, chỉ nghe Huyền Phong quát: “Lão đạo này thích nhất là những trò vui, vị anh hùng này đã mang theo bảo kiếm, chắc chắn là đệ tử của danh gia kiếm thuật, lão đạo muốn tỉ thì kiếm pháp với y”. Thượng Phúc Sơ vừa kinh vừa mừng. Loạn phi kiếm pháp của Huyền Phong đạo trưởng vang danh khắp nơi, không ngờ ông ta lại ra giúp mình tỉ thí với chàng thiếu niên này.


Cam Phụng Trì đẩy Đường Hiểu Lan ra, nói: “Bề trên đã có lệnh, kẻ dưới không nên từ chối, đệ hãy ra tiếp vị đạo trưởng nọ!” Đường Hiểu Lan thấy Cam Phụng Trì đã nói thế, chỉ đành đánh liều bước ra, Huyền Phong đạo trưởng lập tức quét gậy trên tay trái ra, trường kiếm trên tay phải từ dưới gậy đâm xuyên ra, kiếm pháp của Huyền Phong đạo trưởng như gió lốc mưa sa, hiểm hóc vô cùng, Đường Hiểu Lan tránh được hai chiêu, suýt nữa đã bị kiếm đâm trúng, chẳng còn tránh được nữa, chỉ đành rút cây Du Long kiếm ra, nhất thời hàn quang loang loáng, Huyền Phong đạo trưởng kêu lớn: “Tên phản đồ nhà ngươi còn chưa mau buông kiếm chịu trói!” rồi đâm soạt soạt hai kiếm vào các yếu huyệt trên mình Đường Hiểu Lan, cây gậy trên tay trái lại quét xuống, Đường Hiểu Lan buộc phải ngưng thần đối phó, không thể nào phân tâm nói chuyện được.


Cha con Trâu Minh Cao rất kinh hãi, Trâu Minh Cao kéo tay áo Dương Trọng Anh, vội nói: “Đại ca, vị thiếu niên anh hùng này đã cứu tiểu nhi, xem ra không phải xấu, có lời gì hãy từ từ nói, ông hãy ra bảo Huyền Phong đạo huynh ngừng lại!” Dương Trọng Anh lạnh lùng giật tay áo ra, nói: “Hắn phản bội sư môn, quy thuận Mãn Thanh, tội đáng muôn chết!” rồi đứng dậy nói: “Huyền Phong đạo huynh, hãy giúp tôi bắt tên nghiệt đồ, đừng giết chết y!” vốn là Dương Trọng Anh cũng muốn phóng ra nhưng đã có Huyền Phong ra tay, ông ta là kẻ bề trên nên không tiện xen vào. Trâu Minh Cao thấy ông ta mắng “nghiệt đồ”, ngạc nhiên hỏi: “Người này là ai?” Dương Trọng Anh nói: “Là Đường Hiểu Lan, năm xưa đã từng giao thủ với Tích Cửu”. Trâu Tích Cửu trừng mắt, tấn công cũng bất ngờ. Trâu Tích Cửu lòng dạ hẹp hòi, nhưng ân oán cũng phân minh, lúc nãy Đường Hiểu Lan vừa mới cứu mình đã có ơn với mình, muốn nói tốt cho chàng ta, nhưng thấy Dương Trọng Anh nghiêm nghị, làm sao dám lên tiếng, chỉ đành thở dài nói: “Chao ôi, không ngờ y lại như thế!”


Huyền Phong đạo trưởng đánh chiêu nào cũng lợi hại, Đường Hiểu Lan buộc phải dùng Thiên Sơn kiếm pháp, ánh ngân quang tỏa ra xung quanh, lúc như sóng dữ vỗ bờ, lúc như cầu vồng bắc ngang trời, chàng chỉ muốn phòng vệ chứ chẳng tấn công, phép đánh gậy và kiếm của Huyền Phong tuy rất ghê gớm nhưng chẳng hạ được chàng, giận đến nỗi mắng: “Phái Thiên Sơn đời đời đều có anh hùng, ngươi học được Thiên Sơn kiếm pháp mà làm nô tài cho bọn Mãn Thanh, đúng là ô nhục tiền nhân!” ông ta nói chưa xong, người của Thiết Phiến bang đã kêu ầm lên, Thượng Phúc Sơ múa quạt nhảy vọt ra, chặn cây quạt vào giữa hai người, lửa bắn tung tóe, Đường Hiểu Lan thừa thế nhảy lui hai bước. Thượng Phúc Sơ nói: “Huyền Phong đạo huynh, người này là kẻ thù của tệ bang, xin hãy nhường hắn cho tôi!” Huyền Phong nói: “Cái gì? Phải nhường cho ngươi?”


Thượng Phúc Sơ nói: “Ông là khách từ xa tới, dù có thâm thù đại hận với y cũng phải nhường cho chúng tôi!” lúc này Mạnh Võ Công, Vệ Dương Oai và người trong Thiết Phiến bang đã nhảy vọt ra, đứng thành một vòng vây, Huyền Phong đạo trưởng trừng mắt không chịu lui xuống. Thượng Phúc Sơ nói: “Tôi sẽ bắt tên này giao cho ông xử trí!” Huyền Phong thấy thế, tra kiếm vào bao nói: “Được, tên này tinh thông Thiên Sơn kiếm pháp, ông cẩn thận đấy!”


Thượng Phúc Sơ phẫy cây quạt sắt, Đường Hiểu Lan nói: “Tôi và Bang chủ xưa nay chẳng quen biết nhau, cũng chẳng qua lại với quý bang, sao lại kết thù?” Thượng Phúc Sơ nói: “Ngươi tuy là hậu sinh tiểu bối nhưng đã là môn hạ của phái Thiên Sơn, chả lẽ không biết gì về chuyện trước đây? Năm mươi năm trước tổ phụ của chúng ta đã bị Thiên Sơn thất kiếm hãm hại, không ngờ hôm nay tế tổ khai bang, tổ sư gia quả nhiên hiển linh, ma xui quỷ khiến ngươi đến đây, hừ! Quả tiền nhân trồng hậu nhân thu, tiền nhân có nợ máu hậu nhân phải trả, ngươi còn muốn chối tội?” bang chúng đều reo hò ầm ĩ trợ oai. Xem ra sắp phải động thủ, Cam Phụng Trì chợt nhảy vọt ra, quát lớn rằng: “Trả thù cũng không thể trả như thế, các ngươi muốn quần đả?”


Cam Phụng Trì mặt mũi vàng ệch, trông rất kinh tởm, tiếng quát ấy to như sấm, khiến lỗ tai ai nấy đều kêu lên ong ong. Người trong Thiết Phiến bang bất giác kinh hãi chùn bước. Thượng Phúc Sơ hừ một tiếng nói: “Ta quên còn có hai cao nhân ở đây, nếu hai vị đã đi cùng y, có phải là muốn gánh tội cùng y hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Ta không phải là môn hạ của Thiên Sơn, ai rảnh lo chuyện bao đồng của nhà ngươi, nhưng trên giang hồ báo thù cũng phải có quy củ, ta không quen thấy những bọn ỷ nhiều hiếp ít!” Thượng Phúc Sơ đỏ mặt tía tai, vốn là y lấy thân phận của một Bang chủ, khiêu chiến một kẻ hậu sinh tiểu bối đã là mấy danh dự, huống chi Cam Phụng Trì lại bảo y quần đã mới cãi rằng: “Sao ngươi không mở to mắt mà xem, ai quần đả. Bang chúng của tệ bang nhất thời kích động, muốn xem rõ mặt của kẻ thù, có chỗ nào trái với quy củ? Y là môn nhân của Thiên Sơn thất kiếm, ta là hậu duệ của tổ sư Thiết Phiến bang, hôm nay ta và y sẽ kết liễu mối thù. Thiết Phiến bang của ta không cần lấy đông thắng ít, nếu hai vị muốn giúp, ta cũng có người chìu theo”. Lẽ ra Thượng Phúc Sơ phải gọi con trai của y động thủ với Đường Hiểu Lan mới hợp thân phận. Nhưng y đã biết kiếm pháp của Đường Hiểu Lan, biết rằng con trai của mình chẳng phải là địch thủ của chàng nên mới làm mặt dày bước ra khiêu chiến. Cam Phụng Trì cười ha hả: “Vốn là trả thù ở kẻ hậu bối là điều tệ hại trong bang hội, hôm nay điều tệ hại này cũng dần dần biến mất. Ông là chủ của một bang, nếu hành sự như thế vốn là đã khiến cho người ta không phục. Nhưng ông đã muốn như thế, có điều chúng ta phải nói rõ trước, nếu ông thua thì sao?” Thượng Phúc Sơ nói: “Thiết Phiến bang không làm khó y nữa! Còn nếu tôi thắng?” Cam Phụng Trì nói: “Cứ mặc cho ông xử trí!” Huyền Phong kêu lớn: “Người này là phản đồ của Thiết chưởng thần đạn, việc thắng thua của Thiết Phiến bang bọn ta không quản!” Cam Phụng Trì mỉm cười, cung tay nói với Huyền Phong: “Điều đó đương nhiên”. Thượng Phúc Sơ lại vẫy cây quạt, bang chúng đều lui xuống, Mạnh Võ Công và Vệ Dương Oai nhích đến gần Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì thần sắc vẫn tự nhiên, bưng chén rượu uống cạn!


Huyền Phong đạo trưởng và Dương Trọng Anh đều lấy làm lạ, trông bộ dạng của Cam Phụng Trì chỉ tầm thường nhưng lời lẽ lại lợi hại đến thế! Vả lại nghe khẩu khí của chàng ta, có lẽ thân phận không phải tầm thường. Tứ hiệp và Dương Trọng Anh chưa bao giờ gặp mặt Cam Phụng Trì, không ai đoán được là chàng. Mọi người đều ngầm suy đoán, Dương Trọng Anh nói: “Chả trách nào Đường Hiểu Lan dám làm phản, té ra phía sau có người chống lưng”. Huyền Phong nhíu mày nói: “Người này xem ra hiểu rõ đạo lý trên giang hồ, chắc là cùng phe với chúng ta”. Dương Trọng Anh cũng cau mày nói: “Nếu là cao nhân làm sao có thể giúp cho tên nghiệt đồ này”. Khi họ đang nói thì hai người Đường, Thượng đã ra tay.


Thượng Phúc Sơ biết kiếm pháp Thiên Sơn lợi hại, nhưng thấy Đường Hiểu Lan tuổi còn trẻ, liệu rằng công lực của chàng không cao, hỏa hầu chưa đủ, vừa ra tay đã dùng cả hư lẫn thực, y điểm cây quạt vào mặt của Đường Hiểu Lan, rồi đột nhiên xỉa xéo qua nhanh như điện chớp lửa xẹt, đánh vào huyệt Kiên Tỉnh bên vai phải của chàng. Đường Hiểu Lan tạt xéo thanh kiếm, ánh hàn quang loang loáng vạch nửa hình vòng cung, giữ chặt toàn bộ phận trung bàn, lưỡi kiếm chém ngược lại, đây chính là thức khởi thủ trong Thiên Sơn kiếm tên gọi Vân Tỏa Thiên Sơn, trong chớp mắt chàng đã biến hóa thành chiêu thứ hai Tị Vân Vọng Nguyệt, cây Du Long kiếm quét ngang, thừa thế từ dưới bật lên, đâm vào mặt của kẻ địch. Thượng Phúc Sơ thấy kiếm pháp của chàng quả nhiên lợi hại đến thế, vội vàng thụp người xuống, cây quạt mở ra sử dụng như Ngũ Hành kiếm, đánh ra một chiêu Bình Sa Lạc Nhạn chém vào cổ tay của chàng. Chiêu này dùng rất già dặn, Đường Hiểu Lan vội vàng xoay mũi kiếm gạt ra ngoài. Nếu trúng chiêu này, Đường Hiểu Lan chắc chắn sẽ bị thương, nhưng Thượng Phúc Sơ sợ cây Du Long kiếm của chàng chém sắt như bùn, không dám đẩy ra hết thế, vì thế Đường Hiểu Lan gạt kiếm ra ngoài, cây quạt của y cũng rút về phía sau, hai người đều chẳng hề gì. Đường Hiểu Lan múa kiếm xông lên, lại đánh ra tuyệt chiêu Lý Quảng Xạ Thạch trong Truy Phong kiếm pháp, lưỡi kiếm đâm vào mạch môn của kẻ địch, Thượng Phúc Sơ điểm cây quạt một cái, cây quạt chạm nhẹ vào thân kiếm, mũi kiếm của Đường Hiểu Lan đã lệch qua, Thượng Phúc Sơ lại phóng vọt người lên, đợi Đường Hiểu Lan đuổi theo y đã bay là là xuống đất.


Hai người càng đấu càng kịch liệt, đôi bên đều gặp nguy hiểm. Đường Hiểu Lan thắng ở chỗ kiếm pháp tinh kỳ, trong tay lại cầm bảo kiếm; Thượng Phúc Sơ thắng ở chỗ công lực hơi cao hơn, kinh nghiệm phong phú. Hai người đấu hơn một trăm chiêu, Thượng Phúc Sơ sử dụng cây quạt như ngũ hành kiếm, lúc điểm lúc đâm, biến hóa đa đoan, hư thực đều dùng. Đường Hiểu Lan không màng đến những hư chiêu của y, chỉ triển khai Thiên Sơn kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp để phòng thân, đôi lúc lại dùng những tuyệt chiêu trong Truy Phong kiếm pháp để phản đòn. Thượng Phúc Sơ tuy già dặn nhưng kiếm pháp của Đường Hiểu Lan quá kín kẽ, chỉ đành buộc phải du đấu với chàng. Bang chúng của Thiết Phiến bang đều kinh hãi trố mắt, không ngờ một tên tiểu tử hậu sinh mà có thể đánh đến thắng bại khó phân đối với Bang chủ mà chúng coi như thần tiên.


Lữ Tứ Nương toàn thần quan chiến, so sánh tỉ mỉ Thiên Sơn kiếm pháp và Huyền Nữ kiếm pháp, cảm thấy Huyền Nữ kiếm pháp của mình tuy ảo diệu tinh kỳ nhưng nếu luận về trầm hùng mạnh mẽ, lại không bằng Thiên Sơn kiếm pháp. Nàng nhìn một hồi dần dần hiểu ra kiếm lý, Thiên Sơn kiếm pháp thắng ở chữ “bát” (rộng lớn), Huyền Nữ kiếm pháp thắng ở chữ “chuyên” (chuyên nhất), Đường Hiểu Lan bát chứ không chuyên, còn mình là chuyên chứ không bát. Trong lòng chợt nổi lên một ý nghĩ khác, nàng muốn dung hợp Thiên Sơn kiếm pháp và Huyền Nữ kiếm pháp nhưng nghĩ: “Dịch Lan Châu không thể thu mình làm học trò, Đường Hiểu Lan lại chưa đủ tinh thuần, trau dồi với y cũng chẳng ngộ được tinh túy của Thiên Sơn kiếm pháp. Vả lại mình có quốc thù gia hận, lấy đâu ra công phu mấy mươi năm để chuyên tâm tu luyện, nghĩ đến đây không khỏi cười khổ. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, võ học tinh thâm như biển lớn. Trước khi gặp Hiểu Lan, huynh thấy y công lực không cao, tưởng rằng y chỉ là hạng tầm thường. Không ngờ y có thể dùng kiếm pháp để bù vào chỗ công lực không đủ, có thể thấy đạo võ học dù bắt tay từ phía nào, chỉ cần có thể chăm chỉ rèn luyện thì sẽ có hy vọng”. Lữ Tứ Nương nói: “Lẽ văn võ tương thông, học võ cũng như học văn, người chăm chỉ còn hơn cả những kẻ chỉ nói mồm”. Cam Phụng Trì nghe xong thì mỉm cười.


Té ra trong phái Mang Sơn, ngoại trừ Liễu Ân hòa thượng, Cam Phụng Trì có căn cơ vững nhất, nhưng nếu luận về kiếm pháp và khinh công, Lữ Tứ Nương lại giỏi nhất. Cam Phụng Trì biết sư muội nói lời này là khen mình, nên mỉm cười nói: “Nếu học được nhiều mà không có diệu bút viết ra, vậy sức học ấy cũng chẳng thể nào biểu hiện được”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Sư huynh nói rất phải, sư huynh học được quyền của sư phụ, muội học được kiếm của sư phụ, chúng ta trau dồi bù đắp cho nhau”.


Lúc này Đường Hiểu Lan và Thượng Phúc Sơ vẫn ác đấu đến khó phân thắng bại, Đường Hiểu Lan điểm mũi kiếm ra đều bị Thượng Phúc Sơ dùng quạt đánh lệch hướng, nhưng Thượng Phúc Sơ chỉ có thể nhờ vào công lực để giải nguy, không thể đánh vào được. Lữ Tứ Nương nói: “Công lực của người này không kém ngũ sư huynh”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu gặp phải chúng ta, y có thể địch được năm bảy mươi chiêu”. Hai người bàn luận võ công tựa như chẳng có ai bên cạnh, khiến Vệ Dương Oai và Mạnh Võ Công đều thầm lo lắng. Vệ Dương Oai đã từng ác đấu với Lữ Tứ Nương trên đảo Điền Hoành, y nhìn một hồi, cảm thấy hình như mình đã gặp chàng thiếu niên này ở đâu đấy, đột nhiên nhớ đến Lữ Tứ Nương, không khỏi cả kinh nhưng nghĩ dù Lữ Tứ Nương có thể cải năm trang, nhưng cũng không có lẽ nào trẻ trung như thế, trông chàng thiếu niên này chỉ khoảng đôi mươi, nhưng khẩu khí lại lớn đến thế, dù y là đại hành gia trên giang hồ cũng không khỏi hoài nghi bất định.


Lúc này cuộc đấu trong trường càng gấp hơn, Huyền Phong đạo trưởng đã đứng dậy, chực đưa mắt nhìn ra ngoài, sắc mặt đổi khác, Cam Phụng Trì vội nhìn ra theo ánh mắt của Huyền Phong, chàng mới thấy bất ngờ, té ra Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên đang lôi một người bước vào, người này chẳng phải ai khác, chính là đệ tử thứ năm của Độc tý thần ni, Bạch Thái Quan!


Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên vâng lệnh Tứ bối lạc, đến tham gia đại điển khai bang của Thiết Phiến bang, Hàn Trọng Sơn có việc khác nên đêm ấy ra khỏi nhà họ Thượng, hôm nay mới trở về; Đổng Cự Xuyên đến phủ Lý Vệ làm khách, gặp Hàn Trọng Sơn rồi mới đến đây. Hai người vừa vào núi, chợt gặp Bạch Thái Quan đi một mình, cả hai đều có võ công cao hơn chàng ta, lại hợp lực tấn công, chỉ trong khoảnh khắc đã bắt được Bạch Thái Quan. Song bọn chúng biết Bạch Thái Quan là nữ tế của Ngư Xác, tuy việc hôn sự có thay đổi nhưng không biết rốt cuộc như thế nào; lại thêm Bạch Thái Quan là sư đệ của Liễu Ân, tuy sư huynh đệ của họ cũng bất hòa nhưng hai người Hàn, Đổng vì hai việc này, rốt cuộc không dám làm khó Bạch Thái Quan, chỉ dùng thủ pháp Cầm Nã điểm mạch môn của chàng, kéo vào trong trang.


Hai người vào trang chỉ thấy có người đứng lố nhố, hỏi ra mới biết Bang chủ đang tỉ thí với người ta, bởi vậy không khỏi ngạc nhiên, vội vàng vẹt bang chúng bước vào. Quan Đông tứ hiệp và Dương Trọng Anh đã từng ác đấu với Hàn Trọng Sơn ở phủ Tứ bối lạc, lúc này thấy y thì lửa giận bốc cao. Huyền Phong nói: “Thiết Phiến bang chắc chắn có liên quan đến Dận Trinh, chúng ta hôm nay phải mở rộng sát giới”. Dương Trọng Anh nói: “Các vị đối phó hai tên ma đầu để tôi đi bắt kẻ phản đồ!”


Hàn Trọng Sơn bước tới gần đấu trường, lớn giọng kêu: “Tại sao Thượng bang chủ lại tỉ thí với hạng tiểu bối?” y chưa nói xong, Quan Đông tứ hiệp đã lướt qua đầu các bang chúng! Hàn Trọng Sơn cả kinh, ở bàn tiệc gần đấy cũng có một bóng người phóng vọt lên!


Người phóng vọt lên chính là Lữ Tứ Nương. Vệ Dương Oai quát: “Các người làm trò gì thế?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Cam Phụng Trì đã vỗ vù tới một chưởng! Vệ Dương Oai gạt hai tay, bị chàng ta đẩy lui đến hai bước, Lữ Tứ Nương đã bay ra khỏi làn chưởng phong nhân ảnh như một con chim nhạn!


Quan Đông tứ hiệp phóng ra trước nhưng Lữ Tứ Nương càng nhanh hơn, từ trên không trung nàng đã vung cây kiếm múa ra một đóa kiếm hoa, đánh ra một chiêu Bạch Viên Kích Chi đâm xuống đầu Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn là sư huynh của Thiên Diệp Tản Nhân, võ công cực kỳ cao cường, thế là vội vàng buông tay, từ dưới đất phóng vọt lên, toan chụp thanh bảo kiếm của Lữ Tứ Nương. Nhưng y không ngờ rằng khinh công của Lữ Tứ Nương lại đến mức xuất thần nhập hóa, y vừa mới đánh được nửa chiêu Cầm Nã, ngón tay vừa mới búng vào thân kiếm của Lữ Tứ Nương, đã bị nàng kéo cùng rơi xuống, Lữ Tứ Nương lộn trên không trung một vòng, chiêu Bạch Viên Kích Chi vẫn không thay đổi, kiếm khí như cầu vồng đâm thẳng vào đầu y.


Đổng Cự Xuyên võ công hơi thấp hơn, không dám tiếp kiếm như Hàn Trọng Sơn, buộc phải buông tay ra, lách người phát ra hai chưởng. Bạch Thái Quan đã thoát thân, huơ chân múa tay mấy vòng để cho gân cốt thư giản, Hàn Trọng Sơn hạ người xuống, chém cây tị vân trợ về phía chàng ta. Quan Đông tứ hiệp đã tới, Huyền Phong đạo trưởng vung gậy đã đánh keng một tiếng, gạt cây tị vân trợ ra, tia lửa bắn ra tung tóe, cây trường kiếm trên tay phải cũng đâm soạt tới, Hàn Trọng Sơn múa cây tị vân trợ thành một vòng tròn lớn, gạt cả kiếm lẫn gậy của Huyền Phong ra ngoài. Lang Nguyệt thiền sư há mồm phun một vòi rượu về phía Hàn Trọng Sơn. Hàn Trọng Sơn cũng hơi thất kinh, thầm nghĩ nội công của người này thật ghê gớm. Huyền Phong lại đâm ra một kiếm, Hàn Trọng Sơn múa cây trợ thành một vòng tròn, mũi kiếm của Huyền Phong chợt đổi hướng, hạ xuống chém vào đôi chân của Hàn Trọng Sơn. Hàn Trọng Sơn gầm lớn một tiếng, chưởng phải đẩy ra, thối lui nửa bước, kiếm của Huyền Phong bị luồng chưởng phong gạt ra, cây gậy quét tới, lại bị đầu trợ chặn xuống. Lang Nguyệt thiền sư nhảy bổ tới, lại há miệng phun rượu, Hàn Trọng Sơn không dám tấn công, buộc phải múa tít cây tị vân trợ đến gió mưa không lọt, chờ đợi thời cơ để phản đòn.


Lữ Tứ Nương cũng đánh liên tục mấy kiếm, đẩy lui Đổng Cự Xuyên, Bạch Thái Quan nói: “Bát muội, giúp huynh một tay cứu Ngư Nương trước!” Lữ Tứ Nương nói: “Cái gì?” rồi nàng buông kiếm thế ra, Đổng Cự Xuyên rút chưởng thối lui, Liễu Tiên Khai điểm mũi chân xuống đất phóng vọt lên, co mười đầu ngón tay đột nhiên từ trên không đánh bổ xuống. Ngoại trừ vài vị lão tiền bối, khinh công Liễu Tiên Khai chỉ kém Lữ Tứ Nương, ngón tay của ông ta lại đeo nhẫn, bất ngờ đấm tới đỉnh đầu của Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên đau đến nỗi tóe đom đóm, chẳng phân biệt được Đông Tây, vội vàng thi triển một chiêu Vân thủ đẩy xéo ra. công phu dưới đất của Liễu Tiên Khai không cao, bị y đẩy một cái suýt nữa đã ngã nhào. Trần Nguyên Bá gầm lớn một tiếng, vận dụng Đại suất bi thủ vỗ ra một chưởng, chưởng phong kêu lên vù vù, Đổng Cự Xuyên thất kinh không dám tiếp đòn.


Công phu ngoại gia của Trần Nguyên Bá đã đến mức đăng phong tạo cực, nhưng nội công lại không bằng Đổng Cự Xuyên. Có điều Đổng Cự Xuyên không biết ông ta đến mức nào, chỉ thấy uy thế kinh người thì không khỏi thầm sợ, chỉ dám thi triển công phu Cầm Nã của phái Hình ý chạy vòng vòng xung quanh Trần Nguyên Bá. Liễu Tiên Khai lại một lần nữa phóng bổ tới, Trần Nguyên Bá vội né qua thừa thế đánh ra một chưởng, bị ông ta đẩy hai chưởng tới suýt nữa ngã nhào.


Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan thấy Tứ hiệp đánh nhau với kẻ địch nhất thời khó phân thắng bại, lúc này trong trường đã rối loạn. Cam Phụng Trì ác đấu với Vệ Dương Oai và Mạnh Võ Công, bàn tiệc bên cạnh đã lật nhào, Đường Hiểu Lan múa bảo kiếm mở đường xông vào, Bạch Thái Quan cũng cướp được một thanh đơn đao đuổi theo sau. Lữ Tứ Nương hỏi: “Ngư Nương thế nào?” Bạch Thái Quan nói: “Ngư Nương đã chạy ra, định tìm huynh, trước tiên nhờ người báo tin, trên đường còn để lại ám hiệu, huynh theo dấu đến đây, xem ra nàng bị Thiết Phiến bang bắt giữ”. Lữ Tứ Nương chợt nói: “Được, huynh giúp cho Cam sư huynh, muội đi cứu Ngư Nương”. Bạch Thái Quan mừng rỡ nói: “Muội làm sao biết tung tích của nàng?” Lữ Tứ Nương không đáp lời, lướt về phía Tây bắc nhanh như bay.


Cam Phụng Trì một mình đấu với hai cao thủ, đôi bên huề nhau chợt thấy Dương Trọng Anh chạy ra giữa trường, tấn công về phía Cam Phụng Trì, trong lòng lo lắng, thấy Bạch Thái Quan chạy đến, vội vàng kêu: “Đệ chặn cho huynh một lúc”. Rồi đánh hờ ra một chiêu, nhảy bổ vào giữa trường, lúc này hỗn chiến đã nổ ra, đầu lĩnh của các bang và người của Thiết Phiến bang thấy khách khứa đánh nhau, mà trong số khách khứa co người đến giúp cho Bang chủ của mình, ai nấy đều ngạc nhiên, trong nhất thời chẳng dám ra tay.


Thượng Phúc Sơ và Đường Hiểu Lan ác đấu với nhau đã đến lúc không thể can được nữa, thấy Dương Trọng Anh đột nhiên chạy đến giúp thì mừng rỡ, tinh thần trở nên phấn chấn. Dương Trọng Anh quát: “Lui xuống!” rồi buông tay chụp Đường Hiểu Lan, Thượng Phúc Sơ ngạc nhiên thâu chiêu. Đường Hiểu Lan không dám đối địch với ông ta, vội vàng lách người, trong lòng đã phát hoảng, Dương Trọng Anh quát: “Nghiệt đồ còn dám chống cự!” rồi bổ một chưởng vào đỉnh đầu của chàng, Đường Hiểu Lan nhắm mắt chịu chết. Cam Phụng Trì đã nhảy bổ tới, vung tay gạt ra, Dương Trọng Anh như vỗ chưởng trúng sắt thép, chấn động đến thối lui mấy bước. Dương Trọng Anh được người ta gọi là thiết chưởng thần đạn, không ngờ đã bị người ta gạt một chưởng dễ dàng như thế, vội vàng quát: “Tôn giá tại sao giúp kẻ bất nghĩa?” Cam Phụng Trì nhảy ra phía trước, đưa tay xoa lên mặt, bôi lớp thuốc dịch dung, Dương Trọng Anh há mồm trợn mắt, Cam Phụng Trì nói: “Dương lão tiền bối, chúng ta đã nghe danh nhau từ lâu, không ngờ hôm nay mới gặp mặt!” Dương Trọng Anh nói: “Ngươi là ai?” Cam Phụng Trì nói: “Giang Nam Cam Phụng Trì!” Dương Trọng Anh kêu ối chao một tiếng, vội vàng thi lễ, Cam Phụng Trì cũng vội vàng trả lễ.


Từ ngày xuất đạo Cam Phụng Trì toàn làm việc hành hiệp trượng nghĩa cứu tế kẻ nguy nan, bởi vậy danh lừng giang hồ, hai đạo hắc bạch đều khâm phục, Dương Trọng Anh cũng là người đức cao vọng trọng trong võ lâm, chỉ có điều Dương Trọng Anh thường ở trong nhà còn Cam Phụng Trì lại phiêu bạt bốn biển, hành hiệp khắp nơi nên danh tiếng càng lớn hơn, hai người liền thi lễ với nhau. Dương Trọng Anh nói: “Dám hỏi Cam đại hiệp tại sao bao che cho tên nghiệt đồ này?” lúc này Thượng Phúc Sơ đã đấu với Đường Hiểu Lan, nghe người này tự xưng là Giang Nam đại hiệp, trong lòng không khỏi phát hoảng!


Cam Phụng Trì nói: “Lệnh đồ có nỗi khổ tuyệt đại, có ẩn tình tuyệt mật, y tuyệt không phải là kẻ phản sư bội nghĩa!” Cam Phụng Trì dùng liên tục ba chữ tuyệt, Dương Trọng Anh bất giác biến sắc, Cam Phụng Trì nói: “Xin ngài nể mặt Cam mỗ, đừng truy đuổi theo lệnh đồ, sau này tôi sẽ nói rõ mọi chuyện!” Dương Trọng Anh khẳng khái nói: “Cam đại hiệp một lời như chín đỉnh, nếu đã nói thế, chắc là tôi đã trách nhầm tiểu đồ!” lúc này Bạch Thái Quan và hai người Mạnh, Vệ đã ác đấu được hơn ba mươi chiêu, không còn cầm cự được nữa nên thối lui vào giữa trường, Cam Phụng Trì nói: “Mong Dương lão tiền bối giúp sư huynh tôi một tay”. Dương Trọng Anh nói: “Đương nhiên!” rồi phóng vọt lên vỗ một chưởng về phía Mạnh Võ Công.


Cam Phụng Trì nhảy vọt về phía trước, kêu: “Đường hiền đệ, tránh ra cho ta!” Thượng Phúc Sơ luống cuống chân tay, vội vàng nhảy ra, kêu lớn: “Các người còn chưa động thủ, giúp ta bắt những tên này lại!” người của Thiết Phiến bang vội vàng ùa lên, Cam Phụng Trì tung người vọt lên trên một hòn non bộ, vung tay quát: “Thượng Phúc Sơ xu phụ Ngư Xác, làm ưng khuyển cho triều đình, giành giang sơn cho Dận Trinh, muốn dìm Thiết Phiến bang vào chỗ bất nghĩa, hôm nay gặp phải Giang Nam thất hiệp bọn ta, quyết không để cho y đắc thắng, các người hãy nghe đi, đừng nối giáo cho giặc!” đầu lĩnh của các bang hội nhận ra Cam Phụng Trì, vội vàng nói với đồng bọn: “Đây là Giang Nam đại hiệp!” có người nói: “Không biết thất hiệp có đến hay không?” có người chỉ: “Bạch Thái Quan cũng ở đằng kia”. Các đầu lĩnh đến đây dự tiệc, một nửa là nể mặt tổ tiên của Thượng Phúc Sơ, một nửa là sợ uy của Ngư Xác, nghe Cam Phụng Trì nói thế, bọn họ thà đắc tội với Ngư Xác chứ không dám đắc tội với Giang Nam thất hiệp. Có những kẻ nhát gan đã dắt tùy tùng bỏ đi, người của Thiết Phiến bang quá nửa không dám động thủ, có một số ít cũng chạy tới bao vây, bị Đường Hiểu Lan múa kiếm chặt gãy hết binh khí. Cha con Trâu Minh Cao cũng rút binh khí nhảy vào vòng chiến, giúp Đường Hiểu Lan chống địch.


Phía bên khinh công Lữ Tứ Nương đã triển khai khinh công tuyệt đỉnh, trong chốc lát đã lướt đến góc Tây của khu vườn. Nàng đến trước tòa lầu ba tầng, bên trong có hai thiếu nữ đi ra, cả hai kêu ồ một tiếng, bước lên hỏi: “Ai bảo ngươi đến đây?” Lữ Tứ Nương nói: “Nghe nói Quận chúa không khỏe, Bang chủ bảo tôi đem thuốc tới”. Hai thiếu nữ lộ vẻ ngạc nhiên, đồng thanh nói: “A bảo Quận chúa bị bệnh? Quận chúa vẫn đang khỏe mạnh bình thường, lúc nãy còn nói còn cười!” Lữ Tứ Nương chỉ buông lời hỏi dò, đã chứng thực được Ngư Nương ở đây, trong lòng cả mừng, chẳng cần nói gì nữa mà rút phắt thanh kiếm tung vọt người lên mái tầng thứ hai, rồi nàng điểm thanh kiếm, người lại bắn tiếp lên tầng thứ ba. Nàng vừa mới đáp xuống chợt một thanh kiếm đâm ngang tới, Lữ Tứ Nương đẩy kiếm qua, dẫn mũi kiếm người ấy lệch về phía trước, hóa giải được kiếm chiêu, Lữ Tứ Nương đứng vững chân, nhìn kỹ lại người trước mặt, thì ra đó là một bà già tóc bạc phơ.


Lữ Tứ Nương nói: “Tránh ra, ta không đả thương bà!” bà già cười lạnh: “Kẻ hậu sinh vãn bối nhà ngươi mà cũng đến dò thám Quận chúa!” rồi bổ xuống tiếp một kiếm, Lữ Tứ Nương hơi lách vai, rồi lướt người qua như tên bắn, phóng vào phòng, chỉ thấy một thiếu nữ nằm trên giường, đó chính là Ngư Nương! Lữ Tứ Nương nói: “Bạch Thái Quan đang đợi ở bên ngoài!” Ngư Nương ngồi bật dậy, chợt nàng chần chừ: “Ngươi là ai?” Lữ Tứ Nương đang định đáp lời, bà già ấy đã múa kiếm xông vào!


Ngư nương kêu: “Bà cho tôi ra ngoài!” bà già nói: “Không được cha cô cho phép, không ai có thể thả cô!” Lữ Tứ Nương cười lạnh nói: “Tôi thấy bà đã lớn tuổi, có ý khuyên bà tránh ra, bà lại còn dám đến ngăn cản?” bà già cả giận, đâm tới một kiếm, Lữ Tứ Nương lách người như làn gió, bà già đâm đến hơn mười nhát kiếm mà chẳng chạm được vào áo của nàng, Lữ Tứ Nương quát lớn: “Có tránh ra hay không?” rồi nàng múa tròn thanh kiếm, chợt nghe keng một tiếng, cây kiếm của bà già suýt nữa đã vuột khỏi tay, bà ta biết không địch nổi, trừng mắt nhìn Ngư Nương rồi gằng giọng nói: “Được, ta nhớ tên tiểu tử nhà ngươi!” Lữ Tứ Nương cười nói: “Bà nhớ thì tốt!” rồi lách người, ánh kiếm quang lướt tới, đâm soạt vào vai trái của bà già, bà già không dám nói thêm một lời, vội vàng gạt nhát kiếm rồi nhảy tọt ra cửa sổ.


Ngư Nương thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương thần kỳ như thế thì trố mắt, Lữ Tứ Nương nói: “Hảo cô nương của tôi ơi, người ta đang đợi cô, sao còn chưa ra cho mau?” Ngư Nương thấy Lữ Tứ Nương nói đùa với mình, nàng không dám tin, lại chần chừ thêm một hồi, Lữ Tứ Nương kéo nàng, Ngư Nương phất ống tay áo, cao giọng nói: “Bạch Thái Quan chắc chắn không có người bằng hữu như ngươi”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Tại sao không có?” ngươi đã biết ta là người thế nào của Bạch Thái Quan mà mới gặp mặt đã buông lời trêu ghẹo!” lúc này Lữ Tứ Nương mới nhớ mình là nữ cải dạng nam trang, mỉm cười kéo mũ xuống, lộ ra mái tóc dài óng ả, Ngư Nương vừa lo vừa mừng, chợt hiệu ra nhảy bổ tới ôm Lữ Tứ Nương nói: “Hảo tỷ tỷ, có phải tỷ là sư muội của Bạch Thái Quan không?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Giờ cô nương có còn lo nữa không?” Ngư Nương nói: “Tôi không ngờ tỷ tỷ lại trẻ trung đến thế!” rồi kéo tay Lữ Tứ Nương chạy xuống lầu.


Lúc này cuộc chiến trong trường càng thêm kịch liệt, Dương Trọng Anh và Bạch Thái

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 17 Kiếm trượng giao phong hung tăng gây náo loạn Tính tình chưa rõ ngọc nữ xuất kinh hoa




Cuộc ác đấu trong trường dừng lại, người của Thiết Phiến bang nghe Cam Phụng Trì quát một tiếng, nhất tề đều buông tay, chỉ nghe Cam Phụng Trì nói: “Các người đều là kẻ nghèo khổ, buôn bán ở chốn bạch đạo, cướp của bất nghĩa, Cam mỗ này không ngăn cản, nhưng bị triều đình lợi dụng, Cam mỗ này quyết không tha. Nếu là kẻ hiểu lý lẽ phải suy nghĩ lại cho kỹ”. Người của Thiết Phiến bang một nửa là sợ oai thế của Giang Nam đại hiệp, một nửa là thấy thế lớn đã mất, vội vàng nói: “Xin nghe lệnh Cam đại hiệp!”


Cam Phụng Trì tung cước đá một cái, Thượng Phúc Sơ phun ra một ngụm máu tươi té phịch xuống đất, Cam Phụng Trì nói: “Tuy Thượng Phúc Sơ nhà ngươi có dã tâm, nhưng vẫn chưa làm điều đại ác, nếu ngươi chịu cải tà qui chính, ta có thể tha cho ngươi một mạng”. Thượng Phúc Sơ lúc này làm sao dám nói nửa chữ không.


Cam Phụng Trì nói: “Ngươi muốn ta tha mạng, thứ nhất từ rày về sau không được gây náo loạn trên giang hồ”. Thượng Phúc Sơ vội vàng nói: “Xin nghe theo! Từ nay tôi xin giải tán bổn bang, dắt con về quê làm ruộng, đóng cửa phong đao, rửa tay gác kiếm!” Cam Phụng Trì nói: “Thứ hai, những tiền tài ngươi tích góp được phải trao cho ta xử trí, trừ những thứ trên người của ngươi, không được đem theo một đồng nào ra cửa”. Thượng Phúc Sơ tích góp mười năm, gia tài đâu chỉ trăm vạn, nghe Cam Phụng Trì nói không cho đem một đồng ra cửa, trong lòng rất đau đớn nhưng cũng chẳng còn cách nào, chỉ đành nói: “Tiền tài là vật ngoài thân, Cam đại hiệp cứ việc lấy hết cũng được”.


Cam Phụng Trì cười nói: “Ta cũng không cần lấy của ngươi”. Rồi bảo Thượng Phúc Sơ và người giữ chìa khóa tiền trong Thiết Phiến bang đem hết kim ngân châu báu ra, chàng ta giữ châu báu lại, chia tiền bạc cho các bang chúng, bận rộn nửa ngày mới giải quyết xong, Cam Phụng Trì quát: “Được, nhà ngươi có thể đi đi! Từ rày về sau đừng để ta gặp ngươi trên giang hồ!” Thượng Phúc Sơ thở phào, vội vàng dắt con ôm đầu co giò chạy ra khỏi thôn.


Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta gây náo loạn ở đây, lại thả bọn chúng ra, chỉ e chúng tụ tập đồng đảng tới, hoặc cấu kết với quan binh đến vây bắt chúng ta thì hỏng!” Cam Phụng Trì cười nói: “Không cần phải lo, xuất binh từ huyện thành ít nhất cũng phải hai ngày mới đến được đây, Ngư Xác muốn phái người đi cũng không dễ. Huống chi thôn trang này nằm giữa thung lũng, lại hiểm trở khó đi!”


Lữ Tứ Nương nghĩ bụng thấy cũng có lý, bảo: “Thất cả giỏi suy đoán, tiểu muội sánh không bằng”. Cam Phụng Trì nói: “Cẩn thận suy xét vẫn hơn”. Lúc này trời đã tối, Cam Phụng Trì gọi tất cả những nô bọc trong nhà họ Thượng ra, bày hai bàn tiệc, rồi chàng đưa mắt nhìn xung quanh mà chẳng thấy Bạch Thái Quan. Cam Phụng Trì nói: “Ngũ ca đâu?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Lúc nãy muội thấy ngũ ca cùng Ngư Nương thì thầm tâm sự sau hòn non bộ, chắc là cũng vì trùng phùng, cả cơm cũng quên ăn”. Cam Phụng Trì cười nói: “Muội gọi họ đến đây!” Lữ Tứ Nương vâng một tiếng, đang định bước ra, Cam Phụng Trì lại cười: “Ám hiệu của bổn môn trên những hòn đá chắc là do Ngư Nương viết. Ngũ ca cũng thật là, sao lại cho người ngoài biết ám hiệu của bổn môn”. Lữ Tứ Nương nói: “Ngư Nương cũng không còn là người ngoài nữa”. Cam Phụng Trì nói: “Tuy họ đã là phu thê nhưng Ngư Nương không phải là người trong bổn môn, ngũ ca làm thế cũng không ổn lắm”. Lữ Tứ Nương nói: “Khi gặp ngũ ca, muội sẽ khuyên”. Cam Phụng Trì gật đầu. Số là Bạch Thái Quan tính tình phóng khoáng, thường không để ý đến những chuyện này. Tuy kiếm pháp của Độc tý thần ni rất độc đáo nhưng vẫn chưa khai tông lập phái, nên không có Chưởng môn. Cam Phụng Trì là sư đệ, lại không tiện nói chàng, chỉ đành thầm bảo Lữ Tứ Nương khuyên răn. Lữ Tứ Nương là con gái của bậc danh nho, võ công cực kỳ cao cường, tính tình cũng dễ gần gũi, Bạch Thái Quan lại thân thiết với nàng hơn.


Cam Phụng Trì bận rộn cả ngày, lúc này mới rảnh rỗi gặp gỡ Quan Đông tứ hiệp, Tháp Dực Thần Sư. Chàng thấy Đường Hiểu Lan đứng bên cạnh Dương Trọng Anh, nói với Dương Trọng Anh rằng: “Dương anh hùng có còn hiểu nhầm lệnh đồ hay không?” Dương Trọng Anh khẽ gật đầu, ôm quyền đáp tạ. Té ra Đường Hiểu Lan đã kể hết mọi việc, Dương Trọng Anh không ngờ rằng thân thế của chàng phức tạp đến thế, ông ta vốn rất thương yêu chàng, chỉ vì hiểu lầm chàng phản sư bội nghĩa nên mới đòi giết chàng. Nay đã được giải thích, bao nhiêu nỗi hiểu lầm tan biến, bất đồ vuốt tóc chàng nói: “Thật thiệt thòi cho con!” Đường Hiểu Lan nói: “Điều đó cũng chẳng trách sư phụ”.


Trâu Tích Cửu sau mấy năm rèn luyện, đã hiểu biết chuyện đời, thấy Dương Trọng Anh và Đường Hiểu Lan thân như cha con, tình yêu đối với Dương Liễu Thanh vốn đã nhạt nhòa, nay chẳng còn chút gì. Chàng bước đến đáp tạ Đường Hiểu Lan, Dương Trọng Anh thấy thế cả mừng, cùng Cam Phụng Trì chạm cốc.


Dương Trọng Anh uống mấy chén, vuốt râu nói: “Nghe nói Hiểu Lan sắp theo các người vào kinh?” Cam Phụng Trì nói: “Đúng thế!” Dương Trọng Anh nói: “Tôi muốn dắt hắn về nhà một chuyến”. Cam Phụng Trì cười nói: “Chúng tôi cùng đi đến đây, vốn là muốn tìm lão anh hùng giải thích, nay đã gặp mặt nhau, không còn hiểu lầm nữa chúng tôi cũng hết chuyện. Y nên về hầu hạ ngài”.


Khi họ đang trò chuyện, Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan cùng Ngư Nương từ hòn giả sơn chạy vội ra. Lữ Tứ Nương kêu lớn: “Thất ca, đã tìm ra tung tích của Lộ sư huynh!”


“Lộ sư huynh ở đâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Hôm Lộ sư huynh bị bắt, cũng có Ngư muội ở đấy”.


Ngư Nương đi bên cạnh Bạch Thái Quan, mặt đỏ ửng, nói: “Hôm ấy sau khi Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan đại náo đảo Điền Hoành, cha tôi canh giữ tôi rất nghiêm ngặt, tôi giả vờ thuận theo ý của người, được mấy năm cha tôi bớt nghiêm ngặt hơn nhưng vẫn không có cơ hội nào chạy được. Cho đến tháng trước, cha tôi theo lời mời của Độc Long Tôn Giả đến một hòn đảo nhỏ ở cửa Lữ Thuận”. Nói đến đây Cam Phụng Trì kêu ồ một tiếng: “Độc Long Tôn Giả suốt đời ở Xà đảo, chưa bao giờ ra ngoài, làm sao lại hẹn với lệnh tôn?” Ngư Nương nói: “Tôi cũng không biết!” Lữ Tứ Nương nói: “Độc Long Tôn Giả danh tiếng lẫy lừng, không biết võ công thế nào?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh chỉ biết y và Tát thị song ma rất thân thiết, còn võ công thế nào thì chẳng ai rõ”.


Ngư Nương tiếp tục nói: “Sau khi cha rời nhà, nhân lúc mọi người để ý, đến tối muội đã đánh cắp một chiếc thuyền rồi bỏ chạy. Trên thuyền có nhiều thực phẩm, muội lại giỏi thủy tính, hôm ấy thủy triều lớn, muội liệu rằng khi họ phát giác, muội đã ra biển đến mấy chục dặm, họ cũng đuổi theo không kịp”. Nàng nói xong thì bật cười khúc khích. Cam Phụng Trì cũng cảm thấy nàng và Bạch Thái Quan thương yêu nhau thật lòng, khen rằng: “Cô nương có dũng khí thật khiến cho người ta khâm phục”. Ngư Nương cười nói: “Cũng không sao cả. Chỉ là ngày nào cũng phải ăn cá, thật đơn điệu”. Nàng ngập ngừng rồi nói tiếp: “Trước đây nghe Thái Quan nói, Lộ tam ca ở vùng Tiêu Sơn ven biển Triết Giang thế là muội lái thuyền về hướng ấy”. Cam Phụng Trì nói: “Năm sáu năm trước, tôi và Lộ sư ca cùng bát muội đã từng đánh với Ngự lâm quân một trận để cứu Thẩm tiên sinh, sau đó tôi đưa bát muội đến dãy Tiên Hà, Lộ sư huynh đã chạy đến Quan Đông, có lẽ cô nương không biết chuyện này”. Lữ Tứ Nương nói: “Nàng đương nhiên không biết, nhưng sự việc thật trùng hợp, khi nàng đến Tiêu Sơn, vừa khéo Lộ sư huynh cũng lén quay về”.


Ngư Nương nói tiếp: “Giả sử muội biết chuyện này, muội đã không ngốc như thế, muội đến Tiêu Sơn, hỏi nhà họ Lộ, mọi người đều không dám nói, đang đi hỏi chợt một toán quân binh cùng một thiếu nữ bước tới hỏi: ‘Cô nương tìm Lộ Dân Đảm làm gì? Cô nương là người thế nào với y?’ muội thấy nàng ta không tốt, định bỏ chạy, nàng thiếu nữ này võ công rất cao, từ trên lưng ngựa đã phóng vọt xuống, chặn trước mặt muội. Muội đấu được vài ba mươi chiêu mới chiếm được thượng phong” Lữ Tứ Nương nói: “Có phải thiếu nữ ấy mặt trái xoan, chân mày rất dài, trông rất vô tư hay không?” Ngư Nương nói: “Đúng thế”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Đó chính là con gái của Triết Giang tuần phủ Lý Vệ, tên gọi Lý Minh Châu. Nàng vốn không biết võ công mà sao chỉ trong vòng năm sáu năm mà có bản lĩnh cao cường đến thế?” Ngư Nương nói tiếp: “Muội vừa chiếm được thượng phong, đột nhiên có một thiếu phụ áo xanh trong đám quan binh phóng ra, chỉ đánh vài ba chiêu đã cướp binh khí của muội”. Lữ Tứ Nương hỏi: “Có phải thiếu phụ áo xanh là bà già tóc bạc phơ canh giữ cô nương hay không?” Ngư Nương nói: “Không phải. Song họ cùng một bọn”. Cam Phụng Trì nghe thế, trầm ngâm không nói. Chàng thầm nhủ với võ công của Ngư Nương, mình cũng chưa chắc trong vòng hai ba chiêu đã đoạt được binh khí của nàng, không biết thiếu phụ áo xanh đó là ai?


Lữ Tứ Nương hỏi: “Cô nương làm sao biết họ cùng một bọn?” Ngư Nương tiếp tục nói: “Sau khi thiếu phụ áo xanh bắt muội, đã treo muội lên một gốc liễu đối diện nhà họ Lộ, dùng roi đánh đập, chỉ mới đánh một roi, đột nhiên có một người phóng vọt ra, cao giọng nói: ‘Lộ Dân Đảm ở đây, các người muốn bắt cứ bắt, không liên quan gì đến kẻ vô tội!” thiếu phụ áo xanh cười hền hệt nói: ‘Hay lắm, ngươi đã tự chui vào lưới!’ rồi phóng vọt lên, chỉ khoảng mười chiêu đã bắt được Lộ sư huynh. Thiếu phụ áo xanh cầm roi quát: ‘Ả là người thế nào của ngươi?’ Lộ sư huynh nói: “Tôi chưa bao giờ gặp nàng’ thiếu phụ áo xanh nói: ‘Tại sao nàng tìm ngươi?’ Lộ sư huynh cùng mở mắt chằm chằm nhìn muội! Muội bị Lộ sư huynh nhìn đến đỏ mặt, trong tình hình như thế, muội không thể nói ra quan hệ với Thái Quan”. Lữ Tứ Nương bật cười, Ngư Nương giận dỗi nói: “Người ta đang e thẹn, tỷ tỷ lại cười”. Rồi nói tiếp: “Sau đó Lý Minh Châu đưa muội và Lộ sư huynh đến phủ nha, thiếu phụ áo xanh nói: ‘Kêu người Thiết Phiến bang đến nhận mặt thử, bọn chúng thường đi lại trên giang hồ, có lẽ biết lai lịch ả nha đầu này’. Hôm sau bà già ấy cũng đến đây, muội không biết bà ta, nhưng bà ta lại nhận ra muội, vừa gặp mặt đã nói tên của muội, thiếu phụ áo xanh lập tức thay đổi thái độ, cởi trói cho muội, giao muội cho bà già dắt đến Thiết Phiến bang”.


Cam Phụng Trì nghe xong, nói: “Bát muội đoán không sai, tam ca quả nhiên bị nhốt trong phủ nha Triết Giang. Chúng ta không cần đến quê của tam ca nữa”.


Hôm sau quần hùng chia tay nhau. Dương Trọng Anh cùng Đường Hiểu Lan về Sơn Đông. Quan Đông tứ hiệp cùng cha con Tháp Dực Thần Sư nhận lời mời của Dương Trọng Anh, cùng đến Sơn Đông. Khi chia tay nhau, Cam Phụng Trì chợt nói: “Mong Dương lão anh hùng cùng Quan Đông tứ hiệp giúp chúng tôi một việc nhỏ”. Dương Trọng Anh nói: “Xin Cam đại hiệp cứ căn dặn”. Cam Phụng Trì nói: “Chúng tôi không tiện mang theo châu báu của Thiết Phiến bang, xin các vị giữ hộ rồi dùng, hành hiệp trượng nghĩa đôi khi cũng phải dùng tiền”. Dương Trọng Anh mỉm cười chấp nhận.


Đường Hiểu Lan từ giã Lữ Tứ Nương, trong lòng rất rầu rĩ. Chàng tuy đã không còn tạp niệm đối với Lữ Tứ Nương nữa nhưng ơn sâu nghĩa trọng, rốt cuộc vẫn quyến luyến. Nhất là khi nhớ đến Dương Liễu Thanh, chàng cảm thấy Lữ Tứ Nương đáng yêu đáng kính. Dương Trọng Anh đã thấy điều đó, vội vàng thúc giục Đường Hiểu Lan đi cho mau.


Sau khi bọn Dương Trọng Anh kéo đi, bọn Cam Phụng Trì cũng thu xếp hành lý đến Hàng Châu. Tới ngày thứ ba họ đến Hàng Châu trú ngụ tại nhà trọ ở ven hồ, bàn nhau nửa đêm sẽ dò thám phủ nha. Lúc này trời vẫn còn sớm, bốn người thuê một con thuyền nhỏ, mặt hồ phẳng lặng như gương, cá lội tung tăng, chèo thuyền được một lát chợt thấy có ba tòa tháp cao vút in bóng xuống mặt hồ. Bên cạnh tòa tháp là một hòn đảo nhỏ, trên đảo hoa cỏ xanh tươi, lầu đài thấp thoáng. Ngư Nương vui mừng nói: “Nơi đây thật đẹp!” Lữ Tứ Nương cười rằng: “Đây là nơi đẹp nhất ở Tây Hồ tên gọi Tam Đàm Ấn Nguyệt, trong hồ có hồ, trong đảo có đảo, viên lâm đẹp nổi tiếng miền Đông Nam, nghe nói là do Tô Đông Pha xây dựng nên”. Thế là bốn người bỏ thuyền lên bờ, đi qua cây cầu chín khúc, Lữ Tứ Nương chợt chỉ tay nói: “Ở nơi phong cảnh tuyệt đẹp không thiếu người nhàn nhã. Chúng ta hãy nhìn thiếu niên kia!”


Ngư Nương đưa mắt nhìn xa xa, chỉ thấy trên mặt hồ có chiếc thuyền họa từ xa trôi đến, trên thuyền có một người tuổi khoảng ba mươi, mặt như quán ngọc, dung mạo tựa phan an. Trong thuyền có một bà già, trên bàn có bình trà xanh, một cây đàn giao, chàng thiếu niên vừa gãy đàn vừa hát, tiếng hát lan trên mặt hồ nghe du dương rất vui tai. Bạch Thái Quan cũng khen: “Người này thật bất tục”.


Tam Đàm Ấn Nguyệt là một hòn đảo nhỏ ở Tây Hồ, hòn đảo này thực tế chỉ là một bờ đê hình tròn, vây thành một hồ nhỏ bên trong, ở giữa lại có một đảo nhỏ hơn, nên mới nói là “Trong hồ có hồ, trong đảo có đảo”. Mà giữa hồ với hồ, giữa đảo với đảo được điểm tô bằng đình đài lầu tạ, trông rất dụng công. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta vào trong”. Rồi băng qua cây cầu chín khúc, xuyên qua tòa đình hình chữ vạn, đến nơi có nhiều cây thùy dương, chỉ thấy một tòa trà đình trông rất trang nhã, trên biển đề rằng “Nghênh Thúy Hiên”, hai bên có hai câu đối viết rằng: “Vạn khoảnh hồ bình trường tự kính; tứ thời nguyệt hảo tối nghi thu” Lữ Tứ Nương khen rằng: “Chỉ có mười bốn chữ mà đã vẽ nên cảnh sắc của Tây Hồ, so sánh bình hồ với thu nguyệt, đúng là song tuyệt”. Cam Phụng Trì cười nói: “Bát muội đi đến đâu cũng nhớ đến thi thư, ta không có hứng như thế”. Mấy năm qua Ngư Nương bị nhốt ở đảo Điền Hoành, khi rảnh rỗi cũng đọc thi thư, thấy Lữ Tứ Nương cao hứng như thế liền bảo: “Lữ tỷ tỷ, tỷ hãy đọc lại cho tiểu muội nghe đôi câu đối về bình hồ thu nguyệt”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Vội gì, lát nữa chúng ta sẽ đến bình hồ thu nguyệt, muội có thể chép lại những câu đối hay ở đấy”. Rồi nàng vẫn đọc: “Bằng lan kháng vân ảnh ba quang, tố hảo thị hồng liêu hoa sơ, bạch bình thu lão; bả tửu đối quỳnh lâu ngọc vũ, mạc cô phụ thiên tâm nguyệt mãn, thủy diện phong lai” Ngư Nương nghe xong, lẩm bẩm đọc mãi trong miệng.


Bốn người vào trà đình ngồi dựa xuống lan can, chủ quán trà chạy đến hỏi: “Bốn vị uống một ly ngẫu phấn rồi hai bình Long Tỉnh. Thế nào?” Ngẫu phấn và trà Long Tỉnh là nổi tiếng nhất ở Tây Hồ, Lữ Tứ Nương gật đầu: “Cũng được”.


Trong Nghênh thúy hiên có rất ít khách uống trà, ở bàn phía Đông có một ông già, thấy bọn Cam Phụng Trì bước vào thì tựa như để ý, chốc chốc quay nhìn họ. Lữ Tứ Nương thấy ông già rất quen mặt, trong nhất thời không nhớ ra.


Ngồi một hồi, ở nơi rèm trúc, chàng thiếu niên anh tuấn lúc nãy bước vào. Cam Phụng Trì thấy chàng ta khí độ hiên ngang, anh hoa nội kiểm, bởi vậy thầm để ý. Chàng thiếu niên cũng gọi một chén ngẫu phấn, pha một bình long tĩnh ngồi dựa lan can. Chàng ta nhìn sang phía Cam Phụng Trì với ánh mắt sáng quắc.


Lữ Tứ Nương và Ngư Nương đều cải dạng nam trang, chàng thiếu niên liếc mắt qua, Ngư Nương bất giác cúi đầu Lữ Tứ Nương khẽ dùng chân chạm vào nàng, nói: “Ngũ ca, hãy nhìn hoa sen trong hồ, thơ người xưa có nói: ‘Lưu đắc tàn diệp thính vũ thanh, đãn thính na du ngư điệp điệp chi thanh’. Giờ đây tuy không có mưa nhỏ, sen cũng chưa tàn, nhìn những hạt châu trên lá sen cũng đủ khiến người ta thêm phần khoan khoái”. Ngư Nương nói thế, biết Lữ Tứ Nương ngầm nhắc nhở mình, cố ý gọi nàng là ngũ ca, để nàng nhớ mình là một nam tử. Trong lòng nàng thấy buồn cười, nhưng nhớ lại không khỏi thầm lo, bởi vì nàng đã vô tình lộ vẻ e thẹn của một nàng thiếu nữ, nếu thiếu niên nọ nhận ra thì thật không tiện lắm.


Hình như thiếu niên cũng chẳng hề để ý, chàng ta nhìn lướt Lữ Tứ Nương, lại đưa mắt nhìn sang phía ông già, ông già tựa như cũng ngà ngà say, tự lan can ngâm rằng: “Vấn tấn hồ biên xuân sắc, trùng lai hựu thị tam niên. Đông phong suy ngã quá hồ thuyền, dương liễu ti ti phất diện. Thế lộ như thiên dĩ quán, thử tâm đáo xứ du nhiên. Hàn quang đình hạ thủy liên thiên, phi khởi sa âu nhất phiến”.


Đây là bài từ Tây giang nguyệt của từ nhân thời Nam Tống Trương Vu Hồ, ông già ngâm lên nghe tràn trề tình cảm. thiếu niên vỗ nhịp thưởng thức, tiếng ca vừa dứt, quả nhiên có mấy con chim từ bụi lau đập cánh bay lên, chàng thiếu niên chợt đứng dậy, bước đến bàn ông già, vái dài rồi nói: “Lão trượng chắc chắc là Xa lão bá đây rồi”. Ông già trả lại một lễ, nói: “Lý công tử, tôi và tôn ông cách biệt hơn ba mươi năm, không ngờ đến hôm nay còn gặp lại công tử”.


Lữ Tứ Nương chợt nhớ ra, ông già này chính là Xa Đỉnh Phong, người của Thọ Sương thư viện. Số là ngày trước có rất nhiều nho sinh ở các nơi đến nghe Lữ Lưu Lương dạy học, sơn trưởng của Thọ Sương thư viện (tức là hiệu trưởng ngày nay) Xa Đỉnh Phong cũng đến nghe, lúc đó Lữ Tứ Nương rất còn nhỏ, có lẽ chưa đầy mười tuổi; sau này Lữ Tứ Nương theo Độc tý thần ni đến Mang Sơn bởi vậy không gặp lại nữa. Nàng nghe cha mình nói, Xa Đỉnh Phong tuy xuất thân từ huyện Thọ Sương nhưng lớn lên ở Tứ Xuyên, nghe nói thời trẻ ông ta cũng có sự nghiệp, còn sự nghiệp gì thì cha nàng không nói rõ. Sau đó nàng thường nghe người ta nói, năm bảy tám tuổi, Xa Đỉnh Phong về quê cũ, đóng cửa đọc sách, không đầy mười năm đã thông hiểu kinh sách, tuy một nửa là do Lữ Lưu Lương chỉ điểm nhưng nghị lực của ông ta cũng đủ khiến cho người ta khâm phục.


Lúc này chàng thanh niên được gọi là Lý công tử nói rất nhỏ tựa như sợ người ta nghe thấy. Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Hai người này tựa như là thế giao, nhưng Xa Đỉnh Phong nói, ông ta và cha của chàng ta cách biệt hơn ba mươi năm, vậy khi đó chàng ta chắc chắn chưa ra đời, tại sao Xa Đỉnh Phong vừa nhìn đã kêu chàng là Lý công tử, tựa như đã biết được lai lịch của chàng từ trước?”


Chàng thiếu niên và Xa Đỉnh Phong nói chuyện một hồi thì đứng dậy, ông già cũng đứng dậy toan bỏ đi. Chàng thiếu niên lại ngồi xuống, đưa mắt nhìn ra ngoài, mặt lộ vẻ ngạc nhiên. Lữ Tứ Nương quay đầu nhìn ra, thấy ở nơi rèm trúc có ba phụ nữ bước vào, một người là thiếu phụ áo xanh, một người là Lý Minh Châu, còn người kia là tiểu cô nương tuổi khoảng mười bốn mười lăm trông rất đáng yêu, má trái có đồng tiền sâu.


Lữ Tứ Nương giật mình, cảm thấy ngón tay của Ngư Nương hơi rung rung. Lữ Tứ Nương biết ngay người đàn bà áo xanh này chắc chắn đã từng bắt nàng, vội vàng nắm chặt tay nàng, tỏ ý bảo nàng bình tĩnh.


Ngư Nương thầm nhủ: “Mình đã cải dạng nam trang, người đàn bà áo xanh chưa chắc nhận ra. Vả lại có Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương ở đây, dù có nhận ra cũng chẳng làm gì được, không cần phải sợ bà ta”. Thế là nàng vững dạ hơn, giả vờ tiếp tục ngắm cảnh.


Lý Minh Châu bước vào, cũng ngồi xuống chiếc bàn gần lan can, kéo tay đứa bé gái cười rằng: “Tiểu muội muội, cảnh sắc ở đây so với Bắc Hải ở kinh thành thì thế nào?” Bé gái lại mỉm cười, đưa đôi mắt to tròn nhìn quét xung quanh.


