Năm ấy, có một tên bạo chúa ở vùng biển xa bỗng nhiên kéo quân đánh lên vùng rừng núi của người Bana.
Quân của chúng đi tới đâu, lập tức rừng xanh trở thành khoảng trắng,
nương rẫy thành bãi sỏi đá, buôn làng thành đất bằng. Bọn chúng thi nhau
chém giết, bức ép dân làng, bắt hết trâu, bò, heo, gà; cướp sạch lúa,
bắp, chiêng ché, nốc cạn rượu ngon, mật ngọt, đốt trụi cả cửa nhà.
Người người căm hờn. Núi rừng cũng bừng bừng nổi giận. Dân khắp các Tơ-ring(*)
trăm miền rừng núi đều một lòng một dạ đứng lên cầm khiên dao chống kẻ
thù. Nhưng quân giặc đông, thế giặc mạnh, dân chống không nổi. Buôn làng
quằn quại đau thương.
Giữa lúc ấy, ở một buôn nhỏ trong rừng sâu, có một bà tên là HơBia Đát.
Một hôm, bà Đát làm rẫy mệt quá, lẩn vào một gốc cây ngồi nghỉ. Nắng
trưa như đổ lửa, bà khát quá muốn tìm nước uống. Chợt trông thấy một
vũng nước trong vắt sau gốc cây, bên khe đá, bà vội chạy đến cúi xuống
uống một hơi. Nước mát thấm đến ruột gan. Nhưng vừa uống xong, đứng dậy,
bà lấy làm lạ vì bụng nặng chình chịch và cứ to ra mãi. Rồi chỉ ba
tháng sau, bà đã trở dạ và sinh được một đứa con trai. Đứa bé ăn rất
khỏe và lớn nhanh như thổi, chẳng bao lâu đã trở thành một chàng trai có
sức khỏe lạ thường. Nhìn quê hương bị quân thù tàn phá, lòng chàng căm
thù vô hạn. Chàng bèn xin mẹ, từ giã buôn làng đi khắp đó đây, tìm theo
những người tài giỏi để đi giết giặc. Nhưng đi mãi, đi mãi, qua bao
nhiêu buôn làng, bao nhiêu ngọn núi, chàng vẫn chưa gặp ai có tài sức
đánh đuổi được kẻ thù. Càng đi nhiều, càng thấy những cảnh đau thương,
tang tóc của nhân dân, chàng càng nóng lòng gặp được người tài để hợp
lòng giết giặc.
Uất ức, căm hờn nhưng không biết tính sao, chàng trai dậm chân xuống đất, ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
- Ơ ông trời, sao chẳng giúp ta rửa sạch thù này?
Chàng vừa dứt lời thì lạ thay, bầu trời đang quang đãng bỗng nhiên tối
sầm lại, mây đen kéo đầy, dông bão nổi lên. Và một tiếng nổ rung trời
chuyển đất làm núi đồi lảo đảo, rừng rú ngả nghiêng, đất sụt, chàng trai
ngã xuống một hố nước nóng sâu thẳm, hơi bốc lên mù mịt. Vùng vẫy trong
nước, chàng cố sức ngoi lên. Khi chàng ngụp đầu để bơi thì chợt thấy
một vật đen đen, dài dài chìm trong sóng nước. Lấy làm lạ, chàng bèn lặn
hẳn xuống, dùng răng cắn chặt lấy vật đó và bơi thẳng lên bờ. Và chàng
nhận ra vật đó là một thanh thép quý. Từ lúc thanh thép được mang lên
bờ, nước hồ bỗng nguội đi, sương mù cũng tan hết và đất trời lại sáng
sủa như thường.
Chàng sung sướng ngắm vuốt thanh thép còn bốc khói và trong bụng thầm
cảm tạ thần linh đã ban cho chàng một báu vật. Chàng vác thanh thép chạy
thẳng đến nhà một người thợ rèn ở gần đấy. Chàng nhờ bác thợ rèn, rèn
ngay cho mình một thanh gươm để đi đánh giặc. Nghe nói thế, bác thợ rèn
vội vã làm ngay. Bác cho thanh thép vào lò, nung suốt ngày, từ sáng đến
tối, đốt hết cả than mà thanh thép vẫn trơ ra không đỏ. Chàng trai cùng
dân buôn phải kéo đi đốt hết cả một cánh rừng già, lấy cây đốt thành
than, đem về cho bác thợ rèn nung thép. Đến đêm hôm thứ bảy, khi khối
than khổng lồ cháy gần hết thì thanh thép mới đỏ và bỗng nhiên đỏ rực
như mặt trời. Và dưới tay búa lành nghề của bác thợ rèn, thanh thép đỏ
phút chuốc đã trở thành lưỡi gươm sắc và sáng quắc.
Các bác thợ mộc trong khéo tay nhất trong vùng cũng kéo đến, chia nhau
đi tìm gỗ gáy về làm chuôi và vỏ gươm. Xong xuôi họ nâng thanh gươm trao
cho chàng trai con của HơBia Đát. Chàng nhận gươm và lập tức trút ra
khỏi vỏ. Một tia sáng chói lòa phóng ra. Mọi người dạt ra, lấy tay che
mắt cho khỏi chóa. Gươm hoa lên, tỏa muôn ánh hào quang làm mờ cả ánh
sáng mặt trời. Mặt trời cũng chói mắt liền kéo mây che kín mặt. Mặt đất
tối sầm, gió bão nổi lên, sấm sét gầm thét ầm ầm.
Chàng trai con của HơBia Đát múa gươm xông thẳng đến kẻ thù. Trong gió
bão, dân các nơi cũng cầm khiên đao, cung nỏ hò reo xông tới. Sấm sét
cũng chạy theo gươm thần, gầm vang liên tiếp bổ xuống quân thù. Lưỡi
gươm của chàng trai vung tới đâu, quân giặc tan tới đó. Chỉ trong một
đêm, lũ quân hung bạo và tên bạo chúa đều bị giết dưới lưỡi gươm thần.
Đánh tan giặc rồi, dân làng reo mừng kéo về dựng lại nhà rông, sửa sang
lại buôn làng, nương rẫy. Chẳng bao lâu, khắp mọi vùng đều làm ăn thịnh
vượng và chàng dũng dĩ, con của HơBia Đát năm xưa đã thành một ông già
râu tóc trắng như bông. Dân làng nhớ ơn nên rất quý trọng ông già, coi
ông là ngôi sao sáng trên trời cao. Do đó mọi người gọi ông là ông Tú và
gọi lưỡi gươm diệt trừ bạo chúa là Gươm ông Tú.
Một hôm, ông Tú bị ốn nặng, dân buôn hết lòng chạy chữa nhưng ông không
khỏi. Biết mình sắp chết, ông Tú liền đem thanh gươm thần ra, thả xuống
hồ nước do đất sụt năm kia, để trả lại cho thần linh. Sóng nước nhận
gươm, sôi lên sùng sục. Mặt hồ lại bốc khói mịt mù.
Đời sau truyền lại rằng, ở hồ nước đó, người Kinh đã mò được vỏ gươm,
người Khơme mò được chuôi gươm, còn chính người Bana thì mò được lưỡi
gươm. Người ta còn nói rằng, nếu lắp thanh gươm thần lại trọn vẹn thì
sức mạnh của nó sẽ không có gì địch nổi.
(*)Khu vực cư trú gồm nhiều làng