COCAINE
bài viết của Bác sĩ JEAN-LOUIS VINCENT
Chef du Service de Soins Intensifs (Trưởng Khoa Cấp Cứu, Bệnh Viện Erasme, Bruxelles, Bỉ )
Cocaine là một trong những trích chất alcaloide của một loại cây nhỏ
ở Nam Mỹ (Erythroxolon coca). Những tính chất kích thích của nó đã
được biết đến từ những nền văn mình trước Christophe Colomb. Cocaine là
nguyên nhân thứ ba của tử vong liên kết với nghiện ma túy
(toxicomanie) (sau héroine và rượu) và là chất ma túy thường có liên
quan nhất trong những cấp cứu nội khoa ở Hoa Kỳ.
Nhiều dạng được lưu hành trên thị trường bất hợp pháp :
- Chlorhydrate de cocaine, bột trắng kết tinh, thường “ coupé ” hay được
thay thế một phần, rất tan trong nước được dùng để hít (snorting hay
sniffing). Cocaine cũng được tiêm bằng đường tĩnh mạch.
- Cocaine base hay “ crack ”, được sản xuất bằng cách hòa tan trong dung
dịch kiềm và trích bằng éther, rất tan trong mỡ và bền với nhiệt.
Cocaine có thể được hút bằng những ống điếu pipe bằng thủy tinh hay được
trộn với marijuana hay với thuốc lá. Tính chất nhanh chóng của những
tác dụng gần tương tự với tiêm tĩnh mạch.
- Sulfate de cocaine hay “ bazooka ”
Cocaine thường được trộn với các chất khác : héroine (speedballs),
cannabis, thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm ba vòng. Tùy theo dạng sử
dụng, cocaine được hấp thụ bởi tất cả các đường (hít, đường mũi,
tiêm…). Chỉ có khi nuốt cocaine, sự hấp thụ bị giới hạn do sự thủy phân
dạ dày. Cocaine được chuyển hóa nhanh bởi gan (thời gian bán phân hủy
dưới 1 giờ) và các chất chuyển hóa chính được thải nhanh trong nước
tiểu. Với sự hiện diện của alcool, một chất chuyển hóa đặc biệt chịu
trách nhiệm một tỷ lệ chết đột ngột cao, nhất là trong trường hợp có
bệnh lý động mạch vành.
Những dấu hiệu ngấm (signes d’imprégnation) là sự sảng khoái (euphorie),
chứng hoang tưởng tự đại (mégalomanie), tình trạng kích động, tính
hung hăng, những ảo giác (thường có những ý nghĩ paranoide), thường kèm
theo tim nhịp nhanh, cao huyết áp, giãn đồng tử, tăng phản xạ gân
xương, sốt, nôn và mửa. Ngộ độc nặng có thể gây hôn mê và co giật hay
các loạn nhịp thất, tăng thân nhiệt và ngừng hô hấp. Cần phải e sợ
những biến chứng huyết khối nghẽn mạch (complications
thromboemboliques) : nhồi máu cơ tim (đôi khi với những động mạch vành
bình thường), huyết khối (thrombose) hay xuất huyết não-màng não
(hémorragie cérébroméningée) nơi những người trẻ. Các hiện tượng thiếu
máu cục bộ ngoại biên có thể xảy ra trong trường hợp nhiễm trùng quanh
tĩnh mạch hay trong động mạch do tai biến.
Hít “ crack ” có thể chịu trách nhiệm những thâm nhiễm phổi, kèm theo
ho, sốt, co thắt phế quản, đau ngực và đôi khi ho ra máu (crack lung).
Cơ chế có thể là một phản ứng tăng nhạy cảm qua trung gian miễn dịch
(réaction d’hypersensibilité à médiation immunologique)
Độc tính trên gan (hépatotoxicité) cũng được báo cáo. Tan cơ vân (rhabdomyolyse) thường xảy ra trong trường hợp ngộ độc nặng.
Đo nồng độ cocaine và các chất chuyển hóa của nó không có lợi ích lâm
sàng bao nhiêu. Các thăm dò thường hướng về sự phát hiện chất chuyển hóa
chính, BZE (benzoylecgonine) trong nước tiểu. Sự bài tiết hợp chất này
là quan trọng nhất giữa 4 đến 6 giờ sau khi hít cocaine và giảm chậm
trong nhieu ngày. Sự phát hiện trong nước tiểu có thể thực hiện trong 2
đến 7 ngày, tùy theo phương pháp được sử dụng.
ĐIỀU TRỊ.
Điều trị chủ yếu là triệu chứng. Trong trường hợp ngộ độc mức độ vừa
phải, điều quan trọng là đặt bệnh nhân trong một môi trường yên tĩnh và
yên lòng. Mọi thủ thuật nhằm loại bỏ một cách tích cực đều vô ích. Các
cơn co giật được điều trị theo cách thông thường. Các benzodiazépine
phải luôn luôn cho trước neuroleptiques trong trường hợp kích động hung
hăng hay mê sảng. Phải dè chừng các beta-bloquant đơn thuần trong tim
nhịp nhanh kèm theo cao huyết áp, bởi vì sự tăng kích thích
alpha-adrénergique được liên kết có thể dẫn đến một sự gia tăng nghịch
lý huyết áp. Labétalol có thể được ưa thích hơn. Ta cũng có thể cho các
thuốc giãn mạch (phentolamine, nitroprussiate sodique, nicardipine…).