Ngay lúc này, chàng thiếu niên anh tuấn chợt đứng dậy, cao giọng nói: “Anh muội, sao muội lại đến đây?” bọn Lý Minh Châu cũng trợn mắt lên nhìn chàng ta, nhưng không ai đáp lời. Chàng thiếu niên vội bước tới, nói: “Anh muội, làm sao thế, ba năm không gặp mà muội đã không nhận ra huynh sao?” rồi đưa tay nắm lấy nàng thiếu nữ.


Nàng thiếu nữ lách người, trở tay tát tới, chàng thiếu niên suýt nữa đã bị nàng tát trúng, vội vàng nhảy lui hai bước, nói: “Anh muội, muội điên rồi sao?” Bé gái mắng: “Ai là Anh muội của ngươi?” rồi hai chân nhún một cái vung chưởng tát tới, chàng thiếu niên xoay gót chân, lách qua hai vòng, thân pháp của nàng tu rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã đánh ra mấy chưởng, chưởng nào cũng lợi hại. Cam Phụng Trì thất kinh, thiếu nữ này rõ ràng đã được cao nhân truyền thụ, vả lại không chỉ học võ công của một nhà!


Thiếu nữ ra tay rất nhanh mà thân pháp của chàng thiếu niên càng nhanh hơn, chỉ thấy chàng ta xoay mấy vòng, chưởng của nàng thiếu nữ tựa như sắp đánh trúng nhưng rốt cuộc lại hụt. Chàng thiếu niên lại kêu: “Này, muội không nhận ra huynh, chả lẽ cũng quên bộ công phu này rồi sao?”


Thiếu nữ mắng: “Nói bừa, chỉ mới chút bản lĩnh như thế, sao xứng làm sư phụ của ta? Nếu ngươi muốn dạy ta, hãy đem bản lĩnh chân thực ra!” rồi chưởng pháp đánh gấp hơn, vả lại lúc quyền lúc chưởng, lúc điểm lúc đâm, tấn công vào các chỗ huyệt đạo của chàng thiếu niên, chàng thiếu niên chỉ né tránh, suýt nữa đã bị nàng điểm trúng, thế là vội vàng đưa tay phải ra chống cự, đồng thời đưa tay trái kéo nàng. Nàng thiếu nữ phóng vọt người lên, mở mười ngón tay chụp xuống đầu chàng ta, chàng thiếu niên thất kinh, vội vàng thối lui: “Có phải muội điên rồi không? Muội học ở đâu loại công phu bàng môn tả đạo như thế?” Lữ Tứ Nương cũng thất kinh, nàng chưa bao giờ thấy có người nào biết nhiều môn võ công như thiếu nữ này, võ công của phái Thiếu Lâm, phái Vô Cực, phái Tuyết Sơn, lại còn có công phu độc môn của Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích.


Thiếu nữ vung quyền đánh lên, thiếu phụ áo xanh đột nhiên vọt tới, lướt qua mấy cái bàn, chụp về phía chàng thiếu niên, kêu lên: “Tiểu muội muội, lui xuống. Để ta bắt tên điên này!” chàng thiếu niên lách người, suýt nữa đã bị bà ta chụp trúng, chàng ta vội vàng nhảy tót qua một cái bàn, thiếu phụ vung tay đẩy ra một chưởng, thiếu niên vung hai chưởng chặn lại, quát: “Ngươi là ai?” chàng ta lảo đảo người, lại nhảy vọt qua một cái bàn nữa. Thiếu phụ cười lạnh từ xa đánh tới một chưởng, chưởng phong mạnh mẽ lạ thường, chàng thiếu niên đột nhiên giở cái bàn lên chặn, chỉ nghe bình một tiếng, cái bàn bị chưởng lực đánh vỡ nát! Ông chủ quán trà kêu hoảng: “Khách quan, có lời gì từ từ hãy nói, đừng đánh nhau ở đây!”


Thiếu phụ áo xanh nào màng tới, cứ luồn qua lách lại trong quán trà đuổi theo thiếu niên. Ông chủ quán trà nấp ở một góc, có vài người khách đã chạy ra. Ông già cũng nấp ở góc tường, kêu lên bài hãi: “Đang yên ổn tốt lành sao lại đánh nhau?”


Bọn Lữ Tứ Nương cũng nép đến góc tường, xem ra thiếu phụ áo xanh càng đánh càng dữ, chưởng phong cứ kêu lên vù vù, bàn ghế trong quán lật nhào, ly tách vỡ nát!


Thiếu phụ áo xanh ra tay rất mạnh mẽ, rõ ràng công lực rất cao; nhưng chàng thiếu niên kia cũng không kém, thân pháp của chàng phiêu hốt như gió. Vốn là nơi này rất chặt hẹp, bàn ghế lại ngả nghiêng chiếm chỗ, thế mà chàng thiếu nữ vẫn có thể luồn trái lách phải như bươm bướm xuyên hoa. Thiếu phụ áo xanh hất ngã hầu hết bàn ghế trong quán nhưng cũng chẳng chạm được vào người chàng. Thiếu niên quát: “Mụ già ăn mày kia, sao mụ lại ngang ngược vô lý đến thế?” thiếu phụ áo xanh nói: “Ai bảo tên điên nhà ngươi không nói lý lẽ?” chưởng phong càng dữ dội hơn, chỉ trong chốc lát, bàn ghế trong quán trà chẳng còn nguyên vẹn, thiếu phụ áo xanh đạp bừa lên đống bàn ghế đuổi theo chàng thiếu niên. Chàng thiếu niên nói: “Đừng phá hoại đồ đạc của người khác, muốn đánh hãy ra ngoài!” thiếu phụ áo xanh nói: “Được, cứ ra ngoài!” thiếu niên quát: “Nơi đây là thắng cảnh, không phải nơi tỉ thí, muốn đánh ngày mai đến Cửu khê thập bát giản mà phân cao thấp”.


Nào ngờ thiếu phụ áo xanh lại lạnh lùng cười: “Đừng hòng giở kế hoãn binh!” tay vẫn không chậm lại, lúc này bàn ghế đều đã ngã nghiêng, thiếu phụ thi triển thân pháp và bộ pháp Mai hoa trang, liên tục sấn về phía chàng thiếu niên. Chàng thiếu niên chẳng né tránh được nữa, chỉ đành đạp bừa lên đống bàn ghế chống cự với mụ ta, đánh được một hồi dần dần lọt xuống thế hạ phong.


Cam Phụng Trì không kìm được nữa, định ra tay khuyên nhủ. Lữ Tứ Nương chợt kéo chàng ta lại, nói: “Chúng ta đi thôi!” Cam Phụng Trì nói: “Tại sao?” Lữ Tứ Nương chỉ ra ngoài, chỉ thấy trên mặt hồ có một con thuyền nhỏ lướt tới, trên thuyền có một hòa thượng béo, tay cầm một cây thiền trượng, ngực phanh ra đón gió, người này chẳng phải ai khác mà chính là Liễu Ân!


Cam Phụng Trì thất kinh, một nửa võ công của chàng ta là do Liễu Ân truyền thụ, tuy chàng ta đã biết Liễu Ân bội sư phản nghĩa, đã sớm cắt tình huynh đệ, nhưng đây là lần đầu tiên chàng gặp y sau khi y bỏ chánh theo tà, trong khoảng sát na này, chàng vẫn coi Liễu Ân như sư huynh, nhớ đến y đã từng truyền võ công cho mình, trong nhất thời không biết có nên đối địch với y hay không.


Võ công của Lữ Tứ Nương do Độc tý thần ni truyền thụ, nàng không hề sợ Liễu Ân, thấy Cam Phụng Trì trố mắt ra thì nói: “Hai người chúng ta liên thủ đấu với y, sẽ nắm chắc phần thắng nhưng không biết có ai đi theo y hay không, vả lại không nên đánh nhau ở nơi này, chi bằng đi thôi!”


Ông già dựa sát vách tường, thấy thế kinh hãi, liên tục kêu lên: “Ngừng tay, ngừng tay, có chuyện gì cứ từ từ nói, sao lại đánh nhau như thế?” thiếu phụ áo xanh chợt cười lạnh nói: “Suýt nữa ta quên tên điên này còn có đồng bọn, Yến nhi, hãy bắt Tào lão đầu!” nàng thiếu nữ vâng một tiếng, lướt người tới, bàn tay nhỏ chụp xuống đầu Xa Đỉnh Phong.


Xa Đỉnh Phong phân hai chưởng, tưởng rằng đối phương chỉ là một bé gái hơn mười tuổi, bởi vậy chỉ cần gạt tay ra là xong, nào ngờ thiếu nữ tuổi còn nhỏ mà ra tay rất hiểm học, chưa chụp trảo xuống đã lập tức biến chiêu, chưởng trái đẩy vào cùi chỏ của kẻ địch, chưởng phải luồn qua cánh tay của kẻ địch kéo giật lại, Xa Đỉnh Phong kêu thảm một tiếng, cánh tay phải đã bị trật khớp, nàng thiếu nữ vỗ chưởng trái đánh bốp một tiếng, lại trúng vào ngực của ông ta!


Lúc này con thuyền nhỏ của Liễu Ân đã dần cập sát tới.


Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đang định chạy ra, tai nghe Xa Đỉnh Phong kêu thảm, thế là đùng đùng nổi cáu. Cam Phụng Trì nói: “Muội đi cứu ông già ấy, huynh giúp chàng thiếu niên”. Lữ Tứ Nương không đợi Cam Phụng Trì nói xong đã bay vọt người lên rồi đột nhiên nhảy bổ xuống, chụp vào hậu tâm của Xa Đỉnh Phong giở ông ta lên. Nàng thiếu nữ đúng là ngựa non háu đá, đã thấy khinh công của kẻ địch trác tuyệt như thế mà chẳng hề sợ hãi, nhân lúc Lữ Tứ Nương chưa đứng vững, hai chỉ đã đâm tới nhanh như điện chớp vào huyệt Khúc Trì của Lữ Tứ Nương. chiêu này đúng là hiểm hóc vô cùng!


Chỉ thấy Lữ Tứ Nương hơi lách người, chưởng trái đẩy ra, hóa giải chiêu số của nàng thiếu nữ, nàng thiếu nữ lách người, đột nhiên tung cước quét một đòn Hoành giang kích đấu, chưởng trái trở tay chém ngược lại, tay trái hợp chỉ thành chưởng, sử dụng chiêu số Cầm Nã. Lữ Tứ Nương nghiêng người kéo Xa Đỉnh Phong ra sau, đẩy một tay ra phía trước hóa giải đòn Cầm Nã thủ của nàng thiếu nữ; nàng thiếu nữ chẳng biết tiến lùi, tiếp tục bổ chưởng ra. Lữ Tứ Nương vừa giận vừa buồn cười, chưởng phải hạ xuống rồi đẩy ra ngay, hóa thành Thuận Thủy Thôi Châu, chưởng này hàm chứa nội lực, không những đã phá giải chưởng thế của nàng thiếu nữ mà còn chặn chưởng thế của nàng lại, khiến nàng không thể nào phát ra chiêu thức được, muốn rút về cũng chẳng xong. Lúc này Lữ Tứ Nương chỉ cần hơi dùng kình, nàng thiếu nữ chắc chắn bị nội thương, khuôn mặt nàng ta đỏ ửng trông rất đáng yêu. Lữ Tứ Nương không nỡ đả thương nàng, lập tức thu chưởng lại, chụp Xa Đỉnh Phong xông ra ngoài. Nàng thiếu nữ hoảng hồn, dựa vào tường thở hổn hển.


Lại nói thiếu phụ áo xanh sắp đắc thủ, chợt Cam Phụng Trì nhảy vọt vào, vỗ vù ra một chưởng, thiếu phụ nghe chưởng phong biết ngay là kình địch, thế là hai chưởng hợp lại rồi đẩy ra phía trước, cả hai bên đều thấy cánh tay tê rần. Thiếu phụ áo xanh thất kinh, chưởng pháp thay đổi, một chân tiến về phía trước, hai chưởng tiếp tục đẩy về phía trước, chiêu này gọi là Khoa Hổ Đăng Sơn, trong chưởng có dồn âm kình. Cam Phụng Trì lảo đảo tựa như kẻ say, người ngửa ra phía sau, đột nhiên chồm về phía trước, tay phải xuyên lên, thiếu phụ đẩy chưởng lực tới, chỉ cảm thấy như trúng vào vật mềm mại, Cam Phụng Trì chợt quát: “Ngã!” bàn tay phải đã chập vào phía dưới cánh tay trái của thiếu phụ, chưởng trái đã vỗ ngang vào huyệt Thái Dương bên mang tai của mụ ta. Đây chính là công phu bí truyền Triêm Y thập bát điệt của Độc tý thần ni, trong số các đệ tử của Độc tý thần ni chỉ có Liễu Ân và Cam Phụng Trì biết sử dụng, còn Lữ Tứ Nương khi vào sư môn tuổi vẫn còn trẻ, công lực chưa đủ, chưa được truyền thụ. Đối phó với những kẻ võ công tầm thường, không cần ra tay, chỉ cần mượn lực xử lực thì có thể quật ngã kẻ địch. Cam Phụng Trì biết thiếu phụ áo xanh là kình địch nên một mặt dùng công phu nội gia thượng thừa Triêm Y thập bát điệt hóa giải chưởng lực của mụ ta, mặt khác dùng công phu Phân cân thác cốt và Đại suất bi thủ phản đòn!


Thiếu phụ áo xanh không kịp đề phòng, cánh tay trái đã bị Cam Phụng Trì tóm chặt, người ngã sấp về phía trước, nhưng nội công của mụ ta tinh thâm, khi lảo đảo sắp ngã, cùi chỏ táng qua, mượn lực kéo của Cam Phụng Trì chúi về phía trước, Cam Phụng Trì hóp ngực thu bụng, định dùng tiếp công phu Triêm Y thập bát điệt hóa giải cú táng của mụ ta, nào ngờ cú táng ấy chỉ là hư chiêu, mụ ta chùi người về phía trước, trầm vai buông chỏ, hóa giải chân lực nội gia của Cam Phụng Trì.


Cam Phụng Trì vỗ chưởng phải qua, chưởng phong quét qua màng tang của thiếu phụ áo xanh, khiến mụ bị thương. Thiếu phụ áo xanh cũng rút tay trái ra, loạng choạng mấy bước, mấy chiêu ấy hung hiểm cùng cực, chàng thiếu niên cũng phải hoa mắt.


Cam Phụng Trì liên tục sử dụng công phu Triêm Y thập bát điệt, thế mà chẳng quật ngã được thiếu phụ áo xanh, trong lòng thầm lấy làm lạ, lúc này Lữ Tứ Nương đã xông ra khỏi quán trà, Bạch Thái Quan và Ngư Nương cũng đuổi theo, Cam Phụng Trì kêu thiếu niên: “Chạy mau!” đột nhiên cúi người chụp hai chiếc ghế ném về phía thiếu phụ áo xanh, thiếu phụ áo xanh đẩy hai chưởng ra, đánh vỡ hai chiếc ghế thành bốn mảnh. Thiếu niên cũng thoát ra ngoài.


Cam Phụng Trì vội đuổi theo Lữ Tứ Nương, chui vào thuyền, dong buồm lướt đi. Con thuyền nhỏ của thiếu niên thì đậu ở bên cạnh, lúc này chàng ta cũng vừa mới nhảy lên thuyền. Thiếu phụ áo xanh chạy theo, chợt thấy Liễu Ân đứng ở đầu thuyền, vội kêu: “Bảo quốc thiền sư, đuổi theo tiểu tặc!” Liễu Ân nói: “Tiểu tặc nào?” thiếu phụ áo xanh nói: “Người trên hai con thuyền ấy đều là kẻ thù, ông bắt tên tiểu tặc trên chiếc thuyền họa bên trái trước cho tôi!”


Con thuyền của chàng thiếu niên đã lướt được hơn mười dặm, Liễu Ân ngồi xuống, dùng thuyền trượng quạt nước, con thuyền nhỏ lướt về phía chàng thiếu niên nhanh như tên bắn. Lúc này thuyền của Lữ Tứ Nương cách thuyền của Liễu Ân đến mấy mươi trượng, thấy Liễu Ân sắp sáp tới chàng thiếu niên, nàng đột nhiên quay đầu thuyền, nói: “Thất ca, xem ra thiếu niên kia là người cùng phe của chúng ta, chúng ta quay lại cứu y”. Cam Phụng Trì nói: “Được, cẩn thận một chút!” rồi quay đầu thuyền chèo vào giữa hai con thuyền.


Con thuyền của Liễu Ân lướt tới rất nhanh, trong chốc lát đã đuổi theo con thuyền họa, chàng thiếu niên chợt thấy một hòa thượng béo đuổi theo, trông uy phong lẫm lẫm tựa như tượng kim cương canh giữ sơn môn, không khỏi tức giận nói: “Ta đâu có oán thù gì với các ngươi, sao các ngươi lại hiếp người quá thể!” Liễu Ân chẳng màng tới, giở cây thiền trượng đứng trên đầu thuyền, rồi đánh vù tới một trượng! Chàng thiếu niên thấy y quá hung dữ, rút thanh kiếm gạt qua đánh keng một tiếng, lửa bắn ra tung tóe, thanh kiếm suýt nữa vuột khỏi tay!


Vốn là kiếm pháp của chàng thiếu niên cực cao, nếu ở trên bờ, dù chàng ta không đánh lại Liễu Ân cũng cầm cự được năm bảy mươi chiêu, nhưng giờ đây mỗi bên đều đứng trên con thuyền của mình ra tay, dù kiếm chiêu trác tuyệt cũng không thể nào thi triển, kiếm và trượng chạm nhau, ai lực mạnh hơn là thắng, Liễu Ân múa tít cây thiền trượng kêu lên vù vù bổ thẳng xuống như núi Thái đè đầu. Chàng thiếu niên chống cự không nổi, chàng ta lách người phóng lên mái thuyền, Liễu Ân quát lớn, quét cây thiền trượng đánh gãy cột buồm, chàng thiếu niên bị chao đảo, Liễu Ân quát một tiếng, quét tới trượng thứ nhất, lại đánh tiếp trượng thứ hai, con thuyền nghiêng qua, đánh tiếp trượng thứ ba, mái thuyền đã vỡ toác, chàng thiếu niên ngã chúi xuống nước, con thuyền nhỏ lật úp trên mặt hồ!


Liễu Ân đứng trên đầu thuyền cười lớn, chợt giở cây thiền trượng hua xuống nước một hồi. Ngay lúc đó, con thuyền nhỏ của Lữ Tứ Nương đã lướt tới như tên bắn, Bạch Thái Quan nói: “Chàng thiếu niên đã bị đánh rơi xuống hồ, làm sao đây?” Ngư Nương nói: “Không sao, chỉ cần y không bị đánh trúng, muội có thể cứu!” rồi đột nhiên nhảy ùm xuống nước.


Liễu Ân khua loạn cây thiền trượng xuống nước một hồi, con thuyền nhỏ của hai người Cam, Lữ đã lướt tới. Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan tuy đã cải dạng, nhưng không qua nỗi mắt Liễu Ân. Liễu Ân đột nhiên rút cây thiền trượng lên, quát lớn: “Cam Phụng Trì, ngươi cũng đến đây đối chọi với ta?”


Cam Phụng Trì cầm đao trên tay, đáp: “Tiểu đệ không dám đối chọi với sư huynh, nếu sư huynh gạt bỏ lòng danh lợi, tuân theo lời dạy của sư phụ, bọn đệ vẫn tôn trọng sư huynh...” Liễu Ân không đợi chàng ta nói xong đã quát: “Nếu không thì sao?” Cam Phụng Trì lạnh lùng nói: “Nếu sư huynh cứ cố chấp, vậy huynh chẳng còn là người trong bổn môn, tiểu đệ cũng không dám coi huynh là huynh trưởng”. Liễu Ân tức đến nỗi chân mày dựng ngược, quát: “Cam Phụng Trì, ngươi có nhớ ai đã truyền võ nghệ cho ngươi, ai đã giúp cho Giang Nam đại hiệp nhà ngươi lừng lẫy giang hồ?” Cam Phụng Trì rất thông minh, trước khi Liễu Ân phản bội, y rất yêu mến chàng ta, khi dạy dỗ cho chàng rất dụng công bởi vậy mới luôn nhắc đến ân nghĩa. Nhưng trên thực tế, Liễu Ân đặc biệt dụng tâm truyền võ nghệ cho chàng là thật, còn về danh hiệu Giang Nam đại hiệp là do Cam Phụng Trì tự phấn đấu mà có chứ chẳng liên quan gì đến Liễu Ân. Nhưng sau khi chàng ta có danh tiếng lẫy lừng, Liễu Ân đố kỵ trong lòng, nên gặp ai cũng bảo mình đã giúp chàng ta. Thậm chí trước mặt Cam Phụng Trì cũng nói như thế.


Cam Phụng Trì đương nhiên chẳng tính toán gì, nghe y mắng như thế trong lòng trái lại thấy chua xót, thầm than sư huynh của mình đã ra nông nỗi này. Liễu Ân thấy chàng ta đỏ ửng mắt, tưởng chàng hối hận tự trách, y giằng cây thiền trượng xuống đầu thuyền, nói: “Ngươi có thể biết sai là tốt, giờ hãy đi theo ta. Này, con Bạch Thái Quan nhà ngươi thì sao? Ngươi quyết đối chọi đến cùng với ta?” Cam Phụng Trì không kìm được nữa, nghe Liễu Ân nói như thế, chợt trợn mắt nói lớn: “Sư huynh, biết lỗi có thể sửa, thật là tốt biết bao nhiêu! Nhưng mong sư huynh tự hỏi lại mình, rốt cuộc là ai đã sai? Điều đầu tiên trong mười sáu giới điều sư phụ dạy nói gì? Ơn của sư huynh tuy sâu nhưng nghĩa của sư môn càng nặng hơn, đệ thà phản bội sư huynh chứ không đi ngược lại với đại giới của sư phụ!”


Nghe đến đây, Lữ Tứ Nương chợt lớn giọng nói: “Cái gì mà sư huynh với không sư huynh, y đã không còn là sư huynh của chúng ta từ lâu, thất ca, cần gì xưng đệ gọi huynh với y?” Liễu Ân trợn mắt, giằng cây thiền trượng xuống, cười rộ lên: “Ồ, té ra là do con tiện tì nhà ngươi đứng ở giữa bới móc!” Rồi vận đủ mười phần lực, quét vù qua một chưởng, Cam Phụng Trì đứng gần y nhất, chàng ta vung đao chặn lại, chấn động đến nỗi hổ khẩu đổ máu, Liễu Ân cũng lắc lư, trong lòng thầm nhủ: “Chả trách nào tiếng tăm của y lừng lẫy đến thế, công phu quả thật giỏi hơn lúc trước nhiều!”


Cam Phụng Trì chặn được một chiêu, biết mình vẫn chưa địch nổi sư huynh, trượng thứ hai của Liễu Ân đã quét tới, Cam Phụng Trì vận kình vào hai chân, đẩy vào mặt thuyền, con thuyền lướt ngang sang một bên, tránh được một trượng, Liễu Ân lại vung tiếp trượng thứ ba, Lữ Tứ Nương chợt cười dài, phóng vọt lên cao, cây Sương Hoa kiếm vẫy ra một đóa kiếm hoa từ trên không đâm xuống. Liễu Ân vung trượng lên trên, cây kiếm của Lữ Tứ Nương đè lên thân trượng, người lại bắn lên không trung, Cam Phụng Trì thất kinh, Lữ Tứ Nương lộn một vòng trên không trung, cả người lẫn kliếm bổ nhào xuống, Liễu Ân quát lớn: “Ngươi đã chán sống!” rồi cây thiền trượng từ dưới móc lên, kình phong quét tới, tà áo của Lữ Tứ Nương bay phất phới tựa như tiên nữ đạp gió, tư thế đẹp tuyệt vời! Liễu Ân đã dốc hết nội lực trong trượng này, mũi kiếm của Lữ Tứ Nương điểm vào đầu trượng, lại bắn mình lên không trung, Cam Phụng Trì vung tay, hai mũi trủy thủ phóng về phía Liễu Ân, Lữ Tứ Nương lộn một vòng tròn trên không trung, cả người lẫn kiếm lại hạ xuống, uy thế càng kinh người. Hay cho Liễu Ân, y vươn tay trái hớt hai mũi trủy thủ, cây thiền trượng vung lên, lại quét về phía vòng kiếm quang của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương đạp mũi giày vào cây thiền trượng, lại bắn mình lên cao hơn, những ngư phủ ở gần đấy đứng cả lên thuyền ngó qua, lòng cứ ngỡ là tiên nữ bay xuống Thái Hồ.


Liễu Ân hòa thượng vung cánh tay trái, hai mũi trủy thủ bay ngược về phía Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì không dám hớt trủy thủ, chàng lách người, hai mũi trủy thủ cắm lên ván thuyền. Lúc này Lữ Tứ Nương lại từ trên không hạ là là xuống, kiếm quang tỏa ra bốn hướng, lối đánh này đúng là hiếm có xưa nay, cả Cam Phụng Trì cũng ngẩn người ra. Liễu Ân thầm lo, không ngờ khinh công của nàng tiểu sư muội này lại tinh diệu hơn so với lúc ở đảo Điền Hoành! Lữ Tứ Nương trải qua năm năm khổ luyện ở dãy Tiên Hà, lúc này thi triển, tưởng rằng một đòn có thể đánh thắng, nào ngờ vẫn chẳng làm gì được Liễu Ân, trong lòng cũng phát hoảng. Lối đánh này rất hao phí tinh thần, chỉ cần sơ ý thì sẽ bị thiền trượng quét nát thây.


Liễu Ân ngưng thần múa trượng, vừa chặn được nhát kiếm thứ tư của Lữ Tứ Nương, đột nhiên con thuyền chòng chành, ván thuyền vỡ toác ra, nước chảy vào ồ ồ, cả con thuyền dần dần chìm xuống, té ra đó là trò của Ngư Nương!


Ngư Nương lớn lên ở vùng biển, tinh thông thủy tính, dù phong ba sóng gió cũng chẳng sợ, huống chi đây chỉ là Tây Hồ tĩnh lặng! Nàng lặn xuống nước, vốn là cứu chàng thiếu niên kia nhưng tìm mãi vẫn chẳng thấy, còn trên thuyền Lữ Tứ Nương đang đánh nhau với Liễu Ân, nàng ló đầu lên nhìn, thấy Lữ Tứ Nương gặp nguy, đột nhiên nghĩ ra một tuyệt chiêu, thế là lặn xuống đáy thuyền, rút cây bội đao, chỉ trong chốc lát đã đục lủng một lỗ lớn ở thuyền của Liễu Ân!


Liễu Ân võ công cực cao nhưng lại không giỏi thủy tính, không khỏi luống cuống chân tay, Lữ Tứ Nương từ trên không đâm xuống nhát kiếm thứ năm, Liễu Ân kêu lớn: “Không phải ngươi chết thì ta vong!” thế là chân điểm vào đầu thuyền, tung người lên cao hai mươi hai trượng, bổ cây trượng về phía Lữ Tứ Nương, đồng thời tay trái vung ra toan tóm lấy Lữ Tứ Nương trên không trung!


Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan đồng thời kêu hoảng, Cam Phụng Trì ném trủy thủ, Bạch Thái Quan vãi Mai Hoa châm, Liễu Ân múa tít cây trượng một vòng, trong tiếng trượng phong vù vù Lữ Tứ Nương đột nhiên bay trở về con thuyền nhỏ như một viên đạn! Cam Phụng Trì cả kinh, vội vàng nhảy vọt vào trong khoang, Lữ Tứ Nương bật dậy, cười nói: “Nguy hiểm thật!” Cam Phụng Trì thấy nàng chẳng hề gì mới yên lòng, chợt con thuyền nhỏ chao đảo, chỉ nghe Bạch Thái Quan kêu: “Thất ca ra đây!” Cam Phụng Trì vội vàng chạy ra, chỉ thấy con thuyền của Liễu Ân sắp chìm xuống, Liễu Ân nhảy lên mái thuyền, múa cây thiền trượng bổ mạnh xuống con thuyền của mình, hai con thuyền cách nhau khoảng hai ba trượng, cây thiền trượng chẳng thể nào đánh tới, nhưng trượng phong vù vù, thanh thế cũng rất ghê gớm. Liễu Ân đang tìm cách đẩy hai con thuyền gần nhau, Bạch Thái Quan giơ cây phát đao đứng trên đầu thuyền, sắc mặt tái xanh!


Cam Phụng Trì kêu: “Ngũ ca, để tiểu đệ tiếp một trượng”. Rồi xông tới trước mặt Bạch Thái Quan, Liễu Ân xoay gót chân một cái, con thuyền xoay một vòng, hai con thuyền đã gần nhau hơn một trượng, Liễu Ân quát lớn một tiếng, đột nhiên phóng vọt người lên bổ xuống một trượng về phía Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì dốc hết thần lực đánh ngang một đao, trượng và đao giao nhau, Cam Phụng Trì thấy một luồng lực lớn dồn tới, hổ khẩu rách toác, cây hồng mao đao trong tay bay bổng lên không trung, còn người thì bị chấn động lùi vào khoang thuyền.


Cam Phụng Trì té ngửa xuống, Liễu Ân suýt nữa cũng rơi xuống nước. Té ra công lực của Cam Phụng Trì tuy không bằng Liễu Ân nhưng cách nhau cũng không xa lắm. Chàng ta dốc hết sức mình đỡ một đao, Liễu Ân đang ở trên không trung, sau đao ấy thì không thể phát được lực nữa, bị chân lực nội gia của Cam Phụng Trì chấn động, lộn một vòng trên không trung, lọt xuống con thuyền đang lâm nguy của y! Ngư Nương ở dưới nước dùng lực kéo một cái, con thuyền nhỏ trên dưới đều chịu lực, lập tức lật úp!


Liễu Ân không thông thủy tính, lúc này chân đã chìm xuống nước, Ngư Nương dùng kiếm chém y, bị y dùng trượng khuấy dưới nước một cái, đôi trượng chạm với mũi kiếm, lực đạo tuy không mạnh nhưng Ngư Nương cũng không chọi nổi, thanh kiếm rơi xuống đáy hồ, thế là nàng vội vàng lặn xuống nhặt, không dám tấn công y nữa.


Liễu Ân trong lúc lâm nguy sinh trí, y cúi người xuống bẻ một mảnh ván thuyền, ném xuống nước, người bốc lên, mũi chân điểm xuống mảnh ván đang trôi lền bền, rồi lại tung người vọt lên cao, khi vọt lên cao thì dùng trượng đẩy miếng ván thuyền trôi đi, khi hạ xuống, vẫn dùng cách này, mượn một mảnh ván thuyền làm bàn đạp phóng lên bờ.


Sau khi đánh úp thuyền của Liễu Ân, Ngư Nương trồi lên mặt nước, leo lên con thuyền nhỏ, vội vàng quay đầu thuyền trèo về phía Cô Sơn, chiếc thuyền lướt đi như tên bắn, khi Liễu Ân phóng lên bờ, bọn Lữ Tứ Nương đã qua bờ bên kia.


Cam Phụng Trì cõng Xa Đỉnh Phong cố ý đi một đoạn đường vòng rồi trở về khách sạn, may mà không gặp kẻ địch.


Lữ Tứ Nương thở phào, nói: “Tên phản tặc thật lợi hại!” rồi bảo với Bạch Thái Quan: “Huynh hãy bôi thuốc trị thương cho lão trượng trước, lát nữa muội và thất ca sẽ tiếp xương cho ông ta”. Rồi nàng lập tức ngồi xếp bằng điều tức. Cam Phụng Trì cũng làm thế. Ngư Nương thấy thế ngạc nhiên, Bạch Thái Quan nói: “May mà có thất ca tiếp hộ huynh một trượng”. Té ra hai người Cam, Lữ bị trượng lực của Liễu Ân chấn động, sợ bị nội thương nên ngồi xếp bằng tịnh tọa vận khí điều nguyên. Một hồi sau, cả hai người đứng dậy, nói: “May mà không có chuyện gì!”


Chính là:


Đồng môn ác đấu, khiếp vía kinh tâm.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 18

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 18 Nghi mưa nghi gió nói dối kể chuyện xưa Nửa thật nửa ảo có ý dò chuyện trước




Ngư Nương mỉm cười bước tới nắm tay Lữ Tứ Nương: “Tỷ tỷ, không ngờ tỷ tỷ xinh đẹp như thiên tiên mà võ công lợi hại đến thế!” Lữ Tứ Nương cười nói: “Nếu không nhờ muội đánh úp thuyền của tên ác tặc, không biết trận đấu này sẽ ra sao!”


Lúc này Bạch Thái Quan đã bôi thuốc kim sang cho Xa Đỉnh Phong, Xa Đỉnh Phong hé mắt, mặt vàng ệch. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Ả này ra tay thật độc ác!” Lữ Tứ Nương bước tới nói: “May mà khí lực của nàng ta còn kém, chỉ gãy một xương sườn”. Cam Phụng Trì giỏi thuật tiếp gân nối xương, trước tiên sửa khớp cho ông ta, sau đó mới băng bó lại. Một hồi sau, Xa Đỉnh Phong dần dần hồi phục tinh thần, ông ta mở mắt, khẽ gật đầu tỏ ý cảm tạ. Lữ Tứ Nương nói: “Ông hãy nằm nghỉ một lát”. Xa Đỉnh Phong thều thào nói: “Xin hỏi ân công cao tính đại danh?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tiên tổ họ Lữ, tên hiệu là Vãn Thôn, lão trượng có quen biết không?” Xa Đỉnh Phong kêu ối chao một tiếng nói: “Có phải ân công là công tử của tiên sinh Bảo Trung hay không? Năm xưa tôi tuy không phải là môn nhân nhưng cũng từng được lệnh tổ chỉ điểm”. Ông ta gắng gượng toan ngồi dậy bái tạ. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ ông ta nằm xuống, nói: “Lão trượng là trưởng bối của tôi, y nhân thường nhắc tới, xin đừng khách sáo”. Xa Đỉnh Phong vẫn còn đau, thấy Lữ Tứ Nương coi ông ta như bậc trưởng bối nên cũng đành thôi. Cam Phụng Trì nói: “Thiếu niên đi cùng lão trượng là ai?” Xa Đỉnh Phong nhìn Cam Phụng Trì rồi nói: “Y... y...” Lữ Tứ Nương biết ông ta e ngại, nói: “Đây là sư huynh của tôi”. Xa Đỉnh Phong rùng mình, chợt nhớ Lữ Bảo Trung không có con trai, định thần nhìn lại Lữ Tứ Nương một hồi rồi nói: “Xin thứ cho tôi mạo muội, tôi nhớ Bảo Trung tiên chỉ có một người con gái tên gọi Oanh nhi, không biết có đi cùng thế huynh hay không?” Lữ Tứ Nương mỉm cười tháo khăn xuống, nói: “Không dám giấu gì, Lữ Oanh là tôi”. Xa Đỉnh Phong cả mừng nói: “Từ lâu đã nghe nữ hiệp có tuyệt thế võ công, hôm nay được gặp quả nhiên không sai. Ở dưới suối vàng lệnh tôn cũng được nhắm mắt”. Lữ Tứ Nương nghe ông ta nhắc đến cha mình bất giác rơi nước mắt. Xa Đỉnh Phong lại nói: “Còn đây có phải là người trong Giang Nam thất hiệp không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đây là thất sư huynh Cam Phụng Trì”. Xa Đỉnh Phong mừng rỡ, chống tay nhổm dậy nói: “Không ngờ lại gặp Giang Nam đại hiệp ở đây!” vì vui mừng quá độ nên chợt kêu ối chao một tiếng rồi ngất đi.


Một lát sau Xa Đỉnh Phong vẫn chưa tỉnh dậy, mọi người về phòng nghỉ ngơi, ăn cơm tối xong, Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan ngồi lại bàn bạc, Lữ Tứ Nương nói: “Việc không thể chậm trễ, hôm nay muội muốn dò thám một phen”.


Bạch Thái Quan nói: “Vậy cứ để Ngư Nương canh giữ ở đây, chúng ta cùng đi”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi nói: “Người đông trái lại sẽ đánh cỏ động rắn. Chi bằng cứ để một mình bát muội đi trước, sau khi tìm ra hư thực chúng ta lại sẽ đi bước tiếp theo cũng không muộn!” té ra Cam Phụng Trì vì sợ Liễu Ân đang ở phủ nha, mà khinh công của Lữ Tứ Nương lại trác tuyệt, dù y có biết cũng chẳng làm gì được nàng. Bạch Thái Quan nghĩ ngợi cũng hiểu ý của Cam Phụng Trì nên không nói gì thêm.


Lữ Tứ Nương ăn cơm tối xong, ngủ một giấc ngắn, nghe tiếng trống điểm canh ba mới thức dậy, thay bộ đồ dạ hành màu đen, lướt người ra khỏi cửa sổ. Sau khi ra khỏi khách sạn, Lữ Tứ Nương chạy như làn khói vào trong thành. Đến phủ nha, nàng nhảy vào hậu viên, trong khi bọn chúng chẳng phát hiện ra nàng.


Hậu viên nối liền với nội thất của phủ nha, Lữ Tứ Nương phóng lên mái nhà, thầm nhủ: “Tìm Lý Minh Châu hỏi thử xem”. Chợt thấy ở mái nhà đằng xa có một bóng người lướt tới, Lữ Tứ Nương thầm cười: “Không ngờ có người đồng đạo, xem thử y là ai?” nàng phóng người lướt theo sau lưng người ấy, được một đoạn nàng búng hai ngón tay vào nhau đánh tách một tiếng, rồi vội vàng nhảy tránh qua một bên, người ấy quay đầu lại, dưới ánh trăng hạ huyền tuy không rõ ràng nhưng Lữ Tứ Nương có thể nhìn thấy đó chính là chàng Lý công tử đã gặp ban ngày. Chàng ta quay đầu lại, không thấy bóng người, rất ngạc nhiên nên phóng người vào nội viện.


Lữ Tứ Nương bám theo chàng ta nhẹ nhàng nhảy xuống, trong phòng chợt có hai ả nha đầu bước ra, chàng Lý công tử ấy nấp sau một gốc cây, Lữ Tứ Nương lại nhún người phóng vọt lên xà ngang, chỉ nghe một ả nha đầu nói: “Tiểu thư và sư phụ đã qua bên ấy, nghe nói là đi gặp Bảo quốc thiền sư gì đó, tỷ không cần bưng tổ yến đường phèn lên nữa”. Một người nói: “Nhưng thiếu nữ ấy lại cần. Hừ, không biết ả là thiên kim nhà đại phú đại quý gì mà cả tổ yến của tiểu thư chúng ta cũng chê dở, bảo là không bằng ở nhà ả!” hai ả nha đầu ca cẩm một lúc rồi đi ra ngoài.


Lữ Tứ Nương không màng theo chàng Lý công tử ấy nữa mà phóng lướt về phía trước mặt hai ả nha đầu, chợt thấy thiếu phụ áo xanh và Liễu Ân đi tới, Lữ Tứ Nương cả kinh, nằm phục trên mái nhà không dám động đậy, Liễu Ân và thiếu phụ bước vào phòng, căn phòng này nằm ở bên dưới nàng. Lữ Tứ Nương nhẹ nhàng đẩy mái ngói ra nhìn xuống, Liễu Ân vừa bước vào, chợt nghe thiếu phụ gằng giọng nói: “Hừ, Lữ Tứ Nương!” Liễu Ân trợn mắt hỏi: “Lữ Tứ Nương thế nào?”


Thiếu phụ áo xanh nói: “Bảo quốc thiền sư, sao ông lại dung túng sư muội như thế?” Liễu Ân hừ một tiếng, không thể nói ra lời. Thiếu phụ lại nói: “Chả lẽ chẳng có tên sư đệ nào nghe lời ông?” Liễu Ân tức giận nói: “Không có bọn chúng cũng được”. Ngừng một hồi rồi lại tiếp: “Chắc bà đã hiểu ý của tôi rồi chứ?” Thiếu phụ nói: “Không phải ông đem mật thư của Tứ bối lạc đến cho Lý đại nhân sao?” Liễu Ân nói: “Ngoài ra còn có ba việc”. Thiếu phụ nói: “Xin nói”. Liễu Ân nói: “Việc thứ nhất, Lộ Dân Đảm tuy đã đắc tội với đại nhân nhà bà nhưng đó là sư đệ của tôi, phải do tôi xử trí”. Thiếu phụ cười nói: “Vốn là như thế, nhưng cũng không tiện lắm. Y bị nhốt ở gian phòng này, lát nữa ông vào mật thất sẽ biết ngay”. Liễu Ân nhíu mày: “Ai canh giữ y?” Thiếu phụ nói: “Là Lý tiểu thư của chúng tôi!” lúc này Lữ Tứ Nương mới hiểu ra tại sao thiếu phụ lại dắt Liễu Ân vào nơi này, té ra Lộ Dân Đảm bị nhốt ở đây.


Lữ Tứ Nương ngưng thần lắng nghe, chỉ nghe Liễu Ân hừ một tiếng nói: “Đồ đệ của bà thật vô sỉ!” thiếu phụ mặt biến sắc, nói: “Bảo quốc thiền sư, ông không được mắng bừa như thế! Chả lẽ đồ đệ của tôi không xứng với sư đệ của ông?” Liễu Ân nói: “Việc này phải do ta làm chủ”. Thiếu phụ chợt cười nói: “Không cần ông nôn nóng, tôi thấy họ đã quyết định chuyện chung thân. Sư đệ của ông lúc đầu vẫn còn cứng cỏi, chẳng hề màng đến tiểu thư của chúng tôi nhưng giờ đây đã cười nói thân mật tựa như một cặp tiểu phu thê!” Liễu Ân nói: “Được, dù họ có thành thân, Dân Đảm cũng phải theo tôi đến kinh thành”. Thiếu phụ nói: “Chỉ cần ông có thể thuyết phục y, tôi y ăn nói rất bất kính với ông!” Liễu Ân cả giận, vỗ bốp lên cái bàn, nói: “Y dám như thế!” Thiếu phụ vội vàng nói: “Bảo quốc thiền sư bớt giận, dù sao sư đệ của ông cũng không chạy thoát nổi, ông có thể từ từ dạy dỗ y. Xin hỏi điều thứ hai?”


Sắc mặc của Liễu Ân hơi giãn ra, y chợt cười nói: “Đại tẩu, Hàn đại ca đã gặp bà chưa?” Thiếu phụ nói: “Đã gặp!” Liễu Ân nói: “Các người đã gây nhau mười năm, vợ chồng già cũng nên hòa giải đi thôi”. Thiếu phụ nói: “Ông lại làm thuyết khách cho y?” Liễu Ân nheo mắt cười nói: “Có những chuyện phong lưu vốn chỉ là trò đùa, qua rồi thì xong, đại tẩu, tẩu nói có phải không?” Thiếu phụ hừ một tiếng nói: “Chẳng đàng tử tế gì cả. Chuyện thứ ba?”


Lúc này Lữ Tứ Nương mới biết thiếu phụ lạ vợ của Hàn Trọng Sơn, thầm nhủ: “Mụ ta quả thật biết giữ nhan sắc, trông chỉ như người hơn bốn mươi tuổi”. Nàng từng nghe sư phụ nói: “Hàn Trọng Sơn là sư huynh của Thiên Diệp Tản Nhân, hai sư huynh đệ đều có sở trường, chưởng lực của Thiên Diệp có thể nói là một trong năm người giỏi nhất võ lâm hiện nay; còn ám khí của Hàn Trọng Sơn có thể xếp vào ba người giỏi nhất”. Thiếu phụ áo xanh này chính là Diệp Hoành Ba, vợ của Hàn Trọng Sơn, võ công của mụ cũng rất cao cường. Chả trách nào Cam Phụng Trì cũng chỉ có thể đánh ngang tay với mụ.


Liễu Ân ngập ngừng rồi nói: “Còn đứa bé gái kia? Bảo ả về theo tôi!” Thiếu phụ nói: “Ta đã nhận ả làm nghĩa nữ!” Liễu Ân nói: “Đại tẩu lại đùa rồi, tôi phải dẫn ả đi cho bằng được!” thiếu phụ nói: “Sao ả lại một mình rời khỏi Bắc Kinh?” Liễu Ân nói: “Bà đừng lo chuyện bao đồng, tóm lại là phải trả ả cho tôi”.


Thiếu phụ có vẻ rất không vui, hỏi: “Chừng nào ông về kinh?” Liễu Ân nói: “Ngày mốt”. Thiếu phụ nói: “Vậy ông không màng đến Lữ Tứ Nương? Ả cũng là khâm phạm”. Liễu Ân thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì, Bạch Thái Quan là ba người võ công cao nhất, nếu mình và Diệp Hoành Ba cự với bọn chúng, e rằng không nắm chắc nổi phần thắng”. Thế rồi trầm ngâm, chợt nói: “Hàn đại ca sắp đến đây phải không?” Thiếu phụ nói: “Việc gì đến tôi?” Liễu Ân nói: “Nếu phu phụ tẩu đồng tâm hợp lực, vậy tôi sẽ bắt Cam Phụng Trì để tẩu hả cơn giận”. Thiếu phụ nói: “Được thôi, ông ở lại thêm hai ngày nữa, đợi lão quỷ ấy đến rồi tính tiếp. Tôi cũng không nỡ rời Yến nhi!”


Liễu Ân chợt nghiêm mặt, nói: “Giờ bà hãy gọi ả đến đây, tôi có chuyện hỏi ả”. Thiếu phụ tỏ vẻ ái ngại, chạy ra ngoài vỗ ba tiếng, chúm môi huýt một tiếng sáo dài, lát sau, có thiếu nữ không biết từ góc nào chạy ra, thiếu phụ nắm tay nàng, nói: “Có quý khách muốn gặp con”. Thiếu nữ ấy bĩu môi nói: “Con không gặp Bảo quốc thiền sư”. Thiếu phụ đẩy nàng vào phòng, trách: “Không nên vô lễ như thế”.


Thiếu nữ thấy Liễu Ân, tựa như rất e sợ, Liễu Ân vẫy tay: “Đến đây!” thiếu nữ lắc đầu nói: “Không!” Liễu Ân nổi sùng nói: “Ngươi vẫn ngang ngạnh, bọn họ cứ chìu ngươi đến hư mất!” thiếu nữ chợt nói: “Tứ bối lạc bảo tôi không cần nghe lời ông. Đừng gần gũi ông”. Liễu Ân nhảy dựng lên: “Cái gì? Ngươi nói bậy!” thiếu nữ cười nói: “Người nói ông là một dâm tăng, này, đại sư phụ, dâm tăng là gì thế?” sắc mặt của Liễu Ân lúc xanh lúc đỏ, không biết có phải Tứ bối lạc đã nói như thế hay không.


Lữ Tứ Nương nghe vừa tức vừa buồn cười, tức là vì sư phụ của mình được người trong võ lâm kêu là Thần ni, thế mà có một đệ tử mang danh dâm tăng, nếu sư phụ ở dưới chính suối mà biết cũng không nhắm mắt; buồn cười là vì Liễu Ân làm ra vẻ nghiêm nghị trước mặt một đứa bé gái, bị nó mắng như thế mà chẳng làm gì được. Lúc đó, chợt bên ngoài có một bóng người lướt tới, nấp ở góc tối, kề tai vào vách tường nghe lén. Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Ồ, y cũng đến đây, thật là lớn gan!” người đó chính là Lý công tử.


Thiếu nữ lại nói: “Tôi ở trong cung buồn bực, ra ngoài rong chơi, các người làm gì mà căng thẳng đến thế, ngày mai tự tôi sẽ trở về”. Liễu Ân nói: “Tứ bối lạc bảo ngươi cùng về với ta”. Thiếu nữ nói: “Người nói có thật không?” Liễu Ân bực dọc nói: “Ngươi cứ nói càn nữa ta vả vào mặt”. Rồi đứng dậy, đưa bàn tay to bè toan vả nàng. Thiếu phụ áo xanh chợt cản: “Bảo quốc thiền sư, đừng nóng nảy, nó sợ thì sao?” thiếu nữ vụt chạy ra ngoài. Chàng Lý công tử lướt ra đuổi theo!


Liễu Ân kêu lớn: “Có trộm!” rồi phóng vọt người đuổi theo. Lữ Tứ Nương biết Lý công tử không phải là đối thủ của chàng, chỉ trong chớp mắt, Liễu Ân đã lướt qua hai mái nhà, thiếu phụ áo xanh cũng đuổi theo, Lữ Tứ Nương nhún người lướt qua một gian nhà, kêu lớn: “Liễu Ân, ngươi có dám tử chiến với ta không?” Liễu Ân cả kinh, đột nhiên thu bước, xoay người lại, Lữ Tứ Nương vung hai tay lên, sáu mũi trủy thủ sáng loáng bay về phía Liễu Ân.


Trừ Liễu Ân, các đệ tử của Độc tý thần ni đều luyện ám khí độc môn, như Bạch Thái Quan luyện Mai Hoa châm, Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương luyện phi đao, phi đao của Lữ Tứ Nương lại khác với Cam Phụng Trì, ngoại trừ ngắn hơn của Cam Phụng Trì, chui đao trống rỗng, khi phóng ra phát tiếng kêu u u nghe kinh tâm động phách! Liễu Ân múa tít cây thiền trượng, đánh rơi bảy mũi phi đao, tiếng kêu quái dị của phi đao cũng khiến cho y thấy bồn chồn. Khi tinh thần Liễu Ân bất định, Lữ Tứ Nương thi triển khinh công lướt vù qua người y, rồi nàng quay đầu lại phóng ra sáu mũi phi đao, đến khi Liễu Ân đã đánh rơi toàn bộ số phi đao, Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi phủ nha. Liễu Ân biết không đuổi theo kịp, thế là nhảy xuống trở lại. Thiếu phụ nói: “Bảo quốc thiền sư, Yến nhi đâu?” Liễu Ân nói: “Cũng đi rồi!” thiếu phụ nói: “Sao không đuổi theo?” Liễu Ân nổi sùng nói: “Bà tự đuổi theo! Con nha đầu này lớn gan như thế, té ra là ả tiện tì Lữ Tứ Nương ngầm giúp”. Thiếu phụ áo xanh nghe nói là Lữ Tứ Nương, một mình làm sao dám đuổi theo?


Lữ Tứ Nương nhảy ra khỏi phủ nha, vọt lên nhà dân, nàng đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy gốc Tây bắc có một bóng đen chạy nhanh như ngựa, phóng thẳng ra thành, trước bóng đen, thấp thoáng có một chấm đen lướt đi như sao xẹt. Lữ Tứ Nương biết chấm đen này chính là thiếu nữ, bóng đen ở phía sau có lẽ là chàng thiếu niên ấy. Khi bóng đen chạy ra khỏi thành, Lữ Tứ Nương mới phóng người đuổi theo, đuổi được một chốc, bóng đen dần dần hiện rõ, Lữ Tứ Nương mới chậm bước. Khinh công của chàng thiếu niên cũng coi như thuộc hàng đệ nhất lưu, thế nhưng Lữ Tứ Nương đuổi theo sau lưng chàng ta, chàng ta chẳng hề hay biết!


Thiếu niên đã chạy đến bờ Tây của Tây Hồ, chàng ta chợt phóng lên một ngọn núi cao ven hồ, ngọn núi này tên gọi là Cát Lĩnh, nằm ở giữa núi Bảo Thạch và dãy Tây Hồ, tương truyền thời xưa Cát Hồng đã từng luyện đan trên núi, bởi vậy người đời sau mới gọi là Cát Lĩnh. Lúc này thiếu nữ đã chạy lên núi, chàng thiếu niên đuổi theo sau, chỉ thấy quái thạch lô nhô, nàng thiếu nữ đã biến mất, chàng thiếu niên kêu lớn: “Anh muội, Anh muội!” chỉ có âm thanh vang vọng chứ không nghe có ai trả lời.


Chàng thiếu nữ lại kêu hai tiếng, chợt nghe có người cười ở sau lưng: “Người ta không nhận ngươi, ngươi còn gọi làm gì?” chàng thiếu niên cả kinh, không dám quay đầu lại, nhảy ngang qua ba bước, rút thanh kiếm ra rồi mới xoay người. Lữ Tứ Nương cười nói: “Chúc mừng các hạ, hôm nay nạn lớn không chết, sau này sẽ có phước”. Chàng thiếu niên nhận ra đó là Lữ Tứ Nương, nổi lòng nghi ngờ quát: “Đêm hôm khuya khoắt ngươi theo dõi ta có ý gì?” té ra ban ngày khi ở trong quán trà, chàng ta đã thấy Lữ Tứ Nương chào Xa Đỉnh Phong, không biết nàng cứu người, nghi nàng cùng một giuộc với người đàn bà áo xanh. Đến khi Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì ác đấu với Liễu Ân trên mặt hồ, chàng ta đã rơi xuống nước, nên không đoán được Lữ Tứ Nương là địch hay bạn.


Vốn là Lữ Tứ Nương chỉ cần nói cho rõ ràng thì sẽ chẳng có chuyện gì. Nhưng nàng mang thù nước nợ nhà, không thể không cẩn thận, chàng thiếu niên này trông không phải người xấu nhưng dẫu sao cũng là kẻ lạ, Lữ Tứ Nương không muốn tỏ thân phận cho chàng biết. Chàng thiếu niên thấy nàng không đáp, giận dữ nói: “Ngươi rốt cuộc là bằng hữu phương nào, ta với ngươi không quen biết, tại sao ngươi lo chuyện bao đồng?”


Lữ Tứ Nương thầm nhớ đến thân pháp quái dị của chàng thiếu niên, nhủ rằng: “Mình phải thử bản lĩnh của y xem sao”. Rồi giả vờ lạnh lùng cười: “Ngươi và Xa lão đầu có quan hệ gì?” thiếu niên chợt biến sắc, hừ một tiếng nói: “Uổng cho ngươi có thân thủ thế này mà đành làm ưng khuyển!” rồi chàng ta lắc vai đấm tới một kiếm. Lữ Tứ Nương lách qua, rút phắt thanh kiếm cười nói: “Ngươi là đệ tử của ai?” chàng thiếu niên đâm soạt soạt hai nhát, hiếm hóc lạ thường, lớn giọng nói: “Có nói ra ngươi cũng chẳng biết!” hình như chàng rất tự phụ về mặt kiếm pháp. Lữ Tứ Nương thầm cười, nhủ rằng: “Có kiếm pháp của nhà nào mà ta không biết? Chỉ cần ngươi dùng đúng mười chiêu, ta sẽ nói chẳng sai”.


Chàng thiếu niên vẫy thanh kiếm đánh gấp lên, lại chém xéo một kiếm vào eo Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương không né tránh nữa, đã nhận ra chiêu này chính là Khổng Tước Tước Linh của phái Võ Đang, vì thế nàng giơ ngang kiếm đè xuống, thi triển chiêu thức Đảo Chuyển Âm Dương trong Huyền Nữ kiếm pháp, thế rồi nâng kiếm lên, tưởng rằng chàng thiếu niên chắc chắn sẽ rút kiếm; nào ngờ chiêu số của chàng ta rất quái lạ, thấy Lữ Tứ Nương đè kiếm xuống thì đột nhiên vẫy thanh kiếm chém ngược trở ra! Lữ Tứ Nương suýt nữa đã trúng đòn, may mà kiếm pháp của nàng đã đến mức lư hỏa thuần thanh, thế là nàng xoáy thanh kiếm, lập tức hóa giải chiêu thức của kẻ địch, chàng thiếu niên nhảy ra hai bước, trở người đánh lại một chiêu, chiêu kiếm này rõ ràng là Phụng hoàng triển xí của phái Tung Dương, kiếm thế lẽ ra từ trái sang phải, Lữ Tứ Nương thông hiểu kiếm pháp các nhà, nàng hơi lắc người đã chặn phía bên trái, không ngờ chàng thiếu niên đánh kiếm nửa chừng đột nhiên thay đổi đâm thẳng vai phải, Lữ Tứ Nương rút kiếm không kịp, đành phải nhờ khinh công tuyệt đỉnh vặn người, né tránh nhát kiếm ấy nhanh như điện chớp.


Lữ Tứ Nương rất kinh ngạc, kiếm chiêu của nàng thiếu niên rất quái dị, đúng là nàng chưa từng thấy bao giờ, thế là vội vàng thi triển ba mươi sáu đường Liên Hoàn kiếm pháp hộ thân trong Huyền Nữ kiếm pháp ra, thanh bảo kiếm múa thành một vòng tròn đầu đuôi nối tiếp nhau, giọt nước không lọt vào. Khi phòng thủ, đôi lúc nàng cũng đánh vài chiêu tấn công, chàng thiếu niên múa kiếm đánh tới như giông bão, đôi bên phá giải hơn ba mươi chiêu, Lữ Tứ Nương vẫn chưa nhìn ra chiêu số của đối phương!


Kiếm pháp của chàng thiếu niên tuy quái dị nhưng Lữ Tứ Nương sử dụng kiếm thuật chính tông, tinh diệu vô cùng, tuy trong nhất thời không dò ra được lộ số của đối phương, không giám phóng tay tấn công nhưng muốn ứng phó vẫn còn dư.


Lữ Tứ Nương không biết rằng, chàng thiếu niên càng nôn nóng hơn nàng. Nàng không dò được lộ số của chàng, chàng cũng không biết lộ số của nàng, chỉ cảm thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương tinh vi ảo diệu, tựa như rất giống Thiên Sơn kiếm pháp. Lại thêm công lực của Lữ Tứ Nương cao hơn chàng, đấu được đến khoảng năm mươi chiêu, chàng đã đỏ mặt thở hơi dồn dập, còn Lữ Tứ Nương vẫn khí định thần nhàn!


Chàng thiếu niên nôn nóng, thi triển kiếm chiêu càng nhanh hơn. Lữ Tứ Nương đánh cả thủ lẫn công, thầm quan sát đối phương, chỉ cảm thấy kiếm pháp của thiếu niên này tựa như tập hợp sở trường của các nhà, mỗi chiêu đều ngược lại với kiếm pháp bình thường. Ví dụ trong kiếm pháp của phái Võ Đang có một chiêu tên gọi Vô Thường Đoạt Mệnh, chiêu thế phải đánh từ trên xuống dưới, đâm xuống hạ bàn của đối phương; còn chàng thiếu niên lại đánh từ dưới lên trên đâm vào trung bàn của đối phương. Lại như trong phái Tung Dương có chiêu Trừu Triệt Liên Hoàn, lẽ ra phải đâm bên trái ba nhát kiếm, bên phải một nhát, rồi lại đâm hai nhát ở giữa; thế nhưng chàng ta lại đâm ba nhát bên phải trước rồi đâm hai nhát bên trái, sau đó mới đâm ở giữa một nhát. Lữ Tứ Nương đấu với chàng ta một trăm chiêu, chợt vỡ lẽ ra, chặn ngang thanh kiếm đẩy chàng thiếu niên thối lui ba trượng, cười nói: “Ngươi là hậu duệ của Bạch Phát ma nữ! Sư phụ của ngươi là Phi Hồng Cân hay Võ Quỳnh Giao?”


Lữ Tứ Nương đã vạch trần sư thừa của chàng thiếu niên, chàng ta cả kinh, giơ ngang kiếm không giám xuất chiêu! Lữ Tứ Nương đút kiếm vào vỏ, cười nói: “Không cần đấu nữa, ta đấu với ngươi một trăm chiêu mới biết được gia số của ngươi, ta đã cam bái hạ phong!”


Chàng thiếu niên trố mắt, vừa nghi hoặc vừa hổ thẹn, kiếm pháp của đối phương rõ ràng hơn mình, sao lại nhận thua? Điều khiến chàng ta càng hổ thẹn hơn là Lữ Tứ Nương đã nhìn ra gia số của chàng mà chàng chẳng hề biết gì về kiếm pháp của Lữ Tứ Nương. thế rồi chàng mới ôm kiếm vái dài: “Ta đã nhận thua, nếu ngươi muốn bắt ta, ta sẽ bó tay chịu trói!” Lữ Tứ Nương cả cười: “Ai muốn bắt ngươi, ngươi có nghe danh Độc tý thần ni chưa?”


Chàng thiếu niên kêu ối chao, vái dài sát xuống đất, nói: “Vậy huynh đài là môn hạ của Độc tý thần ni, người trong Giang Nam thất hiệp?” Lữ Tứ Nương nói: “Chính thế”. Chàng thiếu niên nheo mắt, chợt lộ vẻ nghi hoặc. Té ra chàng ta đã từng theo mẫu thân Võ Quỳnh Giao đến luận kiếm cùng Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu nói: “Trong thiếu hiệp hiện nay có bốn phái kiếm pháp, mỗi phái đều có sở trường, khó phân hơn kém. Một là Thiên Sơn kiếm pháp của Hối Minh thiền sư, hai là Đạt Ma kiếm pháp của phái Võ Đang phía Bắc do tông sư Quế Trọng Minh truyền lại; ba là Huyền Nữ kiếm pháp của Độc tý thần ni, bốn là kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ”. Lúc đó Võ Quỳnh Giao nói: “Thiên Sơn kiếm pháp có sở trường bao la, Đạt Ma kiếm pháp hay ở chỗ kỳ lạ, Huyền Nữ kiếm pháp hơn người ở chỗ tuyệt diệu, cả ba nhà này đều khó phân cao thấp, còn kiếm pháp của tôi lại nghiêng lệch, tỷ tỷ cũng xếp chung với họ, thật khiến cho tôi nở mày nở mặt”. Dịch Lan Châu nói: “Tỷ tỷ đừng quá nhún nhường, nếu luận về kỳ dị hiểm hóc, kiếm pháp của tỷ tỷ còn hơn cả ba nhà kia”. Võ Quỳnh Giao than ràng: “Trong kiếm pháp của ba nhà, đáng tiếc tôi chưa từng gặp Huyền Nữ kiếm pháp”. Võ Quỳnh Giao chỉ nhắc đến ba nhà, rốt cuộc không dám xếp kiếm pháp của mình đứng chung, đương nhiên là vì bà ta khiêm nhường. Dịch Lan Châu nói: “Nghe câu nói này của tỷ tỷ, tôi chợt nghĩ rằng, nếu kiếm pháp của bốn phái đến Thiên Sơn tụ hội cũng là một thịnh sự. E rằng tuổi thọ còn người có hạn, chỉ mơ tưởng chứ không làm được. Tôi đã từng thấy Huyền Nữ kiếm pháp, ba mươi năm trước Độc tý thần ni lên Thiên Sơn, đáng tiếc tỷ tỷ không có ở đây. Kiếm pháp của bà ta chỉ truyền cho nữ đệ tử quan môn là Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương mang nợ nước thù nhà, suốt ngày rong ruổi trên giang hồ, e rằng không thể đến Thiên Sơn”.


Chàng thiếu niên nhớ lại những lời năm xưa, trong lòng thầm lấy làm lạ tại sao người trước mặt mình lại là một nam nhi. Lữ Tứ Nương mỉm cười kéo khăn trùm đầu, nói: “Tôi là Lữ Tứ Nương, dám hỏi huynh đài cao tính đại danh?” chàng thiếu niên nói: “Tôi là Lý Trị, gia mẫu là Võ Quỳnh Giao”. Lữ Tứ Nương cung tay nói: “Té ra huynh đài là hậu duệ của Sấm vương, thất kính, thất kính!”


Số là năm xưa thất kiếm qui ẩn Thiên Sơn, Võ Quỳnh Giao và Lý Tư Vĩnh thành thân, ẩn cư ở chỗ Bạch Phát ma nữ chỉ sinh được một người con trai là Lý Trị. Khi Lý Trị được mười tuổi, Lý Tư Vĩnh qua đời, Võ Quỳnh Giao truyền kiếm pháp độc môn cho chàng ta. Hai năm sau, Dịch Lan Châu dắt Phùng Anh về Thiên Sơn, lúc ấy Phùng Anh chỉ có bảy tuổi. Tuy họ cùng ở Thiên Sơn nhưng một người ở phía Bắc một người ở phía Nam, cách nhau đến ngàn dặm, mỗi năm Võ Quỳnh Giao đều đến thăm Dịch Lan Châu một lần nên Lý Trị với Phùng Anh coi như cũng là một đôi thanh mai trúc mã, Lý Trị lớn hơn sáu tuổi, vẫn xem Phùng Anh là muội muội. Sáu bảy năm trước, Dịch Lan Châu lại đến Trung Nguyên, bởi vậy nhờ Võ Quỳnh Giao chăm sóc cho Phùng Anh. Chính vì thế Lý Trị và Phùng Anh rất thân thiết nhau.


Lữ Tứ Nương và Lý Trị hỏi họ tên nhau, đôi bên nói mấy lời khách sáo. Lữ Tứ Nương nói: “Lý huynh rời Thiên Sơn được bao lâu rồi? Xa lão đầu là người thế nào?” Lý Trị nói: “Tôi rời Thiên Sơn chưa được hai năm, trước đây Sa thế bá là trọng sự của gia phụ ở Tứ Xuyên. Lần này tôi xuống núi, gia mẫu đã đưa một danh sách, bảo tôi thăm các thuộc hạ cũ của phụ thân, xem thử có bao nhiêu người còn sống? Mấy ngày trước tôi nhờ bằng hữu báo tin tôi đến Hàng Châu cho Xa lão bá, người hẹn tôi gặp nhau ở Tam Đàm Ấn Nguyệt, không ngờ lại gây ra họa, may mà từ lúc còn nhỏ tôi đã bơi lội ở Thiên Trì trên Thiên Sơn, cũng hơi thông hiểu thủy tính chứ nếu không đã mất mạng. Không biết tên hung tăng kia là ai mà võ công ghê gớm đến thế!” Lữ Tứ Nương kêu “hổ thẹn” rồi cho chàng ta biết lai lịch của Liễu Ân.


Lý Trị nói: “Thiếu nữ hôm trước là ái đồ của Dịch lão tiền bối, cũng là truyền nhân duy nhất của bà, mong cô nương giúp tôi tìm kiếm”. Lữ Tứ Nương chưng hửng, thầm nhủ: “Thiếu nữ này võ công rất phức tạp, làm sao là ái đồ của Dịch Lan Châu?” thế mới nói: “Hình như Lý huynh đã nhận lầm người?” Lý Trị cười nói: “Tôi lớn lên cùng nàng, làm sao nhận lầm? Có điều không biết tại sao hình như nàng ta bị mê lú, tôi thật lo lắng!” Lữ Tứ Nương nói: “Nếu đã là truyền nhân y bát của Dịch lão tiền bối, tôi đương nhiên phải dốc sức tìm kiếm”.


Khi đang nói chợt nghe ba mũi hưởng tiễn kêu lên u u, một tiếng dài hai tiếng ngắn từ phía Đông Nam phát ra. Lữ Tứ Nương thất kinh, nói với Lý Trị: “Mong huynh đài thứ lỗi, tôi có chuyện gấp phải trở về khách sạn”. Lý Trị nói: “Sao nửa đêm lại có người phát hưởng tiễn?” Lữ Tứ Nương nói: “Là tín hiệu liên lạc của đồng môn chúng tôi!” Lý Trị cũng thất kinh nói: “Nếu như thế, xin cứ tùy tiện!” Lữ Tứ Nương cung tay, đang định xuống núi, chợt nói: “Lý huynh, Xa lão bá của huynh đang ở chỗ chúng tôi. Ngày mai hãy đến”. Thế rồi nói địa chỉ của khách sạn cho chàng nghe, Lý Trị mừng rỡ nói: “Ngày mai tôi sẽ đến sớm”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân lướt người đi như sao xẹt, trong chớp mắt đã biến mất! Lý Trị rất khâm phục.


Đến nửa đêm, mặt trăng dần dần chìm về phía Tây, chắc là đã canh năm. Lý Trị nhảy lên một mõm đá đưa mắt nhìn ra xa, núi vắng tĩnh mịch, chỉ có tiếng gió thổi qua tai nghe như nước triều. Lý Trị rất thất vọng, chợt nghe tiếng cười khanh khách, chàng vội vàng nhảy xuống kêu: “Anh muội, Anh muội!” thiếu nữ ban ngày chợt bước ra, cười khanh khách nói: “Ta ở đây!”


Lý Trị cả mừng, thiếu nữ vẫy tay nói: “Đến đây!” Lý Trị hơi chần chừ, thiếu nữ cười nói: “Ta không đánh ngươi, ban ngày ta chỉ đùa với ngươi, ngươi còn giận ta ư?” Lý Trị bước tới nắm tay nàng, thiếu nữ giật tay ra. Lý Trị chưng hửng, chợt nhớ rằng nàng ta đã là một tiểu cô nương mười bốn tuổi, có lẽ đã biết hổ thẹn, cũng mỉm cười hỏi: “Thiếu phụ áo xanh là ai, sao muội lại quen bà ta?” nàng thiếu nữ nói: “Ngươi cứ mặc ta! Chả lẽ những người ta quen biết đều phải nói cho ngươi biết hay sao?” Lý Trị khựng người, thầm nhủ: “Sao tính tình của nàng lại thay đổi như thế, trước đây nàng có nói thế bao giờ đâu?”


Khi còn ở Thiên Sơn, Lý Trị và Phùng Anh tình như huynh muội. Phùng Anh rất nghe lời chàng ta. Lý Trị nghĩ bụng chỉ mới không gặp hơn hai năm mà nàng ta lại ăn nói như thế với mình. Thiếu nữ lại cười khanh khách: “Ngươi ngồi xuống, đứng sững nhìn ta làm gì?” Lý Trị ngồi xuống bên cạnh nàng, hỏi: “Dịch bá mẫu có khỏe không?” thiếu nữ nói: “Rất khỏe, người cũng đang nhớ ngươi!” Lý Trị nói: “Tóc của người thế nào rồi?” thiếu nữ nói: “Thì vẫn bạc như trước?” Lý Trị nhảy bật dậy nói: “Cái gì, tóc của Dịch bá mẫu đã bạc?” mấy mươi năm trước Dịch Lan Châu đã từng ăn hoa ưu đàm, mái tóc có thể đen mãi không bạc. Nếu đã bạc tức là sắp chết tới nơi, nên Lý Trị hỏi đầu tóc của bà ta, thực sự có nghĩa là bà ta có khỏe hay không, nay nghe thiếu nữ nói tóc của bà đã bạc, bởi vậy làm sao không lo. Nàng thiếu nữ chợt cười nói: “Ta lừa ngươi đấy, ngươi vốn rất thông minh kia mà, sao lần này lại ngốc đến thế? Ta không phải bảo tóc của người vẫn như trước sao? Tóc của người lúc trước thế nào, chả lẽ ngươi không biết? Ngươi xuống núi chẳng phải chỉ hai năm”. Lý Trị vừa nghe, quả nhiên nàng đã nói như thế. Cười nói: “Sao muội lại nghịch ngợm thế? Dám đem chuyện ấy ra dọa ta! Tóc của Dịch bá mẫu mãi mãi không bạc, muội nói đã bạc, chẳng phải nguyền rủa người sắp chết sao? Uổng cho người thương yêu muội, muội lại đùa như thế!” thiếu nữ thè lưỡi nói: “Lần sau ta không dám nữa!”


Thật ra thiếu nữ này không phải là Phùng Anh mà là Phùng Lâm. Nàng nấp sau tảng đá, đã nghe hết cuộc nói chuyện giữa Lữ Tứ Nương với Lý Trị. Trong lòng vừa kinh vừa mừng. Nàng tuổi tuy còn nhỏ nhưng cũng từng nghe người ta nói đến Dịch Lan Châu và Võ Quỳnh Giao, biết hai người này là nữ kiếm khách lợi hại nhất trên đời, trong đó Dịch Lan Châu là một cao thủ kiếm thuật, Liễu Ân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân thường hay mắng bà ta, còn bảo rằng sẽ mời mười cao thủ thuộc hàng nhất lưu quyết hạ bà ta cho bằng được. Phùng Lâm tuy nhỏ nhưng rất thông minh, thấy bọn chúng căm ghét bà ta như thế thì biết Dịch Lan Châu có bản lĩnh đến mức nào, trong lòng rất ngưỡng mộ.


Lúc nãy đứng sau tảng đá, nghe Lý Trị là con của Võ Quỳnh Giao, lại nghe Lý Trị nói mình là truyền nhân duy nhất của Dịch Lan Châu, lại cùng lớn lên với mình, trong lòng lấy làm lạ, lẽ nào trên đời lại có người giống hệt mình? Nhưng không biết người kia tên họ là gì? Thế là mạo nhận nàng thiếu nữ kia để trêu Lý Trị.


Lý Trị nằm mơ cũng không ngờ rằng thiếu nữ trước mặt mình không phải Phùng Anh, lại hỏi: “Hai năm qua muội có gặp mẫu thân của ta không?” Phùng Lâm cười hì hì, đáp bừa rằng: “Có gặp một lần”. Lý Trị nói: “Người thế nào?” Phùng Lâm nói: “Người vẫn đang luyện kiếm”. Lý Trị ngạc nhiên nói: “Sao lại luyện kiếm? Người không tọa quan sao?” té ra khi Lý Trị xuống núi, Võ Quỳnh Giao đã bắt đầu tọa quan, cứ bảy ngày là một kỳ, mỗi lần tịnh tọa bảy ngày, khi tịnh tọa chỉ ăn hoa quả, qua bảy ngày thì ăn uống lại bình thường. Sau đó nghỉ ngơi ba ngày rồi lại tịnh tọa tiếp. Lối tọa quan trường kỳ này là cửa ải cuối cùng của người luyện tập nội công thượng thừa nhất. Trong thời kỳ tọa quan, không màng đến việc đời, càng không cần luyện kiếm. Lý Trị vừa nghe Phùng Lâm bảo mẹ mình đang luyện kiếm thì rất lấy làm lạ. Phùng Lâm biết mình đã hớ, mỉm cười nói: “Ta và sư phụ cùng tới, sư phụ nói mẫu thân của ngươi đã tẩu hỏa nhập ma!”


Lý Trị càng kinh hãi, rung giọng kêu lên: “Tẩu hỏa nhập ma? Ôi chao, người thế nào rồi?” Phùng Lâm lớn lên trong phủ Tứ bối lạc, luyện tập võ công của các phái. Thế nhưng các dị nhân trong phủ Tứ bối lạc, ngoại trừ Liễu Ân, không ai biết nội công huyền môn chính tông, mà hễ luyện nội công của bàng môn tả đạo thì thường tẩu hỏa nhập ma nên Phùng Lâm đã nghe quen bốn chữ “tẩu hỏa nhập ma” vì thế mới nói: “May mà khi sư phụ ta đến, thấy bá mẫu có điều khác lạ, cơ mặt co rút, sư phụ ta vừa nhìn thì biết người đã tẩu hỏa nhập ma, vội vàng vận chân khí nội gia giúp người hít thở, người mới hồi phục lại bình thường. Sư phụ ta nói nếu người đến không kịp lúc, bá mẫu đã bán thân bất toại. Nên sau đó bá mẫu không tọa quan nữa, bảo rằng luyện kiếm đến mức xuất thần nhập hóa rồi mới tiếp tục”. Những câu nói này nghe ra cũng rất có căn cứ, Lý Trị không thể không tin. Chàng thiếu niên võ công của Bạch Phát ma nữ vốn chẳng phải huyền môn chính tông, chàng tưởng rằng nội công của mẹ mình thâm hậu, nếu luyện chẳng hề chi, nào ngờ cũng tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy trong lòng rầu rĩ. Phùng Lâm lại cười nói: “Sư phụ ta nói không sao, ngươi buồn làm gì? Người bảo mẹ ngươi có trải qua chuyện đó, sau này tọa quan cũng biết né tránh, người còn chỉ điểm cho mẹ ngươi yếu quyết luyện tập nội công thượng thừa nhất, đáng tiếc ta nghe không hiểu”. Lý Trị cả mừng, nói: “Ồ, té ra mẹ của ta vì họa mà được phúc”. Phùng Lâm mỉm cười lại nói: “Ngươi có thể dạy ta kiếm pháp độc môn của ngươi hay không?”


Lý Trị ngạc nhiên nói: “Thiên Sơn kiếm pháp của muội bao la rộng lớn, tại sao lại còn đòi học kiếm pháp của ta?” Phùng Lâm nói: “Sư phụ của ta nói: Kiếm pháp của hai nhà chúng ta một chính một phản vốn từ một nguồn, nên ta nghĩ, nếu được học cả hai thứ chẳng phải sẽ tốt hơn sao? Ta vốn muốn bá mẫu dạy cho nhưng đáng tiếc ta vội vàng xuống núi nên không có cơ hội”. Lý Trị chợt cười nói: “Thực ra sư phụ của muội cũng biết kiếm pháp của ta. Trước đây sư tỷ của mẹ ta Phi Hồng Cân đã từng dạy cho bà”. Phùng Lâm thầm thất kinh, không ngờ đã lộ sơ hở. May mà Lý Trị cười rồi lại nói: “Sư phụ cũng không dạy cho muội, chắc là thấy muội tuổi còn nhỏ, sợ muội học quá nhiều món nên chỉ bảo muội chuyên luyện Thiên Sơn kiếm pháp”. Lý Trị nói đến đây, chợt rùng mình hỏi: “Muội xuống núi được bao lâu?” Phùng Lâm nghĩ ngợi rồi đáp: “Ồ, được hơn nửa năm”. Lý Trị nói: “Trong vòng nửa năm, tại sao lại học được võ công của nhiều phái đến thế?” Phùng Lâm dẫu môi nói: “Ta thích kia mà, tại sao cứ thích quản ta thế? Ta giờ đây đã lớn dần lên, học nhiều một chút cũng không sao. Ồ, ta biết rồi, ngươi không muốn dạy ta nên cố ý trách ta”. Lý Trị nghe thế nhíu mày nói: “Sao muội lại nói thế? Muội muốn học, huynh sẽ dạy”.


Phùng Lâm cả mừng, lại nói: “Vậy khí hậu thiên là gì, khí tiên thiên là gì? Nội đan tu luyện thế nào?” Lý Trị lại ngạc nhiên một hồi nữa, lòng thầm nhủ: “Sao Dịch bá mẫu lại không dạy những điều cơ bản trong cách tu luyện nội công cho nàng”. Số là khí hậu thiên và khí tiên thiên là cách nói của đạo gia, sau đó những người luyện nội công cũng dùng. Khí hậu thiên là khí trong hung phế, bởi vì hít vào từ bên ngoài nên gọi là khí hậu thiên, khí trong khí hải và đơn điền gọi là khí tiên thiên, khi con người ra đời đã có. Người bình thường khi hít thở, khí trong hung phế và khí trong đơn điền không thể hòa lẫn với nhau; nếu người đã luyện qua công phu thổ nạp, có thể hòa hai khí thành một, gọi là “khí thông”, đến cảnh giới khí thông, khí tiên thiên và khí hậu thiên trên dưới kết hợp, vô hình trung đã kết thành một viên “đơn hoàn” trong người, có thể di chuyển lên trên và dưới, đó chính là nội đơn mà đạo gia vẫn thường nói, thực ra đó là một luồng khí kình được luyện thành trong cơ thể chứ không mang màu sắc mê tín gì cả.


Phùng Lâm chẳng hề biết gì yếu quyết nội công, nên mới hỏi như thế. Thấy Lý Trị ngạc nhiên thì đảo mắt, cười rằng: “Ngươi nhất định sẽ lấy làm lạ tại sao sư phụ ta không dạy điều đó chứ gì? Người bảo ta tuổi còn nhỏ, không kiên nhẫn tịnh tọa nên chỉ dạy ta luyện kiếm, không dạy ta nội công”. Khi Phùng Anh được bảy tám tuổi, do Võ Quỳnh Giao coi sóc, sau đó theo Dịch Lan Châu trở về phía Bắc, cho đến năm mười hai tuổi, trong bốn năm này, mỗi năm Lý Trị đến thăm nàng một lần mỗi lần gặp nhau khoảng nửa tháng, Lý Trị xem nàng như đứa trẻ nên không hỏi nàng có luyện nội công hay không. Lúc này chàng thầm nhủ: “Dịch bá mẫu chỉ truyền võ nghệ chứ không truyền nội công, cách dạy này há chẳng phải khiếm khuyết hay sao?” thế rồi nói: “Huynh nói cho muội nghe cũng chẳng sao, nhưng nếu bá mẫu mà biết chắc chắn sẽ cười huynh mất”. Phùng Lâm nói: “Ta không nói cho người biết là xong. Người vốn bảo ta ra giang hồ ba năm, khi về núi sẽ dạy cho ta phương pháp tu luyện nội công. Chỉ e lúc đó người đã già, nếu có chuyện gì bất trắc há chẳng phải suốt đời không được học hay sao!” Lý Trị nghe thế lại nhíu mày, nói: “Sao lại nói thế”. Thầm nhủ: “Đứa trẻ này xưa này dịu dàng dễ mến, sao chỉ có nửa năm mà hư hỏng đến thế, chỉ nghĩ đến bản thân mình. Nếu chẳng may ân sư chết đi, đau đớn còn không kịp, sao lại nghĩ đến chuyện khác. Nếu Dịch bá mẫu mà nghe chắc chắn sẽ tức chết đi được”.


Phùng Lâm thấy chàng ta lại sầm mặt, kêu ôi chao một tiếng nói: “Ta biết ta đã nói lỡ lời, hảo ca ca đừng giận, từ rày ta không nói càn nữa”. Lý Trị chỉ bảo: “Thôi được, ta không giận. Nếu muội muốn học nội công, ta sẽ dạy yếu quyết cơ bản cho muội”. Giảng được nửa canh giờ, Phùng Lâm đã hiểu cả mừng đáp tạ. Lý Trị lại nhíu mày nói: “Muội làm sao thế, tựa như đã biến thành người khác?” Phùng Lâm mỉm cười: “Trước đây muội thế nào? Huynh nói cho muội nghe thử”. Lý Trị vừa bực mình vừa buồn cười nói: “Muội cũng chỉ mới mười ba mười bốn tuổi mà cả bản thân cũng quên mất!” Phùng Lâm mỉm cười đứng lên, tựa như rất vui mừng vì được chàng chỉ điểm. Lý Trị nói xong, trong lòng đột nhiên thấy run sợ, thầm nhủ: “Chả lẽ có người mau quên bản tính của mình như thế?” bất giác sững người nhìn nàng, chẳng nói ra lời.


Lúc này trời đã hửng sáng, đám mây ngũ bay qua bầu trời. Cảnh buổi sáng trên Cát Lĩnh vốn là một trong tiền đường bát cảnh. Từ Cát Lĩnh nhìn về phía xa, sông Tiền Đường trắng sáng vươn mãi ra biển Đông. Lúc này vầng mặt trời dần dần từ biển nhô lên, tựa như một cái mâm đồng màu đỏ tía. Trong làn gió lạnh buổi sáng, Lý Trị tỉnh táo hơn, chàng đứng trên Sơ Dương đài, nhìn cái mâm đồng đỏ tía dần dần nhô lên cao, từ màu đỏ tía biến thành màu vàng cam, rồi lại từ màu vàng cam biến thành màu trắng chói mắt. Cúi xuống nhìn Tây Hồ, nước hồ long lanh trong vắt khắp núi rừng như nhuộm màu mặt trời!


Lý Trị hít một hơi dài, nhớ lại những lời Lữ Tứ Nương, nói với Phùng Lâm: “Chúng ta đi thăm Lữ Tứ Nương!” Phùng Lâm giả vờ không biết, hỏi: “Lữ Tứ Nương là ai?” Lý Trị nói: “Chính là người đêm qua đấu kiếm với ta”. Phùng Lâm nói: “Ta sợ đồng bọn của tỷ ấy, chính là hán tử mặt vàng đấy”. Lý Trị nói: “Người đó là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì, có gì đáng sợ? Muội cũng nên kết giao với người chính phái”. Phùng Lâm chỉ đành đi theo chàng.


Đêm qua hai người Cam, Bạch thấy Lữ Tứ Nương đi mãi mà không trở về, trong lòng lo lắng, chẳng ngủ được ngon giấc, đến canh tư, Cam Phụng Trì một mình ngồi dậy, thả bộ trong sân, mảnh trăng đầu tháng dần dần chuyển qua đầu. Lúc ấy trời trong vắt không gợn mây, chàng chợt nghe có tiếng kêu thất thanh của phụ nữ, tựa như ở trong khách sạn. Cam Phụng Trì tuy trong lòng có tâm sự nhưng cũng không khỏi chạy đến xem, khách sạn này rất lớn, có khoảng hai ba mươi gian phòng. Cam Phụng Trì nhảy lên mái nhà, nghe tiếng kêu phát ra từ căn phòng phía Đông, thế là vội vàng chạy tới, móc hai chân vào mái nhà thò đầu xuống nhìn, thế là chàng không khỏi thất kinh!


Chỉ thấy trong nhà có một ông già lưng đứng xoay ra cửa, mặt hướng về phía một thiếu phụ, lạnh lùng nói: “Ngươi kêu đi! Ngươi mà kêu nữa ta sẽ khiến cho ngươi muốn sống không được muốn chết không xong!” người phụ nữ ấy mặt tái xanh, hình như rất sợ hãi nhưng vẫn gằng giọng nói: “Ngươi đúng là mặt người dạ thú, vô tình bạc nghĩa, lừa ta đến Hàng Châu thi triển độc thủ!” ông già cười gằng nói: “Bà nhà ta không dung thứ cho ngươi, chẳng còn cách nào cả, chỉ đành mượn ngươi một vành tai mười ngón tay để chuộc tội cho ta. Ta vẫn còn nhớ đến ân nghĩa trước kia, ngươi hãy tự ra tay đi, ta có linh đơn cho ngươi cầm đau!” thiếu phụ run rẩy không ngừng, lão già rút soạt thanh đao ra.


Cam Phụng Trì nhận ra giọng nói của lão già rất quen tai, thấy lão ta rút đao thì đột nhiên kêu: “Hàn Trọng Sơn ngươi làm gì thế?” rồi phóng một mũi phi đao vào cửa sổ!


Hàn Trọng Sơn võ công cực cao, chỉ vì mãi chú ý người thiếu phụ nên không nghe hơi thở. Lúc này y trở tay hất được mũi phi đao. Cam Phụng Trì gầm một tiếng, nhảy tọt vào bên trong! Hàn Trọng Sơn thuận tay đâm mũi trủy thủ về phía trước, Cam Phụng Trì lộn người, đánh một chiêu Phúc Vũ Phiên Vân, chặt xuống cổ tay cầm đao của Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn lật cổ tay, cây trủy thủ rơi xuống đất. Người phụ nữ trong nhà vội vàng nhảy tọt ra cửa sổ. Hàn Trọng Sơn cả giận, hai tay đẩy ra phía trước, Cam Phụng Trì cũng đẩy chưởng ra cự lại, chỉ cảm thấy một luồng đại lực dồn ra, Cam Phụng Trì bất đồ bị đẩy ra ngoài cửa, cánh cửa bật tung ra. Hàn Trọng Sơn cũng bị thần lực của Cam Phụng Trì đẩy ngã chổng vó trên giường.


Chính là:


Tám lạng nửa cân, ngang tài ngang sức.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 19

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 19 Mộng đẹp tiêu tan cấm cung sầu vĩnh biệt Trời Nam đất Bắc sa trường vui tương phùng




Hàn Trọng Sơn cả giận, vung tay phát ra ám khí độc môn hồi hoàn câu, Cam Phụng Trì nói: “Vật gì thế?” thế rồi vẫy hai mũi phi đao đánh tới, hồi hoàn câu trông giống như cái thước gấp, Cam Phụng Trì ném hai mũi phi đao một trước một sau đã đánh trúng, không ngờ món ám khí kêu vù lên một tiếng, đánh rơi phi đao rồi nay ngược trở lại, Cam Phụng Trì thất kinh, thấy món ám khí bay về phía Đông, vội né sang phía Tây, nào ngờ hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn rất quái dị, đột nhiên đổi hướng giữa đường, bay như điện chớp về phía đỉnh đầu của Cam Phụng Trì, mũi câu sáng loáng móc xuống cổ của Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì né tránh không kịp, vung tay phẫy một cái, mũi câu móc vào bàn tay của chàng, Cam Phụng Trì vận nội công thượng thừa, hít lòng bàn tay vào, cơ bắp thu lại, mũi câu móc vào bàn tay tựa như đâm vào đống bông, lực bay tiêu biến. Cam Phụng Trì khép năm ngón tay bẻ gãy hồi hoàn câu làm hai đoạn.


Hồi hoàn câu là ám khí giúp Hàn Trọng Sơn thành danh, nay đã bị Cam Phụng Trì chụp được, Hàn Trọng Sơn không khỏi cả giận, tự trong phòng nhảy vọt ra, hai chưởng đẩy ra, Cam Phụng Trì lách người, đánh ra một chiêu Bính Đao Thắng Tiễn, hai ngón tay kẹp vào hổ khẩu của Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn trở tay đẩy một cái, trầm chỏ xuống thúc ra, hai người vừa phân đã hợp, đều nhảy xuống sân của khách sạn.


Khi đáp xuống đất, Hàn Trọng Sơn đã rút ra tị vân trợ, vốn Hàn Trọng Sơn dùng cây trợ này hái thuốc, tuy dài chỉ có ba thước nhưng được luyện bằng tinh kim, bổ xuống một trợ, kình phong quét tới, trong đêm tối trông rất uy mãnh!


Cam Phụng Trì không hề lo sợ, thi triển chưởng pháp hùng hậu. Đang lúc hăng say, Hàn Trọng Sơn chợt hú lên một tiếng quái dị, ở phía Tây lại có một người nhảy ra, Cam Phụng Trì đang đánh tới chiêu Khoa Hổ Tiến Chưởng, tay trái đẩy vào cây tị vân trợ, chưởng phải vỗ vào ngực của kẻ địch, người ấy đột nhiên xen vào, vận chưởng dẫn một cái, hóa giải chưởng lực của Cam Phụng Trì. Hàn Trọng Sơn bổ cây trợ xuống nhưng lại thu ngược về. Cam Phụng Trì vừa nhìn thì nhận ra người ấy chính là Đổng Cự Xuyên. Cam Phụng Trì thầm kêu khổ, Hàn Trọng Sơn đã khó đối phó, thế mà lại chui ra thêm một cao thủ nữa.


Hàn Trọng Sơn kêu: “Đổng huynh, huynh chặn hậu lộ của y, đừng để y chạy thoát”. Đổng Cự Xuyên mỉm cười lui xuống, trong tay cầm ba mảnh Thấu Cốt đinh, nhìn vào đấu trường không chớp mắt. Cam Phụng Trì và Hàn Trọng Sơn ác đấu một hồi, người trong khách sạn đều giật mình tỉnh dậy. Bạch Thái Quan chạy sang phòng bên, nói với Ngư Nương: “Muội trông chừng Xa lão bá, đừng tự tiện ra ngoài”. Rồi chàng chạy ra ngoài, Đổng Cự Xuyên vừa thấy đã cười nói: “Ồ, té ra là Bạch Thái Quan nhà ngươi! Nhạc phụ của ngươi đang giận ngươi lắm đấy!” Bạch Thái Quan tức giận nói: “Nói càn!” Đổng Cự Xuyên vung tay, ba mảnh Thấu Cốt đinh xé gió bay tới, Bạch Thái Quan vội rút đao chém rơi một mảnh, tay phải phất lên kẹp mảnh thứ hai trong tay, rồi lại búng lên trên, đánh rơi tiếp mảnh thứ ba.


Trong số các đồng môn, võ công của Bạch Thái Quan xếp hàng thứ tư nhưng công phu ám khí của chàng cũng thuộc hàng số một số hai, nên thủ pháp tiếp ám khí cũng rất thuần thục, Đổng Cự Xuyên thầm nhủ: “Sao Bạch Thái Quan lại lợi hại như thế”. Y không dám coi thường, thế là vọt đến mấy trượng, hai chưởng đẩy ra, sử dụng tuyệt chiêu của phái Hình Ý.


Bạch Thái Quan chém ngang một đeo, Đổng Cự Xuyên đột nhiên lật chưởng phải, chưởng phong phát ra, bổ vào be sườn phải của Bạch Thái Quan, Bạch Thái Quan chém ra hai đao nhưng đều hụt cả, chàng lách trái né phải, Cam Phụng Trì thấy thế thất kinh, chưởng pháp hơi chậm lại, suýt nữa đã bị tị vân trợ bổ trúng. Đổng Cự Xuyên múa chưởng nhưng gió, trong nhu có cương, toan đoạt binh khí của Bạch Thái Quan, Bạch Thái Quan xoay cả người lẫn đao, đột nhiên đánh một chiêu Bình Sa Lạc Nhạn, toan tìm thắng trong bại. Nào ngờ chưởng pháp của Đổng Cự Xuyên là tinh túy của Hình Ý môn, như hư như thực, hai tay phân ra, chưởng trái bạt vào chui đao, quát: “Trúng!” Bạch Thái Quan ngã lăn xuống đất, Đổng Cự Xuyên cả mừng toan bước tới, Bạch Thái Quan vung tay trái chợt quát: “Có đến mà không đi không phải lễ! Xem châm!” lập tức một mảng ngân quang loang loáng bay tới. Đổng Cự Xuyên thất kinh, nhảy vọt hơn một trượng, vội vàng phất ống tay áo, tuy quét được mảng Mai Hoa châm nhưng cũng luống cuống chân tay.


Đổng Cự Xuyên hạ người xuống đất, vung chưởng tấn công tiếp, thân pháp thay đổi, chỉ thấy người của y cứ xoay mòng mòng bên cạnh Bạch Thái Quan, khiến Bạch Thái Quan chẳng biết đề phòng ở nơi nào cũng chẳng rút ám khí ra được. Khi nắm chắc phần thắng trong tay, người có công lực cao hơn thường dùng công phu du đấu để đối phó với người yếu hơn, may ở chỗ Bạch Thái Quan tuy võ công tương đối kém hơn nhưng vẫn không cách quá xa, bởi vậy chàng có thể gắng gượng chống cự nổi. Lại đánh nhau thêm một hồi nữa, chưởng pháp của Đổng Cự Xuyên càng gấp hơn, phiêu hốt như gió! Đao quang của Bạch Thái Quan loang loáng, chẳng chạm vào được kẻ địch, chỉ đành che kín môn hộ. Nhưng dù như thế vẫn cảm thấy hai chưởng của kẻ địch như con thần long đánh loạn trước mắt mình.


Phía bên kia Cam Phụng Trì và Hàn Trọng Sơn đánh ngang tay, nhưng vì Cam Phụng Trì lo cho sự an nguy của Bạch Thái Quan, không khỏi bị ảnh hưởng, một trăm lẻ tám đường tị vân trợ pháp của Hàn Trọng Sơn biến hóa vô cùng, thấy Cam Phụng Trì hơi chậm tay thì liên tục đánh đòn sát thủ, trong lúc gấp gáp, Cam Phụng Trì hú lớn một tiếng, vỗ vù ra một chưởng bạt cái tị vân trợ ra, phóng vọt ra hơn một trượng, đột nhiên quát: “Xem tiêu!” Hàn Trọng Sơn giơ ngang trợ gạt qua, Cam Phụng Trì đã phóng ra ba mũi hưởng tiễn, một mũi phát ra tiếng dài, hai mũi phát ra tiếng ngắn, ba mũi hưởng tiễn bay vút lên trời cao kêu lên u u nghe rất chối tai. Hàn Trọng Sơn thấy Cam Phụng Trì không phóng hướng tiễn về phía mình, nói: “Ngươi làm trò quái gì thế?” y tưởng rằng ám khí của chàng quái dị nên giơ ngang trợ phòng bị, không dám lơi lỏng. Cam Phụng Trì lại như bổ về phía Đổng Cự Xuyên, đánh ra một chiêu Kim Long Thám Trảo chụp vào hậu tâm của Đổng Cự Xuyên. Đổng Cự Xuyên trở tay vỗ lại một chưởng, nhưng làm sao có thể chống nổi thần lực của Cam Phụng Trì, thế là bị đẩy ra hơn một trượng, suýt nữa đã ngã xuống. Hàn Trọng Sơn cả giận phóng vọt lên, y vung tị vân trợ chặn Cam Phụng Trì lại.


Đổng Cự Xuyên trúng một chưởng, lúc đầu chưa thấy gì, nhưng sau đó xương cốt đau nhói. Cam Phụng Trì đã dồn âm lực vào chưởng này, dù Đổng Cự Xuyên là cao thủ, trúng một chưởng cũng hao tổn nguyên khí. Y lại du đấu với Bạch Thái Quan, thân pháp không còn linh hoạt như trước nữa. Thế là Bạch Thái Quan tuy vẫn lọt xuống thế hạ phong nhưng không còn vất vả nhưng trước.


Trận ác chiến kéo dài đến một canh giờ, người trong khách sạn đều bị đánh thức, có vài người lớn gan thò đầu nhìn ra cửa sổ. Chủ khách sạn hoảng hồn, không dám đến khuyên ngăn. Có người kêu: “Mau báo quan!” Cam Phụng Trì vừa nghe thầm kêu không xong. Chàng đánh vội ra mấy chiêu, lấy tiến làm lui, Hàn Trọng Sơn đã hiểu dụng ý của chàng, lạnh lùng quát: “Hừ, còn muốn chạy!” cây tị vân trợ múa tít, một bước cũng không lui. Phía bên Bạch Thái Quan tuy còn có thể cầm cự nổi nhưng không thoát nổi phạm vi chưởng lực của Đổng Cự Xuyên.


Trên Cát Lĩnh, Lữ Tứ Nương nghe hưởng tiễn của đồng môn, vội vàng quay về. Khách sạn này được xây dưới chân núi, lưng dựa vào núi mặt hướng ra hồ, trên đường trở về Lữ Tứ Nương chợt thấy một thớt ngựa phóng tới chạy thẳng vào thành. Lữ Tứ Nương rùng mình, điểm mũi chân lướt lên lưng ngựa, vung tay tóm lấy người ấy kéo xuống. Thớt ngựa hí vang, chạy sang một bên. Lữ Tứ Nương nói: “Ai thế?” người ấy nói: “Ngươi có phải là Lý tướng công ở trong tiểu điểm hay không?” Lữ Tứ Nương nhận ra đó là người chăm sóc ngựa trong khách sạn người ấy nói: “Trong khách sạn có cường đạo đến cướp, đang đánh nhau với bằng hữu của tướng công, xin tướng công buông tôi ra”. Tên tiểu nhị trông ngựa này thật bạo dạn, Lữ Tứ Nương nói: “Được, ngươi đi báo quan, ta trở về giúp các ngươi bắt kẻ trộm”. Rồi nàng cúi xuống nhặt một viên sỏi nhỏ vung tay lên, ném bị thương chân ngựa. Con ngựa này đúng là ngựa tốt, nó hí vang một tràng, chạy không xa thì ngừng lại, vẫn đợi chủ nhân. Tên tiểu nhị trông ngựa không biết Lữ Tứ Nương là người tốt hay kẻ xấu, thấy nàng chịu thả mình thì vội vàng phóng lên lưng ngựa. Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan đang căng thẳng, Bạch Thái Quan càng lúc càng nguy, Đổng Cự Xuyên tiến dần tới từng bước, Bạch Thái Quan chợt kêu: “Bát muội!” Đổng Cự Xuyên nói: “Có kêu trời cũng vô dụng!” nói chưa dứt, chợt thấy một luồng bạch quang lóe lên, Lữ Tứ Nương cả người lẫn kiếm lao bổ đến trước mặt như cơn gió lốc, Đổng Cự Xuyên cả kinh lách người qua, vỗ một chưởng vào vai của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương rất nhanh nhạy, nàng lật cổ tay đánh ra một chiêu Thần Long Điêu Thủ, cây bảo kiếm chém vèo qua, dù Đổng Cự Xuyên là một cao thủ nhưng khi thu mình né tránh, ống tay áo cũng bị đứt một mảnh. Đổng Cự Xuyên kêu: “Nguy rồi!” Đổng Cự Xuyên khom eo, một mũi hỏa diệm tiễn đột nhiên bắn ra, đó là một trong những ám khí cứu mạng của y, Lữ Tứ Nương gạt ngang thanh kiếm, chợt nghe nổ bình một tiếng, Lữ Tứ Nương giật mình nhảy vọt ra mấy bước, may mà không bị cháy. Hàn Trọng Sơn thấy Lữ Tứ Nương đến, nào dám ham đánh, vội vàng phóng người lên mái nhà, cùng Đổng Cự Xuyên bỏ chạy. Cam Phụng Trì nói: “Chỗ này không thể ở lâu”. Rồi vội vàng ném cho lão chủ khách sạn hai lượng bạc.


Ngư Nương đang nóng lòng chờ đợi, không lâu sau bọn Bạch Thái Quan vào phòng. Ngư Nương nói: “Thế nào? Cam đại hiệp gặp ai thế?” Bạch Thái Quan nói: “Đừng hỏi nhiều, mau thu dọn, chúng ta đi ngay thôi!” Cam Phụng Trì nói: “Xa lão bá!” Xa Đỉnh Phong nghiêng người rồi chợt ngồi dậy.


Lữ Bảo Trung nói: “Xa lão bá, người có sao không?” Xa Đỉnh Phong nói: “Thiếu nữ ấy ra tay thật hiểm độc, may mà được hai vị tương cứu”. Cam Phụng Trì nói: “Ngũ ca, huynh hãy cõng Xa lão bá, tôi và bát muội đoạn hậu”. Xa Đỉnh Phong nói: “Học trò của Thọ Sương thư viện đều là những thiếu niên ôm lòng cứu quốc, nếu Cam đại hiệp không có chỗ nào dừng chân, chi bằng đến đấy tạm lánh mặt”. Cam Phụng Trì nói: “Thật là tốt”. Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thất ca, muội lại đến phủ nha một chuyến”. Bạch Thái Quan nói: “Sao muội không đi cùng?” Lữ Tứ Nương nói: “Người trong khách sạn đã báo quan, Liễu Ân chắc chắn đích thân đến đây”. Cam Phụng Trì nói: “Huynh đã biết dụng ý của bát muội. Đó là kế điệu hổ ly sơn. Liễu Ân đến bắt chúng ta, còn chúng ta đi cứu Lộ sư huynh”. Ngư Nương nói: “Lữ tỷ tỷ, kế này tuy hay nhưng tỷ đã mệt suốt đêm, cũng nên nghỉ ngơi”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Không sao”. Rồi ăn vội mấy miếng lương khô, uống một ly nước, xong xuôi thi triển khinh công tuyệt đỉnh phóng lên mái nhà.


Lý Trị và Phùng Lâm xuống Cát Lĩnh, Phùng Lâm thấp thỏm lo âu, Lý Trị nói: “Anh muội, Cam đại hiệp biết muội là đứa trẻ, chắc là không trách muội”. Hai người đi một hồi đã đến gần khách sạn, chợt thấy một toán quan binh chạy bên ngoài, Phùng Lâm nói: “Không xong, chúng ta mau chạy”. Trong khách sạn chợt có một nhà sư nhảy ra, đó chính là Liễu Ân.


Liễu Ân vừa thấy Phùng Lâm, cả giận quát: “Hừ! Chạy đi đâu cho thoát?” rồi phóng tới đuổi theo, Phùng Lâm nói: “Lý ca ca, huynh chặn y một hồi, muội dùng ám khí giúp huynh”. Khinh công của Liễu Ân tuy không bằng Lữ Tứ Nương nhưng lại cao minh hơn Phùng Lâm rất nhiều, chỉ thoáng chốc đã đuổi theo tới sau lưng, y vung bàn tay to bè chụp xuống đầu nàng. Chợt ánh hàn quang lóe lên, Lý Trị đã đâm soạt đến một kiếm, kiếm chiêu cực kỳ nhanh nhạy, Liễu Ân rụt chưởng bổ xuống, Phùng Lâm vung tay phóng ra hai mũi phi đao, Liễu Ân đưa cây thiền trượng hất lên, hai mũi phi đao đều bị y đánh bay lên không trung, rơi xuống lại mặt hồ. Phùng Lâm chạy vắt dò lên cổ, hơn mười tên bổ khoái phóng ngựa đuổi theo, Liễu Ân lách người, Lý Trị lại đâm soạt soạt hai kiếm, Liễu Ân quát: “Ngươi đã chán sống!” thế rồi đánh vù một trượng bổ xuống đỉnh đầu của Lý Trị, Lý Trị lách người, đâm mũi kiếm thẳng vào ngực của Liễu Ân, đây chính là một chiêu sát thủ trong kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ, Liễu Ân đánh ra một trượng, môn hộ mở rộng, Lý Trị tưởng rằng có thể đắc thủ, nào ngờ cây thiền trượng của Liễu Ân lại xoay một vòng trên không trung, không cần rút trượng hộ thân, Lý Trị lại cảm thấy một luồng lực lớn dồn tới, người bất đồ thối lui hai bước, mũi kiếm cũng bị trượng phong đánh lệch qua. Liễu Ân quát lớn một tiếng, đuôi trượng vểnh lên quét ra vù vù.


Lý Trị cả kinh, không dám chống trả, chàng lộn người trong trượng phong, đột nhiên tấn công vào chỗ trống bên trái của y, Liễu Ân dựng cây thiền trượng quét ra. hai người đọ nhau ba mươi chiêu, thanh kiếm của Lý Trị đánh nhanh như điện xẹt, thế mà chẳng chạm được vào trượng của y, đang lúc đấu rất hăng, Lý Trị lại đâm thẳng vào huyệt Phong Phủ trên vai của y, Liễu Ân hướng vào kiếm thế của chàng, thân trượng đẩy về phía trước, nào ngờ kiếm pháp của Lý Trị lại ngược với lại kiếm pháp bình thường, rõ ràng là chàng đâm vào mặt trái nhưng không biết thế nào lại đổi hướng, Liễu Ân điểm vào trượng, chợt cảm thấy gió lạnh lượt tới, lưỡi kiếm đã đâm tới vai trái, Lữ Tứ Nương rùng vai trái, chưởng trái chụp về phía trước, mũi kiếm của Lý Trị đã điểm vào vai của Liễu Ân, chợt thấy mất trọng tâm đã bị Liễu Ân chụp trúng cổ tay, chẳng thể nhúc nhích được, cây trường kiếm rơi xuống đất.


Liễu Ân giở bổng Lý Trị lên, toan quăng xuống nhưng lại thu về, hỏi: “Ngươi là môn hạ của ai?” Lý Trị nói: “Ngươi muốn giết cứ ra tay, không cần phải hỏi nhiều!” Liễu Ân nghĩ bụng người này kiếm pháp quỷ dị, tựa như chẳng kém gì Lữ Tứ Nương, không nên tùy tiện giết y, nói: “Ngươi có thể tiếp hơn ba mươi chiêu của ta cũng coi như là một trang hảo hán. Tạm thời tha cho ngươi”. Thế rồi năm ngón siết lại, dùng thủ pháp Phân cân thác cốt lợi hại nhất bóp Lý Trị đến toàn thân mềm nhũn, thấy mồ hôi trên trán Lý Trị nhỏ xuống ròng ròng, mà chàng ta cũng chẳng hề rên rỉ. Liễu Ân cũng không khỏi thầm khen, bảo bọn quan sai trói chàng lại rồi ném lên lưng ngựa tiếp tục đuổi về phía trước.


Phùng Lâm chạy vắt giò lên cổ, phía sau có mười mấy thớt khoái mã đuổi theo, Phùng Lâm đợi bọn chúng đến gần, trở tay đột nhiên phóng ra hai mũi phi đao, phi đao cắm vào mắt ngựa, độc tính lập tức phát tác, hai thớt ngựa biến thành ngựa mù, hất hai tên bổ khoái xuống ngựa.


Phùng Lâm thở phào lại chạy tiếp. Tên bổ đầu lại xua người đuổi theo, khi bọn chúng đến gần, Phùng Lâm lại phóng phi đao đánh ngã hai thớt ngựa nữa. Cứ như thế mấy lần, trong túi ám khí của Phùng Lâm chỉ còn lại hai mũi phi đao, nàng cũng chẳng dám phóng ra tiếp. Bọn bổ khoái đuổi càng gấp hơn, đến một khúc quanh chợt thấy một toán quân xông ra, trên ngoạn soái kỳ cao hơn ba trượng có một chữ “Niên”. Chợt tên quân cầm cờ phóng ngựa ở phía trước thấy có một thiếu nữ chạy đến, sau lưng có bảy tám tên công sai đuổi theo rất lấy làm lạ, một tên tì tướng xông lên, chĩa cây trường mâu về phía Phùng Lâm, quát: “Đứng lại!” Phùng Lâm lớn lên trong phủ Tứ bối lạc, có quan sai nào mà chẳng gặp, bởi vậy nàng cũng chẳng hề lo lắng, chụp lấy cây trường mâu giật một cái, viên tì tướng bị nàng kéo từ trên ngựa xuống, Phùng Lâm cũng bắt chước theo giọng của y: “Đứng lại!” tên tì tướng tức giận quát: “Đứa trẻ nhà ngươi thật lớn gan, ngươi tên gì?” Phùng Lâm cũng nói: “Ngươi tên gì?”


Bảy tám tên bổ khoái đuổi tới, thấy đại quân ở trước mặt không dám làm càn. Tên bổ đầu bước tới bẩm rằng: “Bảo quốc thiền sư bảo chúng tôi đuổi bắt đứa trẻ này”. Tên lính cầm cờ nói: “Ai là Bảo quốc thiền sư?” Liễu Ân được phong làm Bảo quốc thiền sư, trong quân không hề biết. Tên bổ đầu nói: “Nghe nói đứa trẻ này là người trong phủ Tứ bối lạc, Tứ bối lạc sai Bảo quốc thiền sư đi bắt nó về”. Tên lính cầm cờ biến sắc, nói: “Té ra là thế, đợi ta một lát”. Rồi quay vào bẩm cáo.


Tên tì tướng bị Phùng Lâm trêu tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, bảo võ sĩ ùa lên bao vây, thấy Phùng Lâm nghênh ngang như thế vừa đáng yêu vừa buồn cười, Phùng Lâm vẫn còn nắm cây trường mâu, tên tì tướng giật cây trường mâu quát: “Ngươi có buông tay ra không?” Phùng Lâm cũng cười quát: “Ngươi có buông tay ra không?” rồi ngầm vận nội lực giật cây trường mâu, tên tì tướng ngã ngửa xuống đất.


Bọn binh sĩ thấy thế đều thầm cười. Tên võ quan thẹn quá hóa giận, nhảy bật lên vung quyền đánh tới. Bọn binh sĩ chợt tản ra xung quanh, một viên tướng trẻ tuổi cỡi con ngựa to lớn thong thả đi tới, quát: “Ai gây sự ở đây?” tên võ quan vội vàng ngừng tay, bẩm: “Chính là đứa trẻ này”. Phùng Lâm cũng nói: “Nhà ngươi là tướng quân sao không quản bộ hạ để y bức hiếp trẻ con?” viên tướng trẻ tuổi thấy nàng thiếu nữ mặt mày hớn hở, trông rất đáng yêu, còn viên võ quan kia mặt sưng lên quần áo lôi thôi bởi vậy vừa kinh ngạc vừa buồn cười, hỏi: “Nhà ngươi ở đâu ra thế? Tại sai lại đánh nhau với quan quân?” Phùng Lâm nói: “Ta đang đi yên ổn, thế mà y chặn ta”. Một tên quân đến báo: “Bẩm phó soái, nghe bổ khoái Hàng Châu nói, ả này là người trong phủ Tứ bối lạc”. Viên tướng trẻ tuổi hơn biến sắc, nói: “Ngươi mời đại soái ra đây”.


Phùng Lâm nói: “Ngươi mặc kệ ta là người ở đâu, ta chẳng làm gì phạm pháp, cả Hoàng đế cũng không chặn được ta”. Viên tướng trẻ tuổi nói: “Ngươi thật chua ngoa”. Ngập ngừng rồi lại nói: “Ngươi theo ai học võ nghệ?” Phùng Lâm nói: “Không nói cho ngươi biết”. Viên tướng cười nói: “Ngươi đánh vài quyền ta xem thử”. Phùng Lâm nói: “Ta không phải người mãi nghệ trên giang hồ, tại sao phải múa cho ngươi xem, có muốn thì cứ tỉ thí với nhau”. Viên tướng mỉm cười nhảy xuống ngựa, nói: “Được, ta tỉ thí với ngươi”. Phùng Lâm nói: “Ta thắng ngươi phải thả ta đi đấy”. viên tướng nói: “Được thôi, ngươi phát chiêu trước”.


Té ra đây là toán quân của Niên Canh Nghiêu, viên tướng trẻ tuổi là phó tướng của y tên gọi Nhạc Chung Kỳ. Từ sau khi Niên Canh Nghiêu theo Tứ bối lạc, lại học bốn năm binh thư, đến năm mười tám tuổi, Tứ bối lạc mới để y cầm binh, theo đại tướng Phó Định chinh phạt bộ lạc Chuẩn Cát Nhĩ lập được công lớn, được phong làm tổng binh, rồi được phong làm Đô đốc, trước sau không quá ba năm, từ một viên tì tướng đã trở thành chủ soái, có thể nói là người thăng tiến nhanh nhất trong thời Thanh. Lúc này Niên Canh Nghiêu mới hai mươi mốt tuổi. Nghe nói Nhạc Chung Kỳ là hậu duệ của Nhạc Phi, năm nay chỉ mới hai mươi hai tuổi, cũng là người do Tứ bối lạc đề bạt. Y tinh thông võ nghệ, thuộc lòng binh thư.


Nhạc Chung Kỳ đối xử với thuộc hạ rất khoan dung, còn Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm. Nên thuộc hạ trong quân đều sợ Niên Canh Nghiêu như cọp, nhưng trái lại thân thiết với Nhạc Chung Kỳ. Nhạc Chung Kỳ thấy Phùng Lâm chỉ là đứa trẻ mười ba mười bốn tuổi nhưng đã đánh ngã một tên võ quan, lại thấy nàng rất đáng yêu, nhất thời nổi hứng nên muốn trêu nàng chơi.


Phùng Lâm rất nghịch ngợm, Nhạc Chung Kỳ vừa nói “được thôi”. Nàng đã đưa chân đạp vào gối của Nhạc Chung Kỳ, Nhạc Chung Kỳ khom eo tiếp lấy, Phùng Lâm vỗ bốp bốp hai chưởng, Nhạc Chung Kỳ kêu “hay!” hai chưởng giáng thẳng xuống, chỉ vì sợ đả thương Phùng Lâm nên không dám dốc hết toàn lực, y chỉ hơi chần chừ, Phùng Lâm đã hóa chưởng thành quyền đánh ra một chiêu Lôi Tinh Cản Nguyệt đánh vào bụng dưới của y.


Nhạc Chung Kỳ cả kinh vội vàng lộn người, hai chưởng đẩy ra hóa giả thế công của nàng, thầm nhủ: “Đứa trẻ này tuổi còn nhỏ mà sao ra tay lại hiểm độc đến thế”. Bất giác thiện cảm đối với nàng giảm mất một nửa, Phùng Lâm tiến tới một bước, quyền phải thu về eo, tay trái biến thành chưởng chém vào mặt trái của đối phương, đây chính là chiêu Thản Đương Thiết Chưởng của Thiếu Lâm quyền. Nhạc Chung Kỳ gạt ngang chưởng chặn lại, nàng đã tung hai cước đá liên hoàn, chân trái đá vào huyệt Bạch Hải trên mặt gối của Nhạc Chung Kỳ, chân phải đá vào huyệt Củng Binh dưới đầu gối. Đó chính là đòn Liên Hoàn cước trong Thái Tổ quyền Bắc phái. Nhạc Chung Kỳ phải vận dụng mấy chiêu Tả Hữu Khai Cung, Thác Thiên Hoán Nhật trong Nhạc gia táng thủ mới chặn được nàng.


Phùng Lâm càng đánh càng dữ, chiêu số biến hóa vô thường phức tạp, lúc quyền lúc chưởng. Nhạc Chung Kỳ thầm lấy làm lạ, không ngờ rằng nàng tuổi còn nhỏ mà đã học được nhiều võ công kỳ dị đến thế. Phùng Lâm người lại thấp bé, nên chỉ chuyên tấn công vào hạ bàn của kẻ địch, Nhạc Chung Kỳ đành phải khom eo ứng chiến rất vất vả.


Đánh một hồi, binh sĩ xung quanh chợt yên lặng. Nhạc Chung Kỳ biết chắc chắn Niên Canh Nghiêu đã tới, thầm nhủ: “Mình đánh không lại một đứa trẻ, há chẳng phải bị y cười chê sao”. Thế là mặt nóng ran, không hề nhườnh nhịn nữa. Nhạc Chung Kỳ có môn Nhạc gia táng thủ tinh diệu tuyệt luân, Phùng Lâm tuy biết nhiều loại võ công nhưng rốt cuộc tuổi vẫn còn nhỏ sức còn yếu, hỏa hầu chưa đủ, Nhạc Chung Kỳ ra tay thực sự, Phùng Lâm dần dần lọt xuống thế hạ phong. Bộ pháp của Nhạc Chung Kỳ cứ như khỉ vượn, xuất quyền như hổ báo, đánh xong mười chiêu, Phùng Lâm chẳng thể nào tấn công tới nữa. Nhạc Chung Kỳ cười nói: “Tiểu cô nương nhà ngươi đã chịu thua chưa?” Phùng Lâm chẳng nói một lời, thối lui hai bước, đột nhiên trở tay phất lại, hai luồng ô kim bay xẹt ra. Nhạc Chung Kỳ hoảng hồn, biết ám khí chắc chắn có độc, thế là lách người vung tay búng một cái lên chui phi đao, cây phi đao thứ nhất rơi xuống đất. Mũi thứ hai bay đến rất nhanh, Nhạc Chung Kỳ không dám búng tiếp, cũng không dám hớt lấy, chỉ đành rùng vai lách qua, mũi phi đao lướt qua đầu, chỉ nghe Niên Canh Nghiêu quát: “Dừng!” Nhạc Chung Kỳ buông tay thối lui, tiếng quát này tựa như có uy nghiêm vô hạn, Phùng Lâm nghịch ngợm đến thế mà cũng giật mình ngừng tay.


Niên Canh Nghiêu cầm mũi phi đao trong tay, nhìn qua ngó lại, trầm ngâm chẳng nói. Nhạc Chung Kỳ bước tới nói: “Phi đao này có độc, đại soái hãy cẩn thận”. Niên Canh Nghiêu chỉ nói hai chữ: “Không sao”. Nhạc Chung Kỳ nói: “Đứa trẻ này thật lạ, có lẽ đúng là người trong phủ Tứ bối lạc”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, mặt biến sắc, không nói ra lời. Nhạc Chung Kỳ rất lấy làm lạ. Y làm việc với Niên Canh Nghiêu đã được ba năm, chưa bao giờ thấy Niên Canh Nghiêu tỏ vẻ thất sắc như thế. Nhạc Chung Kỳ thầm nhủ: “Dù đứa trẻ này là người của Tứ bối lạc, đại soái cũng không sợ như thế, sao lại cứ trầm ngâm suy nghĩ”.


Nhạc Chung Kỳ không biết rằng, Niên Canh Nghiêu và Phùng Lâm từ nhỏ đã ở bên nhau, Niên Canh Nghiêu lớn hơn nàng bảy tuổi, lúc nhỏ thường bế nàng, tình như huynh muội. Từ sau khi Chung Vạn Đường qua đời bởi độc trảo của Tát Thiên Thích, Phùng Lâm bị Song ma bắt đi, giấu trong phủ Tứ bối lạc, thế là hai người chẳng gặp nhau nữa. Niên Canh Nghiêu chỉ nghe Liễu Ân nói Tứ bối lạc cũng rất yêu mến Phùng Lâm. Tứ bối lạc đã lấy thuốc trong đại nội pha vào trà cho nàng uống vì thế nàng đã quên hết tất cả mọi chuyện lúc trước.


Lúc đó Niên Canh Nghiêu cũng không hề để ý, thầm nhủ: “Ả nha đầu này thông minh xảo quyệt, để ả quên chuyện xưa cũng tốt”. Bảy năm trôi qua, Niên Canh Nghiêu dần dần trở nên người lớn, gần một hai năm nay, cũng có người mai mối cho y. Vì thế Niên Canh Nghiêu nhớ đến Phùng Lâm, không biết nàng ta đã như thế nào, nghĩ bụng nàng ta đã mất hết trí nhớ, thấy mình chắc cũng không nhận ra, mỗi lần nghĩ đến đó trong lòng thấy nôn nao.


Lúc nãy Niên Canh Nghiêu nghe đến báo có một thiếu nữ gây sự bên ngoài, y chột dạ bước ra xem. Thấy Phùng Lâm đánh với Nhạc Chung Kỳ đến khó phân thắng bại, trong lòng thầm thất kinh, nghĩ bụng thiếu nữ này quá nửa là nàng ta. Đến khi chụp được cây phi đao mới càng đoán chắc hơn.


Phùng Lâm gặp Niên Canh Nghiêu, tâm hồn nhỏ bé cũng nhói lên, thầm nhủ không biết đã gặp qua người này ở đâu nhưng nàng chẳng thể nhớ ra nổi. Niên Canh Nghiêu nói: “Tiểu cô nương, đến đây, ta có chuyện muốn hỏi”. Phùng Lâm chớp mắt nói: “Được, ngươi cứ hỏi”.


Niên Canh Nghiêu bảo bọn tham tướng gọi nàng lên xe ngựa của mình, chợt dặn Nhạc Chung Kỳ: “Bắt toàn bộ bổ khoái Hàng Châu lại, truyền lệnh không được để lộ chuyện này”. Nhạc Chung Kỳ rất lấy làm lạ nhưng cũng chỉ làm theo chứ không dám hỏi.


Niên Canh Nghiêu nhảy lên xe ngựa, bảo Phùng Lâm ngồi bên cạnh mình, nhìn kỹ nàng, thấy trên khuôn mặt bầu bĩnh của nàng có lún đồng tiền, hỏi rằng: “Ngươi nói thực cho ta nghe, có phải ngươi là người trong phủ Tứ bối lạc không?” Phùng Lâm nói: “Phải thì thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đang ở yên ổn sao ngươi lại chạy ra?” Phùng Lâm đỏ mặt, nói: “Không nói cho ngươi biết”. Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc sai Bảo quốc thiền sư bắt ngươi trở về, ngươi có biết không?” Phùng Lâm nói: “Ta không về”. Niên Canh Nghiêu nói: “Tại sao không về?” Phùng Lâm giận dỗi nói: “Không về thì không về chứ sao, hỏi mãi thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc có đối xử tốt với ngươi không?” Phùng Lâm nói: “Ồ, tốt...” nàng chợt rưng tưng nước mắt nói: “Ngươi là tướng quân gì, tại sao hỏi ta?” Niên Canh Nghiêu ngẩn người, tiếp theo đó giật mình, thầm nhủ nếu nàng trở về nói với Dận Trinh là mình đã tra vấn nàng thì Dận Trinh sẽ nghi ngờ, bèn nói: “Ta khuyên ngươi trở về thì hơn”. Phùng Lâm nói: “Hừ, té ra ngươi cũng là kẻ xấu!” Niên Canh Nghiêu ngạc nhiên nói: “Ta xấu thế nào?” Phùng Lâm nói: “Ngươi cầm binh bên ngoài tự do tự tại, lại khuyên ta trở về cái nơi buồn tẻ ấy”.


Niên Canh Nghiêu nói: “Ồ, té ra ngươi vẫn ham vui như thế”. Phùng Lâm mở to mắt hỏi: “Làm sao ngươi biết ta ham vui?” Niên Canh Nghiêu lại giật mình, gượng cười: “Trong bộ dạng ngươi như thế đã biết ngươi ham vui! Ngươi ham vui cũng không sao, chỉ cần ngươi không bỏ trốn, Tứ bối lạc cũng cho phép ngươi ra ngoài rong chơi, kinh thành Bắc Kinh to lớn như thế mà vẫn không đủ cho ngươi chơi hay sao?” Phùng Lâm tức giận nói: “Ngươi đúng là người xấu!” Niên Canh Nghiêu nhíu mày nói: “Tại sao ta là người xấu?” Phùng Lâm trả lời: “Tại sao ngươi cứ buộc ta trở về phủ Tứ bối lạc?” Niên Canh Nghiêu nói: “Khuyên ngươi trở về hướng phước mà là xấu ư?” Phùng Lâm nói: “Vậy không xấu là gì? Ta chết cũng không quay về!”


Niên Canh Nghiêu giật mình, Phùng Lâm nói kiên quyết như thế, chắc là có ẩn tình, liền nói: “Được, ta không khuyên ngươi nữa, ngươi cứ ở trong xe này, đừng chạy bừa”. Phùng Lâm nói: “Được, vậy Bảo quốc thiền sư mà đến, ngươi cũng đừng nói cho y biết”. Niên Canh Nghiêu không đáp vạch rèm xe, quát bảo: “Chém hết bọn bổ khoái Hàng Châu cho ta!” bọn lính thất kinh, Niên Canh Nghiêu phẫy tay: “Đi đi! Truyền quân lệnh không được để lộ chuyện này!” Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm, hễ không bằng lòng thì giết ngay, bọn lính thân cận đã thấy quen. Nhưng không ngờ y giết cả bổ khoái Hàng Châu, một lát sau bảy tám tên bổ khoái đều đầu một nơi thân một ngã. Nhạc Chung Kỳ muốn khuyên cũng không kịp nữa. Niên Canh Nghiêu sai hỏa thiêu những cái xác ấy, vãi tro xuống sông.


Hủy xác diệt tích xong, Niên Canh Nghiêu hạ lệnh đưa quân vào Hàng Châu. Đi một hồi, quân cầm cờ báo: “Có một hòa thượng cầm cây trượng to như miệng bát, mặt mũi hung hăng tự xưng Bảo quốc thiền sư, nói là bằng hữu của đại soái muốn đến cầu kiến”. Niên Canh Nghiêu nói: “Được, để ta đích thân tiếp y”.


Sau khi bắt được Lý Trị, Liễu Ân dùng thủ pháp Phân cân thác cốt đả thương các khớp của Lý Trị, khiến chàng trong vòng mười hai canh giờ không thể hồi phục lại, sau đó lại trao chàng cho vệ sĩ của phủ nha là Vương Phấn và Hàn Chấn Sinh còn mình tiếp tục phóng ngựa đuổi theo.


Chạy được hơn mười dặm, tới quãng đồng vắng có hai tên bổ khoái chạy ra kêu lớn Bảo quốc thiền sư, Liễu Ân thấy mặt mũi chúng sưng vêu quát hỏi có chuyện gì. Hai tên bổ khoái kể lại chuyện Phùng Lâm ném phi đao, Liễu Ân cả giận nói: “Ả nha đầu này thật ngang ngạnh!”


Liễu Ân phẫy tay bảo hai tên bổ khoái trở về phủ nha trước còn mình thì đuổi theo. Chạy được hơn hai mươi dặm nữa, lại thấy hai tên bổ khoái chặn đường than thở, Liễu Ân nổi cáu lên, cứ thế đi được vài dặm lại có hai tên bổ khoái chạy ra, y gộp cả thảy đến tám người. Liễu Ân thấy quá nửa số bổ khoái đều bị Phùng Lâm đả thương, thầm nhủ: “Ả có cả thảy mười hai mũi phi đao, dùng tám mũi đả thương tám thớt khoái mã, bị mình đánh rơi hai mũi, trên người ả nhiều nhất chỉ còn hai mũi, cũng chỉ có thể đả thương được hai thớt ngựa nữa, xem thử bọn bổ khoái chưa bị thương làm ăn thế nào”.


Liễu Ân vỗ ngựa chạy được năm sáu dặm nữa, vẫn không thấy bọn bổ khoái bị thương, thầm lấy làm lạ. Đột nhiên thớt ngựa hí dài, tung vó loạn cào cào. Liễu Ân cả giận, kẹp hai chân vào bụng ngựa, thớt ngựa hí một tiếng rồi khụy xuống. Liễu Ân thất kinh, quát hỏi: “Ai dám ám toán?” chợt nghe tiếng chuông kêu lên leng keng, một lang trung giang hồ quẩy túi thuốc lắc chuông từ trên sườn núi bên cạnh đi xuống, hát rằng: “Thần y trại Hoa Đà, tinh thông y đạo, bất luận người ngựa, bị thương hỏi ta!” y vừa hát vừa lắc chuông.


Liễu Ân giật mình, lúc này ngựa của y đã chổng vó lên trời chết tốt.