Sự thiếu máu cục bộ ngoại biên nghiêm trọng có thể cần điều trị kháng
đông bằng héparine và tùy trường hợp, bằng phong bế nách (bloc
axillaire) với bupivacaine.
bài viết của Bác sĩ JEAN-LOUIS VINCENT
Chef du Service de Soins Intensifs (Trưởng Khoa Cấp Cứu, Bệnh Viện Erasme, Bruxelles, Bỉ )
Cocaine là một trong những trích chất alcaloide của một loại cây nhỏ
ở Nam Mỹ (Erythroxolon coca). Những tính chất kích thích của nó đã
được biết đến từ những nền văn mình trước Christophe Colomb. Cocaine là
nguyên nhân thứ ba của tử vong liên kết với nghiện ma túy
(toxicomanie) (sau héroine và rượu) và là chất ma túy thường có liên
quan nhất trong những cấp cứu nội khoa ở Hoa Kỳ.
Nhiều dạng được lưu hành trên thị trường bất hợp pháp :
- Chlorhydrate de cocaine, bột trắng kết tinh, thường “ coupé ” hay được
thay thế một phần, rất tan trong nước được dùng để hít (snorting hay
sniffing). Cocaine cũng được tiêm bằng đường tĩnh mạch.
- Cocaine base hay “ crack ”, được sản xuất bằng cách hòa tan trong dung
dịch kiềm và trích bằng éther, rất tan trong mỡ và bền với nhiệt.
Cocaine có thể được hút bằng những ống điếu pipe bằng thủy tinh hay được
trộn với marijuana hay với thuốc lá. Tính chất nhanh chóng của những
tác dụng gần tương tự với tiêm tĩnh mạch.
- Sulfate de cocaine hay “ bazooka ”
Cocaine thường được trộn với các chất khác : héroine (speedballs),
cannabis, thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm ba vòng. Tùy theo dạng sử
dụng, cocaine được hấp thụ bởi tất cả các đường (hít, đường mũi,
tiêm…). Chỉ có khi nuốt cocaine, sự hấp thụ bị giới hạn do sự thủy phân
dạ dày. Cocaine được chuyển hóa nhanh bởi gan (thời gian bán phân hủy
dưới 1 giờ) và các chất chuyển hóa chính được thải nhanh trong nước
tiểu. Với sự hiện diện của alcool, một chất chuyển hóa đặc biệt chịu
trách nhiệm một tỷ lệ chết đột ngột cao, nhất là trong trường hợp có
bệnh lý động mạch vành.
Những dấu hiệu ngấm (signes d’imprégnation) là sự sảng khoái (euphorie),
chứng hoang tưởng tự đại (mégalomanie), tình trạng kích động, tính
hung hăng, những ảo giác (thường có những ý nghĩ paranoide), thường kèm
theo tim nhịp nhanh, cao huyết áp, giãn đồng tử, tăng phản xạ gân
xương, sốt, nôn và mửa. Ngộ độc nặng có thể gây hôn mê và co giật hay
các loạn nhịp thất, tăng thân nhiệt và ngừng hô hấp. Cần phải e sợ
những biến chứng huyết khối nghẽn mạch (complications
thromboemboliques) : nhồi máu cơ tim (đôi khi với những động mạch vành
bình thường), huyết khối (thrombose) hay xuất huyết não-màng não
(hémorragie cérébroméningée) nơi những người trẻ. Các hiện tượng thiếu
máu cục bộ ngoại biên có thể xảy ra trong trường hợp nhiễm trùng quanh
tĩnh mạch hay trong động mạch do tai biến.
Hít “ crack ” có thể chịu trách nhiệm những thâm nhiễm phổi, kèm theo
ho, sốt, co thắt phế quản, đau ngực và đôi khi ho ra máu (crack lung).
Cơ chế có thể là một phản ứng tăng nhạy cảm qua trung gian miễn dịch
(réaction d’hypersensibilité à médiation immunologique)
Độc tính trên gan (hépatotoxicité) cũng được báo cáo. Tan cơ vân (rhabdomyolyse) thường xảy ra trong trường hợp ngộ độc nặng.
Đo nồng độ cocaine và các chất chuyển hóa của nó không có lợi ích lâm
sàng bao nhiêu. Các thăm dò thường hướng về sự phát hiện chất chuyển hóa
chính, BZE (benzoylecgonine) trong nước tiểu. Sự bài tiết hợp chất này
là quan trọng nhất giữa 4 đến 6 giờ sau khi hít cocaine và giảm chậm
trong nhieu ngày. Sự phát hiện trong nước tiểu có thể thực hiện trong 2
đến 7 ngày, tùy theo phương pháp được sử dụng.
ĐIỀU TRỊ.
Điều trị chủ yếu là triệu chứng. Trong trường hợp ngộ độc mức độ vừa
phải, điều quan trọng là đặt bệnh nhân trong một môi trường yên tĩnh và
yên lòng. Mọi thủ thuật nhằm loại bỏ một cách tích cực đều vô ích. Các
cơn co giật được điều trị theo cách thông thường. Các benzodiazépine
phải luôn luôn cho trước neuroleptiques trong trường hợp kích động hung
hăng hay mê sảng. Phải dè chừng các beta-bloquant đơn thuần trong tim
nhịp nhanh kèm theo cao huyết áp, bởi vì sự tăng kích thích
alpha-adrénergique được liên kết có thể dẫn đến một sự gia tăng nghịch
lý huyết áp. Labétalol có thể được ưa thích hơn. Ta cũng có thể cho các
thuốc giãn mạch (phentolamine, nitroprussiate sodique, nicardipine…).
Sự thiếu máu cục bộ ngoại biên nghiêm trọng có thể cần điều trị kháng
đông bằng héparine và tùy trường hợp, bằng phong bế nách (bloc
axillaire) với bupivacaine.