Liễu Ân cả kinh, y tự phụ võ công tuyệt thế vô song, ngựa của mình bị người ta ám toán mà không hề biết chúng đã dùng thủ pháp gì. Chỉ thấy lang trung ấy lại hát rằng: “Bắn ngựa không bắn người, còn để lại chút tình; muốn chữa phải cho sớm, đừng qua quá giờ ngọ”. Liễu Ân mặt biến sắc, ngầm vận nội công hộ toàn thân, vẫy tay nói: “Này, đến trị cho ta!” lang trung lấy túi thuốc, chống cây gậy bước tới từng bước, Liễu Ân chợt quát lớn một tiếng, múa cây thiền trượng bổ xuống đầu.


Lang trung ấy cười lạnh: “Người xuất gia sao ngang ngược đến thế!” khi nói, cây trượng của Liễu Ân đã đánh xuống đầu, Liễu Ân thấy y không thể nào chống trả, muốn nương tay nên tạt xuống vai. Lang trung ấy chẳng hề nhúc nhích, khi cây trượng cách vai còn khoảng một thước, đột nhiên lách người, cây gậy trong tay đánh hất lên kêu keng một tiếng, lửa bắn ra tung tóe. Liễu Ân cảm thấy tay tê rần, cây thiền trượng suýt nữa đã vuột ra. lang trung cũng lảo đảo thối lui mấy bước, nói: “Đáng tiếc!”


Liễu Ân vừa lo vừa giận, nội công của kẻ này chẳng kém gì y. Thế là y vung cây thiền trượng quét một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân vào mạng sườn của kẻ địch, lang trung tạt ngang cây gậy, quét cây thiền trượng ra. Liễu Ân sấn tới, cây thiền trượng điểm ra một chiêu Thanh Long Xuất Hải, đó là một trong những đòn sát thủ của y, cây gậy của lang trung chặn ở bên ngoài, không rút về kịp, Liễu Ân dốc hết toàn lực, liệu rằng chắc chắn sẽ trúng, nào ngờ lang trung ấy hơi nghiêng người, dùng chui gậy dẫn nhẹ một cái, cây thiền trượng của Liễu Ân đã bị đẩy ra ngoài, y vội vàng điểm về phía trước, hóa giải âm kình của kẻ địch, quát lớn: “Ngươi là ai, hãy mau báo tên, thiền trượng của Phật giá không đánh kẻ vô danh tiểu tốt!”


Lang trung cười hì hì nói: “Đại hòa thượng, ta không phải vương gia cũng chẳng phải nhà phú hộ, ngươi muốn hóa duyên chắc chắn sẽ thất vọng”. Liễu Ân nổi khùng nói: “Ai hóa duyên của ngươi!” rồi quét cây thiền trượng ra vù vù.


Liễu Ân dốc hết sức mình xuất chiêu, phóng trượng như con thần long nhe nanh múa vuốt. Nào ngờ cây gậy trong tay lang trung cũng loang loáng ánh hàn quang, hai người chẳng ai nhường ai, quần thảo được hơn năm mươi chiêu mà vẫn chẳng phân cao thấp. Trượng và gậy mỗi lần chạm nhau đều tóe lửa, cả hai người đều thấy hổ khẩu nóng ran, phải dốc hết toàn lực nắm binh khí mới không bị đối phương đánh bay.


Liễu Ân thầm thất kinh, nhủ rằng trên đời này chỉ có vài người đánh ngang tay với mình, nhưng lang trung giang hồ này tựa như chẳng kém gì mình.


Một hồi sau, lang trung ấy thay đổi chiêu số, tay trái lấy ra cái chuông đồng, Liễu Ân quét tới một trượng, lang trung tung mình vọt lên, cái chuông đồng chợt kêu leng keng trong tai, Liễu Ân quạt trượng ra, quát: “Ngươi dám bỡn cợt Phật gia!” rồi xoáy cây trượng về phía trước, lập tức bốn phương tám hướng đều có bóng của Liễu Ân, một cây thiền trượng đã hóa thành muôn ngàn bóng trượng, bao vây lang trung ấy đến nỗi gió mưa không lọt, đó là Thiên ma trượng pháp do Liễu Ân sáng tạo, chuyên dùng đối phó với những kẻ cường địch.


Lang trung ấy cười nói: “Ngươi còn có bao nhiêu bản lĩnh cứ đem ra hết đây”. Miệng tuy nói cười nhưng tay vẫn không hề chậm lại, cây gậy trong tay chặn trước quét sau, đâm ngang bổ dọc, che kín môn hộ. Trong tiếng trượng phong vù vù, tiếng chuông vẫn kêu lên leng keng không ngừng. Liễu Ân sử dụng Thiên ma trượng pháp mà vẫn không đắc thủ, tiếng chuông càng lúc càng dày, lang trung làm ra vẻ lăm lăm niệm chú tựa như người ta chiêu hồn bắt ma. Liễu Ân rối trí, Thiên ma trượng pháp dần dần thưa thớt, lang trung thừa thế phản công, chuyển khách làm chủ. Đang lúc kịch chiến, lang trung chợt cười lớn: “Đại quân đã đến, xin thứ không thể chìu theo! Khi ngươi đến Tây Thiên, ta lại sẽ gọi hồn cho ngươi!” thế rồi thu cây gậy về quay người toan bỏ chạy, Liễu Ân tức giận nói: “Chạy đi đâu?” rồi quét ra một trượng, lang trung ấy phất tay trái, cuộn ống tay áo lên, Liễu Ân thấy mắt mình hoa lên, y vội vàng rút trượng hộ thân, đến khi mở mắt ra, lang trung ấy đã chạy lên sườn núi!


Liễu Ân định thần lại, nghĩ bụng chỉ có công phu Lưu vân phi tụ của Phó Thanh Chủ phái Vô Cực là có thể dùng ống tay áo làm binh khí, lang trung giang hồ này sao lại biết tuyệt kỹ hiếm thấy như thế? Vậy y có phải là truyền nhân của Phó Thanh Chủ hay không? Nhưng truyền nhân của phái Vô Cực rõ ràng chỉ có một mình Chung Vạn Đường, nhưng thân pháp của người này lại không phải của phái Vô Cực, làm sao có thể sử dụng được tuyệt chiêu Lưu Vân Phi Tụ?


Liễu Ân điểm cây thiền trượng xuống đất mà lòng hoang mang. Đây là lần đầu tiên y bại trận từ ngày xuất đạo. Thực ra y cũng từng bại trong tay Dịch Lan Châu nhưng Dịch Lan Châu là người đồng vai phải lứa với sư phụ của y, thất bại cũng không lạ.


Liễu Ân đang suy nghĩ, chợt thấy phía trước bụi cuốn mù lên, một toán quân kéo tới. Liễu Ân thầm nhủ: “Tên lang trung này thật thính tai, đang lúc kịch chiến mà vẫn có thể nghe được tiếng hành quân trên đường”. Y chợt thấy lá soái kỳ có thêu chữ “Niên” tung bay trong gió không khỏi cả mừng, thầm nhủ: “Tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu về nhanh như thế, chắc ả nha đầu đã bị y chặn lại”.


Niên Canh Nghiêu giấu xong Phùng Lâm, thúc ngựa ra phía trước rồi nhảy xuống cung tay, Liễu Ân cười lớn nói: “Lão đệ, đúng là ngươi, tựa như đại tướng quân trên sân khấu”. Niên Canh Nghiêu hơi bực bội nhưng vẫn cố nén, mỉm cười nói: “Bảo quốc thiền sư, tiểu đệ đang cầm quân, không thể đón tiếp đàng hoàng tử tế. Mời thiền sư đổi ngựa, chúng ta trò chuyện một lúc”. Bọn lính dắt tới một thớt ngựa khỏe Mông Cổ, Liễu Ân nhảy lên lưng ngựa, lại cười: “Lão đệ, ngươi vừa làm tướng quân đã đa lễ như thế, kẻ thô lỗ như ta không biết khách sáo. Này, ngươi có thấy ả nha đầu ấy không?”


Liễu Ân tự coi mình là trưởng bối của Niên Canh Nghiêu, làm ra vẻ nghênh ngang hống hách, Niên Canh Nghiêu rất không vui, nhưng y biết Liễu Ân là người của Tứ bối lạc, nên vẫn rất cung kính, giả vờ không biết hỏi: “Ả nha đầu nào?” Liễu Ân ngạc nhiên nói: “Ngươi không gặp ư? Còn ả nha đầu nào nữa? Chính là đứa cháu gái của Chung Vạn Đường”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ả chẳng phải đang ở trong phủ Tứ bối lạc sao?” Liễu Ân nói: “Ồ, đúng là ngươi không gặp ả. Vậy bọn bổ khoái Hàng Châu đâu rồi?” Niên Canh Nghiêu nói: “Bổ khoái Hàng Châu nào? Bảo quốc thiền sư, tôi thật chẳng hiểu gì cả, tôi vừa mới từ Phúc Kiến về đây”.


Liễu Ân nói: “Ngươi đúng là tài giỏi, vừa mới từ Thanh Hải trở về lại đến Phúc Kiến đánh giặc, chắc là đã nhận được mật lệnh của Tứ bối lạc, sắp về kinh phải không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đúng thế. Tôi đi ngang qua Hàng Châu, nhân tiện bắt theo một đám khâm phạm”. Liễu Ân nói: “Ngươi tuổi còn trẻ mà đánh trận thật giỏi, chả trách nào Tứ bối lạc coi trọng ngươi như thế”. Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Làm sao bằng Bảo quốc thiền sư võ công trùm đời vô song”. Liễu Ân bình thường thích nhất là người ta khen mình võ công cao cường, lần này vừa mới thất bại nghe thế trái lại lúng túng, lảng sang chuyện khác: “Tứ bối lạc có mật lệnh kêu ngươi về kinh, chả lẽ không nhắc đến chuyện ả nha đầu ấy sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Không có!” Liễu Ân cười rằng: “Xem ra Tứ bối lạc rất thích ả nha đầu này”. Niên Canh Nghiêu đỏ mặt tía tai, nuốt nước miếng rồi cố cười rằng: “Thế ư? Ả nha đầu vừa lanh lẹ vừa xinh xắn, ai gặp cũng mến”. Liễu Ân cười nói: “Không phải như thế. Ta thấy Tứ bối lạc có ý giữ ả, định rằng sau này nạp vào hậu cung”. Niên Canh Nghiêu gượng cười: “Hình như đại sư đã quá đa tâm?” Liễu Ân cười lớn một hồi rồi nói: “Ta hiểu rõ Tứ bối lạc hơn ngươi. Y cũng giống như ta, đều là kẻ háo sắc. Ả nha đầu tuổi tuy còn nhỏ nhưng sau này sẽ là một mỹ nhân, nếu Tứ bối lạc không có ý với ả, ta đã cướp làm của riêng! Năm nay ả cũng đã mười bốn tuổi, hai năm nữa đã là một cô nương xinh đẹp!” Niên Canh Nghiêu vừa căm tức vừa lo lắng, thầm nhủ: “Té ra là thế, chả trách nào Phùng Lâm không chịu quay về. Có điều Tứ bối lạc có ý với ả, mình làm sao giữ ả lại?”


Hai người vỗ ngựa sánh vai nhau, một lát sau Liễu Ân chợt thấy Hàn Chấn Sinh và Vương Phấn tập tễnh bước ra, y vội vàng kìm ngựa hỏi: “Làm sao thế? Phạm nhân đâu?” Vương Phấn nói: “Đã bị cường nhân cướp đi rồi!” Liễu Ân mắng: “Đồ vô dụng, hai người canh một phế nhân mà cũng không xong! Là kẻ nào lớn gan dám cướp người giữa thanh thiên bạch nhật?” Hàn Chấn Sinh nói: “Là một lang trung giang hồ, y xông bừa vào, thiếu niên vừa gặp đã kêu y là cựu cựu, chúng tôi định quát hỏi, nào ngờ thân pháp của y rất nhanh, chúng tôi nhìn chưa rõ đã bị y dựng ống tay áo phất một cái ngã lăn xuống đất. Khi mở mắt ra, phạm nhân đã biến mất”. Liễu Ân thất kinh, không dám mắng. Niên Canh Nghiêu chợt nói: “Cái gì? Dùng ống tay áo phất ngã các ngươi? Tới đây ta xem thử”. Hai người tập tễnh bước tới, Niên Canh Nghiêu bảo bọn chúng vén quần lên xem, quả nhiên thấy chân của hai người sưng đỏ. Niên Canh Nghiêu vội vàng dùng lực vặn chân bọn chúng, cả hai đều kêu ối lên một tiếng, kêu xong, cơn đau tựa như giảm mất, có thể đi lại như bình thường.


Niên Canh Nghiêu nói: “Bảo quốc thiền sư đừng mắng chúng, chúng đã gặp phải cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm!” Liễu Ân chợt nói: “Làm sao ngươi biết?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi quên lão sư phụ chết dẫm của ta là truyền nhân của phái Vô Cực hay sao? Công phu dùng ống tay áo phất huyệt này chính là chiêu số trong Lưu Vân Phi Tụ của phái Vô Cực. Nhưng công lực của người này còn cao hơn cả sư phụ của ta, đừng nói là hai tên này, dù người có võ công cao hơn bọn chúng cũng chịu không nổi một cú phất của y”. Liễu Ân ngạc nhiên, hỏi: “Sư tổ của ngươi Phó Thanh Chủ còn có truyền nhân khác sao? Chả lẽ ngoài sư phụ của ngươi phái Vô Cực còn có ai học được chân truyền của Phó Thanh Chủ?”


Niên Canh Nghiêu nói: “Sư phụ của ta là truyền nhân duy nhất của phái Vô Cực”. Liễu Ân nói: “Nếu đã thế, làm sao lại chui ra một tên lang trung giang hồ?” Niên Canh Nghiêu nói: “Y không phải là người của phái Vô Cực nhưng có liên quan đến Thái sư tổ của chúng tôi”. Liễu Ân nói: “Là ai thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ông có biết Võ Quỳnh Giao trong Thiên Sơn thất kiếm không?” Liễu Ân bực bội nói: “Làm sao mà không biết?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tên lang trung giang hồ này chính là tiểu đệ của Võ Quỳnh Giao”. Liễu Ân ngạc nhiên: “Võ Quỳnh Giao còn có một tiểu đệ?” Niên Canh Nghiêu nói: “Người này tên là Võ Thành Hóa. Từ nhỏ đã đến tái ngoại, khi thất kiếm qui ẩn, y chỉ khoảng mười mấy tuổi, mấy mươi năm qua ở miền tái ngoại, không có sự tích gì lưu truyền trong võ lâm, chả trách nào đại sư không biết”. Liễu Ân nói: “Nếu đã thế, y có liên quan gì đến phái Vô Cực của các người?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tôi cũng nghe sư phụ nói, Thái sư tổ là bằng hữu thân thiết với cha của Võ Thành Hóa, bởi vậy mới truyền tuyệt kỹ Lưu vân phi tụ cho y”. (mời xem trong bộ “Thiên Sơn Thất Kiếm”).


Liễu Ân nghe xong, thầm nhủ: “Té ra tên lang trung này lại ghê gớm đến thế, thua y nửa chiêu cũng đáng lắm”. Rồi chợt nói: “Trong số các khâm phạm Hàng Châu, có một người có liên quan đến ngươi!” Niên Canh Nghiêu nói: “Đại sư đừng nói đùa”. Liễu Ân nói: “Không phải đùa, quan hệ của ngươi với phái Thiếu Lâm như thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Một nửa võ công của tôi là do Thiếu Lâm tam lão truyền cho”. Liễu Ân nói: “Lộ Dân Đảm có một bằng hữu bằng hữu là Ấn Hoằng hòa thượng, y là đồ đệ của Bản Vô thiền sư chùa Thiếu Lâm. Lần này Lộ Dân Đảm bị bắt, nghe nói Ấn Hoằng đưa thư cho y, bị cao thủ phủ nha đuổi đến dãy Tiên Hà bắt về qui án. Chắc chắn Tuần phủ Triết Giang sẽ trao Ấn Hoằng cho ngươi áp giải bọn chúng về kinh”. Niên Canh Nghiêu cười nói: “Tôi nay đã làm đại tướng của triều đình, chỉ biết chấp pháp chứ không nương tay. Tuy tôi có quen biết Ấn Hoằng hòa thượng nhưng cũng phải áp giải y về kinh”. Liễu Ân hòa thượng cả cười nói: “Chấp pháp cái quái gì! Tiểu Niên, ta cười đến vỡ bụng mất. Vương pháp là cái quái gì, ta biết ngươi cũng biết, trước mặt ta cần chi phải nói những lời như thế. Thật ra Ấn Hoằng hòa thượng có đưa thư cho Lộ Dân Đảm hay không đến giờ vẫn không có chứng cứ”. Lần này Liễu Ân nói thật tình.


Hai người vừa đi vừa trò chuyện, đến trưa đã vào đến Hàng Châu, chỉ thấy trong thành cứ cách mười bước lại có một trạm gác, Liễu Ân ngạc nhiên nói: “Sao căng thẳng như thế?” đến khi nhận được tin báo, Tuần phủ Triết Giang Lý Vệ hớt hải chạy ra nghênh đón!


Đó là bởi vì Lữ Tứ Nương đại náo phủ nha. Lữ Tứ Nương giúp hai người Cam, Bạch đánh lùi Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên, đoán rằng Liễu Ân chắc chắn sẽ chạy ra truy đuổi, trong phủ nha thiếu cao thủ, bởi vậy thừa cơ cứu người, vì thế thi triển khinh công tuyệt đỉnh, trong đêm tối đến phủ nha. Đến Hàng Châu, gà vừa mới gáy sáng, bọn lính đổi phiên trực.


Lữ Tứ Nương hiểu rõ đường lối trong phủ nha, lại biết Lộ Dân Đảm bị nhốt ở đâu bởi vậy cứ đi thẳng tới. Nàng phóng lên mái nhà giở ngói nhìn xuống, chợt nghe có một thiếu nữ kêu: “Lữ Tứ Nương...” Lữ Tứ Nương thất kinh, tưởng rằng bị phát hiện, chỉ nghe thiếu nữ nói: “Lữ Tứ Nương không hổ là nữ trung hào kiệt, chỉ tiếc ta không thể học được như nàng”. Cánh cửa ngầm ở góc tường chợt bật ra, Lý Minh Châu dắt Lộ Dân Đảm chậm rãi bước ra.


Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao nàng ta lại nhắc đến mình? Sao lại lớn gan dám dắt phạm nhân ra mật thất”. Chỉ nghe Lý Minh Châu lại nói: “Lữ Tứ Nương đúng là nữ trung hào kiệt, thư sinh mà nàng thích cũng là một trang tuấn kiệt”. Lữ Tứ Nương mặt nóng ran, trong lòng rất thích. Lộ Dân Đảm cười nói: “Làm sao muội biết?” Lý Minh Châu cười nói: “Trước kia y đã từng bị nhốt ở đây, cha của muội lấy lợi dụ dỗ nhưng y không hề khuất phục”. Lữ Tứ Nương nghe thế cả mừng, có thiện cảm với Lý Minh Châu.


Lộ Dân Đảm thấy nàng ngưỡng mộ Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan, mỉm cười rằng: “Thực ra muốn học theo họ cũng không khó, chúng ta cứ cùng bỏ trốn rồi tìm họ”. Lý Minh Châu mặt biến sắc, lắc đầu nói: “Không được, muội không thể rời cha mẹ”. Nàng tuy khác lúc trước nhưng cũng chưa đến mức rời bỏ gia đình, rời bỏ địa vị tiểu thư thiên kim.


Lộ Dân Đảm hình như rất thất vọng, im lặng không nói. Lý Minh Châu nói: “Huynh hãy nhân cơ hội này chạy trốn. Trước khi trời sáng lão lừa trọc Liễu Ân vẫn chưa quay về. Sư phụ của muội đang ngủ, trong nha phủ không có cao thủ, huynh hãy yên tâm mà chạy!”


Lộ Dân Đảm thất bất ngờ, trong hơn một tháng bị giam lỏng, chàng đã nhận ra tình cảm của Lý Minh Châu đối với mình, trong lòng sợ nàng sẽ đeo bám mình, nào ngờ nàng lại chịu thả cho mình đi, trong lòng cảm động nhưng trái lại thấy chần chừ. Lý Minh Châu đẩy chàng nói: “Đi mau! Đợi một lát trời sẽ sáng, muốn chạy cũng không dễ!” nói xong mắt đã đỏ ửng, Lộ Dân Đảm càng thấy lòng nao nao.


Lúc này chợt nghe tiếng cười lạnh: “Hay thật, nữ sinh hướng ngoại, ngươi muốn thả y?” Thiếu phụ áo xanh đẩy cửa vào.


Chính là:


Tuy có hồng nhan tri kỷ đấy, nhưng biết cách nào chạy trốn đây.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 20

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 20 Ám khí liên châu phi châm đả nữ hiệp Âm mưu mật kế độc thủ hại thiền sư




Lý Minh Châu kêu hoảng: “Sư phụ”, thiếu phụ áo xanh nghiêm mặt, tóm về phía Lộ Dân Đảm, quát: “Quay về!” Lữ Tứ Nương chợt hú dài từ trên mái ngói lao xuống!


Thiếu phụ áo xanh này chính là Diệp Hoành Ba vợ của Hàn Trọng Sơn, mụ ta cùng Hàn Trọng Sơn ở núi Côn Luân tu luyện, sau đó Hàn Trọng Sơn đến Tây Vực hái thuốc, dò la tung tích của Thiên Diệp Tản Nhân, đi một lần đến mấy năm trời vẫn không về núi, Diệp Hoành Ba xuống núi dò hỏi mới biết y tằng tịu với một nữ tặc vùng Tây bắc là Hồng Cẩm Nương, Diệp Hoành Ba rất nổi cáu, thế là hai vợ chồng trở mặt nhau. Sau đó Hàn Trọng Sơn theo Tứ bối lạc, Diệp Hoành Ba cũng đến phủ nha, làm sư phụ của Lý Minh Châu. Diệp Hoành Ba nội công thâm hậu, hơn năm mươi tuổi mà vẫn trông như người bốn mươi. Hàn Trọng Sơn chẳng có thành ý đối với nữ phi tặc, lâu ngày sinh chán nản, không khỏi lại nhớ đến vợ mình. Vì thế y nhờ Liễu Ân hòa giải cho mình. Lúc đầu Diệp Hoành Ba kiên quyết không chịu, sau đó nghĩ đến tình phu thê, chấp nhận hòa giải nhưng đưa ra một điều kiện độc ác đó là muốn Hàn Trọng Sơn cắt một lỗ tai của Hồng Cẩm Nương, mười đầu ngón tay đem về làm vật chuộc tội. Nhưng may nhờ Cam Phụng Trì xuất hiện mới cứu được Hồng Cẩm Nương.


Lữ Tứ Nương vọt xuống, tay đã rút sẵn cây Sương Hoa kiếm. Diệp Hoành Ba nhảy lướt ngang ba bước, cũng rút thanh bảo kiếm. Lữ Tứ Nương nói: “Lộ sư huynh, chúng ta ra ngoài!” Diệp Hoành Ba cả giận quát: “Lữ Tứ Nương, ta không sợ ngươi!” rồi đâm soạt tới một kiếm! Lữ Tứ Nương chém vào cổ tay trái của mụ ta, Diệp Hoành Ba lập tức lộn người, quét ra một kiếm vào vai trái của Lữ Tứ Nương.


Lữ Tứ Nương cười nói: “Kiếm pháp của ngươi cũng khá lắm”. Rồi đột nhiên chuyển thân kiếm, chập vào thân kiếm của Diệp Hoành Ba rồi xéo một cái, kiếm của Diệp Hoành Ba suýt nữa đã vọt khỏi tay! Mụ ta thất kinh, vội vàng vận lực kìm lại, giải chiêu trả chiêu. Trong chớp mắt Lữ Tứ Nương đã tấn công ba chiêu, mụ ta chỉ có thể chống trả, Diệp Hoành Ba vẫn không hề thối lui, vừa chặn vừa kêu lớn: “Người đâu!”


Võ công của Diệp Hoành Ba chẳng kém gì chồng, Lữ Tứ Nương không muốn đánh lâu, cây Sương Hoa kiếm đánh ra soạt soạt mấy chiêu, kêu: “Lộ sư huynh, nhảy lên mái nhà trước”. Lộ Dân Đảm vái Lý Minh Châu một cái rồi đẩy cửa sổ tung người vọt ra. Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, trong vòng mười chiêu đã khiến Diệp Hoành Ba hoa cả mắt, thối lui hai bước. Lữ Tứ Nương cười nói: “Tạm biệt!” rồi xoay eo nhảy tọt ra cửa sổ. Diệp Hoành Ba tức tối cầm kiếm đuổi theo, chỉ trong chớp mắt Lữ Tứ Nương đã vượt qua ba lớp nhà.


Chợt nghe Lộ Dân Đảm kêu hoảng ở phía trước! Lữ Tứ Nương phóng mình lên như tên bắn, lại băng qua một lớp nhà nữa, chỉ thấy một người đang tung chưởng đánh Lộ Dân Đảm xoay mòng mòng, còn một người kia thì cầm một cây trợ chặn đường chàng ta lại, người đó chính là Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn.


Số là Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, y và Hàn Trọng Sơn bị ba người Cam, Lữ, Bạch hợp lực đánh lui, đoán rằng Lữ Tứ Nương chắc chắn sẽ thừa cơ cứu người bởi vậy mới cùng Hàn Trọng Sơn vội vàng chạy về.


Lữ Tứ Nương thấy Lộ Dân Đảm đang gặp nguy, người chưa vững đã liên tục phóng ám khí, hai mũi trủy thủ xé gió bay vèo ra, Hàn Trọng Sơn cũng vung tay ném ba vật sáng loáng ra, món ám khí của y tên là hàn quang phi bạt, bốn bên rất sắc bén, hai cây trủy thủ của Lữ Tứ Nương bị đánh rơi xuống, cái phi bạt ở giữa bay thẳng vào ngực nàng, Lữ Tứ Nương dùng kiếm hất lên, quét phi bạt bay lên đỉnh đầu, thuận tay lại phóng hai mũi trủy thủ về phía Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên.


Hàn Trọng Sơn phóng vọt người lên, dùng tị vân trợ đánh bay trủy thủ lên không trung, nhảy bổ tới Lữ Tứ Nương; Đổng Cự Xuyên cũng lách người tránh một cây trủy thủ nhưng hơi chậm lại, Lộ Dân Đảm đã thoát thân được. Đổng Cự Xuyên quát: “Chạy đi đâu!” rồi nhảy qua hòn giả sơn chặn lại!


Phía bên này Lữ Tứ Nương đang chặn cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn, trả lại một kiếm, nàng không muốn giằng co với y, Hàn Trọng Sơn chém ngang tới một trợ, nàng thuận thế điểm kiếm vào đầu trợ, mượn lực của Hàn Trọng Sơn bật ngược người lên rồi bổ nhào xuống Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng tránh qua, kiếm quang của Lữ Tứ Nương lóe lên, đâm vào huyệt Phong Phủ sau lưng của y. Đổng Cự Xuyên vội vàng thu người, đột nhiên đẩy hai chưởng ra, thừa lúc Lữ Tứ Nương chưa đứng vững, đã đánh vào chỗ trống của nàng, đó là một tuyệt chiêu sát thủ của y, không ngờ kiếm của Lữ Tứ Nương thuần diệu vô cùng, biến ảo khôn lường, khi từ trên không trung đáp xuống, tựa như nàng đã đoán được y sẽ tấn công, cây Sương Hoa kiếm đột nhiên phát ra cuộn thành một vòng tròn, vừa nhanh vừa chuẩn, Đổng Cự Xuyên đẩy hai chưởng tới trước ngực, mũi kiếm của nàng đã quét thành một vòng tròn! May mà Đổng Cự Xuyên vẫn chưa đánh hết đòn, y vội vàng lộn người lăn xuống đất chứ nếu không mười ngón tay đã bị chặt đứt, dù như thế, vẫn bị Lữ Tứ Nương đạp cho một cái lăn ra ba trượng mới bò dậy nổi!


Lữ Tứ Nương kêu lên: “Lộ sư huynh, chạy mau, để muội đoạn hậu”. Tiếp theo nàng lại nói hai câu ám ngữ của bổn môn cho chàng biết Cam Phụng Trì đang ở đâu. Hàn Trọng Sơn đã chạy tới, cây tị vân trợ bổ xuống đầu, Lữ Tứ Nương khom eo, không lùi mà tiến, đâm soạt soạt hai kiếm vào huyệt Chiêu Môn của hai be sườn của y, Hàn Trọng Sơn buộc phải thối lui ba bước, đưa cây trợ chặn ngang qua. Lộ Dân Đảm đã nhảy vọt ra khỏi bức tường.


Lúc này Diệp Hoành Ba đã đuổi tới, thấy Hàn Trọng Sơn đang ác chiến với Lữ Tứ Nương, mụ ta chưng hửng, vừa mừng vừa tủi, kêu lên: “Lão quỷ, còn đến đây làm gì?” Hàn Trọng Sơn kêu: “Hảo thê tử, chuyện chúng ta lát nữa hãy tính. Giúp tôi chặn con tiện tì này lại!” lúc này Đổng Cự Xuyên cũng múa chưởng tấn công tới, buộc Lữ Tứ Nương phải chuyển công làm thủ.


Lữ Tứ Nương thầm nhủ, bản lĩnh của mình dù cao hơn nữa cũng không chặn được ba cao thủ thuộc hàng nhất lưu, thế là đánh hờ một kiếm, tay trái chợt mở ra, vạch vào mặt của Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng hụp đầu né tránh, Lữ Tứ Nương trở tay đánh ra một kiếm đâm hờ về phía Hàn Trọng Sơn, người đã chui qua chưởng của Đổng Cự Xuyên. Diệp Hoành Ba đã chạy đến phía trước, vung kiếm chặn lại. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân xuống đất, phóng vọt lên cao hơn một trượng, phẩy ra một đóa kiếm hoa đâm lướt về phía đầu của Diệp Hoành Ba, Diệp Hoành Ba giơ kiếm hất lên, gạt được kiếm của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương đã lướt qua hòn non bộ đối diện, chỉ cần nàng vọt một cái nữa thì có thể phóng ra khỏi tường. Ngay lúc này, Hàn Trọng Sơn hú dài một tiếng, phóng ra năm cái phi bạt!


Lữ Tứ Nương nghe gió rít lên, nàng không dám chậm trễ, lia cây Sương Hoa kiếm lên đầu một vòng nhưng ba cái phi bạt bay cách đỉnh đầu nàng tới trên ba thước, thành kiếm không chạm trúng. Lữ Tứ Nương lấy làm lạ, nhưng tình thế cấp bách, khi năm cái phi bạt vừa lướt qua đỉnh đầu nàng, nàng đã điểm mũi chân thi triển khinh công phóng vọt về phía vách tường.


Nào ngờ nàng vừa mới vọt lên, năm cái phi bạt đột nhiên tách ra đổi hướng bay lại, một cái bay về phía đỉnh đầu nàng, một cái bay xuống hai chân của nàng; còn hai bên trái phải đều có hai cái bay tới, cái cuối cùng thì bay thẳng vào ngực nàng. Chỉ cần trúng một cái, không mất mạng cũng tàn phế.


Hàn quang phi bạt và hồi hoàn câu đều là ám khí thành danh của Hàn Trọng Sơn, y tưởng rằng Lữ Tứ Nương chẳng thể nào tránh được, bất giác cười ha hả.


Lữ Tứ Nương đang lơ lửng trên không trung, tiến chẳng được mà lui cũng không! Trong khoảnh khắc sinh tử ấy nàng đã dùng một loại tuyệt kỹ bình sinh! Chỉ thấy nàng chặn ngang kiếm qua hai bên trái phải, gạt hai cái phi bạt ra; thân kiếm xoay một cái, tay cầm ngược chui kiếm đẩy ra ngoài, cái phi bạt ở giữa cũng bị bắn ngược ra. Lúc này trên đầu và dưới chân nàng vẫn còn phi bạt, Lữ Tứ Nương đột nhiên thu người lại, hai chân co lên, hai cái phi bạt lướt vù qua! Lúc này Lữ Tứ Nương đã bật người lên vách tường!


Lữ Tứ Nương vừa thở phào nhảy xuống tường, chợt nghe phía sau có tiếng u u, nàng nghi là phi bạt nên không dám vọt về phía trước, buộc phải quét cây Sương Hoa kiếm ra sau, chỉ thấy một vật trông như cây thước gắp rơi xuống đất. Lữ Tứ Nương cười nói: “Ám khí của ngươi tuy lợi hại nhưng chẳng làm gì được ta!” chưa dứt lời, đột nhiên một luồng kình phong phả vào mặt, té ra Thiên Diệp Tản Nhân đột nhiên từ xó tối lao ra, vỗ một đòn Đại suất bi thủ, lớn giọng cười: “Tiện tì, vẫn còn có ta!”


Lữ Tứ Nương dù tài cao gan lớn, kiếm pháp cao cường cũng không khỏi lạnh mình! Công lực của Thiên Diệp Tản Nhân còn hơn cả Hàn Trọng Sơn, vả lại nàng không biết còn có cao thủ nào nữa hay không!


Thực ra Thiên Diệp Tản Nhân không phải mai phục trước mà đến tìm Hàn Trọng Sơn. Y nghe tiếng ám khí của Hàn Trọng Sơn rít trong gió nên chạy tới, vừa khéo gặp phải Lữ Tứ Nương xông ra ngoài, y biết Lữ Tứ Nương khinh công cao cường nên đã dùng Đại suất bi thủ đánh lui nàng mấy bước để đợi Hàn Trọng Sơn đến giáp trong.


Lữ Tứ Nương không dám tiếp chưởng lực của kẻ địch, quả nhiên nhảy vọt ba bước, món ám khí rơi dưới đất đột nhiên bay bổng lên lao về phía hai chân của Lữ Tứ Nương!


Đây là trái hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn, Lữ Tứ Nương chưa kịp thấy bao giờ, nàng hoảng hồn nhảy lên, suýt nữa đã bị nó móc trúng! Nàng vội vàng điểm mũi kiếm xuống, bắn vọt người lên, trái hồi hoàn câu bay vù qua chân nàng, Thiên Diệp Tản Nhân đuổi tới vỗ hai chưởng, Lữ Tứ Nương nhảy nhót né tránh, cái hồi hoàn câu chạm vào vách tường bay ngoặt trở lại. Lúc này Hàn Trọng Sơn cũng đã nhảy xuống tường, lớn giọng nói: “Sư đệ, dùng chưởng lực đánh bay thanh kiếm của ả!” rồi vung tay, phóng hai cái phi bạt cuối cùng ra, lúc này y dùng thủ pháp cực kỳ thâm độc, một cái thì dùng thủ pháp phát ám khí tấn công hậu tâm của kẻ địch, một cái thì dùng thủ pháp ném xoáy, giữa hai cái phi bạt còn kẹp theo một cây thất sát châm.


Lữ Tứ Nương tránh chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, cái hồi hoàn câu bay tới trước tiên, Lữ Tứ Nương nghe tiếng gió biết nó đã bay ba vòng sẽ mất đà, thế là nàng chém ngang cây Sương Hoa kiếm, chặt hồi hoàn câu làm hai đoạn, cái hồi hoàn câu rơi xuống đất vẫn không ngừng xoay nhưng không bay lên được nữa. Lữ Tứ Nương đứng yên giơ kiếm hộ thân, định rằng nếu phi bạt bay qua đầu thì sẽ dùng kiếm chém, nào ngờ cái phi bạt từ sau lưng bay tới được đánh bằng thủ pháp phóng ám khí bình thường, vừa nhanh vừa chuẩn, Lữ Tứ Nương chợt nghe tiếng ám khí xé gió, cái phi bạt đã đến sau lưng, nàng vội vàng trở kiếm chém ngược lại đánh rơi cái phi bạt xuống, cái phi bạt ở phía trước cũng bay ngược về nhanh như điện chớp, Lữ Tứ Nương rút kiếm hất một cái, Thiên Diệp Tản Nhân chợt quát lớn một tiếng, nhảy lên cao đến hơn một trượng, vận chân lực nội gia từ xa phát ra một chưởng, mũi kiếm của Lữ Tứ Nương bị đánh lệch qua, cái phi bạt ấy chạm vào lưỡi kiếm bay xéo xuống, Lữ Tứ Nương vọt người lên, đột nhiên thấy bụng đau nhói, cây thất sát châm đã bắn vào thịt! Hàn Trọng Sơn liên tục phóng ra ba loại ám khí kỳ môn, lại thêm chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, cuối cùng khiến Lữ Tứ Nương bị thương!


Lúc này Đổng Cự Xuyên và Diệp Hoành Ba đã đuổi tới, nhảy xuống vách tường. Lữ Tứ Nương lạnh mình, thầm nhủ: “Chả lẽ hôm nay mình mất mạng ở đây”. Nàng chợt nhớ thù người chưa báo, hận nhà khó quên, người yêu đang bận hoạn, bằng hữu đang mong chờ, chợt dũng khí tăng lên, thầm nhủ: “Mình quyết không thể chết ở đây!” nàng cố nén đau, lia cây Sương Hoa kiếm lên không trung đâm về phía mặt trái của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân thấy nàng trúng ám khí mà vẫn lợi hại như thế, cười lạnh một tiếng, hai chưởng vẫn tiếp tục đẩy ra, Lữ Tứ Nương vẫy thanh kiếm ra tay nhanh như điện chớp, mũi kiếm chợt đâm vào hai chưởng, xỉa thẳng vào huyệt Toàn Cơ trên ngực của Thiên Diệp Tản Nhân. Lúc này nếu Thiên Diệp Tản Nhân hợp hai chưởng lại, Lữ Tứ Nương khó giữ mạng mà y cũng sống không xong. Trong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt, Thiên Diệp Tản Nhân hóp bụng thu ngực theo bản năng, tay trái chặn lấy chui kiếm của nàng, tay phải vạch vào cổ tay của nàng, đó là đòn nửa công nửa thủ, trước tiên hóa giải thế địch, Lữ Tứ Nương thừa cơ lách người, cây bảo kiếm vẫy ra đâm xuống be sườn của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân cũng buộc lách người, Lữ Tứ Nương xoay thanh kiếm, đột nhiên vẫy ra một đóa kiếm hoa thật lớn, vù một tiếng vọt qua đầu Thiên Diệp Tản Nhân. Thiên Diệp Tản Nhân cả giận, vội vàng đuổi theo, vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên cũng chạy theo phía sau.


Nếu luận về khinh công, Lữ Tứ Nương cao hơn Thiên Diệp Tản Nhân một bậc, song vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên còn cao hơn rất nhiều. Nhưng nàng đã trúng một mũi thất sát châm, bởi vậy khinh công không khỏi bị ảnh hưởng.


Lữ Tứ Nương chạy ở phía trước, bọn Thiên Diệp Tản Nhân đuổi theo sau, chỉ trong chốc lát đã chạy ra thành Hàng Châu. Bọn lính canh trong thành thấy mấy cái bóng trắng lướt qua, cả nam hay nữ cũng chẳng nhận ra chứ đừng nói là chặn lại.


Được nửa canh giờ đầu, Lữ Tứ Nương có thể gắng gượng cầm cự, giữ khoảng cách năm trượng với Thiên Diệp Tản Nhân. Còn bọn Hàn Trọng Sơn thì ở phía sau hơn mười trượng. Qua nửa canh giờ, chân của Lữ Tứ Nương càng lúc càng đau, Thiên Diệp Tản Nhân rướn sức đuổi theo tiếp, lúc này cách Lữ Tứ Nương không đầy ba trượng!


Lữ Tứ Nương nghe tiếng chạy ở sau lưng càng lúc càng gần. Nàng thầm nhủ mình đã đuối sức, xem ra khó thoát, chi bằng cứ quyết tử chiến với bọn chúng một trận. Tuy nàng biết lúc này chỉ một mình Thiên Diệp Tản Nhân thôi đã khó đối phó, nhưng thà tử chiến chứ không bị nhục, thế là nàng liều mạng bước chậm lại, trở tay chém một kiếm! Thiên Diệp Tản Nhân không ngờ nàng xuất chiêu ấy, y đang ra sức đuổi theo, suýt nữa đã bị nàng đâm xuyên ngực, thế là vội vàng xoay người tránh được kiếm ấy của nàng, hoảng đến nỗi toát mồ hôi lạnh. Lữ Tứ Nương đánh xong đòn ấy thấy có hiệu quả, trong lòng cả mừng nên cố nén cơn đau tiếp tục chạy!


Thiên Diệp Tản Nhân định thần, vẫn đuổi theo không ngừng, lại một chốc nữa, Lữ Tứ Nương lại thấy bụng đau nhói, nàng nghe tiếng chân thì biết Thiên Diệp Tản Nhân đã gần hơn, chỉ trong vòng khoảng hai trượng! Lữ Tứ Nương lại giở cách cũ, đột nhiên ngừng bước trở tay đâm một kiếm, nào ngờ Thiên Diệp Tản Nhân cũng đã đề phòng, y vận chưởng lực quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra, Lữ Tứ Nương vừa ngừng, chợt thấy kình phong dồn vào ngực, lúc này nàng đã sức cùng lực kiệt, bị chưởng lực đánh ngã vào bụi rậm bên đường, trong lúc nguy cấp, chợt thấy có người chụp mình lại rồi ném đi một cái, bên tai còn nghe tiếng: “A di đà Phật!” khi mở mắt ra nàng thấy mình nằm dưới đất. Người ấy ném nàng tựa như nhấc nàng lên rồi đặt nhẹ nhàng xuống đất.


Lại nói Thiên Diệp Tản Nhân tưởng rằng Lữ Tứ Nương đã bị chưởng lực của mình đánh ngã, trong lòng mừng rỡ định nhảy vào bụi rậm, chợt nghe một tiếng A di đà Phật, tựa như có người nói bên tai: “Khi đắc thủ nên buông tay, tha được cho người thì cứ tha!” mỗi câu mỗi chữ nghe rất rõ ràng! Thiên Diệp Tản Nhân giơ chưởng trái hộ trước ngực, chưởng phải chống địch, khi định thần nhìn lại chỉ thấy một nhà sư mặc tăng bào màu trắng, chân đi giày cỏ hai tai, tay cầm phất trần, trên cổ tay treo một tràng hạt, người ấy chẳng phải ai khác mà chính là Bản Vô đại sư!


Thiên Diệp Tản Nhân hít một hơi, y đã từng thấy bản lĩnh của Bản Vô đại sư trong chùa Thiếu Lâm bởi vậy chẳng dám làm hung. Bản Vô đại sư quét cây phất trần, chắp tay nói: “Tản nhân vẫn mạnh giỏi chứ!” Thiên Diệp Tản Nhân trả lại một lễ, nói: “Pháp thể của thiền sư vẫn an khang!” Bản Vô nói: “Xin đa tạ, Tản nhân là tông chủ của một phái, thế mà cũng rảnh rỗi đến Hàng Châu du sơn ngoạn thủy?” Bản Vô thiền sư biết mà vẫn hỏi, Thiên Diệp Tản Nhân đỏ mặt, ấp úng đáp chẳng ra lời, vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên đã chạy tới.


Ba người này chưa từng gặp Bản Vô đại sư, thấy Thiên Diệp Tản Nhân tỏ ra cung kính đối với một hòa thượng mà Lữ Tứ Nương đã đứng một bên, trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Hàn Trọng Sơn nói: “Sao sư đệ ngừng tay?” rồi giơ cây tị vân trợ toan bổ về phía Lữ Tứ Nương. Bản Vô đại sư chợt tiến tới phía trước chặn lại, chắp tay cười nói: “Sao thí chủ cứ làm khó một thiếu nữ, xin nể mặt bần tăng, tha cho nàng đi thôi!”


Hàn Trọng Sơn nổi cáu: “Đừng nhiều chuyện!” rồi vung cây tị vân trợ bổ tới, Thiên Diệp Tản Nhân kêu lớn: “Đừng!” Bản Vô đại sư mỉm cười, quét cây phất trần chặt vào cây tị vân trợ, Hàn Trọng Sơn chợt thấy tựa như có một vật nặng ngàn cân đè xuống, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Sư huynh, đây chính là Bản Vô đại sư giám tự chùa Thiếu Lâm!”


Hàn Trọng Sơn thất kinh, Bản Vô buông cây phất trần, Hàn Trọng Sơn rút cây trợ về, nói: “Nữ tặc này là cháu gái của tên phản nghịch Lữ Lưu Lương, đại sư là cao tăng hữu đạo, bao che cho ả làm chi?”


Bản Vô đại sư cười lạnh nói: “Vãn thôn tiên sinh có phải là phản nghịch hay không vẫn chưa biết, nhưng hai vị là danh túc của võ lâm, tông sư của một phái, không biết đã làm việc công từ lúc nào, có công văn của quan phủ địa phương hay không?”


Lữ Tứ Nương nghỉ ngơi một hồi, khí lực đã dần dần hồi phục, nàng vung tay phóng ra ba mũi hưởng tiễn bay thẳng lên không trung, cây Sương Hoa kiếm chặn trước ngực, cười lạnh nói: “Thiên Diệp Tản Nhân, ngươi có sư huynh, ta cũng có sư huynh. Nếu ngươi muốn quần đả, bọn ta cũng sẽ có người tiếp ngươi. Nếu ngươi muốn đơn đả độc đấu, xin mời hẹn thời gian, ta chắc chắn sẽ chìu theo”. Thiên Diệp Tản Nhân nóng ran mặt, rất lúng túng. Hàn Trọng Sơn thấy Lữ Tứ Nương phóng hưởng tiễn, biết nàng đang gọi đồng môn, thầm nhủ: “Lão trọc Bản Vô này quả nhiên danh đồn không ngoa. Con tiện tì Lữ Tứ Nương tuy bị thương nhưng vẫn còn hung hăng. Bốn người bọn mình đấu với hai người bọn chúng chưa chắc nắm được phần thắng. Nếu Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan cũng kéo tới, mình chắc chắn sẽ thất bại”. Bản Vô thiền sư lại mỉm cười, nói: “Tứ Nương, trước mặt tiền bối đừng làm hung! Oan gia nên giải không nên kết, giữa các người chẳng có thù sâu hận lớn, cần gì phải hẹn ngày tỉ võ? Theo ý của lão nạp, chuyện hôm nay nên dùng lại đi thôi!” lời của Bản Vô bề ngoài tựa như trách Lữ Tứ Nương nhưng thực ra là trách huynh đệ Thiên Diệp Tản Nhân. Trong võ lâm, địa vị của Bản Vô đại sư cũng cao vời như Dịch Lan Châu, Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân đều thấp hơn ông ta nửa bậc. Vừa nói ra lời ấy, Thiên Diệp Tản Nhân đã cung tay nói: “Xin nghe theo lệnh đại sư”. Hàn Trọng Sơn nói: “Hôm nay coi như dừng lại ở đây, nhưng sau này vẫn chưa biết”. Bản Vô thiền sư cười nói: “Điều này bần tăng không quản!”


Bọn Hàn Trọng Sơn bỏ đi, Bản Vô thiền sư mới nói: “Ngươi cũng thật lớn gan, sao một mình chống lại bốn tên ma đầu ấy?” Lữ Tứ Nương nói: “Thưa chẳng qua chỉ vì bất đắc dĩ”. Rồi kể lại mọi chuyện lúc nãy. Bản Vô thiền sư thở dài: “Chùa Thiếu Lâm không may, đã dạy ra tên phản đồ Vương Tôn Nhất, khiến cho hiệp sĩ giang hồ gặp nhiều tai nạn”. Vương Tôn Nhất tức là tên của Dận Trinh, Bản Vô thiền sư đã gọi quen, tuy đã biết là Dận Trinh nhưng vẫn không thay đổi. Lữ Tứ Nương cười nói: “Dù Dận Trinh không theo quý phái, y cũng làm khó chúng tôi như thường. Điều này không liên quan đến Thiếu Lâm, đại sư đừng áy náy”. Khi họ đang nói chuyện, chợt nghe ba tiếng hưởng tiễn vang lên, Lữ Tứ Nương mừng rỡ: “Cam thất ca đã đến!”


Một hồi sau Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan quả nhiên đã kéo tới. Họ thấy Lữ Tứ Nương dáng vẻ tiều tụy thì đều thất kinh. Lại thấy Bản Vô thiền sư lại mừng. Biết Bản Vô thiền sư đã cứu Lữ Tứ Nương, hai người Cam, Bạch vội vàng cung tay tạ ơn. Sau khi hỏi han thương thế của Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì nói: “Đại sư xuống núi có việc gì?” Bản Vô nói: “Tôi có một đồ đệ làm trụ trì của ở chùa Từ Ân huyện Tiêu Sơn”. Cam Phụng Trì nói: “Ồ! Có phải là Ấn Hoằng sư huynh không? Ông ta rất thân với Lộ sư huynh của chúng tôi. Mấy hôm trước chúng tôi đến Tiêu Sơn, vốn là tìm ông ta, đáng tiếc gặp phải chuyện bất ngờ nên vẫn chưa gặp mặt”. Bản Vô thiền sư nói: “May mà Cam đại hiệp không đến chứ nếu không đã uổng công”. Cam Phụng Trì nói: “Sao? Ông ta không ở Tiêu Sơn?” Bản Vô nói: “Hắn đã bị phủ nha Triết Giang bắt đi. Nghe có liên quan đến việc đưa thu cho Lộ đại hiệp”. Cam Phụng Trì kêu ối chao một tiếng, nghĩ lại trận kịch đấu mà mình đã thấy ở dãy Tiên Hà, và bức tranh còn để lại, thầm nhủ chắc người bị bắt chính là Ấn Hoằng hòa thượng, bèn nói: “Ấn Hoằng đại sư vì Lộ sư huynh của chúng tôi mà gặp nạn, nếu đại sư muốn huynh đệ chúng tôi giúp sức, xin cứ căn dặn”. Bản Vô đại sư cười nói: “Giờ thì không cần. Tôi định đến hỏi Niên Canh Nghiêu đòi người”.


Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Tại sao?” Bản Vô nói: “Nghe nói lần này Niên Canh Nghiêu áp giải khâm phạm về Bắc Kinh. Ngày mai tôi sẽ đến gặp y”. Cam Phụng Trì vội nói: “Đại sư, phải suy nghĩ kỹ mới được!” Bản Vô nói: “Cam đại hiệp có cao kiến gì?” Cam Phụng Trì nói: “Giờ đây Niên Canh Nghiêu đã là đại tướng của triều Thanh, chỉ e bất lợi đối với đại sư”. Bản Vô đại sư nói: “Từ nhỏ y được Thiếu Lâm tam lão chúng tôi thương mến, đích thân tôi truyền La Hán quyền pháp cho y, chắc là y không dám vô lễ đối với tôi”. Cam Phụng Trì nói: “Cẩn thận vẫn hơn”. Bản Vô thở dài: “Niên Canh Nghiêu là người tài hiếm có, dù y trở nên xấu xa, tôi cũng muốn đích thân xem thử y xấu đến mức nào!” Cam Phụng Trì định nói thêm, Bản Vô lại cười nói: “Hơn nữa, bần tăng tuổi tuy già nhưng binh mã của Niên Canh Nghiêu cũng chẳng vây được bần tăng!” Cam Phụng Trì không dám can nữa, chỉ bảo: “Vậy chúng tôi xin đợi tin tốt lành ở Thọ Sương thư viện”. Thế rồi họ chia tay Bản Vô đại sư.


Lý Vệ đón Niên Canh Nghiêu và Liễu Ân vào thành, Liễu Ân nghe Lộ Dân Đảm đã được Liễu Ân cứu đi, gào thét như sấm, Niên Canh Nghiêu mỉm cười, nói: “Một tên Lộ Dân Đảm có gì đáng lo? Thiên hạ đều trong tay chúng ta, dù y có chạy thoát cũng chẳng làm được trò chống gì”. Liễu Ân bớt giận, không lâu sau Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân cũng về, báo rằng giám tự chùa Thiếu Lâm Bản Vô đại sư ra tay cứu Lữ Tứ Nương, Niên Canh Nghiêu nhíu mày, nói: “Lão già này thích lo chuyện bao đồng”.


Hôm ấy Lý Vệ giao mười tám khâm phạm cho Niên Canh Nghiêu, quả nhiên có Ấn Hoằng trong đó. Niên Canh Nghiêu cũng không lên tiếng, bảo phó soái Nhạc Chung Kỳ áp giải phạm nhân về doanh trại. Còn mình và Lý Vệ trò chuyện một hồi rồi cũng quay về.


Đêm hôm ấy y mở tiệc đãi bọn Liễu Ân. Bọn Liễu Ân đều ra vẻ kẻ cả với Niên Canh Nghiêu, thấy y đã trở thành chủ soái, vừa thích thú vừa ghen tị. Sau khi tiệc tan, Niên Canh Nghiêu trở về lều của mình, lúc này đã canh ba. Y vừa vạch rèm lên, Phùng Lâm đã nhảy ra cười nói: “Ồ, té ra ngươi cũng là tên ma men, uống đến nỗi say lúy túy thế này”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi biết cái quái gì, ta không uống rượu thì ngươi sẽ bị giải về phủ bối lạc”. Phùng Lâm bật cười: “Ngươi uống rượu có liên quan gì đến ta?” Niên Canh Nghiêu suỵt một tiếng nói: “Bảo quốc thiền sư đang ở đây, ta đã chuốc say bọn chúng”. Phùng Lâm đảo mắt nhìn, chợt vỗ tay cười: “Ồ, ngươi thật thông minh, ngươi chuốc say bọn chúng sau đó thả ta đi”. Rồi nàng toan bước ra. Niên Canh Nghiêu nói: “Thong thả đã!” Phùng Lâm quay người lại, nói: “Ngươi lại không muốn thả ta đi sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi tên gì? Cha mẹ của ngươi đâu?” Niên Canh Nghiêu vốn muốn thử xem nàng biết được bao nhiêu điều về thân thế của mình. Thật ra Niên Canh Nghiêu cũng chẳng biết lai lịch của nàng, chỉ biết nàng là đứa bé gái Chung Vạn Đường dắt về. Phùng Lâm chưng hửng, nhíu mày nói: “Chưa bao giờ có ai hỏi ta như thê!” Niên Canh Nghiêu nói: “Vậy thì giờ đây ta hỏi ngươi!” Phùng Lâm nói: “Ta cũng chẳng biết. Trát bá bá nói từ nhỏ ta đã mồ côi cha mẹ, ông ta nuôi ta lớn lên. Họ đều gọi ta là Lâm nhi”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi không về phủ bối lạc, vậy ngươi định đi đâu?” Phùng Lâm mỉm cười, Niên Canh Nghiêu thấy nàng trông rất đáng yêu, nói: “Ồ, ngươi thật là nghịch ngợm, ta đang hỏi đàng hoàng tử tế thế mà ngươi cứ cười”. Phùng Lâm nói: “Ngươi hỏi thật lạ, chả lẽ ngươi sợ ta cứ ở lì ở nhà ngươi hay sao?”


Niên Canh Nghiêu chột dạ, nói: “Hỏi ngươi đi đâu có điều gì là lạ? Vài năm nữa ngươi sẽ lớn phổng lên, chả lẽ cứ lang bạc mãi hay sao?” Phùng Lâm nói: “Có gì mà không tốt, ta đói thì đánh cắp, đánh cắp đồ rất dễ, lại thú vị nữa, ngươi không biết sao?” Niên Canh Nghiêu vừa bực mình vừa buồn cười: “Người của phủ Tứ bối lạc thường đi lại trên giang hồ ngươi không sợ gặp họ sao?” Phùng Lâm nói: “Ta rất tinh mắt, vừa nhìn thấy bóng bọn chúng đã bỏ chạy. Vả lại ngoại trừ Bảo quốc thiền sư, bọn chúng cũng không biết ta đã lẻn ra. Mụ già kia không biết, gặp ta cứ kéo lại hỏi ngắn hỏi dài, hỏi Tứ bối lạc phái ta đi ra có chuyện gì!” Niên Canh Nghiêu biết nàng nói đến Diệp Hoành Ba, bất giác mỉm cười. Lại mừng vì nàng chỉ nói thật với mình, liền bảo: “Giờ đây chỉ có Bảo quốc thiền sư biết, sau này làm sao đảm bảo không có thêm người biết. Tứ bối lạc không thấy ngươi trở về phủ, chắc chắn sẽ sai người bắt ngươi”. Phùng Lâm nói: “Hừ, ngươi đừng dọa ta, ta không sợ!” Niên Canh Nghiêu thấy mặt nàng tái xanh, biết nàng thực sự rất sợ, bèn nói: “Chi bằng ngươi ở lại nhà ta cho xong”. Phùng Lâm nói: “Vậy nhà ngươi có ai?” Niên Canh Nghiêu nói: “Có cha mẹ ta, có bọn hạ nhân. Nhà ta có một khu vườn rất rộng, trong vườn có hoa có chim chơi rất vui. Ngươi có thể ở trong vườn”. Phùng Lâm mỉm cười không đáp.


Niên Canh Nghiêu lấy ra một mảnh ngọc trao cho Phùng Lâm: “Cha của ta tên gọi Niên Hà Linh, sống ở huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam, ngươi cứ đến Trần Lưu hỏi là biết ngay, ngươi gặp cha ta, đưa mảnh ngọc này cho người, cứ bảo ta kêu ngươi đến là được. Ngươi không được nói càn với người khác, có biết chưa?” Phùng Lâm cầm mảnh ngọc, nói: “Ồ, vật này thật là ngộ nghĩnh. Ngươi lắm điều quá, ta cũng chưa chắc đến nhà của ngươi!” vốn là Niên Canh Nghiêu đang dựa dẫm Dận Trinh, không nên mạo hiểm thả người của Dận Trinh đi. Nhưng không biết thế nào mà khi nhìn thấy nét cười vô tư của Phùng Lâm y đã quên đi mọi nguy hiểm, sau khi y quyết định, trong lòng đã có đối sách, dù bại lộ cũng chẳng hề chi.


Phùng Lâm toan xoay người bước ra, Niên Canh Nghiêu nói: “Này, nha đầu ngốc, ngươi đi ra như thế sao?” rồi ném một bộ quần áo cho nàng: “Vào bên trong thay đồ”.


Khi Phùng Lâm vào trong thay đồ, Niên Canh Nghiêu đã gọi quân gác đêm đến, ra lệnh cho y âm thầm đưa Phùng Lâm ra ngoài doanh trại.


Sáng sớm hôm sau, Niên Canh Nghiêu ra ngoài tuần tra, thấy bọn Liễu Ân vẫn còn chưa tỉnh, lòng thầm cười nói: “Đúng là cái dũng của bọn thất phu”. Rồi sai người nấu canh dã rượu cho bọn chúng uống còn mình thì vào hậu đường ở trong hổ trướng, chuẩn bị đem bọn khâm phạm ra thẩm vấn. Đột nhiên một tên phó quan vào báo: “Có một hòa thượng nói quen biết với đại soái, muốn gặp ngài”. Niên Canh Nghiêu nhíu mày, phẫy tay chợt nói: “Thôi được, kêu lão vào đây, tạm thời đừng đưa nghi phạm lên!” một hồi sau, Bản Vô thiền sư cầm phất trần bước vào! Niên Canh Nghiêu vội vàng nghênh tiếp, mấy năm không gặp, thấy Bản Vô thiền sư vẫn khỏe mạnh như xưa, hai mắt sáng quắc, không lộ mà oai, nhìn Niên Canh Nghiêu chằm chằm khiến y khiếp sợ.


Niên Canh Nghiêu vội thi lễ: “Đại sư từ xa đến đây, xin thứ vãn bối không thể nghênh tiếp”. Bản Vô đại sư hừ một tiếng, hất tay trái, nói: “Không dám! Ngươi đã là đại tướng quân, nào dám để ngươi nghênh tiếp!” Niên Canh Nghiêu định khom người thi lễ, chợt thấy một luồng đại lực giở mình lên, y vừa lo sợ vừa lúng túng.


Niên Canh Nghiêu đích thân bưng chiếc ghế bọc da hổ đến ngồi cùng Bản Vô đại sư, nói: “Vãn bối được công danh như hôm nay toàn nhờ năm xưa đại sư chỉ dạy!” Bản Vô hừ một tiếng nói: “Ta có dạy ngươi điều chi?” Niên Canh Nghiêu biết ông ta rất nóng nảy nên không dám nói nhiều. Một hồi sau mới đánh trống lãng: “Mỗi ngày vãn bối đều học bộ La Hán quyền của lão thiền sư truyền dạy”. Bản Vô lạnh lùng nói: “La Hán có ích gì? La Hán quyền đâu giúp ngươi lấy được công danh?” Niên Canh Nghiêu không dám trả lời. Bản Vô đại sư thấy y có vẻ sợ sệt, cũng bớt giận hơn nói: “Chính Vương Tôn Nhất đã đem lại công danh cho ngươi!” Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc cũng là sư điệt của lão thiền sư”. Bản Vô tức giận nói: “Ta đâu có được sư điệt như thế!” Niên Canh Nghiêu nói: “Năm xưa Bản Không chủ trì đã viết thư chỉ rõ Tứ bối lạc vẫn là đệ tử của phái Thiếu Lâm, y tuy tôn quý nhưng vẫn không dám quên ân tình của phái Thiếu Lâm, khi tôi xuất kinh, y còn bảo nếu một ngày ngồi lên ngôi báu, sẽ đến thăm lại Thiếu Lâm”. Thật ra Dận Trinh nói rằng nếu một ngày ngồi lên ngai vua chắc chắn sẽ san bằng Thiếu Lâm! Bản Vô thiền sư chỉ cười lạnh, chợt nói: “Năm xưa ngươi chứng minh bức thư ấy là thủ bút của sư huynh ta, công lao này thật lớn!” Niên Canh Nghiêu giật mình, thầm nghĩ cách đối phó.


Bản Vô thiền sư nhìn Niên Canh Nghiêu, thầm nhủ: “Gã này quả nhiên đã thay đổi, chỉ biết công danh lợi lộc, quên cả mình là người Hán”. Nhưng giới quy của Thiếu Lâm xưa nay không màng đến triều chính, cũng không cấm môn đồ làm quan, huống chi Niên Canh Nghiêu lại không phải là môn nhân của phái Thiếu Lâm, Bản Vô chẳng quản được y. Niên Canh Nghiêu thấy Bản Vô đại sư không nói, sắc mặt tựa như đã giãn ra, lại cười bảo: “Pháp thể Vô Trú thiền sư vẫn mạnh giỏi chứ?” Bản Vô nói: “Mạnh”. Niên Canh Nghiêu nói: “Từ xưa có câu tình thầy trò như tình cha con, vãn bối tuy vô phúc không được làm môn hạ của phái Thiếu Lâm nhưng được lão thiền sư chỉ điểm, xưa nay xem người như sư phụ. Lão thiền sư từ xa đến đây, xin cho đệ tử chuẩn bị bữa tiệc chay”. Rồi truyền lệnh xuống dưới, Bản Vô chợt nói: “Khoan đã!” Niên Canh Nghiêu nói: “Đại sư có gì căn dặn?” Bản Vô nói: “Ta đến đây không phải hóa chay, ta hỏi ngươi, trong số các nghi phạm ngươi sắp giải về kinh, có đồ đệ Ấn Hoằng của ta không?” Niên Canh Nghiêu hơi chần chừ, đáp: “Có”. Bản Vô nói: “Hắn phạm tội gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đưa thưa cho tên phản tặc Lộ Dân Đảm”. Bản Vô nói: “Có chứng cứ không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Vẫn chưa tìm ra”. Bản Vô nói: “Vậy mong đại tướng quân cho tôi bảo lãnh hắn”. Niên Canh Nghiêu vội nói: “Đại sư đã nặng lời!” Bản Vô nói: “Đừng nói nhiều lời khách sáo! Ngươi cứ nói cho hay không là được”. Niên Canh Nghiêu nói: “Điều này, điều này...” Bản Vô cười lạnh: “Đã không bằng không cứ, vậy theo qui tắc của triều đình các ngươi, cũng có thể được bảo lãnh, chả lẽ giám tự chùa Thiếu Lâm muốn bảo lãnh một người mà Niên đại tướng quân nhà ngươi không tin hay sao?” Niên Canh Nghiêu chỉ đành nói: “Đó là người Tứ bối lạc cần”. Bản Vô nổi cáu, lớn giọng nói: “Được, vậy ngươi cứ bảo với Tứ bối lạc là ta đã dắt đi, nếu y muốn đến đòi người cứ đến chùa Thiếu Lâm!”


Bản Vô đại sư đã nổi cáu thực sự, không ngờ Niên Canh Nghiêu chợt cười, vái dài xuống đất, nói: “Đại sư đừng giận, vãn bối sẽ lập tức mời Ấn Hoằng sư huynh ra. Nếu có việc gì vãn bối sẽ gánh vác. Mong đại sư đợi một lát”. Rồi gọi lính ra căn dặn mấy câu, một chốc sau, bọn lính quả nhiên đã đưa Ấn Hoằng hòa thượng ra. Niên Canh Nghiêu tự tay tháo gông cùm cho ông ta, Ấn Hoằng kêu: “Sư phụ”. Bản Vô nói: “Ngươi cũng nên tạ ơn Niên tướng quân”. Ấn Hoằng đầy thắc mắc, chắp tay làm một lễ.


Bản Vô đã tắt lửa giận, nghĩ bụng Niên Canh Nghiêu rốt cuộc cũng là người có tuệ căn, vẫn chưa hoàn toàn thay đổi. Trong quân bưng lên món cơm chay, Niên Canh Nghiêu tự tay rót ba chén trà nóng, trà thơm xông vào mũi, nâng ly nói với Bản Vô thiền sư: “Đại sư từ xa đến đây, xin mời dùng chút đồ chay”. Bản Vô bưng chén trà, Ấn Hoằng chợt nói: “Sư phụ, chúng ta đừng làm phiền Niên tướng quân nữa, chi bằng cứ đi cho sớm!” Niên Canh Nghiêu uống cạn chén trà, nói: “Sao Ấn Hoằng sư huynh lại làm mặt lạ như thế? Hôm qua tôi vừa mới đến Hàng Châu, biết sư huynh bị nhốt đã lâu, trong lòng thấy ái ngại lắm. Nếu sư huynh không nể mặt, há chẳng phải vẫn còn trách tiểu đệ hay sao!” Bản Vô thấy Ấn Hoằng thúc giục, chợt chột dạ, lại thấy Niên Canh Nghiêu đã uống cạn chén trà, ông ta thầm cười Ấn Hoằng đa nghi. Thế rồi nâng chén trà lên nói: “Xưa nay ta không xu phụ quan phủ, hôm nay phá lệ uống với ngươi một chén trà”. Thế rồi uống cạn chén. Ấn Hoằng đưa chén trà lên môi, chần chừ một hồi, Bản Vô thiền sư chợt nhảy lên, đánh vỡ chén trà của Ấn Hoằng, lớn giọng nói: “Niên Canh Nghiêu, ngươi dám ám toán!” Niên Canh Nghiêu cười ha hả, đã sớm lui ra phía sau trướng. Bản Vô đại sư quét cây phất trần cuốn tấm rèm lên, vù một tiếng Liễu Ân hòa thượng đã đánh trượng ra!


Bản Vô nói: “Ấn Hoằng, xông ra!” rồi quét cây phất trần cuộn cây thiền trượng của Liễu Ân, chém một chưởng vào vai trái của y, Thiên Diệp Tản Nhân chợt nhảy ra, hai chưởng đẩy tới, vận hết lực tiếp chưởng ấy của Bản Vô, Liễu Ân rút cây phất trần nhảy ra, Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên cũng xông ra, bốn cao thủ thuộc hàng nhất lưu bao vây Bản Vô đại sư ở giữa! Niên Canh Nghiêu lại bước ra, ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bọc da hổ nhìn trận đấu đang diễn ra.


Bản Vô nổi cáu, quét cây phất trần về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng xoay người né tránh, vỗ ngược lại một chưởng từ trên mặt; Bản Vô đại sư lướt người ra, toan hạ thủ Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp giơ ngang chưởng trái trước ngực, chưởng phải quét ra, Bản Vô quát: “Trúng!” chưởng ấy tựa như sấm, đánh Thiên Diệp Tản Nhân bắn ra hơn một trượng! Cây phất trần trong tay phải lại quét vào mặt Liễu Ân! Bản Vô ghét nhất là Liễu Ân nên đã tung đòn sát thủ Ngũ long trảo diện! Hàn Trọng Sơn phất ống tay áo, ám khí phi hoàn châm bay ra như mư, Bản Vô đại sư buộc phải quét cây phất trần một vòng mấy mươi mũi phi hoàn châm nát thành bụi! Nhưng Liễu Ân đã tránh được đòn nguy hiểm lúc nãy, y vội vàng nhảy ra sau một trượng, nói: “Bao vây y! Y đã trúng kịch độc, chẳng thoát được đâu!” thế là triển khai cây thiền trượng đánh kêu lên vù vù, không để Bản Vô áp sát đến, Thiên Diệp Tản Nhân, Đổng Cự Xuyên, Hàn Trọng Sơn cũng đồng thời tấn công! Cây phất trần của Bản Vô tuy có thể cuộc binh khí nhưng ông ta đang bị bốn cao thủ vây đánh, nếu cuộn binh khí của một người thì sẽ để lộ chỗ trống, ba người kia chắc chắn sẽ đánh vào! Thế là chỉ đành du đấu với bọn chúng!


Chính là:


Thiền sư đang gặp nguy, ác tặc dùng gian kế.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 21

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 21 Đau đớn giảng lời Thiền truyền kinh lánh nạn Thê lương kể chuyện xưa mượn rượu tiêu sầu




Bốn cao thủ tạo thành thế ỷ giác, bao vây thầy trò Bản Vô ở giữa. Nếu luận về võ công thực sự, Bản Vô dù một địch bốn, không thể nắm chắc phần thắng cũng có thể chống cự nổi. nhưng không may ông ta đã trúng độc khổng tước đảm, một hồi sau mắt dần tối sầm, người đau như kim chích. Bản Vô hít một hơi, đè độc khí xuống, quát lớn một tiếng quét cây phất trần cuộc vào cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn, Liễu Ân đã quét cây thiền trượng tới, Bản Vô lách người, vỗ một chưởng đánh bay Hàn Trọng Sơn ra ngoài, Thiên Diệp Tản Nhân vội vàng phóng tới đẩy chưởng, Bản Vô đã nhảy ra từ chỗ trống, trận thế của bọn Liễu Ân đại loạn, khi y hợp vây trở lại, Bản Vô đã nhảy đến rìa trướng.


Ấn Hoằng là đại đệ tử của Bản Vô, võ công đương nhiên không kém, nhưng so với bọn Liễu Ân thì còn thấp một bậc, ông ta đi sát theo sau Bản Vô đại sư, chỉ sai một bước đã bị Thiên Diệp Tản Nhân chặn lại. Bản Vô nghe phía sau có tiếng quyền chưởng giao nhau, trở tay đánh lại một chưởng, Thiên Diệp Tản Nhân chạy ra đứng góc phía Tây, đợi thầy trò Bản Vô đại sư hợp lại, cả bốn người lại tạo thành thế cậy giác.


Bốn người lại vây đánh một hồi, càng lúc càng gấp. Cây thiền trượng của Liễu Ân tựa như con quái mãng chặn ở trung lộ; cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn quét ngang bổ dọc, chặn Ấn Hoằng; Thiên Diệp Tản Nhân và Đổng Cự Xuyên tấn công hai bên cánh, khiến Bản Vô không thể nào đối phó riêng từng người. Đấu một hồi, Bản Vô toát mồ hôi trán, biết không xong, chợt quát: “Ấn Hoằng, hôm nay ta chết ở đây, con về Tung Sơn báo với sư thúc, cứ mặc ta!” rồi đột nhiên phát hai chưởng về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên mới trúng một chưởng, công lực đã giảm xuống, y nào dám tiếp, thế là lách người, cây thiền trượng của Liễu Ân đã quét thẳng tới, bổ vào đầu của Bản Vô. Lúc này Bản Vô vung cây phất trần chặn Thiên Diệp Tản Nhân, tay trái đánh lui Đổng Cự Xuyên, chưa kịp rút chiêu, xem ra muôn phần khó thoát!


Ngay lúc này, Bản Vô hích qua một cái, bốp một tiếng, cây thiền trượng của Liễu Ân tựa như đánh vào tấm sắt bật lên trở lại, Bản Vô quát lớn một tiếng lướt qua đầu Thiên Diệp Tản Nhân, bay thẳng về phía Niên Canh Nghiêu!


Bọn Liễu Ân cả kinh, bốn người quay trở lại, Bản Vô quát: “Ấn Hoằng chạy mau!” Ấn Hoằng hơi chần chừ, chỉ nghe Bản Vô lại quát: “Ngươi muốn ta chết mà không ai biết sao?” lúc này, Niên Canh Nghiêu đã lẩn vào trong trướng, Bản Vô vừa gầm thét vừa đuổi theo vào bên trong. Ấn Hoằng khựng người, tên hiệu úy bên trong trướng vung đao chặn ông ta lại. Ấn Hoằng nghiến răng, gầm lớn một tiếng giật một cây trường thương, quát: “Sư phụ, con đi đây!” rồi cây trường thương múa tít, đâm trái chọc phải tựa như mưa. Bọn hiệu úy võ nghệ thấp hơn, làm sao có thể chặn nổi? chỉ trong chốc lát ông ta đã xông ra ngoài. Bọn Liễu Ân đuổi theo sau Bản Vô, Niên Canh Nghiêu ném cái ghế ra ngoài!


Bản Vô đại sư vỗ hai chưởng bốp bốp đánh cái ghế vỡ nát, Liễu Ân vung cây thiền trượng điểm vào lưng ông ta, Bản Vô quát lớn một tiếng, quét cây phất trần cuộc lại, dù Liễu Ân thực lực kinh người nhưng cũng không khỏi rê nửa bước. Thiên Diệp Tản Nhân đẩy hai chưởng ra, vốn là tiếp chưởng trái của Bản Vô đại sư, Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn ở phía hai bên tấn công tới, Bản Vô rút chưởng trái, Thiên Diệp Tản Nhân loạng choạng, suýt nữa đã ngã xuống. Liễu Ân trầm cây trượng xuống, Bản Vô đã rút cây phất trần ra đánh về phía Hàn Trọng Sơn!


Niên Canh Nghiêu kêu lớn: “Đừng sợ, y đã uống độc khổng tước đảm, không sống nổi đâu!” Thiên Diệp Tản Nhân múa chưởng đến cứu sư huynh! Không đầy ba chiêu, lại bị Bản Vô đại sư đánh văng ra hơn một trượng!


Bản Vô đại sư buông giọng cười lớn: “Niên Canh Nghiêu, ngươi giỏi lắm!” dù Niên Canh Nghiêu là một tên kiêu hùng cũng không khỏi khiếp vía. Niên Canh Nghiêu thầm nhủ: “Ngươi tuy có ơn với ta, nhưng Tứ bối lạc sẽ san bằng chùa Thiếu Lâm, ta phải trừ ngươi trước”. Nhưng y lại không dám đứng xem nữa mà lui ra phía sau.


Trong tiếng cười rộ, Bản Vô nổi giận cùng cực, liên tục ra đòn sát thủ! Hàn Trọng Sơn đang đánh đến chiêu Khai Sơn Phá Thạch, Bản Vô đại sư chợt quát lớn một tiếng, hích vai lên, chịu một trượng của Liễu Ân, chưởng trái vẫy ra, đánh bay cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn! Đổng Cự Xuyên đang phát chiêu ở sau lưng, Bản Vô đẩy chân trái về phía trước, quát: “Đi!” đánh Hàn Trọng Sơn lăn một vòng, cây phất trần từ vai quét ngược trở lại, cuộn cổ tay của Hàn Trọng Sơn. Liễu Ân vội vàng giải cứu, Bản Vô đột nhiên xoay người, giở Hàn Trọng Sơn lên, đưa về phía cây thiền trượng của Liễu Ân, Liễu Ân kinh hoảng rụt tay, chỉ nghe Bản Vô quát: “Đi!” rồi dùng lực quét một cái, ném Hàn Trọng Sơn ra ngoài trướng!


Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Bản Vô liều mình tiếp hai trượng, đánh trọng thương Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn, khiến cả hai ngã xuống đất ngất lịm đi! Liễu Ân và Thiên Diệp đều kinh hãi. Bản Vô cười ha hả, quét cây phất trần và đầu Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp vội vàng tung người vọt ra, Liễu Ân quét một trượng tới, Bản Vô phất tay phải, sau khi phất trần đánh ra, Thiên Diệp Tản Nhân không ngờ rằng ông ta còn mạnh như thế, kêu thảm một tiếng ngã ngay tại trận! Lúc này Liễu Ân vừa mới đánh tới một trượng. Bản Vô đỡ tay trái lên, quát: “Trúng!” tay phải giở lên tóm được cây thiền trượng của Liễu Ân, Liễu Ân bị kéo qua, y vội vàng buông tay toan bỏ chạy, Bản Vô tung người đá trúng một cước vào ngực của Liễu Ân, Liễu Ân bay ra ba trượng, ói ra một ngụm máu rồi ngã xuống đất.


Bản Vô đại sư cười ha ha, đột nhiên ngồi xuống đất, Niên Canh Nghiêu nghe thế kinh hãi, không dám bước ra nữa, bọn hiểu úy của sợ đến mất mật! Tiếng cười của Bản Vô chợt yếu dần, đột nhiên gục đầu xuống, miệng lẩm nhẩm: “Niên Canh Nghiêu ngươi giỏi lắm, Niên Canh Nghiêu ngươi giỏi lắm! Ngươi giỏi lắm...” tiếng nói dần dần nhỏ đi. Một hồi sau, có một tên lính lớn gan khẽ bước tới, lấy tay đẩy ông ta, Bản Vô chẳng hề nhúc nhích. Tên lính sờ vào ngực chợt kêu lớn: “Lão ác hòa thượng đã chết!” Niên Canh Nghiêu nghe thế bước ra mà chẳng dám bước tới gần, tên lính này bẩm: “Đại soái, lão ác hòa thượng đã chết!” Niên Canh Nghiêu chợt khóc lớn, nói với Nhạc Chung Kỳ: “Canh Nghiêu vì nước quên tình riêng toàn trung không thể tận nghĩa. Hòa thượng này tuy không phải là sư phụ của tôi, nhưng tôi đã được ông ta chỉ điểm võ nghệ; nay ông ta mưu đồ cướp phản tặc tôi không thể không giết, nhưng trong lòng vẫ thấy bất nhẫn”. Nói xong thì lau nước mắt, căn dặn bọn lính: “Mua một cỗ quan tài tốt để hậu táng cho ông ta”. Nhạc Chung Kỳ thầm nhủ: “Ngươi bày trò mèo khóc chuột cho ai xem?” từ đó y càng thấy rõ lòng dạ của Niên Canh Nghiêu, bởi vậy càng thêm giới bị.


Bọn Liễu Ân bị thương rất nặng, Thiên Diệp Tản Nhân bị chui phất trần đâm vào be sườn, bị thương càng nặng hơn. Niên Canh Nghiêu ra lệnh cho thủ hạ cứu tỉnh bọn họ, ai nấy đều rên ư ử chẳng nhúc nhích nổi. Cây thiền trượng của Liễu Ân bị Bản Vô đại sư bẻ cong vòng, vừa mới tỉnh dậy đã giận đến nỗi ngất đi. May mà bốn kẻ này công lực rất thâm hậu, tuy bị trọng thương nhưng vẫn không mất mạng, Niên Canh Nghiêu là đệ tử của Chung Vạn Đường, rất giỏi y lý, ra lệnh đưa bọn họ vào phòng kín chữa trị, đồng thời nghĩ cách đối phó với chùa Thiếu Lâm.


Bọn Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nấp trong nhà Xa Đỉnh Phong, Xa Đỉnh Phong vừa mới thuyên giảm, Lữ Tứ Nương không phải trúng độc châm, dùng đá nam châm hút ra nghỉ ngơi hai ngày cũng đã đi lại như thường. Hôm nay họ đang ngồi trò chuyện trong nhà chợt có người vào báo: “Có một nhà sư áo quần rách rưới, mặt đầy máu xin được gặp Cam đại hiệp”. Cam Phụng Trì vội chạy ra mở cửa, một nhà sư loạng choạng xông vào, té sấp xuống đất, Cam Phụng Trì lật lên nhìn, thấy không phải là Bản Vô đại sư, Lộ Dân Đảm vừa bước ra đã kêu lớn: “Ấn Hoằng sư huynh, làm sao thế?” rồi vội vàng lấy nước lạnh phun cho ông ta tỉnh dậy. Ấn Hoằng khóc lớn: “Sư phụ của tôi e rằng đã gặp độc thủ!”


Lữ Tứ Nương lòng đau như cắt, vội hỏi sự tình. Ấn Hoằng kể lại mọi chuyện, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nổi giận nói: “Hừ, nếu Bản Vô đại sư có việc gì, chúng ta thề trả thù cho người”. Ấn Hoằng nói: “Niên Canh Nghiêu đang nắm đại quân, trong trướng cao thủ như mây, e rằng không dễ báo thù! Tôi muốn nghỉ ngơi rồi quay trở về Tung Sơn, báo cho chủ trì Phương trượng biết chuyện này”. Cam Phụng Trì nói: “Được, tôi đưa đại sư về Tung Sơn”.


Đêm hôm ấy, người của Xa Đỉnh Phong quay về báo tin Bản Vô thật sự đã chết, mọi người đau buồn lập bàn thờ. Đang lúc đó, chợt nghe tiếng “đinh đinh” từ xa vọng tới, Cam Phụng Trì đẩy cửa ra nhìn. Thọ Sương thư viện nằm ở chân núi, gió núi đưa tới càng rõ ràng hơn, Cam Phụng Trì lên cao nhìn ra, không thấy bóng người, đang ngạc nhiên chợt nghe tiếng chuông lại vang lên, có một bóng người xuất hiện ở eo núi, chỉ trong chớp mắt đã lên đến lưng chừng núi. Cam Phụng Trì cả kinh kêu: “Bát muội!” nói chưa dứt lời, người ấy đã ở trước mặt, đó là một lang trung giang hồ tay cầm gậy, râu dài ba chòm, người ấy hỏi Cam Phụng Trì: “Xa Đỉnh Phong lão tiên sinh có ở đây không?” Lữ Tứ Nương và Xa Đỉnh Phong từ trong bước ra, nhưng chẳng nhận ra người đó là ai. Cam Phụng Trì lấy làm nghi ngờ, đang định hỏi dò, Xa Đỉnh Phong nhìn thấy cây gậy trong tay ông ta, chợt kêu lớn: “Có phải Võ lão tiền bối đấy không?”


Lang trung giang hồ ôm quyền nói: “Tiểu sinh họ Võ, lão tiên sinh làm sao biết?” Xa Đỉnh Phong nói: “Lý công tử đã từng nhắc”. Lang trung nói: “Té ra tôn giá chính là Xa tiên sinh”. Xa Đỉnh Phong nói: “Không dám, lão tiền bối có gặp Lý công tử chưa?” lang trung lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương. Xa Đỉnh Phong vội vàng giới thiệu cho họ biết, Cam Phụng Trì nghe nói người này chính là Võ Thành Hóa, vội vàng lấy lễ vãn bối ra tham kiến, Võ Thành Hóa nói: “Từ lâu đã nghe danh Giang Nam đại hiệp, tôi và lệnh sư tuy có gặp mặt một lần nhưng môn hộ không liên quan với nhau, chi bằng chúng ta cứ coi như bằng vai phải lứa”. Cam Phụng Trì không chịu, Võ Thành Hóa đành nhận lễ rồi theo mọi người vào Thọ Sương thư viện.


Ngồi xuống xong xuôi, Võ Thành Hóa nói: “Lý Trị có ở đây không?” Xa Đỉnh Phong nói: “Chúng tôi đang tìm y”. Võ Thành Hóa nói: “Thằng bé này thật chẳng biết điều, tôi khó khăn lắm mới cứu được nó ra, bảo nó đừng đi lại tùy tiện, thế mà chớp mắt đã chạy mất”. Xa Đỉnh Phong ngạc nhiên hỏi: “Chuyện là thế nào?” Võ Thành Hóa kể lại mọi chuyện. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, Lý công tử quả nhiên đã đi tìm chúng tôi. Còn tiểu cô nương kia thì sao?” Võ Thành Hóa nói: “Tôi chẳng thấy tiểu cô nương nào cả”.


Rồi ông ta nhắp một ngụm trà, nói tiếp: “Hắn bỏ đi mà chẳng để lại nửa dòng thư, tôi tưởng rằng hắn đến Thọ Sương thư viện tìm cô nương!”


Xa Đỉnh Phong và Cam Phụng Trì nhìn nhau lo lắng, Lữ Tứ Nương nói: “Lý công tử rất thông minh, kiếm thuật lại cao chắc không có chuyện gì xảy ra”.


Võ Thành Hóa ở lại Thọ Sương thư viện mấy ngày chờ đợi mà vẫn chẳng có tin tức của Lý Trị.


Mấy ngày sau, Niên Canh Nghiêu cũng đã rút quân đi, lúc này họ vẫn chưa nhận được tin tức gì của Lý Trị. Võ Thành Hóa thở dài nói: “Xem ra chỉ đành nhờ bằng hữu trên giang hồ tìm hộ”. Cam Phụng Trì nói: “Ở miền Giang Nam tôi sẽ dốc sức”. Võ Thành Hóa nói: “Tôi muốn về quê của Niên Canh Nghiêu, đem xác của Chung Vạn Đường chôn nơi khác”.


Cam Phụng Trì nói: “Còn chúng tôi đưa Ấn Hoằng đại sư về Tung Sơn, vậy sẽ đi cùng đường với tiền bối”.


Hôm sau, bọn Cam Phụng Trì từ biệt Xa Đỉnh Phong, hộ tống Ấn Hoằng về núi, Võ Thành Hóa đi cùng họ đến huyệt Đăng Phong thì chia tay.


Tới chân núi Thiếu Thất, Hoằng Pháp đại sư đích thân ra nghênh đón, Hoằng Pháp là cao tăng chủ tọa chưởng kinh đường, đại vị chỉ kém Thiếu Lâm tam lão, Ấn Hoằng vội vàng chạy đến tham kiến. Hoằng Pháp đại sư sắc mặt nặng nề, khẽ nói: “Chủ trì đã biết tin xấu”. Ấn Hoằng nói: “Xin sư thúc bẩm hộ cho chủ trì, đệ tử Ấn Hoằng muốn gặp”. Hoằng Pháp nói: “Chủ trì đang giảng kinh ở Đạt Ma viện, ta đã để sẵn chỗ ngồi cho ngươi, ngươi hãy đến nghe, lần này e rằng có lẽ là lần giảng kinh cuối cùng của người ở bổn tư”.


Hoằng Pháp đại sư ngồi nói chuyện cùng khách, Ấn Hoằng đại sư lẳng lặng vào Đạt Ma viện ngồi xuống, chỉ thấy hai mươi đại đệ tử đang ngồi lắng nghe.


Ấn Hoằng vừa mới bước vào, Vô Trú thiền sư nói: “Mời Cam đại hiệp vào đây”. Một hồi sau, tri khách tăng đưa Cam Phụng Trì vào, Vô Trú thiền sư cung tay nói: “Cam đại hiệp nghĩa khí ngất trời, từ xa đến báo tin, chùa Thiếu Lâm chúng tôi rất cảm kích”. Cam Phụng Trì vội vàng trả lễ nói: “Bản Vô đại sư là một bậc tôn sư, thế mà bị ám hại, Phụng Trì đang ở Hàng Châu, không thể đến giúp đỡ thật là hổ thẹn”. Vô Trú thiền sư nói: “Kẻ kiêu hùng đang nắm quyền, một người khó tránh nổi hào kiếp, Bản Vô sư huynh tuy chết nhưng sự việc chỉ e vẫn chưa kết thúc!” Cam Phụng Trì im lặng không nói, Vô Trú nói: “Dận Trinh và Niên Canh Nghiêu ra khỏi Thiếu Lâm, nếu Dận Trinh lên ngôi báu, có Niên Canh Nghiêu giúp đỡ, chắc chắn Thiếu Lâm sẽ gặp đại kiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Chả lẽ không có cách nào cứu vãn hay sao?” Vô Trú nói: “Trừ phi thay thời đổi thế, nếu không khó tránh trận hào kiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Chắc là phải làm phản!” chỉ thấy Vô Trú thiền sư hai mắt sáng quắc, nhìn ra xa, biết ông ta đang trầm tư nên chàng không dám nói gì cả. Một hồi sau, Vô Trú chép miệng nói: “Bắt đầu từ ngày mai người trong chùa Thiếu Lâm sẽ dần dần tản đi, ta muốn đến Phổ Điền ở Phúc Kiến và Nam Hải ở Quảng Đông dựng lại cơ nghiệp, sau này e rằng sẽ nhờ đến Cam đại hiệp”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu thiền sư cần gì cứ sai khiến”.


Bọn Cam Phụng Trì ở chùa Thiếu Lâm được vài ngày, thấy người trong chùa bận rộn liền từ biệt. Sau khi xuống núi, Lữ Tứ Nương nói: “Muội nghe Hoằng Pháp đại sư nói Tăng Tịnh đã đếnBắc Kinh”. Bạch Thái Quan nói: “Dù sao chúng ta cũng trở về Hà Nam, sao không lên Bắc Kinh một chuyến”. Tăng Tịnh là môn sinh đắc ý của Lữ Lưu Lương, mấy mươi năm qua phiêu bạt phong trần, mưu đồ phục quốc, là bằng hữu vong niên với Nghiêm Hồng Quỳ, Thẩm Tại Khoan. Cam Phụng Trì nói: “Tôi và Quan Đông tứ hiệp cũng có hẹn ở Bắc Kinh, đi thì đi, nhưng mọi người phải cẩn thận”.


Thu qua đông tới, thời gian đổi dời, lên đến kinh thành đã là thời tiết trọng đông, tuyết rơi như lông ngỗng bay. Mọi người vào cửa thành, chợt thấy có một toán Lạt ma đang đi đến hoàng cung. Họ nấp vào mái một căn khách sạn, nghe người trong khách sạn bàn rằng: “Nghe nói Hoàng đế đang bị bệnh, bởi vậy mời đại Lạt ma ở Tây Tạng đến niệm kinh”. Lữ Tứ Nương giật mình, nhưng lại không nói gì, đợi bọn Lạt ma đi qua mới khẽ nói với Cam Phụng Trì: “Chúng ta đến thật hợp lúc, có lẽ Dận Trinh sắp lên ngôi!” Cam Phụng Trì nói: “Huynh nghe bằng hữu trên giang hồ đồn rằng, mười mấy đứa con trai của Khang Hy đang đấu đá lẫn nhau, chưa chắc Dận Trinh sẽ lên ngôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Dận Trinh suy tính đã lâu, thu nạp nhiều kỳ nhân dị sĩ, các bối lạc khác không phải là đối thủ của y”. Cam Phụng Trì cười nói: “Dù ai lên ngôi cũng chẳng có lợi cho người Hán chúng ta, cần gì phải nhọc lòng mà đoán”.


Cam Phụng Trì tuy chưa đến Bắc Kinh nhưng có nhiều bằng hữu ở đây. Nghe chàng đến, rất nhiều người mời chàng đến nhà, Cam Phụng Trì từ chối, chỉ ở khách sạn. Lữ Tứ Nương nói: “Tuy chúng ta đã thay đổi dung mạo nhưng không thể ở mãi trong khách sạn”. Cam Phụng Trì nói: “Huynh đoán còn có một người nữa mời đến chúng ta”. Lữ Tứ Nương hỏi là ai, Cam Phụng Trì cười rằng: “Có nói muội cũng không biết. Nhưng muội đã từng gặp sư phụ của người này”. Cam Phụng Trì chỉ cười chứ không hỏi nữa. Quả nhiên ba ngày sau, tên tiểu nhị vào báo có một nhà sư đến hóa duyên.


Cam Phụng Trì bảo mời ông ta vào. Một hồi sau, tên tiểu nhị dắt theo một hòa thượng sắc mặt xanh xao, trông khoảng năm mươi tuổi. Cam Phụng Trì đứng ở cửa cười ha hả: “Tôi còn tưởng là ai, té ra là ông. Sao ông làm hòa thượng thế?” người ấy nói: “Tôi đến đây hóa duyên!” thế rồi bọn Cam Phụng Trì trả tiền, cùng hòa thượng ấy ra ngoại ô.


Lúc này Cam Phụng Trì mới giới thiệu cho bọn chúng quen biết nhau. Té ra hòa thượng này tên gọi Chúc Gia Thụ, là truyền nhân duy nhất của Võ Thành Hóa. Đi một hồi, đến Tây Sơn, hòa thượng đi trước dẫn đường, bước đến một ngôi chùa tồi tàn ở chân núi, cười nói: “Đây là nơi ở của tôi”.


Hòa thượng quét sơ bụi, lấy ra hai cái hồ lô đựng đầy rượu, Cam Phụng Trì hỏi: “Còn chưa hỏi pháp hiệu của ông?” hòa thượng nói: “Tôi đã tự đặt cho mình một pháp danh, tên là Lãnh Thiền”.


Số là Chúc Gia Thụ vào cung tìm ý trung nhân nhưng thất bại, bởi vậy mới nhụt chí cạo đầu làm hòa thượng. Nhưng ông ta lại không biết ý trung nhân của mình đã chết nên tuy làm hòa thượng mà vẫn không nỡ rời khỏi Bắc Kinh.


Họ ở tại ngôi chùa ấy mấy ngày, một buổi tối nọ Lãnh Thiền vào Bắc Kinh trở về, báo rằng Hoàng đế Khang Hy đang bị bệnh, Thập tứ bối lạc đã trở về kinh đóng quân ở ngoài thành. Y còn bày hai lôi đài ở chùa Hộ Quốc để tuyển những người giỏi võ. Thế là bọn Cam Phụng Trì quyết định đến đấy xem sao.


Chùa Hộ Quốc là một trong những chùa lớn ở Bắc Kinh, vào những ngày lễ lớn rất náo nhiệt. Hôm nay tuy không phải là lễ lộc gì cả nhưng có rất nhiều người đến xem tỉ võ. Hôm nay là ngày tỉ thí đô vật, một tên võ sĩ Mông Cổ đứng trên đài, đánh cả nửa ngày mà chẳng ai hạ nổi y. Y toàn quay xuống, chợt một thiếu niên nhảy lên đài nói: “Ta xin lãnh giáo”.


Lữ Tứ Nương thất kinh, chàng thiếu niên này tuy đã thay hình đổi dạng nhưng giọng nói vẫn như cũ, nàng nhìn kỹ thì rõ ràng đó là Đường Hiểu Lan! Thầm nhủ: “Sao Đường Hiểu Lan lại đến đây?”


Võ sĩ Mông Cổ là tay giỏi đô vật, y nhìn Đường Hiểu Lan với đôi mắt khinh bỉ, hai tay tóm lấy tay của Đường Hiểu Lan, hai chân khuỳnh xuống, đầu gối hích về phía trước, quát: “Ngã!” Đường Hiểu Lan chẳng hề nhúc nhích, tên võ sĩ Mông Cổ thấy chân nhói lên một cái, đã bị Đường Hiểu Lan quật ngã xuống đất, y bật dậy nói: “Đây đâu phải là đô vật!” Đường Hiểu Lan nói: “Làm sao không phải? Rõ ràng ngươi đã bị ta quật ngã!” người xem bên dưới reo lên. Tên võ sĩ Mông Cổ rõ biết chàng không dùng thủ pháp đô vật nhưng cũng không biết tại sao tự nhiên mình bủn rủn tay chân, bị chàng quật xuống, tức giận nói: “Được, chúng ta thử lần nữa, nếu ngươi thật sự quật ngã ta, ta mới phục”.


Thật ra Đường Hiểu Lan không biết đô vật, lúc nãy chàng đã ngầm phất vào huyệt của tên võ sĩ Mông Cổ, bởi vậy mới quật ngã được y. Thấy y không phục, thầm nhủ: “Được, giờ đây ta sẽ quật ngươi”. Rồi chàng bắt chước tư thế của tên võ sĩ, hai chân khụy xuống, hai tay dang ra, nói: “Đến đây!” Tên võ sĩ Mông Cổ lao bổ tới, tóm chặt cổ tay của Đường Hiểu Lan. Lúc nãy Đường Hiểu Lan đã đứng xem bên dưới, thầm nhủ thuật đô vật cũng giống như thủ pháp Cầm nã, thế là chàng quyết định dùng chiêu số của y, tên võ sĩ Mông cổ này mạnh hơn Đường Hiểu Lan rất nhiều, y trầm cổ tay xuống, đầu gối hích về phía trước, rõ ràng là sắp quật ngã Đường Hiểu Lan, nào ngờ Đường Hiểu Lan rút tay ra trơ như cá chặt, người hơi lách qua, tay trái đẩy về phía trước, tay phải giật ra phía sau, chàng đã mượn lực đánh được, tên võ sĩ Mông Cổ bay xuống đài.


Chiêu này đúng là chiêu số lợi hại trong thuật đô vật, tên gọi là Tê Ngưu Vọng Nguyệt. Lúc nãy Đường Hiểu Lan đã học được từ tên võ sĩ này, lại ngầm dùng thêm nội kình, sử dụng thủ pháp Cầm Nã quật ngã y. Tên võ sĩ Mông Cổ bị chàng quật ngã, vốn tưởng rằng sức đầu mẻ trán, nào ngờ Đường Hiểu Lan ra tay rất vừa vặn, tựa như đẩy y xuống đất. Tên võ sĩ Mông Cổ phục lăn, giơ ngón tay cái: “Hay lắm!”


Đường Hiểu Lan mỉm cười, đang định lên tiếng, chợt một người nhảy lên, lạnh lùng nói: “Hay! Thuật đô vật pha lẫn thủ pháp Cầm nã, đúng là hiếm thấy, ta muốn tỷ thí với ngươi!” Đường Hiểu Lan thất kinh, chỉ trong chớp mắt người ấy đã thấy thủ pháp của chàng, chắc chắn là một đại hành gia. Chàng cung tay thỉnh giáo mới biết rằng y là giáo đầu của Thập tứ bối lạc tên gọi Vân Đại Bằng.


Đường Hiểu Lan không từ chối, thi lễ nói: “Xin mời Vân giáo đầu ban chiêu”.


Lữ Tứ Nương cũng lấy làm lạ, không biết Đường Hiểu Lan lên đánh lôi đài là có dụng ý gì.


Vân Đại Bằng thấy chàng ta khí định thần nhàn tựa như chẳng hề có chuyện gì, biết chàng là một nội gia cao thủ, thế là muốn thử công lực của chàng, tay phải xòa ra làm chưởng, tay trái nắm vào thành quyền, đẩy vù một chưởng tới trước ngực Đường Hiểu Lan, tâm chưởng cuộn vào trong, ngầm chứa Tiểu thiên tinh chưởng ngực, Đường Hiểu Lan trở tay đẩy ra một chưởng, chỉ cảm thấy chưởng ngực của đối phương đã thay đổi, không phải đẩy thẳng mà là kéo xéo, tay phải chàng vội vàng hất lên, hóa giải luồng câu kình của y, tay trái vẽ thành một vòng tròn đẩy vù ra, Vân Đại Bằng nói: “Hay!” rồi lách người, lao bổ đến chỗ trống bên mặt trái của Đường Hiểu Lan.


Lữ Tứ Nương thầm nói: “Hiểu Lan đã có tiến bộ nhiều”. Cam Phụng Trì ừ một tiếng, trong lòng rất không vui. Chàng ta chẳng đoán được ý của Đường Hiểu Lan như Lữ Tứ Nương, thầm nhủ: “Dù muốn thử võ nghệ của mình tiến bộ đến mức nào cũng không nên phô bày ở đây”.


Vân Đại Bằng thấy công lực của Đường Hiểu Lan tương đương với mình, y không dám coi thường, thế là năm ngón tay khép lại mổ vào sườn trái của Đường Hiểu Lan, chỉ pháp này được gọi là Điêu thủ, chuyên phá khí công nội gia, chỉ lực mạnh mẽ vô cùng; Đường Hiểu Lan xoay nửa vòng, cạnh chưởng dùng kình đẩy tới, quyền phải từ trong lòng tống ra, Vân Đại Bằng ngửa người ra phía sau, Đường Hiểu Lan đẩy chưởng trái, gạt điêu thủ của y qua một bên, đột nhiên tấn công, lách người đánh tới, chưởng trái lướt qua mặt quyền phải, quyền phải đấm vào mặt, chưởng trái chém xéo, Vân Đại Bằng lại kêu: “Hay!” rồi phá giải chiêu số hung hiểm của Đường Hiểu Lan, hai người vừa hợp đã phân, đôi bên đều giới bị.


Vân Đại Bằng kêu: “Tiếp nào!” rồi nhảy bổ lên, sau khi đôi bên thử chiêu, chưởng pháp đều thay đổi, Vân Đại Bằng xoáy hai cánh tay như bánh xay gió, tấn công về phía Đường Hiểu Lan. Loại chưởng pháp Phong Sa thủ này là do Quyền sư Địch Ngọc Đường sáng tạo, rất có lợi cho tấn công, Đường Hiểu Lan thối lui hai bước, hai tay vung lên dùng lối đánh trường quyền, tiếp hơn hai mươi chiêu, cảm thấy vất vả.


Lữ Tứ Nương nhíu mày, thầm nhủ: “Lẽ ra Đường Hiểu Lan chẳng kém gì kẻ này, nhưng sao lại không biết ứng phó với loại chưởng pháp này?” Một chốc sau, Đường Hiểu Lan đã bị đến mép đài, người xem gần mép đài vội vàng tản ra, nào ngờ Đường Hiểu Lan bốc người lên, lướt vù qua đầu Vân Đại Bằng, rồi chàng xoay người trở lại, chưởng pháp chợt thay đổi!


Người xem dưới đài reo ầm lên, Vân Đại Bằng thất kinh, chỉ thấy thủ pháp của Đường Hiểu Lan nhanh như gió, thủ pháp thần diệu kỳ ảo, chẳng thể nào lường nổi! Khi y tấn công tới phía đông, Đường Hiểu Lan đã lách tới phía tây, khi y đánh tới phía tây, Đường Hiểu Lan lại xuất hiện ở phía bắc tựa như đã hiểu rõ được chiêu số của y.


Số là Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, chủ yếu là Thiên Sơn kiếm pháp, chưởng pháp thông mà không tinh. Tuy vậy, Thiên Sơn chưởng pháp rút tỉa tinh hoa của các nhà, chỉ cần vận dụng đúng đắn, đối phó với chiêu số của bất cứ nhà nào đều có thể không bại. Kinh nghiệm đối địch của Đường Hiểu Lan không nhiều, chưa từng thấy lối đánh kỳ lạ như Phong Sa thủ nên lúc đầu lọt xuống hạ phong. Đến sau khi hai ba mươi chiêu, chàng mới dần dần hiểu ra, thế là mới vận dụng Du Long chưởng trong Thiên Sơn chưởng pháp, chiêu khắc chế lối đánh sáp lá cà. Đường Hiểu Lan tuy chỉ học được mới năm thành nhưng vẫn dư sức đối phó với Vân Đại Bằng.


Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, Vân Đại Bằng đành quát dừng lại, bớt một tiếng, vai ra trúng một chưởng, may mà căn cơ của y rất tốt, người lại rắn chắc, chỉ lắc lư chứ không ngã xuống Đường Hiểu Lan kêu: “Đắc tội!” rồi thu hai chưởng lại, buông tay đứng chờ.


Người xem bên dưới reo ầm lên, một viên võ quan bước ra nói: “Vân Đại Bằng tôi xin tuyên bố cuộc đấu đô đài hôm nay kết thúc”.


Đường Hiểu Lan bước vào trướng, viên võ quan chìa tay ra nắm tay Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan chỉ thấy chưởng ngực của đối phương cực kỳ mạnh mẽ, năm ngón tay của chàng đau nhói. Người ấy cười ha hả, buông tay nói: “Quả nhiên là người có bản lĩnh!” rồi hỏi họ tên, Đường Hiểu Lan bịa ra một cái tên giả. Người ấy nói: “Tại hạ là Phương Kim Minh thống lĩnh cấm vệ quân của Thập tứ bối lạc, xưa nay xuất quân tây chinh, không thể kết giao với hào kiệt Trung Nguyên, xin đừng cười”. Đường Hiểu Lan nói: “Té ra là Phương thống lĩnh, thất kính!”.


Phương Kim Minh nói: “Xin tráng sĩ đợi một lát, để tôi bảo bọn chúng đem giải thưởng ra”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thường ngưỡng mộ Thập tứ bối lạc là bậc anh hùng, lần này đến đây không phải để nhận thưởng”. Phương Kim Minh cười ha hả: “Xin mời vào trướng rồi hãy nói!” Thật ra Đường Hiểu Lan đã biết dụng ý dựng lôi đài của Thập tứ bối lạc, chàng hỏi như thế là cố ý che đậy cho mình.


Lại nói bọn Lữ Tứ Nương rất thắc mắc, đợi trước lôi đài rất lâu, chợt thấy Đường Hiểu Lan cùng một đám võ quan bước ra khỏi doanh trại, phóng lên lưng ngựa lao ra khỏi đám người, Cam Phụng Trì tức giận nói: “Chúng ta quay về!”.


Lữ Tứ Nương chẳng nói gì cả, sau khi về đến ngôi chùa của Lãnh Thiền, Cam Phụng Trì đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương đã cướp lời: “Muội thấy Đường Hiểu Lan không phải là người bán bạn cầu vinh!”


Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, dầu sao y cũng là con rồng cháu phượng”. Lữ Tứ Nương nói: “Y sinh chưa đầy một tháng đã rời khỏi chốn cung đình, chúng ta làm sao có thể coi y như bối lạc của người Mãn Châu? Nếu y bán bạn cầu vinh, ngày trước khi gặp lại Hoàng đế y đã làm khác rồi”. Cam Phụng Trì nói: “Tuy là thế nhưng không thể không phòng”. Lữ Tứ Nương trả lời: “Tứ ca lo lắng không phải là không có lý, nhưng chúng ta phải đợi vài ngày rồi mới đoán chắc được”. Cam Phụng Trì nói: “Được, trong vòng ba ngày, ta sẽ dò la tin tức của y”.


Ba ngày sau, Cam Phụng Trì quả nhiên đem tin của Đường Hiểu Lan về, chàng ta bực dọc nói với Lữ Tứ Nương: “Ta đoán không sai, quả nhiên Đường Hiểu Lan đã theo Dận Đề, trở thành đô thống trong cận vệ quân của Dận Đề”. Lữ Tứ Nương nhíu mày, trầm tư một lúc lâu rồi nói: “Dầu là thế, chắc cũng có nguyên nhân khác”. “Không phải chuyện gì cũng nghĩ từ mặt tốt, trước kia ta đã biện hộ cho y, nhưng nay nếu y làm thế, chúng ta không thể coi y như trước”. “Vậy theo ý huynh phải làm sao?” “Nhân lúc y chưa nắm quyền lớn, hãy giết y!” “Giết y?” “Chả lẽ để cho y đủ lông đủ cánh hại chúng ta hay sao?” “Nhưng cũng phải gặp mặt y hỏi cho rõ ràng” “Bát muội cứ mềm lòng, thôi được nếu muội đã muốn gặp y, ngày mai chúng ta đến Minh Thập Tam Lăng”.


Minh Thập Tam Lăng nằm dưới chân núi Trường Thọ ngoại ô phía bắc của Bắc Kinh, đó là khu lăng mộ của mười ba vị Hoàng đế thời Minh, khu lăng mộ này nằm rải rác trong một thung lũng nhỏ khoảng một trăm dặm, ba mặt đông Tây bắc đều có núi che chắn, mặt phía nam tựa như cái loa hướng về bình nguyên Bắc Kinh, hai bên cái loa có hai quả núi đó là Long Sơn và Hổ Sơn tạo thành thế ôm lại. Gần mỗi khu lăng mộ đều có một thôn làng, thôn làng này lấy lăng làm tên, ví dụ thôn Vĩnh Lăng, thôn Lệ Lăng,... Sau khi người Mãn Châu nhập quan, cắt một phần Minh Thập Tam Lăng làm nơi săn bắn, người dân bình thường không được vào.


Sáng sớm hôm sau, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đến ngọn núi gần khu lăng mộ của Minh Thành Tổ chờ đợi. Khu lăng mộ này được gọi là Trường lăng. Trường lăng là kiến trúc to lớn nhất trong mười ba lăng mộ, tuy lăng mộ được liệt vào cấm khu nhưng từ trên núi nhìn xuống vẫn nhìn rất rõ ràng. Lữ Tứ Nương lên cao nhìn xa, không khỏi nhớ đến tình cố quốc, bất giác nước mắt tuôn trào.


Chính là:


Cố quốc sơn hà còn, đau lòng người mất nước.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 22

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 22 Ánh nến lung linh Dận Trinh lên ngôi báu Kiếm quang kinh mộng hiệp nữ vào thâm cung




Cam Phụng Trì lên tiếng an ủi, Lữ Tứ Nương rầu rĩ nói: “Nếu sư phụ còn sống, người chắc chắn càng đau lòng hơn”. Độc tý thần ni là con gái của vị vua nhà Minh cuối cùng, Cam Phụng Trì nhớ đến sư phụ cũng nói không nên lời.


Gần đến trưa, trên con đường dẫn vào lăng bụi bốc mù, mười mấy thớt ngựa chạy như bay, hai người Cam Lữ nấp sau gốc cây, một hồi nữa, những người ấy dừng lại nghỉ ngơi trước điện Tắc Tư trong khu mộ cung, Lữ Tứ Nương dõi mắt ra nhìn, chỉ thấy Đường Hiểu Lan lẫn trong đám thị vệ, rất cung kính đối với Dận Đề, Cam Phụng Trì nói: “Thế nào?” Lữ Tứ Nương im lặng không nói, một hồi sau mới bảo: “Có cách gì dụ y ra nói chuyện không?” Cam Phụng Trì nói: “Khó lắm!” nghĩ một hồi chợt nói: “Muội có mang theo ám khí không?” Lữ Tứ Nương nói: “Có”. Cam Phụng Trì nói: “Lát nữa muội hành thích Dận Đề. Cố ý xuất hiện để Đường Hiểu Lan thấy, xem thử y làm thế nào?” Lữ Tứ Nương giật mình, nhưng Cam Phụng Trì đã nói như chém đinh chặt sắt, vả lại việc này rất quan trọng, không tiện phản đối, trong lòng nàng vẫn thầm mong Đường Hiểu Lan không quay lưng với chính nghĩa giang hồ.


Bọn Dận Đề nghỉ ngơi một hồi, dắt chó săn ra khỏi khu mộ Trường lăng, bãi đi săn ở phía tây của Trường lăng, vừa khéo đi ngang qua chân núi hai người cam lữ đang mai phục, Lữ Tứ Nương thấy mồ hôi toát ra lòng bàn tay, thấy Dận Đề đi ngang qua, Đường Hiểu Lan đi bên cạnh y, Cam Phụng Trì huýt một tiếng sáo, thúc giục nàng mau ra tay. Lữ Tứ Nương đột nhiên phóng vọt người lên, vung tay phải, ba mũi trủy thủ nhỏ bay vèo vèo về phía Dận Đề!


Trong khoảng sát na này, chỉ thấy Đường Hiểu Lan rút cây Du Long kiếm quét ra, đánh rơi mũi trủy thủ ở giữa, Dận Đề thân thủ cũng bất phàm, y lập tức hụp người xuống, mũi trủy thủ ở bên trái lướt qua, một tên thị vệ giơ tay lên kẹp, hớt được mũi trủy thủ bên phải, trở tay phóng ngược ra lại, kêu lớn: “Có thích khách!”


Đường Hiểu Lan chợt thấy có một thiếu nữ nhảy bổ ra, tuy đã thay đổi dung mạo nhưng chàng đã biết đó là Lữ Tứ Nương, bọn thị vệ chạy ào ào nhảy bổ theo, Dận Đề nói: “Bắt ả lại!” Đường Hiểu Lan hơi chần chừ rồi múa kiếm xông lên.


Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan cứu Dận Đề rất hăng hái, chàng ta đùng đùng nổi cáu. Bọn thị vệ đuổi theo Lữ Tứ Nương đến phía nam của quả núi, Đường Hiểu Lan hơi chậm chân nên lọt ở phía sau. Cam Phụng Trì không kịp suy nghĩ, vung tay phóng sáu mũi phi đao bay về phía Đường Hiểu Lan.


Khi Cam Phụng Trì vung tay phóng phi đao, chợt nghe tiếng đạn cung vang lên, sáu mũi phi đao đều bị bắn rơi xuống đất! Cam Phụng Trì thất kinh, chỉ nghe hai tiếng soạt soạt lướt qua đầu mình. Cam Phụng Trì chợt nhớ đến một người, quay người lại đuổi, ở phía Tây bắc có một bóng người cao gầy, thoắt cái đã chạy xuống tới chân núi, Cam Phụng Trì dùng khinh công Bát bộ cản thiền đuổi sát theo người ấy, chỉ trong chốc lát, vượt qua hai quả núi.


Cam Phụng Trì kêu lên: “Dương lão tiền bối, có chuyện gì thế?” người phía trước kịp dừng bước, quay đầu lại, chòm râu dài bay phất phơ trong gió, cười rằng: “Cam đại hiệp, suýt nữa đã bị ông làm hỏng việc lớn!” đó là Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh. Cam Phụng Trì chưng hửng, tưởng rằng ông ta quá yêu thương học trò nên bảo vệ cho Đường Hiểu Lan, không khỏi hỏi: “Lão tiền bối đến đây là vì Đường Hiểu Lan?” Dương Trọng Anh nói: “Đúng thế”. Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Lão tiền bối là lãnh tụ võ lâm, xưa nay làm chuyện hiệp nghĩa, chẳng lẽ cũng bao che cho phản đồ?” Dương Trọng Anh cười ha hả: “Lần này đến lượt tôi phải lên tiếng cho tệ đồ, Hiểu Lan làm thế là có nỗi khổ chứ không phải là kẻ bán bạn cầu vinh!” Cam Phụng Trì lại chưng hửng, trước kia chàng ta đã từng dùng những lời này để khuyên Dương Trọng Anh, thế rồi bất giác động dung, ôm quyền nói: “Hóa ra Cam mỗ đã quá lỗ mãng”.


Cam Phụng Trì đang định hỏi nguyên do, Dương Trọng Anh nói: “Lệnh sư muội cũng đến”. Cam Phụng Trì ngẩng đầu, chỉ thấy Lữ Tứ Nương từ trên sườn núi đối diện đã phóng xuống, chỉ trong chốc lát đã tới trước mặt, cười rằng: “Bọn thị vệ đã bị muội cắt đuôi!” lại nói: “Muội thấy Dương tiền bối dẫn sư huynh đến đây, chắc là hai người đã nói chuyện với Hiểu Lan?” Cam Phụng Trì lắc đầu, Dương Trọng Anh nói: “Không cần phải nói đến y nữa, có một nhân vật phi thường đang ở gần đây, y muốn nói chuyện với hai người”. Cam Phụng Trì lại thất kinh, không biết đó là ai. Lữ Tứ Nương nói: “Là vị hiệp khách nào thế?” Dương Trọng Anh nói: “Gặp rồi sẽ biết”. Rồi dắt hai người vào một thôn làng nhỏ, Dương Trọng Anh đến trước một ngôi nhà, người trong nhà hỏi “Ai đó?”


Lữ Tứ Nương nghe thế vui mừng kêu lên: “Té ra Tăng bá bá ở đây”. Rồi một ông già ăn mặc theo kiểu nhà quê bước ra, tuy quần áo tuềnh toàng nhưng đôi mắt sáng ngời. Ông già nhìn Lữ Tứ Nương, cười nói: “Té ra là tiểu nha đầu, còn đây chắc là Giang Nam đại hiệp”. Cam Phụng Trì ôm quyền thi lễ, nói: “Lão trượng có phải là Tăng lão tiên sinh hay không?” ông già cười ha hả: “Chúng ta nghe danh nhau đã lâu, không ngờ hôm nay mới được gặp mặt”.


Té ra ông già tên gọi Tăng Tịnh, là người ở huyện Phố Đàm tỉnh Hà Nam, xưa nay nức tiếng hay chữ, người ta gọi ông ta là Phố Đàm tiên sinh chứ không gọi tên. Hơn ba mươi năm trước, ông ta là một thư sinh bình thường, tuy hay chữ nhưng cũng chẳng có gì đặc biệt. Sau đó ông ta đến ứng thí ở phủ Vĩnh Hưng, nghe Lữ Lưu Lương giảng sách, đột nhiên hiểu ra, nói: “Người đọc sách phải nên như thế”. Thế rồi đốt văn chương bát cổ, không thèm ứng thí nữa rồi sai môn sinh của mình là Trương Hy (tự là Kính Khanh, người Hoành Châu Hồ Nam, cũng là một bậc danh nho thời Thanh) đến nhà Lữ Lưu Lương xin sách vở, lúc đó Lữ Lưu Lương đã chết, bá phụ của Lữ Lưu Lương là Lữ Nghị Trung tặng sách cho ông ta.


Sau khi nhận được sách của Lữ Lưu Lương, Tăng Tịnh kế thừa di chí, tiếp tục công việc bài Mãn. Ông ta tuy không phải là học trò của Lữ Lưu Lương nhưng đã kế thừa ybác của Lữ Lưu Lương. Sau đó Tăng Tịnh đến nhà Lữ ở triết gia, cùng Lữ Bảo Trung, Lữ Nghị Trung, Nghiêm Hồng Quỳ cùng nghiên cứu học thuyết của Lữ Lưu Lương. Nên từ nhỏ Lữ Lưu Lương đã biết ông ta.


Lữ Tứ Nương hỏi: “Tăng bá bá đến Bắc Kinh từ lúc nào?” Tăng Tịnh nói: “Sớm hơn các người ba ngày”. Cam Phụng Trì nói: “Hôm nay chúng tôi đến đây, chắc Tăng tiên sinh đã biết”. Tăng Tịnh nói: “Chính ta đã bày kế đưa Đường Hiểu Lan vào phủ Dận Đề”.


Lữ Tứ Nương hỏi: “Tại sao Tăng bá bá làm thế?” Tăng Tịnh nhấp ngụm trà, nói: “Mãn Châu nhập quan đã được tám mươi năm, cơ nghiệp đã vững, muốn dựng cờ nghĩa lật đổ Thanh triều, e rằng đã rất khó. Nên tôi bắt tay từ hai mặt, một mặt sách động các tướng lãnh người Hán trong quân Thanh tạo phản; mặt khác khiến cho chúng tự tàn sát lẫn nhau”. Cam Phụng Trì nghe xong thầm nhủ: “Đại nghiệp phục quốc sao có thể phiền người hành sự? Sách động tạo phản tuy là quan trọng nhưng rốt cuộc cũng không phải là kế sách hay”. Nhưng Tăng Tịnh là một bậc danh nho, lần đầu tiên Cam Phụng Trì gặp mặt ông ta, tuy không hài lòng với sách lược này nhưng cũng không lập tức tranh luận.


Lữ Tứ Nương chen vào: “Ý của bá bá là bảo Đường Hiểu Lan xúi giục Dận Đề và Dận Trinh đối chọi với nhau, để cho chúng tự tàn sát”. Tăng Tịnh nói: “Đúng thế. Bọn chúng liều mạng với nhau, dầu ai thắng ai bại cũng tổn thương nguyên khí của Mãn Châu. Nguyên khí của bọn chúng hao tổn một phần, thực lực của chúng ta tăng lên một phần”.


Rồi lại nói tiếp: “Có một chuyện các người vẫn chưa biết. Dận Đề quay về nửa tháng mà vẫn chưa gặp mặt Khang Hy” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại thế? Khang Hy thương yêu y nhất, tại sao không kêu y vào cung gặp mặt”. Tăng Tịnh nói: “Đó là bởi Dận Trinh giở trò, bảo Long Khoa Đa giúp y ngăn chặn cửa cung!” Lữ Tứ Nương nói: “Khang Hy hùng tài đại lược, không phải là người dễ đối phó. Nay trong cung đã bị bè đảng Dận Trinh nắm giữ, chắc là y bệnh nặng lắm”. Tăng Tịnh nói: “Chắc là thế. Nên muốn sách động bọn chúng đấu đá với nhau”.


Mọi người bàn một hồi, Lữ Tứ Nương hỏi Dương Trọng Anh: “Còn lệnh ái đâu?” Dương Trọng Anh nói: “Ta sợ nó gây sự nên không cho nó đến. Nó đã đính hôn với Đường Hiểu Lan”. Lữ Tứ Nương kêu: “Chúc mừng!” lòng lại thầm nhủ: “Đường Hiểu Lan xưa nay rất ghét nàng, có lẽ hôn sự này sẽ thay đổi?” trong lòng không yên nhưng không dám nói ra.


Lại nói Đường Hiểu Lan chợt thấy Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì, trong lòng kinh hãi, lo rằng sẽ bị lộ sơ hở, sau đó Cam Phụng Trì được Dương Trọng Anh dụ đi, chàng cũng cùng bọn lính truy tìm một lúc lâu mới trở về. Dận Đề bực bội nói: “Chỉ hai tên tiểu thích khách mà không bắt được, còn giữ các ngươi làm gì?” bọn lính không dám lên tiếng. May mà Dận Đề không truy cứu nhiều, chỉ vội vàng rút về thành.


Đường Hiểu Lan đang mừng rỡ, không ngờ về đến hoàng phủ, Dận Đề đột nhiên chỉ chàng quát: “Bắt tên tiểu tử này lại!” hai tên vệ sĩ đột nhiên nhảy bổ tới, Đường Hiểu Lan không hề chống cự, buông tay chịu trói. Dận Đề nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi thật gian trá, rõ ràng cùng một giuộc với thích khách, ngươi tưởng ta không biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nhân bảo vệ không chu đáo, tội đáng muôn chết. Nhưng nếu bối lạc bảo tiểu nhân cấu kết với kẻ địch, tiểu nhân chết không nhắm mắt”. Dận Đề nói: “Khi đuổi theo nữ tặc, tại sao ngươi lọt lại ở phía sau?”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi bị thương nhẹ, bởi vậy hơi chậm chân”. Thế rồi chàng kéo tay áo lên, ở cổ tay quả nhiên có một vết đao dài ba tấc, té ra khi Đường Hiểu Lan hất phi đao của Lữ Tứ Nương, chàng cố ý đánh lệch mũi kiếm để phi đao lướt qua cổ tay mình. Sắc mặt Dận Đề hơi dãn ra, quát: “Tại sao ngươi không nói sớm?” Đường Hiểu Lan nói: “Chỉ bị thương nhẹ, không dám lên tiếng”. Sắc mặt Dận Đề càng tốt hơn, nói: “Thế ra ngươi rất trung thành với ta”. Rồi y đưa mắt nhìn Đường Hiểu Lan chằm chằm, Đường Hiểu Lan vẫn đứng yên không hề biến sắc. Một hồi sau, Dận Đề mới nói: “Được, vậy ta đã trách nhầm ngươi”. Đường Hiểu Lan dập đầu khấu tạ, Dận Đề chợt vui mừng nói: “Ngươi quả nhiên có lòng trung thành, ngày mai ta thăng ngươi làm Đô thống cận vệ quân”.


Suốt đêm ấy Đường Hiểu Lan không ngủ, chàng thầm lo Thập tứ bối lạc rất thông minh, chỉ e y vẫn chưa hết nghi ngờ. Quả nhiên tối hôm sau, Dận Đề đã sai người kêu một mình chàng vào mật thất.


Đường Hiểu Lan thấp thỏm không yên, chỉ nghe Dận Đề nói: “Ngươi giúp ta làm một việc”. Đường Hiểu Lan nói: “Xin vương gia căn dặn”. Dận Đề nói: “Việc này rất dễ”. Nói xong thì lấy một sợi dây thừng và một bình thuốc ra, bảo: “Ngươi hãy giúp ta giết một phạm nhân. Ngươi dùng sợi dây thừng này siết cổ cho y chết, sau đó dùng thuốc rưới lên người y. Sau khi rưới vào, xác của y sẽ chảy thành nước. Phạm nhân đang được nhốt ở căn phòng thứ ba trên lầu Đông Viện. Ngươi đi đi!”


Đường Hiểu Lan dựng cả tóc gáy, nhận dây thừng và bình thuốc, Dận Đề lại nói: “Ngươi có đem theo bảo kiếm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Có”. Dận Đề nói: “Sau khi ngươi siết y chết, hãy chặt ngón giữa của y đem về cho ta”.


Đường Hiểu Lan vâng lệnh đến nơi nhốt phạm nhân, chàng thấy bên trong tối om om, có một người đang rên rỉ. Chàng đóng cửa phòng lại, đánh đá lửa lên, chỉ thấy một người đàn ông nằm trong góc phòng, thều thào nói: “Hay lắm, ngươi giết chết ta! Ta là con dân Đại Hán, thề chết không chịu nhục, xem thử bọn chó Hồ các ngươi hoành hành được mấy lúc?”


Đường Hiểu Lan thất kinh, có lẽ đây là người đồng đạo với mình. Chàng bước lên quát: “Tên tù phạm kia, hôm nay đã đến ngày chết của ngươi. Ngươi có gì trăn trối?” Người ấy mở mắt, chợt nói: “Ngươi là người Hồ hay người Hán?” Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi mặc ta là Hồ hay Hán”. Người ấy nói: “Xem ra ngươi là người Hán, tại sao lại làm ưng khuyển cho bọn Hồ lỗ?” Đường Hiểu Lan rút sợi dây, trong lòng lo lắng: “Rút cuộc là giết y hay thả y? Nếu giết y phải chăng đã quá tàn nhẫn? Nếu không giết y, chắc chắn sẽ hỏng chuyện lớn”. Chàng đang chần chừ, người ấy trợn mắt: “Đây là giờ nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Sắp đến nửa đêm”. Người ấy nói: “Có một người bản lĩnh cao cường hẹn giờ Ngọ đến cứu ta. Ngươi hãy đi cùng chúng ta”. Đường Hiểu Lan thấy lòng nôn nao, chàng bước gần tới, người ấy lại nói: “Nếu ngươi giết ta mãi mãi sẽ trở thành tội nhân của người Hán!” Đường Hiểu Lan giật mình, chợt cười lạnh: “Ta chỉ nghe lời bối lạc, hôm nay phải đưa ngươi về trời”. Người ấy quát: “Ta là thủ lĩnh nghĩa quân Tây bắc, nếu giết ta, huynh đệ của ta sẽ không tha cho ngươi!” Đường Hiểu Lan lại quát: “Câm mồm!” rồi giở y dậy, tay trái tròng sợi dây vào cổ của y.


Người ấy nói: “Nhị ca đến đây!” cánh cửa sổ bật ra, một người nhảy tọt vào, trên tay cầm cây trường kiếm sáng loáng, Đường Hiểu Lan lách người, người ấy quát: “Mau thả đại ca của ta!” Đường Hiểu Lan kêu lớn: “Có thích khách!”, rồi chàng rút cây Du Long kiếm ra, chỉ trong chớp mắt, người ấy đã liên tục đánh ra năm chiêu, Đường Hiểu Lan cũng trả lại bốn nhát kiếm.


Người ấy vừa đánh vừa quát: “Thân thủ như ngươi mà cũng làm tay sai cho bối lạc Mãn Châu, có biết xấu hổ hay không?” Đường Hiểu Lan cũng quát: “Khi quân phạm thượng, đại nghịch bất đạo, đừng nói càn!” rồi chàng múa tít thanh kiếm, trong ánh kiếm quang chàng thấy người ấy đeo mặt nạ, Đường Hiểu Lan đánh ra hai chiêu Mục Phương Thần Tuấn và Vương mẫu thanh cầm trong Truy Phong kiếm pháp, một kiếm đâm vào hạ bàng, một kiếm hất lên thân kiếm của y, đâm vào mặt của y, hai chiêu kiếm này rất khó dùng nhưng là tuyệt chiêu hung hiểm nhất trong Truy Phong kiếm thức. Thân thủ của người ấy cũng rất ghê gớm, y quét ngang một kiếm, xoay nửa vòng, kiếm phong quét tới đẩy Du Long kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài.


Đường Hiểu Lan cả kinh, cây Du Long kiếm đẩy về phía trước, hóa giải chiêu thế của kẻ địch, chui kiếm xoay một vòng, lưỡi kiếm chém ngang, người ấy cũng tạt ngang thanh kiếm, ánh lửa bắn ra tung tóe, Đường Hiểu Lan chợt thấy như mũi kiếm của mình bị một vật gì hút phải, mũi kiếm của chàng đâm tới hụt, kiếm của người ấy đã đâm vào bụng của chàng. Đường Hiểu Lan lách người tránh qua, người ấy tựa như nương tay, quát: “Hãy bỏ tối theo sáng!” Đường Hiểu Lan mắng: “Phản tặc, nếm một kiếm của ta”. Cây Du Long kiếm lướt lên, đánh ra một chiêu Phi Bộc Lưu Tuyền, kiếm hoa tuôn ra. Người che mặt tự nhiên đã nổi cáu, y vung cây trường kiếm đâm vào màng kiếm quang của chàng.


Đường Hiểu Lan gặp phải kình địch, tinh thần phấn chấn, thi chuyển hết tuyệt chiêu tinh diệu của Thiên Sơn kiếm pháp, trong chiêu có chiêu, trong thức có thức, tựa hư tựa thực, biến hóa vô cùng. Hán tử che mặt múa kiếm không tinh diệu như chàng, nhưng công lực rất cao, hóa giải thế công của Đường Hiểu Lan. Đánh được nửa canh giờ, Đường Hiểu Lan đã thi triển toàn bộ bảy mươi hai đường Truy Phong kiếm pháp mà chẳng làm gì được y, đang định đổi sang Tu di kiếm pháp, người ấy xỉa thanh kiếm tới trước, chập vào cây Du Long kiếm, trở tay xoáy một cái, Đường Hiểu Lan bước đồ cũng xoay theo y hai vòng, vù một tiếng, thanh kiếm trong tay chàng rơi xuống.


Người ấy cười ha hả, ngay lúc này căn phòng chợt sáng bừng, chỉ thấy Thập tứ bối lạc đang đứng trong phòng, mặt tươi cười, vẫy tay nói: “Quả nhiên ngươi trung thành với ta, đến đây!” Tên tử tù nằm co trong góc chợt vọt người dậy, gông xiềng trên người không biết đã được tháo từ lúc nào.


Đường Hiểu Lan lau mồ hôi, thầm nhủ: “Nguy hiểm thật!” Vốn là lúc đầu Đường Hiểu Lan không ngờ rằng Dận Đề thử chàng bằng cách nham hiểm này, suýt nữa đã mắc lừa, may mà chàng vẫn còn lanh lẹ, khi định thả “phạm nhân”, đã chợt nhìn thấy sơ hở, sau đó người che mặt đến, sơ hở càng nhiều, Đường Hiểu Lan cũng tương kế tựu kế, diễn trò cùng với y để cho chúng thấy rằng mình trung thành với Dận Đề.


Đường Hiểu Lan đã thấy những sơ hở gì? Thứ nhất, nếu phạm nhân này đã là tử tù quan trọng, lẽ ra phải bị đánh đến mức trọng thương hoặc chẳng thể nhúc nhích nổi, hoặc bị phong bế huyệt đạo, hay có cao thủ canh giữ. Nhưng tất cả đều không. Phạm nhân chỉ bị đeo gông bình thường, người có công lực cao cường chỉ cần vùng mạnh một cái, bao nhiêu gông cũng chẳng cùm được họ. Thứ hai, phạm nhân cố ý cho chàng biết mình là người quan trọng. Bảo với đao phủ thủ mình là đầu lĩnh nghĩa quân Tây bắc là điều đáng nghi ngờ. Thứ ba, nếu phạm nhân nói điều đó là thật, Đường Hiểu Lan là người mới vào vương phủ, Dận Đề có yên tâm để chàng làm chuyện này một mình không? Thứ tư, sau khi người che mặt đến, y không cứu bằng hữu trước mà lại lo đánh nhau với chàng thì thật vô lý. Nếu là những người hiệp nghĩa trên giang hồ, đi cứu một nhân vật quan trọng, không hề cứu đồng bọn của mình trước mà khuyên kẻ địch đầu hàng? Thứ năm, khi thích khách khuyên Đường Hiểu Lan, y bảo chàng không nên làm nô tài cho bối lạc Mãn Châu, nếu là hiệp sĩ người Hán, họ không gọi tôn hiệu của người Mãn Châu. Thứ sáu, thích khách đến gần cả canh giờ, Đường Hiểu Lan quát tháo ầm ĩ, trong phủ có rất nhiều cao thủ nhưng chẳng ai ra giúp chàng. Đó rõ ràng là cạm bẫy của Dận Đề, tất cả sáu sơ hở này xuất hiện từ khi Đường Hiểu Lan bước vào phòng tù cho đến khi Dận Đề xuất hiện, nhưng tuy là thế nếu không phải là người tỉ mỉ cũng không nhận ra.


Dận Đề đứng trong bức vách đôi, thấy rõ ràng nhất cử nhất động của Đường Hiểu Lan. Té ra phòng tù này là nơi bí mật trong hoàng phủ, có địa đạo thông ra ngoài.


Đường Hiểu Lan thấy Dận Đề chợt xuất hiện, chàng giả vờ kinh hoảng, nhảy tới chắn giữa Dận Đề và người che mặt. Dận Đề nói: “Y không phải thích khách. Xa tướng quân hãy tháo mặt nạ xuống”. Té ra đó là đệ nhất kiếm thủ trong phủ Dận Đề tên gọi Xa Tịch Tà. Xa Tịch Tà là người Kỳ, y học được Phong lôi kiếm pháp của phái Trường Bạch, cùng với thống lĩnh cận vệ quân Phương Kim Minh, được gọi là Quân Trung Nhị Bảo. Vì Xa Tịch Tà là người Kỳ nên được Dận Đề coi trong hơn.


Đường Hiểu Lan nói: “Đắc tội. May mà Xa đại nhân chỉ có ý thử thách, nếu là thích khách thật sự, mạng tôi đã xong từ lâu”. Xa Tịch Tà nghe chàng tâng bốc, cười ha hả: “Luận về kiếm pháp ngươi cao minh hơn ta nhiều. Thêm vài năm nữa, công lực của ngươi tăng dần lên, ta đã chẳng phải là đối thủ của ngươi”.


Dận Đề rất mừng rỡ, nói với Đường Hiểu Lan: “Đưa bình thuốc đây”. Đường Hiểu Lan lấy bình thuốc ra, may mà nó vẫn chưa vỡ, Dận Đề mở bình thuốc, uống ực một cái rồi đưa cho Đường Hiểu Lan: “Các ngươi đánh đã mệt, mỗi người hãy uống một ngụm”. Đường Hiểu Lan vừa uống vào chỉ thấy mùi hương lạ xông lên mũi, té ra đây là loại rượu rất ngon. Xa Tịch Tà cũng cầm bình rượu uống đánh ực một tiếng rồi đưa cho tên vệ sĩ cải trang thành tù phạm. Té ra kiểu ban rượu như thế do thống soái uống đầu tiên, mỗi người thay phiên nhau uống một ngụm, đó là vinh dự trong quân Mãn Châu, chỉ có tướng sĩ có công mới được thống soái mời rượu.


Dận Đề uống rượu xong, chợt nghiêm mặt lại nói với Đường Hiểu Lan: “Ngươi thân mang tuyệt kỹ, tại sao phải tự tiến cử, trước kia làm việc ở đâu?” Đường Hiểu Lan đảo mắt nói: “Xin Tứ bối lạc thứ cho tội mạo muội, tiểu nhân có lời bẩm cáo”. Dận Đề nói: “Bọn chúng đều là tâm phúc của ta, ngươi có việc gì cứ nói”.


Đường Hiểu Lan lấy mảnh Hán bạch ngọc mà Khang Hy đã ban cho, trao cho Dận Đề: “Chắc bối lạc đã thấy mảnh Hán bạch ngọc này”. Dận Đề vừa cầm thì thất kinh, rõ ràng đó là đồ của phụ hoàng sao lọt vào tay người này. Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nhân vốn là thị vệ bên cạnh Hoàng thượng, vì việc tuyệt mật nên mới vào hoàng phủ”. Dận Đề ờ một tiếng, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, chợt nói: “Ngươi vào cung khi nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi vào cung mới năm ngoái”. Dận Đề nói: “Té ra là thế, năm ngoái ta ở Thanh Hải, chả trách nào không gặp. Ngươi có chuyện cơ mật gì muốn nói cho ta biết?”


Đường Hiểu Lan nói: “Hoàng thượng đã sớm chọn bối lạc nối ngôi, bối lạc có biết không?” Dận Đề tuy biết phụ hoàng thương yêu mình nhất, nhưng không dám hy vọng quá nhiều về chuyện được nối ngôi bởi vì trên mình còn có mười hai vị a ca nữa, nên mới nghe không khỏi vừa mừng vừa lo. Đường Hiểu Lan nói tiếp: “Chắc bối lạc cũng biết Tứ bối lạc đang rắp tâm giành ngôi”. Dận Đề trợn mắt, Đường Hiểu Lan nói: “Nô tài không dám ly gián tình thân cốt nhục của bối lạc, nhưng...” Dận Đề nói: “Nhưng sự thật là thế, đúng không?” Đường Hiểu Lan quỳ xuống dập đầu, Dận Đề cười lạnh nói: “Ta đã sớm biết Dận Trinh chẳng tốt lành gì!” Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nói: “Nếu bối lạc không mưu tính sớm, chỉ e vịt đã nấu chín vẫn còn có thể bay được!”


Dận Đề trợn mắt, lại hỏi: “Sao ngươi lại nói thế?” Đường Hiểu Lan nói: “Hoàng thượng dưỡng bệnh đến nay đã nửa tháng; bối lạc quay về cũng sắp mười ngày. Tại sao Hoàng thượng không triệu kiến bối lạc?” Dận Đề vỗ bàn nói: “Chẳng lẽ có gian nhân giở trò?” Đường Hiểu Lan nói: “Quốc cựu Khoa Long Đa, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, đại học sĩ Trương Đình Ngọc, ba người này cùng một phe với Tứ bối lạc”. Dận Đề nói: “Ta có nghe nói hôm nay ngoại trừ vài ngự y với các cung nữ nội giám thân cận, chỉ có ba người này là gần gũi với phụ hoàng. Chuyện này đúng là đáng lo. Vậy ngươi bảo phải nên thế nào?” Đường Hiểu Lan nói: “E rằng phải tìm cách gặp Hoàng thượng”. Dận Đề nói: “Chưa có chiếu thư tuyên triệu, làm thế nào mà gặp?” Đường Hiểu Lan nói: “Khi cần thiết thì xông vào. Vả lại bối lạc nắm đại quân, nếu bố trí sớm...” Dận Đề biến sắc, nói: “Ta hiểu ngươi có lòng trung. Đừng nói càn, ngươi lui xuống”.


Thật ra Dận Đề đã sắp xếp trước, y cũng biết trong tay Dận Trinh có nhiều người giỏi, lo sợ bị ám toán nên mới đóng quân ở ngoại thành, do đại tướng tâm phúc Bác Khách Đồ nắm giữ, y còn dặn rằng hễ mình có chuyện gì bất ngờ thì xua đội quân đối phó với Dận Trinh.


Lại nói vua Khang Hy xưa nay khỏe mạnh, ở ngôi được sáu mươi mốt năm, trong tháng mười năm này, ông ta còn đến Nam Uyển đi săn, cưỡi ngựa bắn hươu trông rất võ dũng. Không ngờ sau khi đi săn, đột nhiên ngã bệnh, hễ là những người già vốn khỏe mạnh xưa nay ít bệnh, một khi đã ngã bệnh thì rất khó trị nên không đầy mấy ngày đã trở nặng. Khang Hy dời giá đến dưỡng bệnh ở Ly cung thuộc Thưởng Xuân Viên, lúc đầu còn có thể cố gắng nắm giữ quốc sự, sau càng lúc càng tệ, bởi vậy mới bảo Quốc cựu Khoa Long Đa và đại học sĩ Trương Đình Ngọc nắm giữ triều chính.


Khang Hy là người cực kỳ háo cường, một đời nam chinh bắc phạt, trị hà tu thư, chính giáo võ công đều có thành tựu lớn, không ngờ đến buổi về chiều, mười mấy đứa con trai cứ đấu đá chèn ép lẫn nhau, Khang Hy chẳng làm được gì. Nên đến khi bệnh thì rất phiền não, không muốn thấy người thân, bởi vậy không những Dận Đề, dù Dận Trinh tìm trăm phương nghìn cách xin gặp cũng chỉ có thể đứng từ xa thỉnh an. Dận Đề và Đường Hiểu Lan đoán có gian nhân giở trò thật ra cũng chỉ đúng có một nửa. Song Dận Đề nhờ Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc làm tai mắt, lại mua chuộc các thái giám và cung nữ bên cạnh Khang Hy nên đều nắm rõ nhất cử nhất động của Khang Hy.


Hôm nay, tức là ngày mười ba tháng một năm Khang Hy sáu mươi mốt, Khang Hy đang nằm mơ màng, uống một chén canh sâm, thần trí hơi tỉnh táo, chợt nhớ lại những việc hơn sáu mươi năm qua, chỉ cảm thấy phú quý trôi qua như áng mây, con cái tuy nhiều nhưng bọn chúng chỉ lo tranh ngôi báu chứ chẳng có tình cha con thực sự. Bất đồ nhớ lại người bằng hữu thời trẻ Nạp Lan Dung Nhược, đáng tiếc Nạp Lan Dung Nhược đoản mệnh, chỉ mới ba mươi mốt tuổi đã qua đời, nếu không tuổi già ít nhất cũng có một người bầu bạn nói chuyện.


Nội giám thấy Hoàng đế nhỏm người toan ngồi dậy, bước đến hỏi. Khang Hy nói: “Trên ngăn giữa của giá sách có một cây quạt, ngươi hãy đem cây quạt đến cho trẫm!”. Tên nội giám rất ngạc nhiên, lúc này trời đang giá lạnh, lấy quạt làm gì? Nhưng nhà vua đã sai khiến, không dám không nghe. Khang Hy cầm cái quạt mà thở dài.


Trong khoảng sát na ấy, ông ta nhớ lại việc hơn bốn mươi năm trước cùng Nạp Lan Dung Nhược viễn chinh miền tái ngoại, lúc ấy là ở gần Thỗ Lỗ Phiên, ban ngày nóng bức, ban đêm lạnh giá, trên đại mạc chỉ có gió cát thổi ào ào, mình và Nạp Lan Dung Nhược ngồi trò chuyện. Nạp Lan Dung Nhược khuyên mình không nên chinh chiến nữa, Khang Hy còn cười ông ta là kẻ thư sinh, nay nhìn lại, dù suốt năm nam chinh bắc phạt, các tộc vẫn không khuất phục, lời Nạp Lan không phải là không có lý. Nay nhớ lại không khỏi bi thương. Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ Thái đứng hầu một bên, thấy Hoàng đế ngẩng người ra, họ đều không ngờ rằng, Hoàng đế Khang Hy ở ngôi lâu, được sống thọ, vinh hoa quý quý đến cực điểm mà trước khi chết mà cõi lòng lại thê lương quạnh quẽ đến thế.


Long Khoa Đa bước tới gần, nói: “Tinh thần Hoàng thượng vừa mới hồi phục, không nên suy nghĩ nhiều”. Khang Hy mỉm cười buồn bã, phẫy tay nói: “Mau truyền Thập tứ bối lạc Dận Đề!” Ông ta biết mình sắp không xong nên định căn dặn hậu sự.


Các bối lạc đều muốn giành ngôi, mấy ngày nay nghe Khang Hy bị bệnh nặng đều kéo đến Thưởng Xuân Viên, cho đến tối mịt mới về nghỉ ngơi. Huynh đệ gặp mặt nhau mà chỉ chào hỏi lạnh nhạt, chẳng hề trò chuyện gì cả.


Hôm nay các bối lạc đang nôn nóng chờ đợi chợt thấy Long Khoa Đa chạy ra, ai nấy đều xôn xao. Long Khoa Đa kêu lớn: “Thánh thượng có chỉ, tuyên triệu Tứ bối lạc kiến giá!” Dận Trinh cả mừng, chạy lên theo Long Khoa Đa vào trong.


Ai nấy đều thất vọng, Cửu bối lạc Dận Đường là người nóng nảy nhất, y vung tay kêu lớn: “Cứ mặt y, chúng ta xông vào!” các bối lạc đều hưởng ứng, dắt theo tuỳ tùng kéo nhau vào, bọn lính canh giữ nào cản được. Đường Hiểu Lan và Xa Tịch Tà là tùy tùng của Thập tứ bối lạc Dận Đề, lúc này cũng theo vào bên trong.


Sau khi Khang Hy tuyên triệu Dận Đề, thần trí lại mơ hồ, ông ta thấy mình chợt ở trên núi Ngũ Đài, một nhà sư gầy ốm đang trừng mắt nhìn mình người đó chính là Thuận Trị, không khỏi sợ đến nỗi hồn bay phách tán, kinh hãi kêu lên: “Phụ hoàng tha cho con!” Ngạc Nhĩ Thái đứng từ xa nói: “Hoàng thượng tỉnh lại, Thập tứ bối lạc đã đến!” Hoàng đế Khang Hy toát mồ hôi lạnh, xoay người chợt hỏi: “Đây là đâu?” Ngạc Nhĩ Thái nói: “Là Thưởng Tâm Viên!” Khang Hy nói: “Ngươi lừa ta, đây là núi Ngũ Đài!” Ngạc Nhĩ Thái thầm kêu khổ, Hoàng thượng đã hôn mê mà Tứ bối lạc vẫn chưa đến. Khang Hy lại trở mình, chợt kêu lớn: “Các ngươi mau đuổi lão hòa thượng kia ra! Mau lên! Đừng để y vào!”.


Lúc này Dận Trinh và Long Khoa Đa chạy vào. Ngạc Nhĩ Thái quỳ xuống bẩm: “Hoàng thượng, Thập tứ bối lạc đến!” Khang Hy hơi tỉnh trở lại, Dận Trinh quỳ trước giường. Khang Hy đưa tay sờ mặt y, chợt kêu: “Ngươi, ngươi, ngươi không phải là Dận Đề!” Dận Trinh nói: “Thần nhi xin vâng theo phụ hoàng!” Khang Hy chợt hồi quang phản chiếu, cả giận nói: “Hay lắm, ta vẫn chưa chết mà các ngươi cùng hùa nhau lừa ta!” rồi cầm một xâu chuỗi ngọc ném vào mặt Dận Trinh! Long Khoa Đa cả kinh lạc giọng. Lúc này, người bên ngoài ồn ào, Dận Trinh nghiến răng chợt lao bổ lên giường. Khang Hy kêu thảm một tiếng, chẳng lấy hơi được nữa, chết ngay tức khắc! Ở núi Ngũ Đài Khang Hy mưu sát cha (xem trong bộ “Thiên Sơn Thất Kiếm”), nay ông ta cũng chết trong tay con mình.


Các bối lạc dắt theo tùy tùng xông vào, một đám Ngự lâm quân chạy lên chặn lại, số là Long Khoa Đa đã lo các bối lạc không nghe lệnh nên mới sắp xếp trước. Đường Hiểu Lan đẩy Dận Đề, khẽ nói: “Bối lạc phải quyết định nhanh cho!” Dận Đề quát lớn: “Bọn ta thăm hỏi phụ hoàng, ai dám ngăn cản?” Các bối lạc đều quát lớn, bọn Ngự lâm quân nhìn nhau thất sắc, tuy đã cầm binh khí trong tay nhưng vẫn run lẩy bẩy!


Ngay lúc này, trong phòng vọng ra một tiếng kêu thảm, các bối lạc giật mình, bổ người bay lên lướt qua đầu bọn Ngự lâm quân chui tọt vào cửa sổ.


Tứ bối lạc Dận Trinh bóp chết phụ hoàng, hai tay buông ra, té xuống trước giường. Long Khoa Đa nói: “Chúc mừng Hoàng thượng, việc lớn đã định!” chợt thấy một bóng đen từ cửa sổ chui tọt vào, Ngạc Nhĩ Thái quát: “Ngươi là ai?” định xông lên ngăn cản, người ấy chẳng nói một lời, vung một quyền đấm ngã Ngạc Nhĩ Thái quỳ trước giường, người ấy chạy lên nhìn thì chợt quỳ xuống khóc: “Con đã đến muộn!”.


Người ấy chính là Đường Hiểu Lan, khi Khang Hy còn sống, chàng không nhận cha, nay thấy ông ta đã chết! Tình cha con rút cuộc là tính trời, bất giác quỳ xuống. Dận Trinh đã hồi phục thần trí, y vội vàng đứng vọt dậy, xỉa vào huyệt Kiên Tỉnh của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan lập tức ngã xuống đất, miệng vẫn còn hả ra, nước mắt tuôn đầy mặt.


Long Khoa Đa nói: “Hoàng thượng đừng lo lắng”. Rồi kéo Dận Trinh bước ra ngoài, Dận Trinh tuy vẫn chưa lên ngôi báu, nhưng y đã gọi là “Hoàng thượng”. Dận Trinh định thần, giơ ống tay áo quệt nước mắt, lập tức khóc òa lên!


Lúc này các bối lạc đang ồn ào, nghe tiếng khóc thì ai nấy đều xông lên phía trước, bọn Ngự lâm quân giở binh khí nhưng chỉ làm cho ra vẻ. Thấy bọn họ xông bừa tới đều tránh ra. Long Khoa Đa kêu lớn: “Hoàng đế đã băng hà, nước không thể một ngày không vua, bổn quan nhận lời gửi gắm của tiên đế, mời các vị bối lạc mau đến điện Chính đại quang minh nghe đọc di chiếu!” các bối lạc quả nhiên im lặng, Hoàng đế đã chết, không ai muốn vào trong xem, tất cả đều kéo đến điện Chính đại quang minh nghe chỉ.


Long Khoa Đa trao Đường Hiểu Lan cho Ngự lâm quân dắt vào nội đình, hỏi ngay tại chỗ: “Người này là tùy tùng của bối lạc nào?” các bối lạc đều chạy vào cung, chẳng ai thèm để ý. Dận Đề trong lòng đang giận Đường Hiểu Lan lỗ mãn, sợ rằng hỏng việc lớn nên không dám lên tiếng, thầm nhủ: “Đợi ta ngồi lên ngôi vua rồi sẽ giết y”.


Lúc này trời đã chạng vạng, cửa ngọ môn vốn đã đóng kín. Vì tuyên đọc di chiếu, nên mở ra. Hoàng thân quốc thích văn võ bá quan đều lục tục kéo đến, cung phi trong cung cũng đến điện bên cạnh lắng nghe. Một hồi sau, văn võ cả triều đều đã kéo đến đông đủ. Dưới thềm có ba ngàn Ngự lâm quân đứng canh rất nghiêm ngặt. Các bối lạc đều chen nhau vào điện. Dận Đề tim đập thình thình, vươn cổ ra nhìn tấm biển đề mấy chữ to “Chính đại quang minh” treo ở giữa điện. Trong không khí căng thẳng ấy, chợt có người kéo y một cái, Dận Đề giật mình, té ra đó là thống lĩnh cận vệ quân Phương Kim Minh. Phương Kim Minh khẽ nói bên tai y: “Trong quân có biến!” Dận Đề cả kinh hỏi: “Sao?” Phương Kim Minh nói: “Niên Canh Nghiêu Bảo phụng thánh chỉ, nắm giữ chức phủ viễn phó tướng quân, tạm thời thay bối lạc xử lý quân vụ, một vạn quân thiết kỵ của y đã lập trại bên cạnh nơi đóng quân của chúng ta”. Dận Đề rất thắc mắc, Niên Canh Nghiêu chỉ là một đề đốc, quân của y tuy dũng cảm thiện chiến nhưng so với hai mươi vạn đại quân của mình chẳng khác gì trứng chọi đá, sao có thể để cho y tiếp thu. Vội hỏi: “Binh quyền của Bác Khách Đồ vẫn chưa bị tước chứ? Võ quan của các doanh có còn trung thành với ta không?” Phương Kim Minh nói: “Bác Khách Đồ vẫn còn. Cận vệ quân và mười hai doanh tướng đang bao vây quân Niên Canh Nghiêu, xin bối lạc lập tức trở về”. Dận Đề nghe Bác Khách Đồ vô sự, lòng thấy yên, nói: “Chỉ còn binh quyền vẫn còn, binh sĩ chưa biến sẽ không cần sợ, ngươi hãy về trước. Hãy truyền ý của ta, bảo bọn họ tìm cách bắt Niên Canh Nghiêu lại”. Sắc mặt Phương Kim Minh vẫn khó coi, các bối lạc nghe Dận Đề nói chuyện với người khác đều để ý, Dận Đề vội đẩy y nói: “Trở về mau!” Phương Kim Minh chẳng còn cách nào, chỉ đành chen ra ngoài.


Trong lúc ồn ào, thái giám truyên lễ gõ cái chuông lớn trên điện, kêu: “Thỉnh di chiếu!” Trong khoảng sát na, cả tòa đại điện đều lặng hẳn, tựa như có thể nghe được cả tiếng kim rơi. Chỉ thấy ba người Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc bước lên điện, trên điện bày sẵn hương án, ba người nhìn lên không hành lễ, bọn lính đã đặt sẵn thang, Long Khoa Đa trèo lên kính cẩn bưng cái hộp ngọc đựng di chiếu xuống. Các bối lạc đều vươn dài cổ, chỉ thấy Long Khoa Đa đứng trong điện, cao giọng đọc. Khi đọc đến chỗ “truyền ngôi cho...”, y cố ý kéo dài giọng, các bối lạc đều bất giác bước tới, Long Khoa Đa ho một tiếng, tiếp đó đọc rằng: “Tứ bối lạc!” lập tức dưới điện xôn xao! Mọi người đều nghĩ vua Khang Hy ghét nhất là Tứ bối lạc Dận Trinh, làm sao lại truyền ngôi cho y. Họ không biết rằng di chiếu vốn viết rằng “truyền ngôi cho Thập tứ bối lạc”, Dận Trinh sai Thiên Diệp Tản Nhân và Phùng Lâm vào xem lén, biết được chuyện này, được Long Khoa Đa hiến kế, đã thêm một nét ngang trên chữ thập, phía dưới thêm một nét móc trở thành chữ “vu” (có nghĩa là cho), vì thế dòng chữ trong di chiếu vốn là “truyền ngôi Thập tứ bối lạc” lại trở thành “truyền ngôi cho Tứ bối lạc”!


Trong tiếng ồn ào, Cửu bối lạc Dận Đường, Thập bối lạc Dận Nga kêu lớn: “Ta không tin!” bọn thị vệ trên điện xông đến cản lại, Dận Đường và Dận Nga đều biết võ công, lại tưởng rằng bọn thị vệ cũng giống như Ngự lâm quân, chỉ khoa trương thanh thế, không dám cản mình cứ xông bừa tới toan đoạt di chiếu, không ngờ Dận Trinh nghiêm mặt quát: “Bắt lại!” trong đám thị vệ có hai người chợt lao bổ lên, Dận Đường và Dận Nga đồng thanh đáp: “Ai dám cản ta?”.


Dận Đường và Dận Nga không biết rằng, hai kẻ này chẳng phải người tầm thường, Tứ bối lạc đã biết có chuyện hôm nay, không những đã mua chuộc Ngự lâm quân và Điện tiền thị vệ mà hai ngày trước đã cài mười tay tâm phúc của mình vào, hai tên thị vệ này là Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên, Dận Đường Dận Nga nổi cáu vung quyền, chỉ sau mấy đòn đã bị điểm huyệt đạo ngã xuống. Người của Dận Trinh trong Ngự lâm quân nhảy đến trói họ, rồi kêu lớn lên trước: “Vạn tuế!” ba ngàn Ngự lâm quân hô như sấm dậy, trăm quan biến sắc. Lúc này bọn thị vệ đưa Dận Trinh lên điện, Dận Trinh khoác lên bộ lông bào, bọn Long Khoa Đa đưa y ngồi lên ngai vàng. Bọn Ngự lâm quân dưới điện hô lớn ba tiếng: “Vạn tuế!” trong quan văn võ, có quá nửa đã bị Dận Trinh mua chuộc, còn một nửa kia cũng đành phải bước đến triều kiến. Các bối lạc đều tiu nghỉu, đành phải bước lên triều bái.


Lễ xong, Dận Trinh nói: “Dận Đường và Dận Nga quấy rối triều đường, phạm tội đại bất kính, trước hết tước vương vị, giao cho phủ tông nhân thẩm vấn!” lại nói: “Di chiếu của tiên đế các quận vương vốn không có quyền mở ra đọc, nhưng hôm nay đã xảy ra chuyện, vì muốn mọi việc công khai, ta cho phép các quận vương đích thân đọc”. Rồi đem di chiếu xuống, các bối lạc đều tranh nhau xem, quả nhiên thấy đó là bút tích của Khang Hy, ai nấy tuy không phục nhưng cũng không dám nói gì nữa. Dận Trinh lại nói: “Khi tiên đế còn sống, đã quyết định ta kế thừa ngôi báu, lại còn trao cho ta xâu chuỗi ngọc làm bằng, ta từ chối mãi mà không được, chỉ đành tuân theo di chiếu của phụ hoàng, mong các quận vương giúp đỡ cùng trị thiên hạ”. Nói xong lại lấy ra xâu chuỗi ngọc mà Khang Hy đã ném y, giả vờ đau đớn rơi nước mắt. Dận Trinh biết các bối lạc vẫn còn có tiềm lực, nên không thể không giả vờ mua chuộc lòng người. Thập tứ bối lạc tức đến nỗi tay chân lạnh ngắt, bỏ ra ngoài trước tiên, các bối lạc cũng theo ra về.


Đêm ấy Dận Trinh dời ngai vào cung Càn Thanh, triệu tập tâm phúc bàn việc luôn đêm. Đến khi xong xuôi đã đến canh tư, bọn Long Khoa Đa mới trở ra, Dận Trinh lại sai người liên lạc với Niên Canh Nghiêu, tên nội giám nói: “Xin Hoàng thượng nghỉ ngơi một lát. Ngày mai còn phải lên triều!” Dận Trinh cũng rất mệt, liền nói: “Nếu Niên Canh Nghiêu đến, hãy lập tức bảo y vào gặp ta”. rồi y gục xuống bàn mà ngủ, trong lúc mơ hồ tựa như thấy Khang Hy mặt mũi đầy máu, đang định kêu cứu thì chợt có Lữ Tứ Nương cầm kiếm xông vào, Dận Trinh kinh hãi bừng tĩnh, tên nội giám bẩm báo: “Bảo Quốc thiền sư đang cầu kiến!” Dận Trinh nói: “Gọi y vào!”.


Liễu Ân bước vào chỉ cúi đầu chứ không quỳ, nói: “Chúc mừng chúa công lên ngôi”. Liễu Ân ỷ mình có công lao, vẫn xử sự với Dận Trinh như khi còn ở vương phủ. Dận Trinh thầm không vui, nhủ rằng: “Thế nào cũng phải trừ khử bọn người này để bọn chúng khỏi nói bậy chuyện mình ở giang hồ”. Nhưng vừa mới nối ngôi, vẫn còn nhiều chuyện nhờ bọn họ, bởi vậy y không lộ ra mặt, hỏi: “Quốc sư gặp trẫm có việc gì?” Liễu Ân nói: “Bẩm Hoàng thượng, đã tra khảo được tên thích khách”. Dận Trinh nhíu mày, thầm nhủ: “Chuyện nhỏ như thế này mà cung làm phiền ta”. Rồi thuận miệng hỏi: “Là tùy tùng của ai?” Liễu Ân nói: “Không biết, nhưng người này có giấu di thư của tiên đế, từng tự xưng là đại nội thị vệ Đường Long”. Dận Trinh nói: “Được, dắt y vào!”


Dận Trinh vừa gặp chàng đã hừ một tiếng nói: “Tại sao ngươi cứ đối chọi với ta?” Đường Hiểu Lan lấy chiếu thư mà Khang Hy đã cho Đường Hiểu Lan trước kia, năm xưa Đường Hiểu Lan muốn gặp Dận Trinh nên nhờ Khang Hy viết cho, sau đó đến vương phủ của Dận Trinh chưa kịp lấy ra, vừa gặp phải Quan Đông tứ hiệp đến gây sự nên Dận Trinh vẫn không xem.


Dận Trinh thấy chiếu thư bảo phải lo lắng cho người này, bất giác nghiêm mặt, quát: “Ngươi có lai lịch thế nào?” Đường Hiểu Lan trừng mắt không đáp, Dận Trinh đang định ra lệnh tra khảo chàng, chợt nghe bên ngoài ồn ào, nội giám kêu lên: “Trong cung bốc lửa!” Dận Trinh cả kinh, đẩy cửa ra nhìn, chợt làn gió lạnh phả vào mặt, trên mái ngói lưu ly chợt có một người nhảy xuống múa kiếm như gió, đâm ra xoạt xoạt hai kiếm về phía Dận Trinh, người này chính là kẻ y vừa mới mơ thấy, Lữ Tứ Nương.


Chính là:


Khéo dùng quyền mưu lên ngôi báu, thâm cung lại thấy kín quan lạnh.


Muốn biết sau đó thế nào mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 23

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 23 Ngựa sắt qua vàng tướng quân giỏi chinh chiến Gió sáng trăng tàn ngọc nữ vung kiếm múa




Lữ Tứ Nương chợt xuất hiện khiến Dận Trinh kinh hãi. Liễu Ân gầm lớn, tung quyền đấm hờ vào mặt Lữ Tứ Nương, rồi đột nhiên giở chân đá ra một cước, suýt nữa cây bảo kiếm trong tay nàng đã bị y đá bay, nàng vội vàng bỏ Dận Trinh, lộn người qua liên tục đến hai chiêu, Liễu Ân xoay người lách ra phía sau Lữ Tứ Nương, lại tung cước lên đá vào lưng nàng, Liễu Ân đã dùng cả Phục Hổ quyền với Liên hoàn thoái, hung hiểm cực kỳ. Lữ Tứ Nương nghe phía sau có tiếng gió, chân điểm một cái, người vọt lên không; Liễu Ân đột nhiên thấy mất bóng địch, người lao về phía trước hai bước, Lữ Tứ Nương tay trái chụp vào sà ngang, tay phải vung lên, hai mũi trủy thủ sáng loáng bay về phía Dận Trinh và Liễu Ân!


Trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt, Dận Trinh mới giật mình, đến khi Liễu Ân chặn Lữ Tứ Nương, y mới hơi vững bụng, vung tay điểm vào Hôn huyệt của Đường Hiểu Lan, nào ngờ Lữ Tứ Nương đột nhiên phóng trủy thủ đến, Dận Trinh lộn xuống đất, cây trủy thủ lướt qua đầu của y, khi lộn người đứng dậy thì đã rút kiếm trong tay.


Liễu Ân vung tay kẹp được cây trủy thủ, vận Kim cương chỉ ngực bẻ gãy làm đôi. Dận Trinh kêu: “Bảo Quốc thiền sư, giết Đường Hiểu Lan trước!” vì Đường Hiểu Lan có chiếu thư của tiên đế, Dận Trinh không biết lai lịch của chàng, y cực kỳ nghi ngại, trái lại khi nguy cấp vẫn không quên giết chết chàng. Liễu Ân phóng người tới, Lữ Tứ Nương đột nhiên từ trên không bay xuống, Liễu Ân chưa tới thì nàng đã xách Đường Hiểu Lan dậy, lại phóng lên, lúc này bọn thị vệ bên ngoài đã chạy tới cứu giá, Lữ Tứ Nương vung kiếm chém gông xiềng trên tay Đường Hiểu Lan, hỏi: “Có bị thương không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không!” té ra Liễu Ân thấy chiếu thư của Khang Hy viết rõ bảo Dận Trinh phải lo lắng cho chàng, trước khi được Dận Trinh cho phép, y không dám lạm dụng hình phạt. Lữ Tứ Nương biết chàng không bị thương mới yên lòng, nói: “Được, chúng ta xông ra ngoài!” rồi phóng người lên, cây bảo kiếm quét tròn, đánh vỡ ngói lưu ly, mái ngói thủng một lỗ lớn, có hai tên thị vệ võ công cao cường phóng lên chụp nàng, Lữ Tứ Nương co người, tay trái nắm Đường Hiểu Lan ném ra ngoài, tay phải đâm mũi kiếm xuống, hai tên thị vệ vừa chạm gần tới chân nàng, đã bị nàng chém bị thương rơi xuống!


Liễu Ân võ công cực kỳ cao cường, thấy thế cũng không khỏi thầm lo. Dận Trinh cả giận lại quát: “Mau bắt con tiện tì lại cho trẫm!”. Lúc nãy Liễu Ân vừa mới đánh mấy chiêu với Lữ Tứ Nương, thấy kiếm pháp của nàng tựa như càng cao hơn trước, lúc này y không có cây thiền trượng, nếu đánh tay không với nàng chỉ e chẳng được lợi gì. Nếu cùng bọn thị vệ vây đánh nàng, lại mất thân phận sư huynh. Bởi vậy nghe Dận Trinh ra lệnh, bọn thị vệ vội vàng đuổi ra, chỉ có Liễu Ân vẫn đứng yên, bẩm với Dận Trinh rằng: “Chúa công, chỉ e bọn chúng còn có dư đảng, để tôi bảo vệ cho chúa công”. Dận Trinh nói: “Được, có ngươi ở đây cũng tốt”. Trong lòng rất không vui.


Lữ Tứ Nương rất giỏi khinh công, Đường Hiểu Lan cũng cao cường hơn bọn thị vệ bình thường, chỉ trong khoảnh khắc, họ đã vượt qua mấy tòa điện. Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long từ hai bên đánh tới, hai người này võ công đương nhiên cao hơn bọn thị vệ. Lữ Tứ Nương phóng trủy thủ tới, Cam Thiên Long múa trường kiếm gạt một thanh trủy thủ bay xuống, nhắm đúng hướng bay của mũi trủy thủ thứ hai, lách người sang trái, nào ngờ Lữ Tứ Nương đã sớm dự liệu, khi phát ám khí đã ngầm vận thủ pháp, ném mũi trủy thủ thứ nhất bay thẳng tới, còn mũi trủy thủ thứ hai khi bay đến gần địch thì đột nhiên lệch sang trái, mũi trủy thủ bay vù một tiếng lướt qua vai Cam Thiên Long, vạch áo trên vai của y, Cam Thiên Long cả kinh không dám đuổi theo. Đổng Cự Xuyên ném ra ba mũi thấu khống linh, hai mũi bị Lữ Tứ Nương đánh rơi, mũi thứ ba lướt qua vai Đường Hiểu Lan, khiến Đường Hiểu Lan cũng kinh hãi.


Hai người giao phong bằng ám khí, thế là đà chạy chậm lại, thị vệ trong cung từ bốn mặt bay ra, Lữ Tứ Nương múa kiếm dẫn đường, dắt Đường Hiểu Lan chạy tới chỗ kín đáo, lúc này cả hai đã vào ngự hoa viên ở hậu cung, vừa mớt lướt qua một hòn non bộ, đột nhiên một toán thị vệ xông ra, người ở phía trước trông rất lanh lẹ, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì nhận ra người đó là Hầu Tam Biến. Chợt thấy Hầu Tam Biến phóng ra một mũi hưởng tiễn, Đường Hiểu Lan thất kinh, thầm nhủ: “Hầu Tam Biến là bằng hữu của Châu Thanh, sao lại không nương tay với mình như thế?” mũi hưởng tiễn lướt qua đầu Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương phóng người lên, chạy về nơi mũi hưởng tiễn rơi xuống, Đường Hiểu Lan giật mình, chạy sát theo Lữ Tứ Nương, Hầu Tam Biến chạy vọt ra phía trước đuổi theo, liên tục phóng ra mấy mũi hưởng tiễn, có lúc bay về phía bên trái, có lúc bắn về bên phải, Lữ Tứ Nương cứ chạy về phía trước theo mũi hưởng tiễn, tự như mũi hưởng tiễn này chỉ đường cho nàng, lúc này bọn vệ sĩ đã lọt ở phía sau, còn nàng chạy vào khu cây cối um tùm, chẳng có ai cản trở!


Hưởng tiễn vừa hát, Lữ Tứ Nương chợt ngừng bước, cười nói: “Lãnh Thiền quả nhiên có cách hay!” trong bụi hoa chợt có một người phóng ra, nắm lấy Đường Hiểu Lan, nói: “Ngươi cũng đến!” Đường Hiểu Lan nhìn lại, thì ra đó là một nhà sư, chàng chưng hửng, chợt nhận ra rằng đây chính là Chúc Gia Thụ, người đã từng giao thủ với mình trong cung ngày trước. Lãnh Thiền kéo một cái, sử dụng tuyệt chiêu Cầm Nã thủ, xương tỳ bà của Đường Hiểu Lan bị ba ngón tay ông ta bóp vào, chàng nhúch nhích chẳng được. Lữ Tứ Nương vội nói: “Là người của chúng ta”. Lãnh Thiền ngạc nhiên nói: “Y chẳng phải là thị vệ trong cung sao?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Y là con trai của Hải Đường!” Lãnh Thiền rùng mình, vội vàng buông ra, dắt hai người Đường Lữ vào một cái hang. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan chỉ thấy hai mắt ông ta sáng ngời, cứ nhìn chằm chằm mình. Lữ Tứ Nương nói: “Hiểu Lan, ông ta là bằng hữu của bá mẫu”. Đường Hiểu Lan xốn xang trong lòng, nước mắt tuôn trào. Lãnh Thiền nói: “Ngươi có gặp mẹ của ngươi không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đã gặp!” Lãnh Thiền nói: “Ngươi dắt ta vào lãnh cung tìm bà ấy!” Đường Hiểu Lan nghẹn ngào nói: “Ông không cần tìm nữa! Mẹ tôi đã chết từ lâu!”


Lãnh Thiền ngẩng người, chợt thấy lạnh mình, ông ta đã đợi hơn ba mươi năm, đã làm hòa thượng mà vẫn chưa quên tình yêu, không ngờ đến nay ý trung nhân đã chết.


Lãnh Thiền nghe thế, chẳng nói nửa lời. Lữ Tứ Nương nói: “Việc chúng ta đã xong, hãy ra ngoài đi thôi”. Lãnh Thiền đau đớn vô cùng, hỏi Đường Hiểu Lan: “Chết lúc nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Chết trong đêm ông vào cung”. Lãnh Thiền mặt xám mét, chợt bên ngoài cái hang có một bóng người lướt vào, Hầu Tam Biến bước vào, cười nói: “May mà bọn thị vệ của Dận Trinh vẫn chưa quen đường lối trong cung, nếu không các người chẳng chạy thoát”. Chợt thấy Lãnh Thiền có vẻ khác lạ, y mới hỏi: “Chúc đại ca, làm sao thế?” Lãnh Thiền nói: “Hải Đường đã chết!” Hầu Tam Biến nói: “Hải Đường đã chết? Chả trách nào lãnh cung đã bị đóng cửa, tôi tưởng bà ta đã bị đưa đến nơi nào khác”. Lãnh Thiền chợt nói: “Hải Đường tuy chết nhưng tôi cũng muốn vào lãnh cung xem thử nơi mà bà ta đã sống hơn hai mươi năm nay”. Hầu Tam Biến lặng lẽ không nói. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan trào nước mắt, nói: “Tôi cũng muốn đi một lần nữa”. Hầu Tam Biến nghĩ ngợi một hồi, thở dài nói: “Một triều thiên tử một triều thần, sau này tôi cũng không muốn ở trong cung nữa, tôi sẽ dắt các người đi một chuyến”.


Rất lâu sau, bên ngoài yên tĩnh, Hầu Tam Biến dắt bọn Lãnh Thiền theo đường nhỏ đến lãnh cung, tuy đôi lúc có người tra hỏi nhưng chẳng phải là người của Dận Trinh, Hầu Tam Biến chỉ cần nói ám ngữ là đi qua được. Đi một hồi, lại đến một hồ sen, nước trong hồ lấp lánh ánh sáng bạc, Hầu Tam Biến nói: “Gian nhà đá ở bên hồ sen chính là lãnh cung”. Đến trước lãnh cung, chợt thấy cánh cửa đá khép hờ, Hầu Tam Biến rất ngạc nhiên, Lãnh Thiền chạy tới phía trước, đẩy cửa bước vào, chợt nghe có người hỏi: “Ai đấy?”.


Té ra đó là hai cung nữ vào quét dọn. Lãnh Thiền hơi ngạc nhiên, hình như ông ta đã gặp hai cung nữ này ở đâu. Ông ta xông tới hỏi: “Các người có biết Hải Đường không?” hai cung nữ ấy hoảng hồn, nói: “Hòa thượng nhà ông vào đây làm gì thế?” Hầu Tam Biến bước tới, nói: “Y là người dắt đường cho Hoàng thượng, sao các ngươi không đáp lời?” Liễu Ân hòa thượng theo Dận Trinh vào cung, việc đó đã đồn ầm trong cung, hai cung nữ này tưởng Lãnh Thiền là “Bảo Quốc thiền sư”, sợ đến nỗi tái mặt, Lãnh Thiền quát: “Nói mau!” một người mới trả lời: “Hải Đường đã chết, chính tôi đã khiêng bà ta ra khỏi chỗ này!”


Ánh mắt Lãnh Thiền chợt hiện lên tia nhìn kỳ dị, ông ta đau đớn vặn tay, chợt hỏi: “Có phải khiêng ra bằng giường tre không?” cung nữ đáp: “Đúng vậy!” Lãnh Thiền đứng sửng ra, chợt nhớ lại chuyện lúc trước, bốn cung nữ khiêng một cái giường tre, trên giường có một người đàn bà bệnh hoạn đắp vải trắng, đầu tóc bạc phơ, sắc mặt rất đáng sợ, móng tay trông như vuốt gà. Chả lẽ trong đêm hôm ấy, người đàn bà xấu xí chính là nàng Hải Đường đẹp như tiên năm xưa hay sao? Nhìn kỹ lại, hai cung nữ này chính là hai người mà y đã gặp lúc đó. Vậy người đàn bà sắp chết kia chắc chắn là Hải Đường. Trong khoảng sát na, muôn vàn suy nghĩ đã dâng trào chợt trầm lắng xuống, Lãnh Thiền vừa trải qua một khoảnh khắc chưa từng có.


Hầu Tam Biến thấy Lãnh Thiền đứng sửng ra như pho tượng đá, mắt như đứng tròng, chỉ tưởng rằng ông ta đau đớn quá hóa điên, vội vàng kéo ông ta nói: “Chúc đại ca, hãy nên nhìn thoáng một chút”. Lãnh Thiền chợt cười ha hả: “Giải thoát khỏi cái túi gia thối tha, trả lại tướng trang nghiêm. Túi gia thối tha và tướng trang nghiêm vốn cùng một vật. Sắc tức là không, không tức là sắc, lúc này ta mới hiểu”.


Hầu Tam Biến thấy ông ta nói năng lung tung, lòng lo như lửa đốt, đang định tìm lời khuyên giải. Lữ Tứ Nương mỉm cười, chắp tay nói: “Chúc mừng đại sư đã hiểu ra thiên lý, từ rày Linh Sơn sẽ bằng phẳng!” Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, Lữ Tứ Nương nói: “Các người đừng quấy rối ông ta, ông ta đã hiểu ra mọi thứ”.


Lữ Tứ Nương cũng có nghiên cứu sâu sắc về kinh Phật. “Nhiên Đăng lục” có kể một câu chuyện, một cao tăng hỏi Phật Nhiên Đăng rằng: “Cổ Phật tâm là gì?” Phật Nhiên Đăng đáp rằng: “của cải tịnh châu nặng ba cân”. Và hỏi: “Đạo là gì?” Nhiên Đăng liền miệng nói: “Thiên cẩu quyết, thiên cẩu quyết!” khi hỏi lại, Nhiên Đăng lại giơ ngón tay nói: “Không thể nói không thể nói”. Đoạn “ngữ lục” này chính là Diệu đế đại thừa trong kinh Phật, có nghĩa là chân lý có khắp mọi nơi, trong những sự vật nhơ nhuốc nhất cũng sẽ thấy được thứ trang nghiêm nhất. Nhơ nhuốc và trang nghiêm vốn đối lập nhau, nhưng trong nhơ nhuốc vẫn ươm mầm giống mới, cũng giống như thế giới mới thoát thai từ thế giới cũ. Lãnh Thiền nhớ đến nàng Hải Đường xinh đẹp năm xưa, đến khi chết lại trở nên xấu xí như thế, lúc đầu không khỏi đau đớn muôn phần, nhưng tình cảm mau chóng tịnh hóa thăng hoa, đột nhiên thần trí sáng suốt.


Hai cung nữ thấy y tựa như điên dại, bộ dạng của Lãnh Thiền cũng không giống như Liễu Ân mà bọn thái giám đã tả, vì thế mới cẩn thận hỏi: “Các người có biết Vương đội trưởng không? Y sắp đến đây, chúng tôi còn phải quét dọn!”


Hầu Tam Biến nói: “Vương đội trưởng nào?” cung nữ đáp có vẻ nghi hoặc: “Nghe nói tên là Vương Lăng, các người đều là người theo Thánh thượng, chả lẽ không biết nhau?” Đường Hiểu Lan vừa kinh vừa mừng, thầm nhủ: “Đi mòn gót sắt mà chẳng thấy, kiếm được chẳng mất công phu”. Vội đáp: “Quen, quen chứ! Y là bằng hữu thân nhất của tôi, y sống ở đây à?” cung nữ trả lời: “Trời vừa sáng sẽ dọn tới, nên các tổng quản sai chúng tôi quét dọn nguyên đêm”. Đường Hiểu Lan nói: “Tốt lắm, chúng tôi đợi y ở đây” rồi đẩy cửa bước vào.


Bọn Hầu Tam Biến theo vào, Hầu Tam Biến nhìn sắc trời, khẽ nói: “Trời sắp sáng, các người chưa ra sao?” Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy Đường Hiểu Lan có vẻ khác lạ, hỏi: “Vương Lăng là ai? Đợi chờ y làm gì, đến khi trời sáng rất khó ra”. Đường Hiểu Lan nói: “Y là sư huynh của tôi”. Rồi kể chuyện Vương Lăng phản thầy, đoạt sư tẩu. Lữ Tứ Nương vốn đã nghe chàng kể chuyện, có điều không nhớ Vương Lăng, nghe chàng nói thế mới cười rằng: “Té ra là thế, chúng ta phải ở lại trong cung thêm một ngày nữa”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Trên đời có hạng tiểu nhân đê tiện như thế, họ Hầu này cũng không tha cho y”. Lãnh Thiền thì im lặng không nói, đi đi lại lại trong phòng, cầm cây dao cầm ở góc phòng lên, búng mấy tiếng, Đường Hiểu Lan nhớ lại chuyện xưa, bất giác buồn bã. Cung nữ bước vào nói: “Ồ, ở đây còn có một cây đàn cũ, ném đi thôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Không cần, để ta mang ra ngoài cũng được”. Một hồi sau, sắc trời dần sáng. Bên ngoài có tiếng bước chân, Vương Lăng và hai tên thị vệ bước vào. Té ra y đã là một đội trưởng thị vệ nhỏ dưới trướng của Dận Trinh, Dận Trinh lên ngôi, y cũng theo vào cung. Lúc này Cáp Bố Đà cũng được thăng làm tổng quản thị vệ, Cáp Bố Đà biết võ công của Vương Lăng cũng bình thường, vì thế sắp xếp cho y làm một chức nhỏ, bảo y canh giữ ở một góc ngự hoa viên, cho y ở trong lãnh cung. Vương Lăng được phân vào ở trong cung điện, mặc cho có phải là lãnh cung hay không, trong lòng cũng rất đắc ý, vì thế mới sáng sớm đã đem hành lý tới, ngoài ra còn dắt theo hai tên thị vệ thuộc hạ.


Vương Lăng vừa bước vào lãnh cung đã ngửi thấy mùi ẩm mốc, y nhíu mày quát cung nữ: “Sao chưa quét sạch sẽ?” lại nói: “Vách tường này phải sơn lại một lượt”. Đang ra oai làm phúc, trong phòng chợt một người xông ra, Vương Lăng và hai tên thị vệ đã kêu thảm ngã xuống đất. Chỉ nghe Đường Hiểu Lan cười lạnh: “Vương thị vệ, lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ? Giờ đây ngươi đắc ý, có còn nhận ra ta không?”.


Vương Lăng bị Đường Hiểu Lan dùng thủ pháp chớp nhoáng điểm ngã, sợ đến nỗi hồn bay phách tán, lúng túng nói: “Đường sư đệ, ngươi... ngươi...” Đường Hiểu Lan co chân đạp lên be sườn y, quát hỏi: “Phùng sư tẩu đâu?” Vương Lăng nói: “Không có ở đây”. Đường Hiểu Lan nói: “Có phải ngươi đã hại sư tẩu?” Vương Lăng nói: “Ngu huynh không dám”. Đường Hiểu Lan quát nói: “Ai xưng huynh gọi đệ với ngươi? Nói mau, sư tẩu ở đâu?” Vương Lăng nói: “Ta cũng không biết nàng ở đâu”. Đường Hiểu Lan cả giận, mũi chân hơi dùng lực, Vương Lăng đã đau đến nỗi chết đi sống lại, kêu: “Nàng đã thoát từ lâu!” Đường Hiểu Lan không tin, lại dùng lực đạp thêm một cái, Vương Lăng kêu thảm ngất đi. Hai ả cung nữ mặt tái mét đứng co rúm ở một góc. Lữ Tứ Nương nhảy ra, kéo họ vào trong phòng, mỉm cười nói: “Không cần dọa bọn chúng”.


Một hồi sau, Vương Lăng dần dần tỉnh dậy, Đường Hiểu Lan quát hỏi: “Ngươi còn không nói thực?”


Vương Lăng rên rỉ: “Nàng thực sự đã bỏ đi, ngươi có đánh chết ta ta cũng không biết nàng đi đâu”. Đường Hiểu Lan thấy y đau đến nỗi chết đi sống lại, thầm nhủ: “Sư tẩu võ công cao hơn y, có lẽ đã thực sự chạy thoát”. Rồi lại hỏi: “Chạy lúc nào?” Vương Lăng nói: “Vào kinh được ba ngày thì đã chạy”.


Đường Hiểu Lan đoán không sai, Quảng Luyện Hà vì võ công cao hơn Vương Lăng, may mà thoát khỏi miệng cọp, té ra năm ấy Quảng Luyện Hà bị Song ma bắt lại, trao cho Vương Lăng, Vương Lăng buộc nàng thành than, nàng bảo rằng: “Phải để tang cho cha và chồng, chưa đầy một trăm ngày không thể thành thân”. Vương Lăng có võ công không bằng nàng, không gần nàng được, sau khi đến kinh thành, hai tên ma đầu vào Vương Phủ, không còn gần gũi với Vương Lăng nữa. Trên đường Quảng Luyện Hà không dám bỏ chạy là vì sợ Song ma, nay Song ma đã đi, Vương Lăng chẳng phải là đối thủ của nàng, bị nàng đánh cho một trận rồi bỏ đi.


Hầu Tam Biến bước ra, nhíu mày: “Hỏi xong chưa? Trời sắp sáng rồi!”. Đường Hiểu Lan ngửa mặt cười thảm, kêu: “Phùng sư ca, hôm nay đệ báo thù cho huynh!” Rồi vỗ xuống một chưởng, đánh vỡ tim bên trái của Vương Lăng.


Hầu Tam Biến nói: “Chạy mau, coi chừng không kịp nữa!” Lúc này trời vừa sáng, tuyết vẫn chưa tan, ngoài vườn có tiếng tù và kêu lên tu tu, Hầu Tam Biến nói: “Tân tổng quản thật là vất vả, trời chưa sáng đã triệu tập thị vệ!” Rồi chạy ra khỏi lãnh cung, dắt theo bọn Lữ Tứ Nương.


Cáp Bố Đà trở thành tổng quản thị vệ trong cung, mới ngày đầu tiên mà chuyện lớn đã xảy ra, trong lòng rất bực dọc. Vì thế mới sáng sớm đã triệu tập thị vệ, chuẩn bị bỏ người cũ thay người mới. Vừa mới ra hoa viên, chợt thấy mấy bóng người chạy về góc Tây bắc, kẻ đi đầu là Lữ Tứ Nương. Cáp Bố Đà cả giận, thầm nhủ: “Ả tiện tì này thật lớn gan, dám qua đêm trong cung!”. Thế rồi vung hai tay lên, hai trái cầu tròn xé gió bay ra, Lữ Tứ Nương cười nói: “Huyết Trích Tử có thể làm gì được ta!” rồi phóng vọt người lên, cây Sương Hoa kiếm hất lên, ánh hào quang lướt tới, chém đứt Huyết Trích Tử, mười hai mũi khoái đao bên trong bắn ra bốn hướng, Hầu Tam Biến cũng bắt chước theo nàng, quét vù một gậy, đánh rơi trái Huyết Trích Tử vào trong đám thị vệ, một thị vệ vội vàng né tránh, Cáp Bố Đà kêu lớn: “Đuổi theo mau!” bọn Lữ Tứ Nương đã vọt qua mấy hòn non bộ, chạy đến cửa Thuận Trinh.


Hầu Tam Biến thở phào, chợt nghe có tiếng quát lớn, bên trái có Đổng Cự Xuyên, bên phải có Thiên Diệp Tản Nhân dắt thị vệ phóng tới, Lữ Tứ Nương và Hầu Tam Biến nói: “Theo ta!” Bên ngoài cửa Thuận Trinh là Cảnh Sơn, có quá nửa người giữ cửa là thị vệ cũ, Hầu Tam Biến chạy tới phía trước, quát: “Có thích khách chạy ra ngoài, các người có thấy không?” Thị vệ canh cửa nói: “Không thấy!” Hầu Tam Biến nói: “Mau mở cửa để ta đuổi theo!” Bọn thị vệ mới thấy bốn người bọn họ có nhà sư có thiếu nữ thì rất nghi hoặc, quát hỏi: “Các người là ai?” Hầu Tam Biến nói: “Ngự tiền thị vệ...” trong lúc hỗn loạn cánh cửa sắt bật mở, bọn bốn người Hầu Tam Biến phóng ra. Đến khi Đổng Cự Xuyên đuổi tới, cửa sắt đã đóng trở lại. Các thị vệ cũ tra xét thân phận của y, đến khi rõ ràng thì bọn Lữ Tứ Nương đã mất dạng. Cáp Bố Đà nổi cáu nhưng cũng không thể nào trách các thị vệ cũ. Bởi vì Hầu Tam Biến đúng là ngự tiền thị vệ rất có thế trong cung trước kia, không ngờ rằng tiên đế vừa chết y đã làm phản.


Lại nói bọn Lữ Tứ Nương được Hầu Tam Biến giúp đỡ chạy ra khỏi đại nội, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, thanh kiếm của đệ đã bị Liễu Ân đoạt mất”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau này sẽ tìm y tính sổ. Chúng ta về chỗ thất ca thương lượng”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Sau lần này, các thị vệ cũ chắc chắn sẽ bị trách tội. Nhân sự trong cung có điều động, phòng bị càng ngặt nghèo hơn, chúng ta không thể mạo hiểm nữa”.


Bốn người về đến Tây Sơn, Bạch Thái Quan bước ra mở cửa cười nói: “Sao lúc này các người mới quay về, suýt nữa thất ca và Quan Đông tứ hiệp đã vào cung tìm các người...”. Lãnh Thiền cười nói: “Quan Đông tứ hiệp cũng đến rồi ư?” Rồi phóng vào trong.


Lữ Nương và Đường Hiểu Lan lần lượt chào hỏi Quan Đông tứ hiệp, Lang Nguyệt thiền sư nói: “Bốn huynh đệ chúng tôi lần này thảm bại trong tay một thiếu nữ và một lang trung giang hồ đó...”. Lãnh Thiền kinh hãi nói: “Sao? Các người đã động thủ với họ?” Trần Nguyên Bá kéo tay áo chỉ vết đao trên tay, nói: “Ả tiểu nha đầu ấy thật độc ác, nếu không phải Huyền Phong đại ca biết y thuật, tôi đã mất cánh tay này!”.


Liễu Tiên Khai nói: “Lần này chúng tôi đến Bắc Kinh, khi đi ngang qua Vinh Dương, Huyền Phong đại ca có việc, bảo chúng tôi đi trước, chúng tôi vừa đến Hổ Lao Quan thì đã gặp một tiểu nha đầu và một thiếu niên đi cùng đường”. Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nha đầu nào thế?” Trần Nguyên Bá nghiến răng nói: “Chính là tiểu nha đầu mà Dận Trinh nuôi dưỡng, lần trước đại náo tứ vương phủ, chúng tôi đã gặp ả. Bởi vậy tôi thấy ả đáng yêu mới bước tới hỏi, nào ngờ ả vung tay phóng ba mũi phi đao, khoảng cách quá gần, tôi né không kịp nên đành gồng tay lên chịu đựng. Không ngờ võ công của ả nha đầu cũng rất cao cường, mũi phi đao ở giữa đâm vạch một đường trên cánh tay của tôi, da thịt lập bức bầm đen, té ra ả sử dụng phi đao tẩm độc!” Đường Hiểu Lan kêu: “Ồ, chắc chắn đó là Phùng Lâm!” Lữ Tứ Nương lại nói: “Có phải chàng thiếu niên đi cùng ả nha đầu sử dụng kiếm pháp rất kỳ lạ hay không?” Liễu Tiên Khai nói: “Đúng thế”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy ả nha đầu không phải là Phùng Lâm, mà là đệ tử quan môn của Dịch lão tiền bối”. Đường Hiểu Lan nói: “Phùng Anh ra tay không độc địa như thế, với lại cũng không biết dùng phi đao tẩm độc. Khi tôi ở Thiên Sơn, cũng từng gặp nàng, nàng ta rất hiền lành!” Lữ Tứ Nương rất ngạc nhiên, hỏi: “Nghe nói điệt nữ của đệ là tỉ muội song sinh, ắt hẳn rất giống nhau?” Đường Hiểu Lan nói: “Cả đệ cũng không phân biệt được”. Lữ Tứ Nương nói: “Phải rồi, chắc chắn Lý Trị đã nghĩ cô em là cô chị!” Liễu Tiên Khai nói: “Lý Trị là ai?” Lữ Tứ Nương nói: “Là con trai của Võ Quỳnh Giao trong Thiên Sơn thất kiếm”. Liễu Tiên Khai kêu ối cha một tiếng, nói: “Sao lại thế? Tôi đã giao thủ với y, tôi trúng một kiếm, y cũng trúng một vòng kim hoàn. Nếu Võ lão tiền bối mà biết chắc sẽ trách cứ đây!” Đường Hiểu Lan nói: “Võ lão tiền bối đã tu luyện đến mức lư hỏa thuần thanh, chắc là sẽ không giận”. Lữ Tứ Nương nói: “Liễu đại hiệp, các người hãy kể chuyện trước rồi tôi sẽ cho biết lai lịch cô ả nha đầu ấy”.


Liễu Tiên Khai nói: “Sau khi tứ đệ trúng phi đao tẩm độc của tiểu nha đầu, tôi động thủ với thiếu niên, cả hai đều bị thương, ả nha đầu còn muốn đuổi theo, may mà tôi giỏi khinh công mới cứu được tứ đệ. Chuyện sau đó, Huyền Phong đại ca sẽ nói...”


Huyền Phong nói: “Tôi để họ đi trước một đoạn, nào ngờ lại xảy ra chuyện, họ quay trở về gặp tôi, lúc đó tôi nổi cáu phải tìm cho bằng được ả nha đầu. Tôi nghĩ thiếu niên ấy đã bị thương, ắt hẳn không thể chạy xa được. Tôi băng bó vết thương cho tam đệ và tứ đệ liền đến vùng núi gần Hổ Lao quan tìm khắp, cho đến tối mới phát hiện thiếu niên nhưng chẳng thấy tiểu nha đầu đâu cả. Đột nhiên một tên lang trung giang hồ quái dị xuất hiện, thật không ngờ!” Lãnh Thiền thầm cười: “Những kẻ đã uy danh như Quan Đông tứ hiệp mà bại trong tay ả tiểu nha đầu ấy, chả trách nào Huyền Phong không tức giận. Nhưng gặp phải sư phụ của mình mà còn làm dữ, trách ai được”. Nhưng ông ta không nói ra, chỉ mỉm cười bảo: “Huyền Phong đạo trưởng, thật không ngờ thế nào?”.


Huyền Phong nói: “Thiếu niên đã gặp chúng tôi, khẽ nói mấy câu với lão lang trung. Lão lang trung ấy nổi giận, không đợi chúng tôi lên tiếng đã vung gậy đánh tới, chao ôi, đánh một hồi chúng tôi bỏ chạy”.


Lãnh Thiền mỉm cười, biết trong Quan Đông tứ hiệp, Huyền Phong lớn tuổi nhất, bản lĩnh cao cường nhất nhưng cũng là kẻ háo thắng nhất, liền nói: “Huyền Phong đạo trưởng đừng nổi giận, thua trong tay lang trung ấy có là gì”. Huyền Phong nổi sùng nói: “Ông còn nói, tôi thấy thủ pháp của lão và ông rất giống nhau, chắc là cùng một môn hộ!” Lãnh Thiền cười: “Đâu chỉ là cùng môn hộ, ông ta là sư phụ của tôi, và lão tiền bối ở Thiên Sơn chính là tỷ tỷ của người, người đã đắc tội với các vị, kẻ làm đồ đệ này xin lỗi các vị”. Huyền Phong cả kinh, chẳng nói ra lời. Lãnh Thiền nói: “Đã ba mươi năm qua người không đến Trung Nguyên nên không biết các vị, mong đạo trưởng đừng giận”. Huyền Phong cười ha hả: “Nếu đã là ông ta, chúng tôi thua cũng chẳng còn lời gì mà nói”. Lăng Nguyệt thiền sư nói: “Đại sư hình như không lớn tuổi hơn ông ta bao nhiêu”. Lãnh Thiền nói: “Đến tuổi trung niên tôi mới theo thầy học nghệ”. Cam Phụng Trì lại bảo: “Đáng tiếc ả tiểu nha đầu lại biến mất, các vị động thủ với Võ lão tiền bối mà ả vẫn không xuất hiện sao?” Huyền Phong bảo: “Không”.


Số là sau khi Phùng Lâm được Niên Canh Nghiêu thả đi, một lòng muốn học nội công chính tông, đêm ấy giả thần giả quỷ, dụ Lý Trị đi ra, Lý Trị thấy nàng rất vui. Phùng Lâm nói: “Cựu cựu của ngươi có việc lên Nam Sơn trước, bảo chúng ta đuổi theo”. Võ Quỳnh Giao vốn đã nhờ em trai âm thầm lo lắng cho con mình, nên trước khi đấu với Liễu Ân ở Hàng Châu, Võ Thành Hóa đều không gặp mặt. Phùng Lâm nói đùa một hồi mà lại trúng. Lý Trị nghĩ thầm: “Chắc là mẹ và cựu cựu muốn mình lăn lộn giang hồ nên cựu cựu không đi cùng với mình”. Rồi lại nghĩ: “Phùng Anh rất quen thân với cựu cựu, ắt hẳn sẽ không lừa mình”. Vì thế mới yên tâm theo Phùng Lâm rời khỏi Hàng Châu.


Trên suốt quãng đường Phùng Lâm nghĩ đủ mọi cách hỏi chàng bí quyết nội công, Lý Trị chỉ tưởng đó là Phùng Anh nên không hề cảnh giác, nói hết mọi thứ mà mình biết. Phùng Lâm chẳng ghét cũng chẳng thương Lý Trị, đi cùng với chàng chỉ có mục đích là lừa chàng truyền thụ tâm pháp nội công, nay mục đích đã đạt nên mới nghĩ cách bỏ chàng.


Thật trùng hợp, khi họ sắp đến Nam Sơn, thì gặp Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá ở Hổ Lao quan, Phùng Lâm dùng phi đao tẩm độc đả thương Trần Nguyên Bá, Lý Trị cũng đâm Liễu Tiên Khai một kiếm, nhưng Liễu Tiên Khai khinh công cao cường, Lý Trị cũng trúng một đòn của ông ta vào chỗ yếu hại, lập tức bị trọng thương. Phùng Lâm đỡ chàng đến chỗ rừng rậm, để lại một túi thuốc giải rồi lặng lẽ bỏ đi.


May mà Võ Thành Hóa đuổi theo sau, đến bìa rừng nghe Lý Trị rên rĩ, bước vào xem, thấy chàng trọng thương mới mở bao thuốc giải ra xem, thì thấy toàn là những thứ thuốc quý mới lập tức bôi cho chàng, đến khi hỏi ra mọi lẽ thì thấy rất lấy làm lạ. Ông ta nói: “Linh dược của Thiên Sơn tuy nhiều, nhưng Diệp lão tiền bối không có loại thuốc giải này”. Ông ta không biết rằng đó là thuốc Phùng Lâm lấy trong phủ Dận Trinh. Lý Trị cũng nổi lòng nghi ngờ, cả hai cậu cháu chưa kịp nói rõ, Quan Đông tứ hiệp đã nhất tề kéo tới.


Số là Quan Đông tứ hiệp mỗi người đều có võ công độc môn, nếu lấy một địch bốn, Võ Thành Hóa chắc không bại nhưng cũng chẳng chiếm được phần hơn, nhưng Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá đã bị thương, mà Lý Trị sau khi được bôi thuốc giải, cánh tay đã vận động tự nhiên, cả hai cậu cháu liên thủ, đã đánh Quan Đông tứ hiệp đại bại, may mà họ không đuổi theo.


Quan Đông tứ hiệp kể xong, Lữ Tứ Nương cũng nói ra lai lịch của Lý Trị và Phùng Lâm, ai nấy đều than thở. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thề sẽ tìm lại điệt nữ, nay mới biết tung tích của nó, tôi phải đi Hà Nam một chuyến”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi một hồi, nói: “Đệ hãy trở về chỗ Dận Đề trước. Huynh đoán Dận Trinh lên ngôi, chắc chắn không để Dận Đề ở lại kinh thành, nếu y cầm quân đánh phía Tây, chắc chắn sẽ đi qua Hà Nam. Đệ đến nơi hãy tùy cơ ứng biến, xúi dục huynh đệ bọn chúng đánh một trận. Dù không thành cũng lôi kéo được người Hán trong quân”. Ngập ngừng rồi lại nói: “Lẽ ra chúng ta phải tụ tập nghĩa quân, dựng cờ nghĩa. Nhưng đệ đã mất rất nhiều tâm huyết mới lấy được lòng tin của Dận Đề, bỏ qua cơ hội này thật đáng tiếc”. Lữ Tứ Nương đảo mắt, đang định lên tiếng, Cam Phụng Trì đã nói tiếp: “Bát muội sợ Đường hiền đệ một mình vào chốn nguy hiểm, nhưng trong quân của Dận Đề cũng có các huynh đệ. Vả lại, sau khi chúng ta biết được chính xác ngày giờ Dận Đề xuất phát, chúng ta phải chia thành từng tốp đến Hà Nam”. Lữ Tứ Nương nghĩ bụng rồi lại nói: “Cũng được, chúng ta lên Nam Sơn tảo mộ sư phụ, xong xuôi rồi trở về Tiên Hà lĩnh”.


Cam Phụng Trì đã đoán trúng ý nghĩ của Dận Trinh, y quả nhiên không để Dận Đề ở lâu trong kinh thành. Đêm ấy sau khi biết Dận Trinh lên ngôi, Dận Đề rất tức giận, suốt đêm quay lại chỗ đóng quân, không ngờ Niên Canh Nghiêu đã dùng thủ đoạn như sấm chớp tước đoạt binh quyền của y. Té ra Niên Canh Nghiêu vừa đến đã triệu tập các võ quan của hai mươi bốn doanh trong quân Dận Đề đến, tuyên bố Dận Trinh nối ngôi, bảo phải trung thành với bọn họ. Các tướng lĩnh này tuy là tâm phúc của Dận Đề, mong muốn Dận Đề lên nối ngôi nhưng vừa nghe nói Dận Trinh đã ngồi lên ngai vàng, quá nửa đã đổi lòng, bọn chúng chỉ cần giữ công danh lợi lộc của mình là đủ, lại còn có kẻ đã manh nha phản bội. Đến chiều hôm ấy, chiếu chỉ đổi niên hiệu thành Ung Chính đã ban ra, cả các võ quan ở Phi Long quân, các quân đáng tin cậy nhất của Dận Đề cũng dao động.


Dận Đề trở về trong quân, suốt đêm triệu tập các tướng lĩnh tâm phúc bàn bạc, trong mười hai viên thống lĩnh của quân Phi Long có đến bảy người không tán thành đối chọi với Niên Canh Nghiêu, phó thủ của Dận Đề là Bác Khắc Đồ cũng nói: “Tứ bối lạc đã lên ngôi báu, Niên Canh Nghiêu thay mặt thiên tử ra lệnh cho chư hầu, nếu chúng ta muốn trừ y, chỉ e lòng quân không nghe”. Dận Đề im lặng không nói, thầm nhủ: “Các tướng lĩnh thân tính nhất mà cũng nói như thế, chắc chắn là chẳng thể bàn được với các doanh khác”. Rồi lại nghĩ: “Ở lại núi xanh sợ gì không có củi đốt, Niên Canh Nghiêu dù lớn mạnh hơn nữa nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng của mình, binh quyền vẫn còn trong tay mình, mình có thể tạm thời nhẫn nhịn, sau này xuất chinh Tây vực, có thể dùng kế mượn đao giết người, đẩy cánh quân của Niên Canh Nghiêu đi tiên phong, để cho kẻ địch tiêu diệt y. Lúc đó đã cách kinh thành ngàn dặm, dù mình không thể đoạt ngôi báu nhưng cũng có thể tự củng cố, làm vua ở Tây vực, chẳng còn bị Dận Trinh bức hiếp”. Thế là ý vua đã quyết, liền bảo: “Nếu như thế, cứ để tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu làm phó tướng, nhưng chúng ta phải phòng bị y”. Các tướng lĩnh quay ra, Dận Trinh lại cùng Bác Khắc Đồ bàn bạc, Bác Khắc Đồ cũng tán thành. Sáng sớm hôm sau Dận Đề lập tức dâng sớ xin được Tây chinh. Rồi mới gởi sớ đi, trung quân báo Đường Hiểu Lan xin gặp. Dận Đề cả mừng, truyền chàng vào trướng, nói: “Hoạn nạn mới thấy lòng người, khi ta thất thế chỉ có ngươi mới giúp ta. Ta chắc chắn không đối xử tệ với ngươi”. Rồi lại hỏi Đường Hiểu Lan làm sao thoát được, Đường Hiểu Lan nói: “Đêm qua trong đại nội có thích khách, tiểu nhân thừa lúc hỗn loạn chạy ra ngoài”. Dận Trinh đoán những thích khách ấy là do các bối lạc khác phái đến, thế là liền thăng Đường Hiểu Lan làm phó tổng binh quan của cận vệ quân, xếp ngang hàng với Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh.


Dận Trinh nhận được tấu sớ, trong bụng rất mừng, liền truyền thánh chỉ bảo Dận Đề sang năm mới sẽ lập tức cầm quân đánh Tây vực. Đồng thời từ đó y lại nghĩ cách xử trí bọn người Liễu Ân, điều Liễu Ân, Tát Thiên Thích, Tát Thiên Đô, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long đến chỗ Niên Canh Nghiêu, bảo họ giúp Niên Canh Nghiêu Tây chinh, rồi âm thầm cho gọi Niên Canh Nghiêu, bảo rằng: “Trong số năm tên này ngoại trừ Đổng Cự Xuyên hiểu đại thể ra, bốn người kia đều là kẻ dã tính khó thuần, sau khi Tây chinh, nếu bốn tên này chưa chết ngươi hãy trừ bọn chúng cho trẫm”. Niên Canh Nghiêu lạnh mình, nổi da gà, nhưng nghĩ kỹ lại, cảm thấy Dận Trinh tin tưởng mình, y vừa tin vừa mừng, vội vàng dập đầu nhận chỉ. Y không ngờ rằng, mặt khác, y cũng căn dặn năm người này canh chừng Niên Canh Nghiêu. Đó là thủ pháp chế ngự các công thần của Dận Trinh.


Chớp mắt năm mới đã đến, Dận Đề dùng danh nghĩa Phủ viễn đại tướng quân, cầm quân Tây chinh, Niên Canh Nghiêu là Phó đại tướng quân, được thăng lên làm ba cấp, Dận Trinh lại phái năm vạn tinh binh cho Niên Canh Nghiêu nắm giữ, nên Niên Canh Nghiêu tuy làm phó tướng nhưng thực lực lại ngang bằng với Dận Đề, đôi bên phải đề phòng lẫn nhau.


Một tháng sau, đại quân đã đến trấn Chu Tiên tỉnh Hà Nam, cách quê hương Trần Lưu của Niên Canh Nghiêu không đầy một ngày đường, Niên Canh Nghiêu hạ lệnh cho đại quân nghỉ ngơi ba ngày. Hôm nay, Đường Hiểu Lan cùng vài võ quan trong cận vệ quân đến trấn uống rượu, đứng trên lầu cao nhìn về phía Bắc thấy Khai Phong, nhìn về phía Nam thấy Hứa Xương, tình thế quả nhiên hiểm yếu, nhớ lại đây chính là nơi năm xưa Nhạc Võ Mục đại phá quân Kim, lòng cảm khái muôn phần, thầm nghĩ Mãn Châu nhập quan, tàn bạo còn hơn cả năm xưa quân Kim chiếm Tống, lòng nghĩ mình lấy thân phận người Mãn dự vào việc phục quốc của người Hán, chàng thật không ngờ đến điều này. Đang suy nghĩ mông lung, chợt thấy dưới lầu ồn ào.


Đường Hiểu Lan bước xuống lầu xem, thì thấy có đám dân ùa nhau chạy trốn, Đường Hiểu Lan kéo một người hỏi: “Chuyện gì?” Người ấy thấy Đường Hiểu Lan ăn mặc theo kiểu võ quan, nói: “Đại nhân thứ tội, tiểu nhân sống theo vương pháp, không phải là kẻ xấu”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo gì thế?” người ấy thấy Đường Hiểu Lan ra vẻ thân thiện, y yên tâm nói: “Bên ngoài trấn có một toán quân, nghe nói là đến bắt tù phạm”. Đường Hiểu Lan buông tay, thầm nhủ: “Thật là lạ, đang lúc hành quân sao lại bắt tù phạm? Dận Đề và Niên Canh Nghiêu xưa nay trị quân rất nghiêm, không thể bảo có chuyện xua quân đi quấy rối, với lại đại quân đóng ở ngoài trấn, ngoại trừ các võ quan, binh sĩ không được vào thành, toán quân này ở đâu tới đây?” Chàng đang suy nghĩ, thấy phía trước bụi cuốn mù trời, người càng lúc càng đông, Đường Hiểu Lan cũng bị dòng người đẩy đi mấy bước, đột nhiên bị người ta đẩy mạnh một cái, Đường Hiểu Lan luyện võ nhiều năm, bị người ta đẩy một cái, chợt cảm thấy khác lạ, thế là chàng sờ vào người, túi tiền, bảo kiếm và mảnh Hán bạch ngọc của Khang Hy đã không còn nữa. Túi tiền thì không sao còn thanh kiếm là do Dận Đề tặng cho, phải lấy về cho bằng được, thế là chàng vung hai tay, lướt ra khỏi đám người, chỉ thấy phía trước có một người trừng mắt nhìn mình, cây kiếm của mình thì đeo bên hông của y, mảnh kháng bạch ngọc đang trong tay của y. Đường Hiểu Lan nổi cáu, co giò đuổi theo, thật là kỳ lạ, người ấy không lẫn vào đám đông mà cứ chọn những chỗ ít người lẫn vào, Đường Hiểu Lan nổi lòng nghi ngờ, đuổi sát theo sau.


Người ấy càng chạy càng nhanh, vả lại còn ngược hướng với chỗ đóng quân, Đường Hiểu Lan phấn chấn tinh thần, thi triển khinh công thượng thừa đuổi theo như điện chớp, càng chạy càng xa. Đường Hiểu Lan dốc hết bản lĩnh mà chẳng đuổi theo kịp, Đường Hiểu Lan rất kinh hãi. Khing công của chàng tuy không bằng Lữ Tứ Nương nhưng cũng hiếm thấy trong giang hồ, thế nhưng khinh công của người này còn cao hơn cả Đường Hiểu Lan, xem ra chẳng kém gì Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai, rõ ràng đây không phải là kẻ trộm bình thường.


Đường Hiểu Lan giật mình, cố y chậm bước, người ấy hình như có mắt sau lưng, bước chân cũng chậm lại, Đường Hiểu Lan kêu lên: “Bằng hữu ở trước mặt, chúng ta không quen biết nhau, cớ gì lại trêu đùa như thế?” người ấy quay lại làm mặt xấu, nói: “Thanh kiếm vô dụng này đáng mấy đồng tiền, mảnh ngọc cũng chỉ có vài ba lạng bạc!” Đường Hiểu Lan chợt tung người vọt tới, chụp lấy y, người ấy kêu lên: “Ôi chao, không xong!” rồi hít ra một cái, lướt ra mấy trượng, cười nói: “Còn may, không thất thủ!” Đường Hiểu Lan chụp mấy viên sỏi, dùng thủ pháp Liên châu đạn ném về phía y. Vì chàng chưa biết lai lịch của y, nên không cố ý đánh y, chỉ dùng mấy phần lực, cố ý ném viên đá cách đỉnh đầu y mấy tấc, mục đích chỉ là muốn dọa y, thế nhưng người ấy đột nhiên tung người lên, viên sỏi trúng vào ót của y kêu lên bốp bốp lăn ra, người ấy ôm đầu kêu: “Tên bổ khoái này thật lợi hại! Ta sẽ chạy đây!” rồi co giò đuổi theo càng nhanh hơn.


Đường Hiểu Lan thấy rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Cao nhân như thế này không thể bỏ qua”. Kêu: “Anh hùng ở trước mặt, tôi xin cam bái hạ phong, xin mời ngừng bước nói chuyện”. Người ấy vẫn không màng đến, tiếp tục chạy về phía trước. Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Sao lại có kẻ không thông tình đạt lý đến thế?” rồi đuổi gấp theo về phía trước, chạy được một hồi đã vào khu núi.


Đường Hiểu Lan tính toán cước trình, lúc này đã cách thị trấn Chu Tiên hai ba mươi dặm, chợt nghĩ: “Chả lẽ kẻ này cố ý dụ mình đến đây?” người ấy bước chậm lại, Đường Hiểu Lan đã vào trong sơn cốc, trong sơn cốc phủ đầy tuyết, ánh ngân quang lấp lánh, trong cốc có một căn nhà cỏ, Đường Hiểu Lan dừng lại, không dám tiến bừa vào. Người ấy quay đầu lại, vung tay lên, một vật lướt qua trước mặt chàng, Đường Hiểu Lan giơ tay chụp lấy, té ra đó là thanh kiếm của chàng, người ấy lại vung cả hai tay, ném túi tiền và mảnh kháng bạch ngọc đến, đột nhiên thở dài, lắc đầu nói: “Ngươi đối với chuyện bên ngoài thì coi trọng đến thế, thế mà chẳng biết tiếc thương cho tính mạng của mình, thật đáng buồn! Nếu ngươi đã coi tiền tài quý giá như thế, ta trả lại cho ngươi để ngươi khỏi bám lấy ta như một oan hồn”. Đường Hiểu Lan nghe nói thế thì chưng hửng, nói: “Vãn bối nào dám coi trọng tiền tài, mong tiền bối chỉ điểm lối mê”. Người ấy quay đầu lại nói: “Tiền bối vãn bối cái gì, ta ghét nhất thứ lễ nghĩa ấy. Ta hỏi ngươi, nếu ngươi không quý tiền tài, chẳng qua ta chỉ lấy ba món đồ của ngươi, sao ngươi lại liều mạng đuổi theo ta làm gì”. Đường Hiểu Lan nói: “Vãn bối mạo muội muốn kết giao cùng cao nhân”. Người ấy cười ha hả: “Ngươi nói lời không đúng với lòng, tuy ta mới lấy đồ của ngươi, ngươi làm sao biết ta là cao nhân?” đúng là lúc đầu Đường Hiểu Lan cứ tưởng y là kẻ trộm, chàng cứng họng chẳng nói gì được. Người ấy nói: “Rõ ràng ngươi chẳng nỡ lòng bỏ mấy món đồ này, có đúng không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thanh kiếm là do một người bằng hữu tặng, tôi không muốn làm mất, nhưng đuổi theo mới phát hiện người là cao nhân”. Người ấy cắt lời: “Bằng hữu gì? Có phải quan trên của ngươi tặng cho hay không?” Đường Hiểu Lan chưng hửng, người ấy lại cười nói: “Ngươi sợ mất thanh kiếm, Dận Đề hỏi tới sẽ chẳng biết trả lời thế nào, có đúng không? Nếu không thanh kiếm này cũng chẳng phải là báu vật, ngày ấy Du Long kiếm của ngươi đã mất tại sao thanh kiếm này không thể mất?” Đường Hiểu Lan thấy người này biết rõ mọi chuyện của mình, chàng càng thấy cao thâm khó lường. Người ấy cười ha hả: “Người tặng kiếm cho ngươi giờ đây khó giữ thân, nào còn hỏi đến thanh kiếm của ngươi?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh, người ấy nói: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi còn chưa biết sao?” Đường Hiểu Lan giật thót tim, chẳng hiểu ất giáp gì cả, người ấy nói: “Được, nếu ngươi không tin, ta cho ngươi gặp một người!” Rồi y chúm miệng huýt một tiếng sáo, một người từ trong nhà bước ra, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì lại thất kinh!


Người này chính là Phương Kim Minh, chỉ nghe Phương Kim Minh nói: “Đường huynh, huynh không sao chứ?” Đường Hiểu Lan nói: “Phương huynh, làm sao huynh lại ở đây?” Phương Kim Minh nói: “Huynh hãy vào đây, tôi sẽ từ từ nói cho huynh biết”.


Vào trong ngôi nhà cỏ, Đường Hiểu Lan hỏi họ tên người ấy, người ấy cười ha hả, hai tay đều vươn cả ra, Đường Hiểu Lan vẫn chưa hiểu gì, khi nhìn kỹ lại mới thấy hai tay người ấy khác hẳn người thường, người bình thường mỗi bàn tay có năm ngón tay, còn y mỗi bên lại mọc thêm một ngón, hai tay có cả thảy mười hai ngón, chàng chợt hiểu ra, kêu lên: “Huynh có phải là Thập nhị chỉ diệu thủ thần thâu Trần Đức Thái hay không?” người ấy khẽ gật đầu, cười nói: “Đúng thế”.


Đường Hiểu Lan mở to mắt, càng lúc càng nghi hoặc, tất cả chuyện hôm nay tựa như một cơn mơ.


Té ra Trần Đức Thái là đại cửu của Cam Phụng Trì, cũng có tiếng tăm trên giang hồ. Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Phương Kim Minh và Xa Tịch Tà là tâm phúc của Dận Đề, tại sao Phương Kim Minh lại đi cùng với đại cửu của Cam Phụng Trì, thêm nữa trông có vẻ như bằng hữu thân thiết?” Phương Kim Minh buồn bã nói: “Hôm nay chúa công e rằng khó thoát nạn lớn!” Đường Hiểu Lan lại giật mình, Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, vậy y và Cam Phụng Trì rõ ràng không cùng một đường, nhưng tại sao lại như thế? Phương Kim Minh nói: “Nếu không phải Trần đại ca dụ huynh đến đây, e rằng mạng huynh đã khó giữ!” Trần Đức Thái đứng một bên nói: “Thế nào, ta không lừa ngươi chứ” Đường Hiểu Lan vái một cái, nói: “Đa tạ Trần đại ca đã cứu mạng, mong được nói rõ”. Trần Đức Thái nói: “Ngươi nên đa tạ Phương đại ca, nếu không có y, ta cũng không biết ngươi đang uống rượu ở ngoài trấn”.


Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Du Long kiếm của huynh đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Kiếm của tôi đã bị Liễu Ân đoạt mất, chắc là trong tay Liễu Ân”. Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Liễu Ân đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Chẳng phải ở trong cung sao?” bọn năm người của Liễu Ân ở trong trại của Niên Canh Nghiêu, quân của Niên Canh Nghiêu là một cánh khác, nên Đường Hiểu Lan không biết. Phương Kim Minh nói: “Không những Liễu Ân không có trong cung, kiếm của huynh cũng không phải trong tay Liễu Ân, hôm nay Niên Canh Nghiêu cất binh dành quyền chủ soái, thanh kiếm của huynh đã giúp cho y một tay”. Đường Hiểu Lan càng nghe càng lạ, Trần Đức Thái nói: “Liễu Ân ở trong trại Niên Canh Nghiêu, còn Du Long kiếm của huynh đã lọt vào tay Xa Tịch Tà”.


Té ra Phương Kim Minh vốn là một Bang chủ ở Giang Nam, Dận Đề chiêu nạp hiền sĩ, khoảng mười năm trước đã lôi kéo được y. Trước khi y đi theo Dận Đề, đã từng quen biết Cam Phụng Trì nên cũng gặp mặt Trần Đức Thái mấy lần.


Phương Kim Minh nói rõ lại lịch của mình cho Đường Hiểu Lan nghe, sau đó mới bảo: “Chúa công tay nắm binh quyền, Dận Trinh đương nhiên không buông tha, nhưng khi ở trong cung sợ các bối lạc khác nổi cáu nên y không dám ra tay. Nhưng đợi sau khi Niên Canh Nghiêu đoạt được binh quyền sẽ bảo Niên Canh Nghiêu hạ thủ”. Đó vốn là chuyện trong ý liệu của Đường Hiểu Lan nhưng chàng vẫn hỏi: “Làm sao huynh biết?” Phương Kim Minh nói: “Xa Tịch Tà thích thanh bảo kiếm, Liễu Ân đã tặng kiếm của huynh cho y, lại lấy công danh lợi lộc dụ dỗ, bảo y phản bội chúa công. Xa Tịch Tà chấp nhận ngay, Niên Canh Nghiêu lại bảo y đến thuyết phục ta. Ta không chịu phản bội chúa công nhưng đã quen biết Xa Tịch Tà mười năm, cũng không muốn lập tức báo cho chúa công hay, bởi vậy ta dùng kế hoãn binh bảo rằng một hai ngày nữa sẽ trả lời, lẽ ra đó là chuyện của hôm nay. Sau khi các người ra thị trấn, ta vốn muốn đến nhắc nhở chúa công, nào ngờ ngài lại đến chỗ Niên Canh Nghiêu ăn tiệc, ta biết sự việc không xong, một hồi sau có người đến báo rằng Niên Canh Nghiêu đã ra tay”. Trần Đức Thái mỉm cười: “Trong quân của Niên Canh Nghiêu cũng có huynh đệ của chúng ta. Nên Phương đại ca mau chóng chạy ra báo tin này cho ta”.


Té ra Phương Kim Minh võ công tuy cao nhưng rất hồ đồ trong cách lập thân xử thế, coi trọng tình riêng, coi nhẹ đại nghĩa. Dận Đề chỉ dùng ơn nhỏ là đã lôi kéo được y, y vốn muốn lấy tấm lòng quốc sĩ để báo đáp. Nhưng y cũng kính trọng tấm lòng hiệp nghĩa của Cam Phụng Trì, nên một khi nạn lớn kéo tới, người của Cam Phụng Trì bảo y chạy, lại báo với y rằng Trần Nguyên Đức cũng đang ở đây, y cũng chạy theo. Đường Hiểu Lan nghe xong rung giọng hỏi: “Cam đại hiệp có biết việc này không?” Trần Đức Thái nói: “Có lẽ hai ngày nữa Cam thất ca mới đến, nhưng Quan Đông tứ hiệp đã đến”. Số là Cam Phụng Trì sợ nhiều người không tiện nên mới chia thành ba nhóm lên đường. Nhóm thứ nhất là Quan Đông tứ hiệp, nhóm thứ hai là Dương Trọng Anh, Lộ Dân đảm và chàng, nhóm thứ ba là Lữ Tứ Nương cùng Bạch Thái Quan với Ngư Nương. Tuy Cam Phụng Trì chưa đến nhưng chàng quen biết khắp trong thiên hạ, trong quân Niên Canh Nghiêu cũng có tai mắt của chàng nên Đường Hiểu Lan được người ta để mắt tới mà không hề hay biết.


Đường Hiểu Lan nói: “Phương đại ca, sau này huynh tính thế nào?” Phương Kim Minh cười khổ, nói: “Tôi tính đêm nay gặp Xa Tịch Tà rồi mới quyết định”. Đường Hiểu Lan nói: “Cái gì? Huynh còn định gặp Xa Tịch Tà?” Phương Kim Minh nói: “Tôi quen biết y mười năm, thân như huynh đệ, dù sau này tuyệt giao cũng phải nói cho rõ ràng. Vả lại tôi còn phải thăm dò tin tức của chúa công”. Đường Hiểu Lan thầm kêu: “Hồ đồ!”. Nhưng Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, chàng không tiện khuyên nhủ, chàng chỉ hỏi: “Vậy huynh trở về sao?” Phương Kim Minh nói: “Không, tôi nhờ người hẹn với y sáng sớm mai sẽ gặp tại Tuyết Hồn cốc”. Đường Hiểu Lan nói: “Tuyết Hồn cốc là ở đâu?” Trần Đức Thái mỉm cười: “Chính là sơn cốc bên ngoài”. Đường Hiểu Lan nói: “Chả trách nào cảnh tuyết lại đẹp như thế, quả là xứng với danh”. Rồi lại nói: “Xa Tịch Tà đã bị danh lợi làm mờ mắt, Phương huynh không thể không đề phòng, sáng mai tôi sẽ đi cùng huynh”. Phương Kim Minh xua tay nói: “Tôi chỉ muốn gặp y một mình, người đông không tiện nói chuyện”. Trần Đức Thái mỉm cười, tỏ ý bảo Đường Hiểu Lan đừng nên nhiều lời.


Tin tức truyền ra bảo rằng Niên Canh Nghiêu vâng thánh chỉ, đã thay Dận Đề nắm giữ chức Phủ viễn đại tướng quân, toàn bộ cận vệ quân của Dận Đề bị giải tán, bảy võ quan thân tín nhất cũng bị giết chết, trong đó có ba người cùng Đường Hiểu Lan uống rượu, sau đó đã bị bắt đi ngay ngoài trấn Chu Tiên. Còn Dận Đề và Bác Khắc Đồ đã bị bắt ngay trong buổi tiệc, sống chết thế nào vẫn chưa biết. Phương Kim Minh nghe thế, đấm ngực khóc to.


Hôm sau trời vừa sáng, Phương Kim Minh đã đợi ở ngoài sơn cốc, hoa tuyết bay trong gió, lạnh lẽo rét buốt, Phương Kim Minh đứng trên tảng đá, quay đầu nhìn về phía Đông, lòng nghĩ có phải quá sớm hay không? Chợt nghe một tiếng hú dài vọng tới, Xa Tịch Tà đột nhiên nhảy ra, nói: “Phương huynh đến thật sớm, hai bằng hữu của huynh đâu, sao không tới?” Phương Kim Minh giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ đêm qua y đã đến đây?” nói: “Chúng ta chỉ hẹn gặp riêng nhau, sao có thể gọi thêm người khác?”


Xa Tịch Tà sắc mặt âm trầm, mỉm cười, nói: “Phương huynh có nghĩ đến những lời hôm qua tôi đã nói không?” Phương Kim Minh nói: “Chúa công đối với chúng ta không tệ...” Xa Tịch Tà cắt lời: “Kẻ biết thời thế là trang tuấn kiệt, huynh đệ họ tranh giành với nhau, chẳng lẽ huynh cũng muốn chết theo y?” Phương Kim Minh biến sắc, nói: “Vậy các người đã hại chúa công?” Xa Tịch Tà nói: “Tôi không động thủ”. Phương Kim Minh rơi nước mắt nói: “Không ngờ ngươi lại vong ân phụ nghĩa như thế!” Xa Tịch Tà nói: “Phương huynh yên tâm, chúa công vẫn chưa chết, huynh khóc cái gì?” Phương Kim Minh hỏi: “Niên Canh Nghiêu có chịu thả ngài ra không?” Xa Tịch Tà cười nói: “Hoàng thượng phái Cáp Bố Đà đến đưa y về kinh”. Phương Kim Minh vừa nghe, thầm nhủ: “Dận Trinh bí mật giải ngài về kinh, kết quả vẫn là chết, vả lại Dận Trinh lòng dạ độc ác, chỉ e rằng Dận Đề sẽ chết thảm”. Rồi tức giận nói: “Hoàng thượng khắc nghiệt vô ơn, lẽ nào huynh không sợ?” Xa Tịch Tà cười ha hả.


Phương Kim Minh tức giận nói: “Ngươi cười gì?” Xa Tịch Tà nói: “Chúng ta khác Thập tứ bối lạc, vả lại không tranh ngôi với Hoàng thượng, dù ngài khắc nghiệt vô ơn, có liên quan gì đến chúng ta?” Phương Kim Minh lạnh mình, run giọng nói: “Mười năm quen biết, không ngờ giờ đây mới biết ngươi là kẻ tiểu nhân!” Xa Tịch Tà nhíu mày nói: “Thế nào?” Phương Kim Minh chợt thở dài nói: “Ngươi đi đi! Kẻ quân tử tuyệt giao không cần lên tiếng, coi như giao tình trước đây của chúng ta sẽ xóa sạch, ngươi cứ đi làm quan, ta trở về làm cường đạo. Chỉ cần ngươi không vâng lệnh đến bắt ta, ta sẽ không động thủ với ngươi”. Rồi xoay người toan bỏ đi. Xa Tịch Tà nói: “Khoan đã!” Phương Kim Minh quay đầu lại: “Ngươi muốn thế nào?” Xa Tịch Tà nói: “Mong Phương huynh hãy suy nghĩ lại!” Phương Kim Minh lòng đau như cắt, chỉ cười lạnh rồi quay người. Vừa đi được mấy bước, chợt nghe tiếng cười ha hả vang lên, Phương Kim Minh quay đầu nhìn, chỉ thấy bên dưới xuất hiện hai người, đó là một nhà sư và một lão béo, hai người này là Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên. Phương Kim Minh nổi cáu đùng đùng, nói: “Xa Tịch Tà, té ra ngươi đã hẹn người đối phó ta?” Xa Tịch Tà cười lạnh nói: “Ta cần gì phải hẹn người đối phó ngươi, bản lĩnh của ta và ngươi như thế nào đôi bên đều biết, ta chỉ muốn hỏi ngươi thêm một câu, ngươi có muốn theo ta về hay không?” Phương Kim Minh cười lạnh: “Té ra ngươi nhất định phải giữ ta lại?” Đổng Cự Xuyên cười lạnh nói: “Sa thống lĩnh, lần này bọn ta phải xem ông đấy!” Xa Tịch Tà rút soạt thanh kiếm, ánh hào quang loang loáng chiếu xuống tuyết đến chói mắt, đứng giọng nói: “Phương Kim Minh, nếu hôm nay ngươi không chịu theo ta về, ta cũng cắt đứt tình huynh đệ với ngươi!”


Phương Kim Minh nói lớn: “Hay lắm, ngươi hãy chặt đầu ta xuống!” rồi chưởng trái giơ lên hộ trước ngực, quyền phải từ dưới chưởng đấm ra, Xa Tịch Tà cười lạnh một tiếng, xoay người đảo bước, cây Du Long kiếm lóe lên đâm vào be sườn của Phương Kim Minh. Phương Kim Minh quát: “Hay lắm!” rồi lại phóng vọt người lên, thủ pháp nhanh như điện, vỗ thẳng chưởng tới trước ngực của kẻ địch. Xa Tịch Tà quát: “Ngươi muốn chết!” rồi vòng kiếm trở lại chém vào cánh tay của đối phương, Phương Kim Minh đột nhiên bốc người lên cao, chưởng trái đẩy vào cùi chỏ của y, chưởng phải biến thành Cầm Nã móc vào cánh tay của Xa Tịch Tà. Phương Kim Minh biết kiếm thuật của Xa Tịch Tà rất cao cường, nên vừa ra tay đã liều mạng, đánh ra những đòn hung hiểm!


Xa Tịch Tà lâm nguy không loạn, y giật lui người về phía sau hóa giải đòn Cầm Nã của Phương Kim Minh, đẩy chui kiếm về phía trước, điểm vào huyệt Tiếu Yêu trên hông trái của Phương Kim Minh, đó là tuyệt chiêu cứu mạng của y, Phương Kim Minh vội vàng thối lui, sau một tiếng, mũi kiếm của Xa Tịch Tà đã chém lướt qua vai y. Phương Kim Minh quát lớn: “Hôm nay ta liều với ngươi!” rồi phóng vọt người lên, sử dụng mười tám lộ trường quyền luồn qua lách lại trong màn kiếm quang.


Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh võ công đều cao cường, một người giỏi quyền thuật, một người có sở trường kiếm pháp, đôi bên tám lạng nửa cân, nhưng Xa Tịch Tà đã có Du Long kiếm, uy lực vô hình tăng lên mấy phần, lại thêm Phương Kim Minh đang nổi cáu, hễ xông lên là liều mạng, khí lực không đủ, đánh được nửa canh giờ, kiếm chiêu của Xa Tịch Tà càng lúc càng nhanh, Phương Kim Minh chỉ có thể chống đỡ, một lát nữa, Phương Kim Minh đã đuối sức, bị màn kiếm quang vây kín.


Đổng Cự Xuyên và Liễu Ân khoanh tay đứng nhìn. Đổng Cự Xuyên nói: “Người này quả nhiên có lòng quy thuận, tặng cây Du Long kiếm cho y cũng đáng”. Liễu Ân nói: “Dù sao cũng là mượn hoa kính Phật, có đáng là gì?” rồi lại nói: “Kiếm pháp của người này cao cường, không biết khinh công của y thế nào?” Đổng Cự Xuyên biết lòng dạ Liễu Ân, cười nói: “Xem ra khinh công cũng không tệ, sau này nếu gặp sư muội của ông, có thể bảo y ra tay”. Té ra Liễu Ân tuy có công lực cao hơn Lữ Tứ Nương, nhưng lại ngại kiếm pháp và khinh công của nàng, mấy lần gặp nhau chỉ đánh ngang tay, không bắt nàng được. Nên muốn nhờ một người kiếm pháp và khinh công cao cường giúp cho mình.


Lúc này hai người càng đánh dữ dội hơn, Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không đầy ba mươi chiêu Phương Kim Minh sẽ chết dưới kiếm của Xa Tịch Tà!” Liễu Ân nói: “Tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu đã có lợi, bắt được Dậ

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 24 Tỷ muội y hệt nhau ai cũng nhầm lẫn Ân thù kết khó gỡ một áng bạch vận




Nếu luận về võ công, Xa Tịch Tà và nàng thiếu nữ đều có sở trường, nếu tỉ thí bằng kiếm pháp, đôi bên tám lạng nửa cân. Ngặt nỗi Xa Tịch Tà vừa mới đánh nhau với Phương Kim Minh và Đường Hiểu Lan, khí lực đã hao phí rất nhiều; lại trúng thêm một cú đá của Phương Kim Minh, bởi vậy né tránh không còn lanh lẹ như trước; hơn nữa tay lại không có tấc sắt, bị nàng thiếu nữ dùng bảo kiếm uy hiếp. Đấu được khoảng năm mươi chiêu, nàng thiếu nữ quát: “Trúng!” rồi nàng ta đâm soạt xuống một kiếm, nhát kiếm xuyên qua xương bả vai của Xa Tịch Tà! Xa Tịch Tà cũng rất ghê gớm, y lăn người xuống đất bật xa cách đó mấy trượng, lúc này Phương Kim Minh đang ngẩn người ra, quên cả giúp nàng bắt kẻ địch.


Nàng thiếu nữ đâm Xa Tịch Tà bị thương, trái lại thất kinh, té ra đây là lần đầu tiên nàng đả thương người ta, chợt thấy mũi kiếm dính máu, chân tay cũng bủn rủn. Ngay lúc này, chợt có tiếng người kêu lớn: “Lâm nha đầu, ngươi chạy đến đây làm gì?”


Nàng thiếu nữ ngạc nhiên không hiểu, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy cát bụi bay mù mịt, một đám người đang vừa đánh vừa nhích gần đến bên nàng, kẻ đi đầu là một nhà sư, tay cầm thiền trượng trông rất hung hăng, chính y đã quát lên như thế nhưng chỉ trong chớp mắt, những kẻ phía sau đã xông tới. Những người đuổi theo hòa thượng có cao có thấp, có đạo sĩ lẫn hòa thượng. Một hán tử cao gầy phóng tới, đấm vào đầu hòa thượng; một đạo sĩ đâm hờ về phía y hai chiêu, trừng mắt nhìn mình. Nàng thiếu nữ thấy thế rất ngạc nhiên, chỉ nghe đạo sĩ quát: “Hừ, ả nha đầu ngang ngạnh kia mau theo ta trở về!”


Nàng thiếu nữ này chính là Phùng Anh. Nàng theo Dịch Lan Châu học võ công hơn mười năm, đã nắm hết tinh túy của Thiên Sơn kiếm pháp, lại thêm từ nhỏ nàng đã luyện tập nội công chính tông, căn cơ chẳng kém Đường Hiểu Lan bao nhiêu. Bản lĩnh khinh công còn giỏi hơn cả Đường Hiểu Lan. Dịch Lan Châu về già thu nhận được học trò, coi nàng là truyền nhân duy nhất, sợ ảnh hưởng đến việc học võ công nên không cho nàng biết thân thế bi thảm của mình. Nàng chỉ nhớ lờ mờ rằng từ nhỏ đã ở trong một cung điện rất to lớn, ở đó có rất nhiều người, Dịch Lan Châu liền bảo nàng đó là một ổ cường đạo, bà đã cứu nàng thoát khỏi nơi đó. Ngoài ra nàng còn nhớ có một Đường thúc thúc, Đường thúc thúc thì bảo: “Người ấy cũng từng theo sư phụ học kiếm”, nhưng sư phụ nói người này không phải là đồ đệ của bà ta, “Đường thúc thúc” này đã xuống núi khi nàng được mười mấy tuổi. Người thân thiết nhất của nàng là Lý bá mẫu và Lý ca ca ở ngọn phía Nam của Thiên Sơn, nàng ở chỗ Võ Quỳnh Giao một năm, Lý ca ca kia nhỏ hơn Đường thúc thúc vài tuổi, nhưng không vui bằng Đường thúc thúc.


Năm nay Phùng Anh đã mười sáu tuổi, xuống núi chưa đầy một tháng, Dịch Lan Châu bảo nàng tìm Đường thúc thúc trước, nhưng Dịch Lan Châu cũng không biết Đường Hiểu Lan ở đâu, bởi vậy mới nói với nàng rằng có một Lữ Tứ Nương rất thân thiết với Đường thúc thúc, bảo nàng đến gốc cây bên cạnh mộ của Độc tý thần ni ở Nam sơn để lại chữ, bảo rằng mình đã xuống núi, bảo Lữ Tứ Nương thấy dòng chữ thì hãy dắt Đường Hiểu Lan đến gặp nàng. Dịch Lan Châu nghĩ bụng, Giang Nam thất hiệp quen biết rộng rãi trên giang hồ, mà Giang Nam thất hiệp mỗi năm đều có người lên Nam sơn tảo mộ, dù ai thấy lời nhắn của Phùng Anh cũng sẽ thông báo cho Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương chắc chắn sẽ tìm nàng.


Thế là Phùng Anh đã gặp phải bọn người này. Huyền Phong thấy Phùng Anh tưởng lầm nàng là Phùng Lâm, định bắt sống nàng trao cho Đường Hiểu Lan. Trần Nguyên Bá cũng chạy tới. Phùng Anh thấy Huyền Phong trừng mắt nhìn mình, thầm nhủ: “Trên giang hồ người xấu thật là nhiều, đám người này vô duyên vô cớ bức hiếp mình, thật đáng ghét!” Huyền Phong quét một gậy tới, vốn là định đánh rơi cây Du Long kiếm trên tay nàng, sau đó mới bắt nàng, nào ngờ cây gậy quét về phía trước, ánh hào quang lóe lên kêu keng một tiếng, lửa bắn tung toé, cậy gậy sắt trên tay Huyền Phong đứt mất một đoạn! Huyền Phong kêu ồ một tiếng, Phùng Anh trở người đánh một kiếm, đâm xéo ra, Huyền Phong trả lại một kiếm, vừa xuất thủ Phùng Anh đã biến chiêu, tiếp tục xuất kiếm! Huyền Phong giải được ba chiêu, còn chiêu thứ tư là tuyệt chiêu trong Thiên Sơn kiếm pháp, mũi kiếm phóng vào cổ họng của Huyền Phong, Huyền Phong vì giải chiêu này buộc phải giơ ngang kiếm chận lại, chỉ nghe keng một tiếng, cây trượng kiếm trong tay Huyền Phong bị chặt gẫy làm đôi! Huyền Phong cả kinh, phóng vọt người ra sau! Liễu Ân xông tới, đánh một trượng đè xuống đầu Huyền Phong, Huyền Phong vội vàng né tránh, còn Liễu Tiên Khai cũng xông lên.


Phùng Anh thấy hòa thượng đánh đạo sĩ, thầm nhủ đạo sĩ là người ác, hòa thượng này là người tốt. Nào ngờ Liễu Ân vừa thấy Phùng Anh cũng tưởng nàng là Phùng Lâm, nghĩ bụng Phùng Lâm là người Hoàng đế đang cần, không thể để nàng bỏ chạy, thế là cây thiền trượng quét ra, cả bọn Trần Đức Thái và Liễu Tiên Khai ra ngoài, trong đám người này Huyền Phong là người có võ công cao nhất, nên Huyền Phong gãy cả kiếm lẫn gậy cả bọn không dám tiến sát đến gần Liễu Ân. Liễu Ân thấy Phùng Anh cầm cây Du Long kiếm, thầm nhủ ả nha đầu này đúng là vô pháp vô thiên, cả Xa Tịch Tà mà cũng dám đâm bị thương, thế là quét cây thiền trượng về phía nàng.


Phùng Anh tưởng rằng Liễu Ân là người tốt, nào ngờ y đột nhiên quét một trượng tới, Phùng Anh không kịp đề phòng, giơ thanh kiếm lên chặn lại kêu keng một tiếng, cây thiền trượng của Liễu Ân bị mẻ mất một miếng nhưng cây Du Long kiếm trong tay Phùng Lâm cũng bị y đánh bay ra, Đổng Cự Xuyên vọt lên tước kiếm, Trần Đức Thái nhanh hơn nửa bước, chụp được kiếm trong tay, Đổng Cự Xuyên cả giận, nhằm vận công lực đẩy ra một chưởng, Trần Đức Thái chẳng cách nào tiếp chiêu, lật chưởng chặn lại, Đổng Cự Xuyên quát lớn nhảy vọt ba trượng, lòng bàn tay tóe máu! Té ra Trần Đức Thái biết nếu tỉ thí thực lực, mình chẳng phải là đối thủ của Đổng Cự Xuyên, bởi vậy trong tay kẹp sẵn một mảnh Thấu Cốt đinh của Đổng Cự Xuyên, hai bên chạm nhau, mảnh đinh đâm xuyên vào bàn tay của y!


Trần Đức Thái tiếp chưởng ấy, chợt thấy trời xoay đất chuyển, Lang Nguyệt thiền sư vội vàng đỡ y, hỏi: “Thế nào?” Trần Đức Thái xoay mặt, luồn vào ống tay áo, Lang Nguyệt thiền sư thấy ống tay áo đỏ tươi, biết y đã bị nội thương, nên quay mặt nôn vào ống tay áo để kẻ địch khỏi thấy, ông ta vội vàng kêu Huyền Phong đạo trưởng: “Chúng ta đi!” lúc này Huyền Phong đã gẫy binh khí, Trần Đức Thái bị thương, Phương Kim Minh đã kiệt sức, ba người còn lại chẳng phải là đối thủ của Liễu Ân, vả lại vẫn chưa biết thiếu nữ là địch hay bạn, Huyền Phong buộc phải phất tay, bốn người cùng rút lui.


Liễu Ân đánh bay bảo kiếm của Phùng Anh, y vung tay chụp tới, nào ngờ Phùng Anh rút thanh Đoạn Ngọc kiếm quét ngang một đường, Liễu Ân vội vàng rụt tay, ống tay áo đã bị chém mất một mảnh. Liễu Ân cả giận, lại vung cây thiền trượng toan đánh bay cây đoản kiếm trong tay của nàng. Lại nói Phùng Anh đã có kinh nghiệm, nàng phóng người lên, điểm mũi kiếm vào đầu trượng, bắn vọt người lên không trung, trên không trung nàng đã vẩy ra một đóa kiếm hoa từ trên không đâm xuống! Liễu Ân dựng đứng cây thiền trượng đâm ngược lên, Phùng Anh lách người qua, liên tục đánh ba chiêu, Liễu Ân múa thiền trượng một vòng, đẩy Phùng Lâm lọt ra ngoài hơn một trượng. Liễu Ân tay múa thiền trượng chân đuổi theo, y vung tay chụp tới, nào ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh diệu tuyệt luân, trượng thế của Liễu Ân hơi chậm lại, nàng chui qua trượng, đâm một kiếm vào be sườn của Liễu Ân, Liễu Ân cả kinh, vì muốn giải chiêu này nên buộc phải đánh chết nàng, y đẩy cây thiền trượng ra phía trước, kình đạo của chiêu này rất lớn, Phùng Anh thấy thế không xong, mũi kiếm chạm phải mũi trượng, người lại bắn vọt lên không trung, thầm nhủ: “Mình chẳng phải là đối thủ của hòa thượng hung hăng này”. Khi rơi xuống nàng không tấn công về phía Liễu Ân nữa mà thi triển khinh công tuyệt đỉnh chạy về phía Nam.


Liễu Ân trợn mắt há mồm, thầm nhủ: “Hỏng bét, hỏng bét! Không biết ả nha đầu này học kiếm pháp ở đâu, sau này giang hồ sẽ có một Lữ Tứ Nương nữa đây”. Đổng Cự Xuyên đang rút đinh trị thương, thở dài: “Chúng ta thua rồi!” Liễu Ân nhìn thấy bóng dáng Phùng Anh, chỉ trong chớp mắt đã mất dạng, nói: “Khinh công ả nha đầu này còn cao hơn cả mình. Mình phải nói cho Niên Canh Nghiêu biết”.


Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên trở về trấn Chu Tiên, Xa Tịch Tà cũng chạy thoát, ba người vào trại mới biết Niên Canh Nghiêu không đợi được, đã dắt vài tên thân binh trở về nhà. Bọn lính còn bảo, hai ngày nữa đại soái mới cùng đại quân Tây chinh, bảo họ trao Phương Kim Minh cho Nhạc Chung Kỳ xử trí. Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên đều cười khổ.


Niên Canh Nghiêu đoạt binh quyền của Dận Đề, lại thu phục được Xa Tịch Tà, lòng rất đắc ý. Y nhìn về quê nhà, trong lòng hiện lên bóng dáng Phùng Lâm.


Niên Canh Nghiêu tính lại, Phùng Lâm đã mười sáu tuổi, lòng nghĩ chắc nàng đã cao hơn trước rất nhiều. Nhớ lại mình nay đã nắm binh quyền trong tay, có thể nói là mọi thứ đều có, nhưng đang thiếu một thê tử vừa ý. Lại nghĩ Hoàng đế tuy thích Phùng Lâm, nhưng y có tam cung lục viện, rất nhiều người đẹp, nếu mình đi trước một bước, cướp được Phùng Lâm, chắc y sẽ không tranh đoạt với mình.


Niên Canh Nghiêu ra lệnh cho đại quân đóng trại ở trấn Chu Tiên ba ngày, ngoại trừ giải quyết chuyện Dận Đề còn muốn trở về nhà, dò thử Phùng Lâm có ở nhà hay không. Sáng sớm hôm nay, y đã viết một bức thư sai Song ma đem về trước cho cha, cho cha già khỏi bất ngờ, cả hai tên ma đầu tuy hung hăng nhưng không có vẻ ngạo mạng như Liễu Ân, cả hai rất phục Niên Canh Nghiêu nên Niên Canh Nghiêu âm thầm bảo bọn chúng canh Liễu Ân cho mình, hôm nay lại phái bọn chúng đưa thư. Niên Canh Nghiêu đợi đến mặt trời lên ba cây sào, cũng không thấy bọn họ trở về, trong lòng nôn nóng thầm nhủ: “Những chuyện nhỏ này giao cho Nhạc Chung Kỳ làm là được”. Thế là dắt vài tên thân binh phóng ngựa về nhà.


Phùng Anh chạy một mình, thấy hòa thượng hung dữ không đuổi theo nữa, thế là đi ngược hướng lại, liền thở phào bước trên đường đi thẳng tới Trần Lưu. Đến trưa, chợt nghe nhạc ngựa leng keng, quay đầu nhìn lại thì thấy hai ông già mặt quái dị, đang nghiến răng nghiến lợi nhìn về phía mình. Phùng Anh chợt nhớ lại, hình như đã gặp hai kẻ này ở đâu. Khi nghĩ kỹ lại, hai kẻ này chính là trong ổ cướp năm xưa, khi mình còn nhỏ bọn họ đã từng véo mình, Phùng Anh nhớ Song ma nhưng không nhớ Liễu Ân, đó là vì tướng mạo Song ma rất quái dị, Phùng Anh lại được họ bế về hoàng phủ nên rất gần gũi.


Song ma vừa thấy Phùng Anh thì mừng rỡ, Tát Thiên Thích nhảy lướt ra, lắng giọng hỏi: “Yến nhi hai năm nay ngươi chạy đi đâu thế? Theo ta trở về!” rồi chợt thấy ánh mắt của Phùng Anh quái dị, nàng ta cứ tròn mắt nhìn mình, kinh ngạc nói: “Này, ngươi không nhận ra ta sao?” Phùng Anh kêu lên: “Các ngươi là cường đạo!” Tát Thiên Thích tức giận, mắng nàng: “Dù bọn ta là cường đạo hay ác ma, cũng có ơn dưỡng dục đối với ngươi!”


Tát Thiên Thích chưa ra tay, Phùng Anh đã ra tay trước, nàng ta phóng người lên, đâm soạt tới y một kiếm; Tát Thiên Thích lách người tránh được nhát kiếm, Phùng Anh lại tiếp tục đâm kiếm ra, Tát Thiên Thích lách người mấy lần mà chẳng thoát nổi mũi kiếm của nàng. Nếu y không lanh lẹ đã bị nàng đâm trúng.


Tát Thiên Thích không kềm được giận, Tát Thiên Đô kêu: “Ả nha đầu lại tuyệt tình như thế, chúng ta còn luyến tiếc làm gì!” rồi phóng lên vỗ xuống một chưởng!


Phùng Anh thấy hai tên ma đầu hung hăng vây quanh mình, thế là trở mũi kiếm đâm về phía Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô không kịp rút tay, vai đã bị trúng một nhát kiếm, lúc này Tát Thiên Thích không còn nhịn được nữa, y phóng vọt người lên, vung mười ngón tay đâm về phía Phùng Anh, Phùng Anh thấy thế cả kinh, nàng vội xoay người đâm ngược trở lại, Tát Thiên Thích thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích quần thảo với Phùng Anh!


Tát Thiên Đô mình đồng da sắt, tuy trúng một kiếm nhưng chẳng hề gì, y tiện tay nhổ một gốc cây lớn bên đường quét ngang về phía Phùng Anh. Phùng Anh vội vàng lách ra. Tát Thiên Thích tay phải chụp vào cổ tay nàng, tay trái đâm vào mặt nàng, Phùng Anh thấy y hung hăng, vội vàng liên tục né chiêu, Tát Thiên Đô cầm cây quét xuống hai chân nàng. Lần này Phùng Anh vì phòng ngự ở hạ bàn nên khinh công giảm xuống, thuật Miêu Ưng Phốc Kích của Tát Thiên Thích chẳng phải tầm thường, vả lại cả hai huynh đệ phối hợp rất đúng nghệ, kiếm pháp của Phùng Anh tuy tinh diệu cũng không làm gì được y.


Võ công của Phùng Anh giờ đây vốn tương đương với lúc Lữ Tứ Nương xuống núi, năm xưa Lữ Tứ Nương có thể thắng Bát Tý Thần Ma nhưng không thắng nổi đòn hợp sức của hai tên này. Phùng Anh cũng như thế, vả lại nàng còn nhỏ hơn lúc Lữ Tứ Nương xuống núi, lực không dai như cả hai tên ma đầu. Đấu được nửa canh giờ, nàng dần dần thấy đuối sức, muốn đột phá vòng vây bỏ chạy nhưng hai tên ma đầu đeo bám càng sát hơn, Tát Thiên Thích kêu: “Hay cho ả nha đầu quên ơn phụ nghĩa, ngươi mau dập đầu nhận lỗi, bọn ta có thể sẽ tha cho ngươi!” Phùng Anh chẳng nói một lời đột nhiên giở chui kiếm đâm một nhát vào cổ tay của Tát Thiên Thích, Tát Thiên Thích vội vàng rụt tay, Tát Thiên Đô vội vàng quét cành cây xuống đất, Phùng Anh điểm vào thân cây, bay lộn ra ngoài. Tát Thiên Thích kêu lớn: “Chạy đi đâu!” rồi lao bổ tới chụp xuống, nào ngờ khinh công của Phùng Anh rất cao cường, đang ở trên không trung mà nàng khum người lại, trở tay đâm ngược một kiếm, Tát Thiên Thích không kịp đề phòng, nên mới bị trúng kiếm, tay vẫn tiếp tục đâm về phía trước, Phùng Anh đã bị ngón tay y đâm bị thương, nàng mượn lực đẩy của y lướt ra cách đó năm sáu trượng.


Tát Thiên Đô cả giận kêu lớn: “Hay thật, tiểu nha đầu dám đả thương cả bề trên!” rồi múa tiếp cái cây đánh tới. Tát Thiên Thích trúng một kiếm, y buộc phải hạ người xuống xé vạt áo băng vết thương cố nén đau đuổi theo.


Phùng Anh chạy được mấy bước, chợt thấy đầu váng mắt hoa, cổ khô rốc, mười ngón tay của Tát Thiên Thích đã được tẩm nọc độc của rắn, nếu không có thuốc giải, trong vòng mười hai canh giờ chắc chắn sẽ chết, vả lại hễ dùng lực thì chất độc sẽ càng chạy nhanh hơn. Phùng Anh không biết, vừa mới chạy suýt nữa đã ngất đi, nàng thử từng bước vận khí chống cự mới đỡ hơn một chút. Nhưng lúc này cả hai tên ma đầu đã đuổi tới. Tát Thiên Thích cao giọng quát: “Ả nha đầu tuyệt tình tuyệt nghĩa nhà ngươi chết đến nơi mà vẫn chưa nhận sai?” Phùng Anh hừ một tiếng, nhớ lại lời dạy của sư phụ: “Dù thân xác có thành tro bụi cũng không được khuất phục”. Thế là nàng ngừng bước lia cây Đoạn Ngọc kiếm, và mắng rằng: “Các ngươi cứ đến đây!” Tát Thiên Thích nổi sùng nói: “Ngươi đã trúng độc trảo của ta, nếu không cầu xin chắc chắn sẽ chết, chả lẽ ngươi không biết? Bọn ta sẽ ngồi đây chờ ngươi độc phát thân vong, cần chi phải động thủ với ngươi nữa!” Phùng Anh cả giận, bước tới mấy bước đâm soạt soạt hai kiếm!


Tát Thiên Thích cười lạnh, kéo Tát Thiên Đô ra phía sau, Phùng Anh dấn về phía trước mấy bước, lại cảm thấy tim đập mạnh, nàng vội vàng định thần, hừ một tiếng rồi mắng: “Không dám đánh trước mặt mà dùng độc trảo, chẳng khác gì cường đạo hạ lưu!” Tát Thiên Thích chẳng thèm để ý, nhưng Tát Thiên Đô không kiềm nổi, y gầm lớn nhảy bổ lên, Tát Thiên Thích kêu: “Coi chừng kiếm của ả!” Phùng Anh lại chợt nhảy vọt lên đâm kiếm xuống, Tát Thiên Đô quét ra một chưởng nhưng không trúng nàng, Phùng Anh lật cổ tay đâm tới, Tát Thiên Đô bị trúng một kiếm ở vai, Tát Thiên Thích sảo quyệt hơn nhiều, y ngoắc tay trái, giật kiếm của Phùng Anh, thuận tay đẩy nàng một cái ngã xuống đất.


Tát Thiên Đô liên tục trúng hai nhát kiếm, tức giận đến cùng cực, y nhảy bổ tới phía trước. Tát Thiên Thích nói: “Để ả tự cầu xin!” Tát Thiên Đô mắng: “Ta không tha cho ả!” rồi nắm quyền xông lên, Tát Thiên Thích biết y hễ nổi cáu thì khó kiềm chế, thế là giơ ngang tay định cản lại, chợt nghe phía sau có tiếng nhạc ngựa leng keng vang lên, Niên Canh Nghiêu cùng mấy tên thân binh đã chạy tới, cao giọng kêu: “Các ngươi làm gì thế?”


Tát Thiên Đô hậm hực nói: “Ả nha đầu này thật không biết tốt xấu, đã đâm tôi hai nhát kiếm!” lúc này Phùng Anh đã ngất nằm ở dưới đất, Niên Canh Nghiêu thấy thế thầm tin nhưng vẫn không lộ ra mặt, hỏi: “Sao các người lại gặp ả?” Tát Thiên Thích nói rõ mọi chuyện, Niên Canh Nghiêu thầm nhủ: “Còn may là không phải gặp trong nhà. Nhưng ả nha đầu Phùng Lâm này rất khôn lanh, sao lại không né hai tên này?” Tát Thiên đô nói: “Ả nha đầu vô tình vô nghĩa, bẩm đại soái, để tôi giết chết ả” Niên Canh Nghiêu trợn mắt, lạnh lùng nói: “Sau này Hoàng thượng đòi người, biết ăn nói thế nào?” Tát Thiên Đô là kẻ lỗ mãng, vừa nghe đã chùn tay, nhưng Niên Canh Nghiêu lại nói: “Thiên Thích hãy đưa thuốc giải cho ta”. Tát Thiên Thích lấy thuốc giải ra nói: “Đại soái phải để huynh đệ chúng tôi phụ trách áp giải ả lên kinh”. Niên Canh Nghiêu không đáp, nhận lấy thuốc giải, vội vàng cho Phùng Anh uống vào, thuốc giải quả nhiên linh nghiệm đợi một lát sau Phùng Anh tỉnh lại, thấy hai tên ma đầu và một tướng quân đã vội đứng gần bên. Phùng Anh rất kinh ngạc, Niên Canh Nghiêu nói: “Lâm muội muội hãy nghỉ ngơi”. Phùng Anh càng thắc mắc hơn. Nàng thấy viên tướng trẻ tuổi rất thân thiện, liền định thần rồi ngồi xuống đất nhằm vận nội lực, một hồi sau chân khí đã điều hòa nàng mới đứng dậy. Tát Thiên Đô trừng mắt mắng: “Nha đầu thối, ngươi có phục chưa?” Tát Thiên Thích nói: “Đô đệ đừng dọa ả!” Niên Canh Nghiêu nói: “Nhặt ám khí của muội, theo ta trở về!” Phùng Anh tra cây Đoạn Ngọc kiếm vào bao, liếc Niên Canh Nghiêu cười nói: “Đa tạ ơn cứu mạng của ngươi”. Rồi bật người dậy thi triển khinh công tuyệt đỉnh băng qua cánh đồng mất hút! Niên Canh Nghiêu nói: “Đuổi theo mau!” bọn lính của y đuổi theo, cả hai tên ma đầu cũng thế. Chỉ trong chớp mắt, Phùng Anh đã chạy băng qua mười mấy mảnh ruộng khô, phóng lên núi, ngựa lên núi không kịp, khinh công của hai tên ma đầu lại không bằng nàng, chỉ trong chớp mắt nàng đã mất dạng.


Tát Thiên Đô nói: “Ả nha đầu tuyệt tình tuyệt nghĩa, cả chúng ta mà cũng không nhận, còn mong gì ả trở về”. Niên Canh Nghiêu trầm ngâm không nói, một lúc lâu mới bảo: “Sau này hãy tính”. Rồi dắt thân binh tiếp tục lên đường về nhà”.


Niên Hà Linh thấy con trai trở về nhà nên rất mừng rỡ, kéo tay hỏi ngắn hỏi dài, Niên Canh Nghiêu xua bọn tả hữu thối lui, khẽ nói: “Có đứa trẻ nào đến đây hay không?” rồi tả dung mạo của Phùng Lâm. Niên Hà Linh đáp: “Nửa năm trước nó có đem chứng vật của con đến đây”. Niên Canh Nghiêu nói: “Đi từ lúc nào?” Niên Hà Linh nói: “Ai bảo đi? Trưa nay cha còn sai người đem tổ yến tới cho nó”. Mẹ con rất thích nó. Nhưng tiểu cô nương này tính tình rất quái lạ, không chịu ở cùng chúng ta, cô đòi sống một mình trong căn phòng của sư phụ con trước kia ở đại hoa viên! Ả không chịu có người hầu hạ, chúng ta chỉ đành mỗi ngày đem thức ăn đến cho ả. Cũng giống như sư phụ của con trước kia...” Niên Canh Nghiêu nói: “Chính con muốn nàng như thế”. Niên Hà Linh nói: “Có phải con thích ả không?” Niên Canh Nghiêu rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Mới trưa nay nàng đã đánh nhau với hai tên ma đầu, sao lại trở về nhà ăn tổ yến?” rồi y không đáp lời cha, vội vàng chạy đến hoa viên, Niên Hà Linh tưởng con đang nôn nóng nên mỉm cười quay vào.


Niên Canh Nghiêu vào hoa viên, chỉ thấy trong vườn đầy cỏ, tường đổ bìm leo, nghĩ bụng chắc là sau khi sư phụ chết, cha mình đau lòng nên không muốn dọn dẹp khu vườn này, đi một hồi lại nghe có hương hoa mơ bay trong gió, khi bước tới nhìn, những cây mơ ấy đã được chăm sóc rất cẩn thận, lại đi vào lối hoa, con đường phủ đá rất sạch sẽ, bước vào nhà lại thấy chẳng có chút bụi, khác hẳn với cảnh hoang tàn ngoài vườn. Niên Canh Nghiêu đẩy cửa bước vào, thấy trong thư phòng có ánh sáng, Niên Canh Nghiêu gõ cửa, bên trong Phùng Lâm hỏi ra: “Ai thế? Tối thế này ta không muốn ăn gì nữa!” Niên Canh Nghiêu mỉm cười, đột nhiên đẩy phòng bước vào. Chợt thấy Phùng Lâm ngồi trong phòng với vẻ mặt kinh hoảng, trước mặt nàng là một quyển sách!


Chính là:


Bí ẩn lại ly kỳ, tỉ muội nhọc lòng nghi.


Sau đó muốn biết thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 25

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 25 Vô ý thấy tàng thư đứng ngồi chẳng yên Hữu tâm tìm bầu bạn ngộ nhận trùng trùng


Phùng Lâm bỏ Lý Trị đến nhà họ Niên, trao tín vật của Niên Canh Nghiêu, đến ở tại khu vườn năm xưa. Khu vườn đã bỏ hoang nhiều năm, Niên Hà Linh vốn không dám cho nàng đến đấy, nhưng Phùng Lâm cứ một mực đòi, bởi vậy cho sai gia nhân dọn dẹp sơ rồi cứ để mặc nàng.


Phùng Lâm bước vào vườn thấy lòng nôn nao, sau khi đến thư phòng nàng càng thấy hình như mình đã đến nơi này. Nàng cứ suy nghĩ mãi mà không ra. Niên Canh Nghiêu muốn nàng ở đây vốn là có dụng ý. Bởi vì Phùng Lâm đã uống mê dược của Ung Chính, mất đi trí nhớ, chẳng nhớ được những chuyện trước khi vào hoàng phủ. Do đó Niên Canh Nghiêu mới để cho nàng ở lại chỗ cũ để khơi dậy trí nhớ của nàng.


Nhưng Phùng Lâm đã mất trí nhớ nhiều năm, tuy cảm thấy khu vườn này rất quen thuộc nhưng vẫn không nhớ nổi. Được vài ngày, nàng đã đi khắp nơi trong vườn, nàng lờ mờ nhớ rằng, đây là nơi mình đã từng đến. Nhưng nàng lại không biết mình đã đến khu vườn này từ lúc nào. Nàng chợt nghĩ mình mới quen Niên Canh Nghiêu đây, làm sao đến nhà họ Niên được? Trong lòng cứ nghi ngại mãi, hơn nửa tháng mới dần dần yên bụng.


Một tối nọ, Phùng Lâm đi dạo trong vườn, chợt thấy có hai người vượt tường nhảy vào.


Phùng Lâm thấy hai người ấy tuy lanh lẹ, nhưng khinh công chẳng phải thượng thừa, nàng đã cầm sẵn hai cây phi đao tẩm độc định phóng ra, nhưng nghĩ lại nên thôi. Người đi đầu nói: “Đây là nơi Chung Vạn Đường ở trước kia, ồ, sao trong phòng lại có ánh đèn?” người kia nói: “Chả lẽ thiếu nữ ấy vẫn còn ở đây?” người đi trước cười nói: “chắc chắn không thể. Ta đã thăm dò rất rõ ràng, trong ngày Chung Vạn Đường chết, ả đã bị Song ma bắt vào hoàng phủ”... Phùng Lâm nghe ba chữ “Chung Vạn Đường”, lòng lại chấn động, thầm nhủ: “Sao cái tên này nghe quen thế!” người phía sau lại nói: “Chả lẽ Niên Canh Nghiêu sai người canh giữ?” đồng bọn của y nói: “Giờ đây Niên Canh Nghiêu đang ở Bắc Kinh, đang giúp Ung Chính đoạt ngôi, y nào còn lòng dạ canh ngôi vườn này...” người phía sau lại nói: “Niên Canh Nghiêu quỷ kế đa đoan, không thể không đề phòng”. Hai người thì thầm bàn một hồi, mỗi người lấy ra một vật tựa như mỏ hạc, bước đến phía dưới cửa sổ, Phùng Lâm cũng không biết chúng làm trò gì. Một hồi sau, cả hai người đẩy cửa vào. Phùng Lâm lẳng lặng chui ra khỏi bụi hoa, phóng tót lên mái nhà, bám hai chân vào mái, ngửa người xuống xem.


Hai người dạ hành trong phòng nhìn nhau im lặng. Té ra bọn chúng tưởng trong phòng có người nên dùng vật có hình dạng như mỏ hạc thổi Kê minh ngũ cổ phản hồn hương vào, không ngờ vừa vào trong lại chẳng có ai. Đó là điều đại kỵ của người dạ hành, bởi vậy không khỏi hoảng lên. Một người lại chạy ra ngoài, nhìn dáo dác, Phùng Lâm đu người lên mái nhà trở lại, người ấy dòm ngó một hồi, trở vào trong phòng nói: “Thật kỳ lạ, đúng là chẳng có ai”. Đồng bọn của y nói: “Mặc kệ có hay không, chúng ta tìm mau”. Hai người lật rương, thấy quần áo của Phùng Lâm rất lấy làm lạ. Một người nói: “Chả lẽ cháu ngoại của Quảng Liên về đây?” một người nói: “Ả đang sống ở hoàng phủ, sao trở về được”. Rồi lại tiếp tục tìm kiếm lục lọi, cả hai dùng kiếm chọc bừa lên vách tường một hồi. Phùng Lâm thấy thế ngạc nhiên, thầm nhủ: “Chả lẽ ở đây có giấu vật gì quý báu?” một hồi sau, cả hai người rinh cái giường qua một bên, tìm kiếm dưới gầm giường, lại dùng đục đào đất, chợt nghe tiếng kim khí va vào nhau, một người nói: “Tìm thấy rồi!” rồi đào lên một cái tráp bằng sắt, nhưng lay hoay mãi mà vẫn không mở ra. Tên đồng bọn nói: “Đem về rồi tính sau”. Người còn lại bảo: “Không biết bên trong có giấu quyển sách ấy hay không, nếu không phải chỉ toi công”. Rồi lấy ra một thanh miến đao, nói: “Để ta chặt cái tráp sắt này ra”. tên đồng bọn nói: “Cẩn thận, coi chừng làm hỏng sách”. Y vừa dứt lời, người đó đã chém đao xuống, ánh lửa bắn ra tung tóe, cái tráp bật ra, hai mũi phi đao bắn vọt ra, người ấy không kịp đề phòng, bị phi đao bắn trúng buồng tim kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống đất ngay tại chỗ. Người còn lại lách qua một bên, đợi một hồi, chẳng thấy chuyện gì khác lạ mới bước đến, lấy quyển sách trong tráp ra, liếc sơ qua rồi cất vào người, cả mừng cười nói: “Cuối cùng đã tìm thấy”. Rồi đá cái xác qua một bên, nói: “Sư huynh, ngày này sang năm, đệ sẽ làm giỗ cho huynh. Nay đã tìm thấy sách, ở dưới chín suối huynh cũng nên yên ngủ đi thôi”. Phùng Lâm nghĩ: “Kẻ này thật xấu, cho y nếm một đao mới được”. Người ấy vừa bước ra khỏi phòng, đã trúng một ngọn phi đao của Phùng Lâm, kêu thảm ngã lật ngửa ra, cũng đi theo sư huynh của y xuống suối vàng. Phùng Lâm nhảy xuống, lấy quyển sách ra, thấy trên bìa đề bốn chữ “Kim châm độ thế”. Rồi vào phòng nhặt hai mũi phi đao liếc qua, nàng bất giác cả kinh.


Hai mũi phi đao hoàn toàn giống với phi đao của nàng, Phùng Lâm lại xem vết thương của hai người ấy, chịu trứng trúng độc cũng giống như, nàng vừa kinh vừa ngờ, thầm nhủ: “Hàn bá bá nói phi đao tẩm độc mà mình dùng là ám khí độc môn, trên giang hồ chẳng ai biết sử dụng, tại sao hai ngọn phi đao này lại giống hệt như của mình?”


Té ra Phùng Lâm từ cho đi theo Chung Vạn Đường, học được kỷ Đoạt Mệnh thần đao, sau khi bị hai ma đầu đưa vào hoàng cung, tuy bản tính mê lú nhưng vẫn chưa quên võ nghệ được học từ nhỏ, nàng vẫn mang theo cái tráp đựng hai mươi bốn mũi độc đao. Trong phủ có rất nhiều có thể, Phùng Lâm lại được bọn họ yêu mến, mỗi người đều truyền võ nghệ cho nàng; trong đó Hàn Trọng Sơn là cao thủ dùng ám khí, thấy phi đao của nàng thì biết ngay là chân truyền của phái Phó Thanh Chủ, Hàn Trọng Sơn lấy phi đao của nàng nghiên cứu, sau mấy ngày đã tìm hiểu ra. Nhưng bản thân y là tôn sư của một phái, không muốn sử dụng ám khí của phái khác nên chỉ truyền cho Phùng Lâm phương pháp luyện phi đao và cách điều chế độc dược, đồng thời chỉ điểm phương pháp cho nàng chứ mình thì không sử dụng. Sau khi Chung Vạn Đường chết, phái Vô Cực không còn truyền nhân, Niên Canh Nghiêu tuy học được vài phần nhưng y đương nhiên không thể đi lại trên giang hồ, vả lại Phùng Lâm tưởng rằng chính Hàn Trọng Sơn đã truyền cho mình tuyệt kỹ phi đao chứ không nhớ đến ai tên Chung Vạn Đường cả.


Phùng Lâm suy đi nghĩ lại mà vẫn chẳng ra, chỉ đành lặng lẽ chôn hai cái xác. Dọn dẹp căn phòng xong, nàng mở quyển sách ra xem, lại thất kinh, sau đó lại mừng rỡ ra mặt!


Quyển sách này gồm có hai phần, phần đầu có cả thảy mười ba thiên, ba thiên đầu là yếu quyết nội công, mười thiên sau là quyền kinh kiếm quyết. Mười hai thiên sau toàn là y thư. Phùng Lâm xem quyền kinh kiếm quyết trước, nàng cảm thấy những thủ pháp này không lợi hại bằng những thứ mình đã học, nhưng khi xem lại ba thiên đầu, nàng cảm thấy ảo diệu vô cùng. Phùng Lâm đã học được phương pháp tu luyện nội công từ Lý Trị, nhưng vì Lý Trị vẫn chưa đạt đến cảnh giới lư hỏa thuần thanh, có nhiều chỗ vẫn chưa hiểu, vả lại vì truyền thụ bằng miệng nên chẳng đâu ra đâu. Xem xong quyển sách, nàng chợt hiểu tất cả mọi thứ, lại ngộ ra thêm rất nhiều tinh nghĩa. Bởi vì võ công của Phó Thanh Chủ là chính tông nội gia, tuy không hiểm hóc như Bạch Phát ma nữ, nhưng tu tập nội công theo phương pháp của ông ta sẽ có lợi hơn phái của Bạch Phát ma nữ.


Phùng Lâm vốn người thông mình bẩm sinh, từ đó cứ một mình tu luyện theo sách ở trong vườn, chỉ được nửa năm nhưng tiến bộ rất nhanh. Nàng cũng đang học hết quyền kinh kiếm quyết trong sách. Hôm nay nàng ngẫu nhiên lật phần tiếp theo, Phùng Lâm không kiên nhẫn đọc y thư, đọc đến hai mười mấy trang chợt thấy trong đó có ghi cách chữa trị bệnh mất trí nhớ, xem xong cả buổi mà vẫn không hiểu. Té ra Phó Thanh Chủ đã ghi lại chứng ly hồn của Quế Trọng Minh năm xưa, ông ta nghiên cứu y học, năm xưa tuy Mạo Hoàn Liên chữa bệnh cho Quế Trọng Minh nhưng đã nhờ Phó Thanh Chủ giúp đỡ (mời xem trong bộ “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”). Phó Thanh Chủ đã dốc hết tâm trí, nghĩ ra cách trị loại bệnh ly hồn này, phương pháp đại thể giống như thuật thôi miên thời hiện đại, Phùng Lâm không có kiến thức y học nên không hiểu.


Phùng Lâm tuy không hiểu nhưng cũng nghĩ ra được điều mới mẻ. Nàng thầm nhủ: “Mỗi khi mình nhớ lại những chuỵên, hỏi các vị thúc bá thì họ chỉ ậm ừ, mà mỗi người lại nói khác nhau, chả lẽ mình cũng mắc chứng ly hồn. Xem ra quyển sách này cũng có ích cho mình!” rồi nàng tiện tay lật tiếp, đến trang cuối cùng chợt thấy mấy dòng: “Nhắn gởi đồ nhi Canh Nghiêu: “Quyển sách này là tâm huyết cả đời của Phó sư tổ, con phải giữa cho kỹ, lấy quyển sách làm bằng cứ tiếp chưởng môn hộ phái Vô Cực. Chung Vạn Đường”. Phùng Lâm xem xong mấy dòng chữ mới biết Chung Vạn Đường là sư phụ của Niên Canh Nghiêu, bất giác thầm nhủ: “Không biết Chung Vạn Đường là ai, nhưng phi đao trong tráp của ông ta giống như thứ của mình đang dùng, chắc là có chút liên quan với mình. Nhưng Chung Vạn Đường đã chết, xem ra chỉ đành hỏi Niên Canh Nghiêu”. Thế là Phùng Lâm nghĩ ngợi suốt đêm, cho đến lúc Niên Canh Nghiêu đến nàng mới bừng tỉnh.


Niên Canh Nghiêu đẩy cửa bước vào, chợt thấy Phùng Lâm ngồi trong phòng, trước mặt bày quyển sách, y ngạc nhiên, cười rằng: “Đêm đã khuya, muội vẫn chưa ngủ sao? Xem sách gì thế?” Phùng Lâm chợt nhớ lại, quyển sách này là do Chung Vạn Đường để lại cho Niên Canh Nghiêu, nếu để ý thấy chẳng khác nào phải tặng lại cho y! Phùng Lâm thấy tiếc, Niên Canh Nghiêu thò đầu qua, Phùng Lâm cuộn quyển sách nhét vào người, nói: “Ngươi thật là, sao vào mà không kêu một tiếng”. Phùng Lâm mỉm cười khiến Niên Canh Nghiêu ngây ngất. Y lại hỏi: “Muội đã hết bị thương chưa?” Phùng Lâm ngạc nhiên không đáp, nói: “Ngươi bảo sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Võ công của muội giỏi hơn trước rất nhiều!...” Phùng Lâm giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ y biết mình đã lấy được quyển sách”. Niên Canh Nghiêu tiếp tục nói: “Độc trảo của Bát Tý Thần Ma rất lợi hại, muội mới uống thuộc được nửa canh giờ mà đi lại như bình thường, thật hiếm có! Trông muội tựa như chẳng hề có chuyện gì xảy ra”. Phùng Lâm ngạc nhiên nói: “Ta bị thương từ lúc nào?” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Muội thật nghịch ngợm, đừng đùa với ta nữa. Muội không muốn gặp Song ma, huynh đã đuổi bọn chúng đi rồi”. Phùng Lâm ngạc nhiên, nói: “Ngươi bảo gì thế, ta chẳng hiểu gì cả!” Niên Canh Nghiêu nói: “Vậy trưa nay muội đánh nhau với ai?” Phùng Lâm ngạc nhiên nói: “Ta đến đây nửa năm mà vẫn chưa ra khỏi vườn, đánh nhau với người ta lúc nào?” Niên Canh Nghiêu thấy vẻ mặt nàng tựa như chẳng phải nói đùa, bất giác lấy làm tò mò, lại hỏi tiếp: “Vậy suốt hôm nay muội ở trong phòng?” Phùng Lâm nói: “Ta gạt ngươi làm gì?” Niên Canh Nghiêu trố mắt, nói: “Hôm nay rõ ràng huynh đã gặp muội kia mà!” Phùng Lâm thấy y như thế, bật cười: “Chắc là ngươi đã thấy ma!” nàng ngập ngừng rồi chợt nói: “Đừng nói chuyện này nữa, ta hỏi ngươi, Chung Vạn Đường là sư phụ của ngươi phải không?” Niên Canh Nghiêu trợn mắt, nói: “Ồ, thế nào?” Phùng Lâm chợt vung tay, một mũi phi đao bay vào mặt Niên Canh Nghiêu.


Niên Canh Nghiêu cả kinh, đưa tay hớt lấy phi đao, quát: “Muội làm gì thế?” Phùng Lâm cười hì hì nói: “Thủ pháp hất phi đao của ngươi cũng giống như ta”. Niên Canh Nghiêu nói: “Té ra muội muốn thử huynh”. “Lúc ấy ta không rõ thủ pháp của ngươi, nên muốn thử xem lần nữa” “Muội thử làm gì?” Phùng Lâm chống tay lên má, nghiêng đầu nhìn Niên Canh Nghiêu chằm chằm, lại cười nói: “Hình như ta đã từng đến khu vườn này!” Niên Canh Nghiêu thót tim, Phùng Lâm lại nói: “Hình nhưng trước đây chúng ta từng quen nhau? Sao bọn họ chẳng cho ta biết?” Niên Canh Nghiêu vốn tính đa nghi, y giật mình thầm nhủ: “Ả nha đầu này thật khôn lanh, không thể tin hoàn toàn những lời ả nói trước kia. Nếu không phải ả trở mặt với Hoàng thượng mà Hoàng thượng phái đến thăm dò mình thì hỏng bét”. Phùng Lâm thấy Niên Canh Nghiêu đảo mắt qua lại, cười nói: “Sao ngươi không nói?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi làm sao biết sư phụ của ta?” lần này đến lượt Phùng Lâm ngẩn người ra, trong nhất thời nàng không đáp được. Phùng Lâm tiếc quyển sách, không thể nói nàng biết đươc là nhờ xem di ngôn của Chung Vạn Đường. Niên Canh Nghiêu thấy vẻ lúng túng của nàng hiện trong mắt, lòng càng sinh nghi. Thầm nhủ: “Nếu chẳng người trong hoàng phủ cho ả biết thì nhân vật giang hồ đã nói. Ả đã ra ngoài gần một năm, không biết qua lại với những nhân vật nào, mình không thể không đề phòng”. Phùng Lâm nhíu mày, cười nói: “Sao ngươi đa nghi như thế, Niên đại tướng quân nhà ngươi danh tiếng lẫy lừng, việc của ngươi đương nhiên có rất nhiều người biết”. Niên Canh Nghiêu nói: “Rốt cuộc là ai đã cho ngươi biết?” Phùng Lâm nói: “Ta chỉ nghe người qua đường bàn tán thế thôi. Làm sao biết được tin người ấy?” Phùng Lâm tưởng rằng nói dối như thế rất có lý, nào ngờ đã phạm vào điều kỵ của Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu học võ nghệ từ Chung Vạn Đường là điều rất bí mật, người bên ngoài làm sao biết. Niên Canh Nghiêu cười ha hả: “Ngươi biết lừa gạt từ khi nào thế?” Phùng Lâm nói: “Ai lừa gạt ngươi? Ta hỏi ngươi mà ngươi không thèm trả lời, trái lại còn tra vấn ta, hừ, ta không chơi với ngươi nữa!” Niên Canh Nghiêu nghe nàng nũng nịu như thế, lòng thấy nôn nao, không biết được vẻ mặt vô tư ấy của nàng là thật hay giả, nói: “Được, muội cứ ngồi xuống, ta hỏi muội, ai dạy phi đao cho muội?” Phùng Lâm nói: “Là Hàn Trọng Sơn bá bá”. Niên Canh Nghiêu lắc đầu: “Không phải!” Phùng Lâm nói: “Là ai đã dạy?” Niên Canh Nghiêu đang định lên tiếng, chợt bên ngoài tựa như có tiếng động, y vội vàng thì thầm: “Mau nấp vào, để ta ra xem là ai”. Phùng Lâm nấp sau giường, Niên Canh Nghiêu đẩy cửa ra nhìn, chợt thấy Liễu Ân cầm cây thiền trượng xăm xăm bước vào.


Té ra Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên vào doanh trại, nghe Niên Canh Nghiêu đã về quê, bọn năm người Liễu Ân đã được Ung Chính sai âm thầm giám sát Niên Canh Nghiêu. Liễu Ân lên mặt kể cả, chẳng bao giờ coi Niên Canh Nghiêu vào đâu, lúc này y lại tức Niên Canh Nghiêu không đợi, nên mới bàn với Đổng Cự Xuyên: “Tiểu Niên bảo chúng ta bán mạng cho hắn, hắn lại về nhà hưởng phước, chúng ta đi tìm hắn”. Đổng Cự Xuyên là kẻ già dặn, cười rằng: “Y là chủ soái của ba quân, chúng ta không được y gọi, lại không có chuyện gì gấp gáp, làm sao tìm y?” Liễu Ân nói: “Nói với y chúng ta không bắt được Phương Kim Minh nhưng gặp phải ả nha đầu ấy, đó chẳng phải chuyện quan trọng sao?” Đổng Cự Xuyên lắc đầu: “Đó chỉ là chuyện nhỏ”. Liễu Ân trợn mắt nói: “Được, ngươi không đi thì ta đi! Chúng ta nhận mật chỉ của Hoàng thượng, lại không phải là thuộc hạ của y, việc quái gì sợ y?” rồi đi nguyên đêm đến Trần Lưu.


Niên Canh Nghiêu thấy Liễu Ân, thất kinh hỏi: “Bảo quốc thiền sư, sao đêm khuya lại đến đây?” Liễu Ân nhìn dáo dác nói: “Tiểu Niên, ngươi nói chuyện với ai thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ta đang ở trong phòng đọc sách, ngươi đã nghe nhầm rồi”. Liễu Ân nói: “Có phải trước đây Chung Vạn Đường ở trong phòng này không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đúng thế”. Liễu Ân nói: “Thật là thanh nhã. Được, chúng ta vào ngồi rồi nói”. Y không đợi Niên Canh Nghiêu đáp lời đã đẩy cửa vào.


Niên Canh Nghiêu thầm mắng: “Lão lừa trọc nhà ngươi, sau này sẽ cho ngươi biết tay”. Trong lòng rất giận nhưng vẫn không lộ ra mặt, cười rằng: “Thiền sư giá lâm thật là tốt”. Thế rồi bước vào theo. Liễu Ân ngồi xuống hít sâu một hơi nói: “Thơm thật, y như khuê phòng của đàn bà”. Niên Canh Nghiêu nói: “Đại sư đã nói đùa rồi!” Liễu Ân nhìn xung quanh nói: “Gối thêu hoa, mền đỏ. Ồ, tiểu Niên, ngươi về nhà bí mật kết hôn, cả bọn ta mà cũng không nói cho biết, đáng tội gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Từ nhỏ ta đã được gia mẫu yêu thương, ta là con trai độc nhất, người sợ ta không lớn nổi, đã coi ta như là con gái để hóa giải tai ương, thật buồn cười”. Trong nhân gian quả đúng là có phong tục coi con trai độc nhất là con gái. Liễu Ân nửa tin nửa ngờ, chợt bước đến trước giường, lay nhẹ chân giường, Niên Canh Nghiêu cả kinh, Liễu Ân cười nói: “Cái giường này cũng thật tinh xảo. Ta thật muốn ngủ ở đây một lát”. Niên Canh Nghiêu tưởng rằng Phùng Lâm đã bị phát hiện, nào ngờ Liễu Ân lắc cái giường, sau trướng vẫn không hề có âm thanh gì.


Niên Canh Nghiêu thầm lấy làm lạ, nhủ rằng: “Sao ả nha đầu lại trốn kín như thế?” Liễu Ân giằng cây thiền trượng, ngồi xuống giường. Niên Canh Nghiêu nói: “Trong nhà ta có phòng khách, không dám để đại sư ở đây”. Khi nói sắc mặt đã thay đổi. Liễu Ân cười ha hả nói: “Ta chỉ nói đùa với ngươi, xin đừng trách!” dẫu sao Niên Canh Nghiêu cũng là chủ soái của ba quân, Liễu Ân không dám quá phóng túng, y cười rằng: “Ta đã gặp ả nha đầu ấy. Võ công của ả cao minh hơn trước rất nhiều, ngươi bảo có lạ không!” Niên Canh Nghiêu lại chưng hửng, nói: “Ngươi cũng gặp ả?” Liễu Ân nói: “Vậy còn ai đã gặp?” Niên Canh Nghiêu nói: “Huynh đệ họ Tát cũng thua trong tay ả”. Thế rồi kể lại chuyện đã gặp. Niên Canh Nghiêu nghiêm mặt, nói tiếp: “Không bắt được Phương Kim Minh, chuyện này phải cho Hoàng thượng biết”. Rồi lấy giấy bút, giả vờ như đang viết tấu chương, Liễu Ân không hiểu chữ nghĩa, ghét nhất là coi người ta viết chữ, nói: “Hay thật, tiểu Niên, ngươi thì cứ viết, nhưng bắt ta đợi ngươi ở đây sao?” Niên Canh Nghiêu đang mong y nói như thế, vội bảo: “Để ta dẫn ngươi ra ngoài, bảo hai ả ca kỹ hầu hạ ngươi”. Niên gia là nhà cự phú ở Hà Nam, trong nhà cũng có nuôi ca kỉ. Liễu Ân cười ha hả: “Thế mới là bằng hữu”. Niên Canh Nghiêu dắt Liễu Ân ra vườn, bảo quản gia đến tiếp đãi Liễu Ân. Sau đó y một mình trở vào thư phòng. Trong thư phòng ánh đèn lập lòe, Niên Canh Nghiêu lặng lẽ đẩy cửa phòng, chợt trên xà nhà có một người nhảy xuống, Niên Canh Nghiêu nói: “Muội nghịch ngợm thật, cứ đùa với ta mãi”. Nàng thiếu nữ ấy định rút kiếm đâm tới, thấy Niên Canh Nghiêu vội vàng rụt tay. Niên Canh Nghiêu nói: “Lúc nãy ta và Liễu Ân nói chuyện muội có nghe thấy không? Liễu Ân cũng gặp muội, muội còn bảo hôm nay không ra khỏi căn phòng này!” nàng thiếu nữ nói: “Liễu Ân là ai?” Niên Canh Nghiêu nói: “Sao muội cứ giả vờ mãi, muội không nhận ra Bảo quốc thiền sư sao?” nàng thiếu nữ tựa như hiểu ra, nói: “Có phải là nhà sư béo ú hung dữ tay cầm thiền trượng đấy không?” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Muội thật biết nói đùa, nếu Liễu Ân mà nghe câu này sẽ tức đến chết mất! Giờ muội đã nhận chưa? Hôm nay có phải muội gặp Liễu Ân trước sau đó gặp Song ma hay không?” lúc nãy Niên Canh Nghiêu nói chuyện với Liễu Ân vốn là để Phùng Lâm nghe thấy, y muốn xem thử nàng có phản ứng thế nào? Thiếu nữ tựa như rất nghi hoặc, nói: “Ồ, té ra lão hòa thượng béo ấy là Liễu Ân? Ta chẳng những đã gặp y, mà còn giao thủ với y, thế nào?” Niên Canh Nghiêu mừng rỡ nói: “Rốt cuộc muội đã nói thật. Vậy ta cũng nói thật cho muội biết, không phải Hàn Trọng Sơn đã dạy phi đao cho muội, chính là Chung Vạn Đường đã dạy, chúng ta tuy không phải là huynh muội nhưng cũng khác huynh muội bao nhiêu”. Khi đang nói thì y lại nắm tay nàng thiếu nữ, không ngờ nàng ta vung tay tát bốp lên mặt Niên Canh Nghiêu, mắng rằng: “Giả vờ cười nói, động tay động chân, có muốn chết không?” Niên Canh Nghiêu ngạc nhiên nói: “Muội làm sao thế? Giả vờ hung dữ như thế làm gì?” nàng thiếu nữ lia thanh kiếm, mắng rằng: “Ngươi là Niên Canh Nghiêu phải không?” “Hảo cô nương của tôi ơi, lúc này mà còn diễn tuồng nữa!” “Hôm nay ngươi đã lấy thuốc giải cho ta, bởi vậy ta có thể tha chết cho ngươi! Sách của Phó Thanh Chủ đâu? Mau lấy ra cho ta”. “Sách gì?” “Ngươi còn giả vờ? Nếu không phải ngươi đã lấy, tại sao ta tìm khắp nơi mà không thấy”. Niên Canh Nghiêu giật mình, nói: “Chính là quyển sách lúc nãy muội xem đấy phải không? Hừ!” thầm nhủ: “Ngươi đã lấy quyền kinh kiếm quyết của sư tổ ta, lai lịch của ngươi ta cũng hiểu rõ, lại còn diễn tuồng với ta?” rồi y chụp tới, nàng thiếu nữ thúc chỏ khiến Niên Canh Nghiêu thối lui hai bước, rồi nàng đâm soạt một kiếm tới, Niên Canh Nghiêu gầm lớn một tiếng, thuận tay giở cái ghế lên chặn thanh kiếm. Nàng thiếu nữ chợt rút kiếm lại, nói: “Ân oán phân minh, ta không giết ngươi!” rồi điểm mũi chân phóng tót ra cửa sổ.


Niên Canh Nghiêu cả giận chạy ra khỏi thư phòng chặn nàng. Nàng thiếu nữ không quen đường lối trong khu vườn, bị y đi đường nhỏ. Niên Canh Nghiêu rút cây thượng phương bảo kiếm mà Ung Chính đã ban cho, nói: “Ả nha đầu nhà ngươi vô tình vô nghĩa, ngươi nghe lệnh của ai mà đến đây làm gián điệp?” thiếu nữ nói: “Hừ, ta đã tha cho ngươi mà ngươi lại không để ta đi?” rồi nàng đâm một chiêu Xung Phong Phất Liễu đến trước ngực Niên Canh Nghiêu!


Thiếu nữ này chẳng phải Phùng Lâm mà là Phùng Anh. Khi hạ sơn, Dịch Lan Châu bảo nàng trên đường đến Mang Sơn, khi đi ngang nhà họ Niên ở Trần Lưu tiện thể tìm di thư của Phó Thanh Chủ. Nàng không biết viên tướng trẻ tuổi gặp ban ngày là Niên Canh Nghiêu, sau khi thoát hiểm, chạy đến tối thì thi triển khinh công tuyệt đỉnh lén đến nhà họ Niên, tìm vào khu vườn hoang. Khi nàng vào, Niên Canh Nghiêu đưa Liễu Ân bước ra, nên không gặp mặt nhau.


Phùng Anh bước vào phòng, thấy trong phòng trang hoàng như khuê phòng của nữ nhi, vả lại chủ nhân hình như ra ngoài không bao lâu. Nàng đang lấy làm lạ tìm xung quanh mà vẫn chẳng thấy quyển sách sư phụ đã nói, nàng ra sau tấm màn vô tình chạm phải cái lẫy, tấm cửa ngầm trên tường chợt bật ra. Phùng Anh thầm nhủ: “Căn phòng này thật kỳ quái”. Nàng bước vào bên trong, chợt thấy hương thơm xộc vào mũi, tựa như đã có người nấp ở đây, Phùng Anh đánh đá lửa lên tìm kiếm mà vẫn chẳng thấy quyển sách, nhưng lại phát hiện một cánh cửa khác thông ra ngoài.


Té ra Chung Vạn Đường đã âm thầm chuẩn bị cửa ngầm để né tránh kẻ thù. Sau đó Phùng Lâm phát hiện, nhưng Niên Canh Nghiêu lại không biết. Khi Liễu Ân bước vào, Phùng Lâm đã chuồn ra ngoài từ cánh cửa ngầm.


Phùng Anh không tìm thấy sách của Phó Thanh Chủ, quay ra phòng trở lại, vừa khéo Niên Canh Nghiêu trở vào. Phùng Anh đã nghe sư phụ nói Niên Canh Nghiêu là kẻ phản quốc, vốn định đâm một kiếm cho y chết, nhưng ngặt vì ban ngày y đã cứu mạng mình nên mới nương tay, chỉ mong thoát thân.


Niên Canh Nghiêu hiểu nhầm nàng là Phùng Lâm, không biết tốt xấu vẫn đuổi sát theo. Phùng Anh bị y chọc giận, thi triển Thiên Sơn kiếm pháp tinh diệu đánh Niên Canh Nghiêu đến luống cuống chân tay!


Nhưng từ nhỏ Niên Canh Nghiêu được Chung Vạn Đường truyền thụ, lại được Thiếu Lâm tam lão chỉ điểm, võ công chẳng phải hạng bét, tuy không phải là đối thủ Phùng Anh, nhưng đấu vài mươi chiêu vẫn chưa đến nỗi thất bại. Phùng Anh không muốn đánh lâu, nàng liên tục đánh ra mấy chiêu, đẩy lùi Niên Canh Nghiêu rồi xoay người bỏ đi. Niên Canh Nghiêu tuy cũng có ý với Phùng Lâm, nhưng lúc này thấy Phùng Anh liên tục ra đòn sát thủ, y đã nghi rằng nếu nàng không phải do Ung Chính phái đến dò thám mình, thì cũng đã kết giao với bọn kẻ thù. Bởi vậy y mới tìm cách chặn nàng lại rồi phát ra hai mũi hưởng tiễn gọi Song ma đến!


Khu vườn này rất rộng, hai người du đấu qua mấy hòn non bộ, cho đến góc Tây bắc của khu vườn. Ngay lúc này, chợt nghe phía Đông có vọng lại tiếng đánh nhau, Niên Canh Nghiêu ngạc nhiên rồi lại nghĩ thủ hạ của mình phát hiện đồng đảng của ả nên cũng đánh nhau. Vì thế y càng không chịu buông tay, vừa đánh vừa kêu lớn: “Người đâu!”


Phùng Anh cả giận mắng rằng: “Ngươi đúng là không biết tốt xấu!” rồi nàng lia cây Đoạn Ngọc kiếm lên, đánh ra một chiêu Đại Mạc Lưu Sa, đây là một đòn sát thủ, chỉ thấy kiếm quang loang loáng quét tới tựa như cát sa mạc, Niên Canh Nghiêu cố gắng chặn một kiếm, chỉ nghe keng một tiếng, lửa bắn tung tóe, cây thượng phương bảo kiếm của y đã bị mẻ mất một miếng. Phùng Anh nhân lúc y đang luống cuống chân tay, lại đánh một chiêu Đại Hải Dương Ba, kiếm quang tỏa ra, Niên Canh Nghiêu lại trúng một kiếm trên vai, chợt thấy một bóng đen nhảy bổ tới, Niên Canh Nghiêu kêu: “Bắt ả nha đầu này lại!” Phùng Anh đã vọt lên tường chạy ra ngoài vườn.


Chàng thiếu niên ấy lạnh lùng hỏi: “Ả nha đầu nào?” Niên Canh Nghiêu chỉ tay về phía trước, dưới ánh trăng lờ mờ, chợt thấy người ấy không phải là thuộc hạ của mình, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, người ấy đã đâm soạt tới một kiếm, Niên Canh Nghiêu thất kinh, rụt vai lại, sử dụng chiêu số Nhất Vũ Hành Cân trong Vô Cực kiếm pháp, ý đồ lấy nhu khắc cương, nào ngờ kiếm pháp của kẻ địch lại quỷ dị vô cùng, kiếm thế rõ ràng đâm về phía bên trái mà không biết thế nào lại hướng sang phải, Niên Canh Nghiêu phóng mình vọt lên, chợt thấy đỉnh đầu mát rượi, tóc đã bị cắt mất một lọn!


Té ra người này chính là Lý Trị. Từ khi được Võ Thành Hóa cứu tỉnh, chàng rất không hiểu tại sao khi mình đang nguy cấp mà Phùng Anh bỏ mình đi. Thấy nàng ta để lại thuốc giải, trong lòng cũng hơi an ủi. Nhủ rằng: “Sau khi Anh muội xuống núi, tính tình tuy thay đổi nhưng cũng chẳng phải là người tuyệt tình tuyệt nghĩa”. Vì thế càng muốn tìm nàng hơn.


Hôm đó Lý Trị và Võ Thành Hóa vừa khéo đến Trần Lưu. Võ Thành Hóa nhớ lại Chung Vạn Đường đã từng dạy học ở nhà họ Niên, nghe Dịch Lan Châu bảo xương cốt của Chung Vạn Đường vẫn còn ở trong vườn. Bởi vậy ông ta mới cùng Lý Trị vào vườn trong đêm khuya.


Vào trong vườn chợt thấy ánh đèn hắt ra từ thư phòng, Võ Thành Hóa nói: “Ồ, bên trong có người!” Lý Trị nói: “Khu vườn này thật lạ, sao chỉ có một căn phòng”. Võ Thành Hóa nói: “Ta nghe Dịch nữ hiệp nói, sau khi Chung Vạn Đường chết đi, nhà họ Niên đã phong kín khu vườn lại, sao lại có người ở đây?” thế là hai cậu cháu rón rén chạy đến xem. Chợt nghe trong phòng có tiếng cười rộ, có tiếng quát: “Tiểu Niên, ngươi trở về rồi đấy sao? Ngươi đã làm một chuyện tốt!” một hòa thượng béo từ trong phòng nhảy tót ra, đó chính là Liễu Ân.


Số là Liễu Ân tuy xưa nay thô lỗ, hữu dũng vô mưu, nhưng lần này lại thông minh bất ngờ. Sau khi Niên Canh Nghiêu dắt y ra khỏi vườn, bảo quản gia tiếp đãi, y chợt nghĩ lại chuyện hôm nay có rất nhiều điểm lạ. Theo lẽ mà nói nếu từ nhỏ bị xem là con gái, lớn lên sẽ ít nhiều có nét mềm mại dịu dàng nhưng Niên Canh Nghiêu lại khí độ hiên ngang, hành xử quyết đoán, đâu có chút nào giống con gái?


Liễu Ân đã sinh nghi, kéo tên quản gia đến hỏi dò: “Tiểu chủ nhân nhà ngươi có phải từ nhỏ đã được cưng chìu hay không?” tên quản gia cười đáp: “Đương nhiên”. Liễu Ân lại hỏi: “Có phải ở đây có phong tục coi con trai độc nhất là con gái hay không?” tên quản gia cười nói: “Đúng là có phong tục như thế, nhưng thiếu chủ nhân nhà tôi từ nhỏ đã rất nghịch ngợm, thích đánh nhau với người ta. Đại sư nghĩ thử xem, ngài làm sao chịu để cho cha mẹ xem như con gái?” Liễu Ân nghe thế chẳng nói lời nào. Một hồi sau mới bảo: “Hai người khách diện mạo quái dị đi cùng chủ nhân của ngươi có còn ở đây hay không?” tên quản gia trả lời: “Vẫn còn”. Liễu Ân nói: “Ta muốn gặp họ”.


Thế là quản gia liền đi mời hai tên ma đầu đến. Hai tên ma đầu vẫn chưa ngủ, nghe nói có Liễu Ân liền mau chóng đến gặp. Liễu Ân cho quản gia lui ra, nói với Song ma rằng: “Chúa công bảo chúng ta theo dõi tiểu Niên, chúng ta đều tưởng rằng tiểu Niên trung thành. Thực ra hôm nay ta đã phát hiện y có việc khi quân phạm thượng”. Song ma kinh hãi hỏi tới, Liễu Ân kể chuyện Niên Canh Nghiêu gạt y. Rồi lại bảo: “Chắc chắn trong phòng của y có việc gì lạ. Chúng ta đến lục soát thử thế nào!” Liễu Ân tưởng rằng Song ma sẽ chấp nhận ngay, nhưng không ngờ địa vị của Song ma kém hơn bọn Liễu Ân và Cáp Bố Đà, Liễu Ân lại cực kỳ ngạo mạn, cả hai đã không ưa từ lâu. Niên Canh Nghiêu đã thấy được điều đó, sớm mua chuộc cả hai người này. Song ma nghe Liễu Ân nói, đều đồng thanh bảo rằng: “Đó chỉ là việc nhỏ, đâu có phải là khi quân gì! Dẫu sao y cũng là chủ soái ba quân, làm sao có thể vô lễ với y?” Liễu Ân cả giận, nói: “Hay lắm, các người không đi, nếu ta lục soát được chứng cứ gì, khi bẩm cáo Hoàng thượng, các ngươi cũng có liên quan”. Tát Thiên Thích già dặn hơn, nói: “Nếu Bảo quốc thiền sư có lệnh, chúng tôi nào dám không nghe, mới thiền sư đi trước, huynh đệ chúng tôi sẽ theo sau”. Tát Thiên Thích vốn xem gió bẻ đà, Liễu Ân thấy bọn họ đã chấp nhận, cũng không ép nữa, cứ để bọn họ đi phía sau.


Khi Liễu Ân đến thư phòng, chính là lúc Niên Canh Nghiêu đuổi theo Phùng Anh ra góc Tây bắc của khu vườn. Khu vườn rất rộng, cả ba người không chạm mặt nhau. Liễu Ân tuy nghe ở góc Tây bắc có tiếng binh khí chạm nhau, nhưng nghĩ bụng cơ hội sẽ mau chóng qua đi nên mới tìm kiếm. Tìm một hồi y lội ra được quần áo mà Phùng Lâm vẫn thường mặc, cười lạnh thầm nhủ: “Té ra tiểu Niên giấu ả nha đầu ở đây, lại còn đối chọi với bọn mình!” rồi vung thiền trượng gõ vào vách tường, lại phát hiện được cửa ngầm, càng thêm tức giận. Đang định ra tìm Niên Canh Nghiêu, không ngờ lại gặp Võ Thành Hóa.


Liễu Ân đã từng đụng độ với Võ Thành Hóa, vừa gặp đã vung thiền trượng bổ xuống. Võ Thành Hóa vung cây gậy chống trả, chỉ trong chớp mắt đã tấn công mấy chiêu, ngay lúc này, Lý Trị nghe hưởng tiễn của Niên Canh Nghiêu vọng tới, chàng ta chạy ra tìm, khi đến góc Tây bắc thì chợt thấy Niên Canh Nghiêu đang ra tay với một thiếu nữ, khi chàng đến nơi thì nàng thiếu nữ đã nhảy qua tường chạy mất. Lý Trị vung kiếm chém một lọn tóc của Niên Canh Nghiêu, rồi vội vàng đuổi theo nàng thiếu nữ ấy.


Niên Canh Nghiêu trúng một chiêu của Lý Trị, suýt nữa đã mất mạng. Theo lẽ mà nói, võ công của Lý Trị tuy lợi hại nhưng không cao hơn Niên Canh Nghiêu bao nhiêu. Song kiếm pháp của Bạch Phát ma nữ ngược hẳn với kiếm pháp các nhà, hiểm hóc quỷ dị vô cùng, Niên Canh Nghiêu không kịp đề phòng nên đã trúng chiêu. Trong lòng y kinh hãi, đoán rằng Phùng Lâm đã mời cao thủ đến tập kích mình nên vội vàng chạy về thư phòng xem thử.


Lúc này Liễu Ân đang đánh nhau rất hăng với Võ Thành Hóa, cả hai người đều có nội công thâm hậu, thần lực kinh người. Trượng và gậy giao nhau phát ra tiếng kêu nhức tai! Khi đánh đến chỗ gấp gáp, chỉ nghe tiếng vù vù, cây cỏ trong vườn đều bị hai người đánh tan nát, trong vòng mấy trượng cát chạy đá bay. Cả hai người đều bị binh khí của đối phương đẩy ra hơn một trượng.


Niên Canh Nghiêu thấy thế không dám chạy lên. Một hồi sau, Liễu Ân dần dần lọt xuống thế hạ phong, Võ Thành Hóa vận chân lực nội gia quét cây gậy ra kêu keng một tiếng, ánh lửa bắn tung tóe, Liễu Ân thấy hổ khẩu tê rần, vội vàng thối lui hai bước. Võ Thành Hóa chẳng ham đánh nữa, sau khi đẩy được Liễu Ân thì xoay người bỏ chạy. Liễu Ân vừa lùi đã xông lên, cây thiền trượng quét ra một chiêu Thiên Long Bài Vĩ. Võ Thành Hóa giơ ngang cây gậy đánh ngược lại một chiêu Tinh Hoành Đẩu Chuyển, gạt cây thiền trượng của Liễu Ân ra ngoài, quát: “Hung tăng, ngươi đúng là không biết tiến thoái, ta phải siêu độ cho ngươi!” miệng thì nói, tay trái lấy ra một cái chuông đồng lắc lên kêu leng keng không ngừng, tiếng kêu nghe rất chói tai, khiến Liễu Ân phải rối loạn tinh thần, trượng pháp không còn tinh diệu như trước, còn cây gậy của Võ Thành Hóa thì gạt ngang bổ dọc càng hiểm hóc hơn! Liễu Ân quát: “Tiểu Niên, ngươi còn đứng đó trợn mắt làm gì?” Niên Canh Nghiêu là đại tướng, vốn không chịu động thủ cùng với Liễu Ân, huống chi kẻ địch quá mạnh, y càng không muốn mạo hiểm nữa. Liễu Ân quát một tiếng, Niên Canh Nghiêu tức giận, miệng cười lạnh nói: “Song ma sắp tới đây, ta cần chi động thủ”. Khi đang nói, có hai bóng đen xuất hiện ở góc Đông Nam, quả nhiên đó là Song ma.


Niên Canh Nghiêu kêu: “Mau đến đây trợ chiến!” Tát Thiên Thích rất giỏi tâm kế, y phóng vọt lên, lướt tới bên cạnh Niên Canh Nghiêu, khẽ nói bên tai y: “Liễu Ân đã đến soát phòng của ngài!” khi Niên Canh Nghiêu giật mình, y đã cùng Tát Thiên Đô tiến lên, cả ba người bao vây Võ Thành Hóa ở giữa.


Niên Canh Nghiêu nghe Tát Thiên Thích nói, chẳng còn lòng dạ nào xem đánh nữa. Y chạy vào trong phòng, chỉ thấy đồ đạc trong phòng bề bộn, thầm nhủ: “Lão lừa trọc này càng ngày càng vô lễ!” nhưng nghĩ lại: “Mình là chủ soái ba quân, lại là đại tướng tâm phúc được Hoàng đế tin dùng nhất, Liễu Ân dám âm thầm lục soát phòng của mình chả lẽ còn có kẻ chống lưng?” Niên Canh Nghiêu biết xưa nay Ung Chính có thủ đoạn thâm độc, rồi y lại suy nghĩ tiếp, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ra. y nghiến răng thầm nhủ: “Không thể giữ Liễu Ân bên cạnh, Ung Chính từng có mật lệnh, bảo mình sau khi chinh Tây tìm cách trừ khử y. Mình ra tay trước chẳng có gì sai cả! Giờ đây mình nắm binh quyền trong tay, địa vị quan trọng hơn Liễu Ân nhiều, Ung Chính chắc chắn sẽ không trở mặt vì mình giết Liễu Ân trước”. Niên Canh Nghiêu tinh thông mưu lược, đến lúc này đã đoán được đó là do Ung Chính âm thầm sắp xếp, bởi vậy cũng nghĩ ra một độc kế.


Niên Canh Nghiêu ở trong phòng nghĩ kế, Liễu Ân bên ngoài đánh càng dữ hơn. Công lực của Liễu Ân hơi kém hơn Võ Thành Hóa, nay y được Song ma tương trợ, bởi vậy mới chiếm được thượng phong! Tát Thiên Thích nhe nanh múa vuốt, liên tục dùng thuật Miêu Ưng Phốc Kích tấn công vào chỗ trống của kẻ địch, Tát Thiên Đô cậy có sức trâu nên cứ xông liều tới, Liễu Ân thì dùng cây thiền trượng chặn cây gậy, không để cho Võ Thành Hóa tấn công Song ma.


Võ Thành Hóa vừa giận vừa lo, giận là vì một kẻ có danh tiếng như Liễu Ân mà cũng cậy đông hiếp ít, lo là vì không biết Lý Trị đã đi đâu hay bị người ta bắt. Bởi vậy ông ta không muốn ham đánh, vì muốn xông ra khỏi vòng vây nên thủ pháp chợt thay đổi, ánh hàn quang loang loáng, cả hai tên ma đầu bị ông ta đánh xoay mòng mòng, tuy có Liễu Ân chặn cây gậy nhưng Song ma cũng không thể tiến tới gần!


Đang lúc quyết liệt, Tát Thiên Thích đã bị tiếng chuông của ông ta quấy rối. Dùng tiếng chuông quấy rối kẻ địch là võ công độc môn của Võ Thành Hóa. Té ra khi cao thủ giao đấu, kỵ nhất là phân tâm, Võ Thành Hóa dùng cách ấy, uy lực của ông ta tăng lên mấy phần. Nhưng tiếng chuông chỉ có tác dụng phụ trợ, yếu tố thắng bại là ở thực lực của hai bên. Thực lực của Liễu Ân cùng Song ma mạnh hơn Võ Thành Hóa nhiều, tuy trong vòng một trăm chiêu chưa thắng bại nhưng ba người đã chiếm được thượng phong!


Trong ba người, công lực của Tát Thiên Đô kém nhất, vả lại còn nóng nảy hơn cả Liễu Ân, y bị tiếng chuông quấy rối đến tinh thần bất định, thế là xông lên toan giật lấy cái chuông đồng của Võ Thành Hóa. Võ Thành Hóa cười lạnh, quét ra một chiêu Cự Hạm Hoành Giang, chặn cây thiền trượng của Liễu Ân lại, tay trái giơ cái chuông lắc mạnh bên tai của Tát Thiên Đô, Tát Thiên Đô phóng vọt lên, Võ Thành Hóa phất ống tay áo, sử dụng tuyệt chiêu Lưu Vân Phi Tụ quét Tát Thiên Đô bay ra đến hơn ba trượng! Có được lối thoát, Võ Thành Hóa lập tức xông ra, Tát Thiên Thích vội vàng đến cứu Tát Thiên Đô, một mình Liễu Ân không dám đuổi theo.


Liễu Ân thu cây thiền trượng thở phì phò. Niên Canh Nghiêu đứng trước cửa, mỉm cười nói: “Đại sư đã vất vả!” Liễu Ân thấy Niên Canh Nghiêu vẫn đứng ung dung tựa như chẳng hề có chuyện gì, lòng nghĩ Niên Canh Nghiêu đã biết mình lục soát căn phòng nên cầm cây thiền trượng bước tới. Niên Canh Nghiêu nói: “Bảo quốc thiền sư, xin mời vào đây!” Liễu Ân bước vào thư phòng, giằng cây thiền trượng bước tới đánh keng một tiếng, nói: “Tiểu Niên, tiểu cô nương mà ngươi đã giấu đâu rồi? Chúng ta là người quen, tại sao không bảo ả ra gặp mặt?” Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Bảo quốc thiền sư, uổng cho ngươi đã đi theo Hoàng thượng nhiều năm, thế mà vẫn không biết tâm ý của ngài”. Liễu Ân nói: “Thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngài rất đa nghi, khi xuất chinh, ngài đã từng bảo ngươi giám thị ta, có đúng không?” Liễu Ân mở to mắt, Niên Canh Nghiêu nói: “Ta đã thừa biết việc này, chính Hoàng thượng đã nói với ta. Người bảo sở dĩ làm vậy là muốn xem thử ngươi có trung thành hay không!” Liễu Ân kêu ồ một tiếng mà vẫn nửa tin nửa ngờ. Niên Canh Nghiêu nói: “Nên ngài không phải đề phòng ta mà chính là đề phòng ngươi đấy!” Liễu Ân giật mình, buột miệng nói: “Tiểu Niên, ngươi muốn ly gián ta và Hoàng thượng?” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Đâu dám. Nhưng thiền sư cũng không nên lo lắng, ta quyết không nói xấu ngươi trước mặt Hoàng thượng đâu”. Y nói câu ấy thật sự là muốn buộc Liễu Ân và y yểm hộ cho nhau. Liễu Ân cúi đầu không nói, vẫn chưa hoàn toàn tin lời Niên Canh Nghiêu, thầm nhủ: “Việc này rất lớn, phải thương lượng với Đổng Cự Xuyên đã”. Niên Canh Nghiêu thấy y vẫn chưa phục, lại cười rằng: “Ả thiếu nữ ấy ở đây, đã đến được hơn nửa năm”. Liễu Ân thấy y thản nhiên thừa nhận thì rất bất ngờ, Niên Canh Nghiêu lại nói: “Nhưng đó là ý của Hoàng thượng!” Liễu Ân nói: “Tiểu Niên, ngươi nói càn!” Niên Canh Nghiêu nói: “Bảo quốc thiền sư, tuy ngươi võ công cao cường, nhưng chẳng hề biết gì về chuyện nhi nữ”. “Thế có nghĩa là sao?” “Hoàng thượng muốn đưa thiếu nữ ấy vào hậu cung phong làm quý phi, ngươi có biết không?” “Ta biết chúa công muốn ả. Còn việc có phong làm quý phi hay không ta không rõ. Chỉ cần chúa công thích, phong làm Hoàng hậu cũng chẳng lạ”. Niên Canh Nghiêu cười ha hả: “Bảo quốc thiền sư nói câu này đã sai rồi! Xem ra ngươi không biết được nhiều chuyện!”


Liễu Ân ngạc nhiên, nói: “Ta nói sai chỗ nào?” Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Hậu cung của bản triều không cho Hán nữ vào, ngươi có biết không?” “Đó chẳng qua chỉ là nói mồm mà thôi, Đổng Tiểu Uyển thời tiền triều chẳng phải là Hán nữ sao?” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Sau này mới nới rộng ra, nhưng tuyệt không thể lập Hán nữ làm Hoàng hậu, chả lẽ ngươi không biết?” Liễu Ân nói: “Ồ, coi như ta đã nói sai. Thực ra ả này được phong làm gì đâu có liên quan đến ta. Ta chỉ biết chúa công cần ả, mà ngươi đã giấu ả nửa năm, giải thích thế nào đây?” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Nếu Hoàng thượng cần ả, việc này rất đơn giản, nhưng Hoàng thượng thật sự thích ả!” “Tiểu Niên, ngươi đừng dài dòng nữa, hai việc này có gì khác nhau?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ồ, khác nhau lắm. Hoàng thượng thích ả, muốn ban cho ả một phong hiệu, vậy ả phải xuất thân từ nhà cao quý, ngươi có biết chưa?” Liễu Ân kêu ồ một tiếng, nói: “Ta vẫn chưa hiểu lắm!” “Dân thường còn đòi môn đăng hộ đối, điều này ngươi có biết không? Hoàng đế là người phú quý nhất thiên hạ, nên lập Hoàng hậu hay tuyển phi cũng phải là con nhà có danh có tiếng. Con nhà tầm thường chỉ có thể được chọn làm cung nga, sau khi có con cái mới được phong làm quý phi. Ả này lai lịch bất minh, Hoàng thượng không muốn ả thiệt thòi làm cung nga nên đã nghĩ cách khác”. Liễu Ân nói: “Ồ, ta đã hiểu” “Nên Hoàng thượng bảo ả xuất cung, đến nhà ta nhận cha ta làm nghĩa phụ, một vài năm sau sẽ lại đưa vào cung”. “Vậy có gì chúa công lại bảo với ta rằng ả bỏ chạy, lại còn sai ta để ý tìm kiếm ả nữa!” Niên Canh Nghiêu cười nói: “Đó là vì các ngươi rất quen thân với ả, ả đột nhiên biến mất, Hoàng thượng sợ các ngươi nghi ngờ nên mới bảo ả đã bỏ chạy. Sau này ả vào cung, các người tưởng rằng ả là muội tử của ta, làm sao biết ả là tiểu nha đầu!” Liễu Ân đã tin được bảy tám phần, nói: “Nhưng tại sao ả ở phòng của ngươi?” Niên Canh Nghiêu hừ một tiếng nói: “Sao ngươi đa nghi thế! Khu vườn này được phong kín đã lâu, đây là chỗ ở tốt nhất đối với ả”. Liễu Ân nói: “Ồ, thế thì người khác sẽ không thể nào biết. Nhưng...” Niên Canh Nghiêu nói: “Lần này ta về thăm ả, ngươi tưởng ta ở đây à?” Liễu Ân bật cười. Niên Canh Nghiêu lại nói: “Nên ngươi không thể nói với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng biết ngươi nắm được bí mật của ngài, ngươi chẳng còn công lao, vả lại sẽ mang họa bất trắc!” Liễu Ân lạnh mình, chợt nói: “Thế quý phi nương nương tương lai đã trốn ở đâu rồi?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ả thấy ngươi vào đã hoảng sợ chạy mất”. Nói xong thì nắm tay Liễu Ân dắt ra ngoài rồi cùng Song ma trở về nghỉ ngơi.


Niên Canh Nghiêu biết Liễu Ân nóng nảy bộp chộp nên tìm cách lôi kéo trước, lôi kéo không xong thì dùng lợi dọa dẫm y để y khỏi lên tiếng ngay tai chỗ. Sau khi về phủ, đợi Liễu Ân ngủ mới khẽ kêu Tát Thiên Thích ra, nói: “Năm xưa Hoàng thượng mời các ngươi xuất sơn, từng hứa rằng sau khi đoạt ngôi được sẽ phong ngươi làm quốc sư, không ngờ giờ đây các ngươi vẫn thấp kém hơn người ta”. Tát Thiên Thích nói: “Chúng tôi kém cỏi, biết làm sao được”. Tuy là nói thế, Niên Canh Nghiêu vẫn biết được ý của y, cười rằng: “Tát lão tiền bối không cần khiêm tốn. Nếu luận về võ công kinh nghiệm, ít nhất ngươi cũng có thể xếp ngang hàng với Liễu Ân”. Tát Thiên Thích im lặng không nói. Niên Canh Nghiêu cười nói: “Thật ra ý của Hoàng thượng là muốn y thay Liễu Ân”.


Tát Thiên Thích lắc đầu quầy quậy, Niên Canh Nghiêu nói: “Vách tường không có tai, ngươi sợ gì?” nói thực cho ngươi biết, Hoàng thượng muốn ta trừ Liễu Ân vì y cậy công ngạo mạn”. Trong năm người mà Ung Chính phái đi, Liễu Ân tự cho mình là tâm phúc của Ung Chính, thường ngày không a dua theo Niên Canh Nghiêu, Đổng Cự Xuyên là kẻ gian xảo nhất, biết Ung Chính e ngại Niên Canh Nghiêu và Liễu Ân, nhưng chuyện chinh chiến phải nhờ vào Niên Canh Nghiêu, nên y cũng lấy lòng Niên Canh Nghiêu, không dám lên mặt. Cam Thiên Long chỉ nghe theo Đổng Cự Xuyên, bản thân chẳng có chủ ý gì. Song ma đã bị Niên Canh Nghiêu lôi kéo, nên mới cùng Niên Canh Nghiêu bàn cách trừ Liễu Ân.


Liễu Ân chẳng hề biết. Sáng sớm hôm sau, Song ma gõ cửa gọi Liễu Ân dậy, nói: “Hôm nay huynh đệ chúng tôi trở về doanh trại, Bảo quốc thiền sư có còn muốn ở lại không?” Liễu Ân đang nôn nóng trở về tìm Đổng Cự Xuyên thương lượng, nói: “Vậy chúng ta cùng về một thể”. Niên Canh Nghiêu đã sớm chuẩn bị rượu thịt, tiễn biệt Liễu Ân. Song ma rót hai chén rượu tự uống. Liễu Ân thích rượu như mạng sống, chỉ trong chốc lát đã uống ba chén. Chợt thấy sắc mặt Song ma có điều khác lạ, Niên Canh Nghiêu lại không ra, Liễu Ân thử vận nội công, dùng khí đan điền đẩy rượu ra, chợt thấy không thông suốt như bình thường, thế là y trợn mắt, Tát Thiên Đô sợ đến nỗi mặt tái mét, Liễu Ân quát lớn một tiếng, chợt tóm lấy Tát Thiên Thích!


Theo lẽ mà nói võ công của Song ma hơi kém hơn Liễu Ân, nhưng hai huynh đệ hợp lực có thể đánh ngang tay với Liễu Ân, nếu lại có thêm Niên Canh Nghiêu giúp đỡ đã nắm chắc phần thắng. Nhưng Niên Canh Nghiêu sợ Liễu Ân không dám xuất hiện; còn Song ma từ xưa đến nay bị Liễu Ân uy hiếp, rất sợ y, trong rượu có bỏ thuốc độc, cả hai huynh đệ đều đã uống thuốc giải nên uống rượu cũng chẳng hề gì. Niên Canh Nghiêu bảo Song ma mời Liễu Ân uống rượu, tưởng rằng y sẽ chết chắc, không ngờ Liễu Ân nội công thâm hậu, uống cả ba chén mà chẳng hề đổi sắc. Song ma đã hoảng, nên Liễu Ân chỉ vung tay đã chụp được Tát Thiên Thích.


Liễu Ân nắm mạch môn Tát Thiên Thích, quát: “Mau đưa thuốc giải ra đây!” Tát Thiên Thích nói: “Không liên quan đến chúng tôi”. Liễu Ân lại nhả thêm lực, Tát Thiên Thích nói: “Thuốc giải trong túi của tôi”. Liễu Ân móc ra, bỏ tọt vào mồm, sau bình phong một tiếng quát vang lên, võ sĩ của Niên gia xông lên!


Liễu Ân ném Tát Thiên Thích một cái, chụp lấy cây thiền trượng múa lên vù vù, chỉ Đông đánh Tây, chỉ Nam đánh Bắc, xô ngã tấm bình phong, Niên Canh Nghiêu đứng trên đầu pháo thò đầu ra kêu: “Tát Thiên Thích mau xông lên!” Tát Thiên Thích nhảy lên, cùng Tát Thiên Đô đánh liều tới, Liễu Ân vung cây thiền trượng đánh ầm một tiếng vào cây trụ đá, cây trụ gãy mái nhà sập xuống, Song ma vội vàng thối lui, bọn võ sĩ bị đè bẹp bên dưới, Liễu Ân múa cây thiền trượng xông ra, định đánh thẳng đến hậu đường để liều mạng với Niên Canh Nghiêu! Song ma vội vàng cản y lại. Bọn cung tiển thủ của Niên Canh Nghiêu giơ cung lắp tên bắn tới. Liễu Ân chợt thấy đầu óc quay cuồng, miệng khát khô!


Chính là:


Thỏ chết chó cũng vào nồi, chim hết cung bẻ làm củi.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 26

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết