DIỄN ĐÀN CÀ MAU
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
DIỄN ĐÀN CÀ MAU

Diễn Đàn Cà Mau - Tôi Yêu Cà Mau

Chào Mừng Bạn Đến Với Diễn Đàn Mũi Cà Mau
Chúc Các Bạn Vui Vẻ

You are not connected. Please login or register

Bài học canh tân của Vua Phật xứ Thái Mongkut

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Duy Đen

Duy Đen
Thành Viên Cấp 9
Thành Viên Cấp 9

(Chúng tôi vừa nhận được từ một độc giả gửi cho Trang Nhà Việt Tân bài "Bài Học Canh Tân Của Vua Phật Xứ Thái Mongkut" của tác giả Lưu Văn Vịnh. Tuy bài viết đề cập một kinh nghiệm canh tân của Xứ Thái cách nay hơn trăm năm nhưng là một bài học đáng để cho chúng ta suy gẫm về cách hành xử của người lãnh đạo xứ láng giềng Thái Lan về công cuộc canh tân, trong khi xứ ta lại bỏ lỡ cơ hội này).

Thế kỷ XIII VN có vua Phật Trần Nhân Tôn (1279-1293) thì Thái Lan cũng có một vị vua, đáng gọi là vua Phật ở Thế kỷ XIX, đồng thời với vua Tự Đức (1843-1883) bên ta: đấy là vua Mongkut (1851-1868) mà thế giới biết đến qua phim ảnh, The King and I (Nhà Vua và Tôi), thời 1960. Không phải ngẫu nhiên tài tử trọc đầu Yul Brynner được chọn thủ vai vua Mongkut và Deborah Kerr thủ vai cô giáo dạy tiếng Anh Mrs. Anna Leonowens: phim ảnh dựa phần nào trên sử liệu, nhà vua Mongkut trước khi lên ngôi đã xuống tóc xuất gia 27 năm, sống trong chùa và từng giữ chức Sư trưởng một tu viện, còn Anna là cô gái dạy Anh ngữ từ Singapor sang, 1866-68, với hợp đồng 3 năm, nhưng mới 2 năm thì vua Mongkut mất, phim bản thêm chuyện cô giáo Anna khiêu vũ với nhà vua và đứng cạnh giường vua khi vua thăng hà. Cô giáo Anna thật ra không phải là người dậy vua tiếng Anh, vua Mongkut học Anh văn với các giáo sĩ Hoa Kỳ, từ khi còn ở chùa, học 3 năm với Dr. Caswell và sau đó với Dr. Bradley và Dr. House.

Khi lên ngôi vua, nhà vua nhờ Dr. Bradley tổ chức lớp dạy Anh ngữ cho chín phi tần trẻ tuổi trong cung. Dr. Bradley cử ba bà giáo thay phiên vào dạy, từ tháng 8 năm 1851, sau ba năm lớp học bị ngưng vì các bà giáo bắt đầu mang Kinh Thánh Cơ Đốc ra dạy và lại còn chỉ trích nhà vua đa thê! Vua Mongkut chỉ có 39 cung phi, không phải 600 như Sir J.Browning viết! Vua rất rộng lượng, cho phép các cung phi rời cung nếu không sinh hoàng tử và được tái giá. Nhà vua muốn các cung phi và công chúa, hoàng tử, được giáo dục theo kiểu Tây phương nên mới nhờ quan lãnh sự ở Tân Gia Ba tìm được bà giáo Anna sang Thái, với điều kiện dạy Anh ngữ chứ không dạy giáo lý!

Vua Mongkut và truyền thống giáo dục nhà chùa

Cho đến thời vua Mongkut, Thái Lan không có cơ chế giáo dục thi cử Tống Nho như Tàu, Việt. Thái vẫn như thời Lý bên ta, việc giáo dục dành cho nhà chùa, giao cho các sư sãi. Từ nhỏ, hoàng tử Mongkut đã được gởi tới chùa để học đọc và viết chữ, đồng thời học cách cưỡi voi (elephantry), năm 13 tuổi xuống tóc (lễ cắt cuộn tóc dài quấn cao đỉnh đầu) và trở thành chú tiểu trong tám tháng theo truyền thống. Hết tám tháng tu tập mới được trở về cung và được vua cha trao cho chức vụ tượng trưng trong triều. Năm 21 tuổi, 1824, Mongkut chính thức trở thành Sa môn và cũng vào năm này vua cha, Rama II, mất. Hoàng tử Tap, con một thứ phi, lên nối ngôi, Rama IIỊ Tuy không phải là con hoàng hậu như Mongkut, nhưng hoàng tử Tap đã được vua cha yêu quý, có kinh nghiệm ngoại giao (ký hiệp ước 1821 với Crawford) và cai trị nên được hoàng gia ủng hộ lên ngôi. Sư Mongkut, hoàng thế tử, không tranh giành với em, sư chọn ở trong chùa suốt 27 năm.

Công cuộc hiện đại hóa Phật giáo của sư Mongkut

Cư trú tại chùa Mahatat sư Mongkut nhận thấy tăng sĩ không giữ đúng giới luật và đi sai với kinh kệ mà đức Phật truyền dạy. Mongkut ra công học chữ Pali để khán kinh trực tiếp không qua bản dịch, trình độ Pali của Mongkut được xác định qua kỳ giám định "thi đình", cấp Thái học sinh, đệ cửu đẳng, cao cấp nhất của Phật học thời đó. Mongkut từng thệ nguyện: nếu trong bảy ngày mà không gặp được chân sư thì sẽ vĩnh viễn hoàn tục rời chùa. Chư Phật đã đáp lời nguyện đó: Mongkut gặp được một vị sư người thiểu số Mon xứ Miến Điện hiện đang trú ngụ ở Thái. Sư mặc áo vàng, liễu kinh đúng như Mongkut đã đọc, Mongkut khâm phục, xin nhà sư người Mon làm lễ đại thọ giới cho mình.

Mongkut bắt đầu thanh lọc đạo Phật xứ Thái: sư cho vứt bỏ một lúc 500 cuốn kinh sách, viết sai, dịch sai, và cho dịch kinh sách lại từ cổ ngữ Palị Năm 1836 nhà Vua phong Mongkut làm viện chủ chùa Bovorniwet, đào tạo sư sãi, từ 5 người lên cả trăm người mỗi khóa. Sư Mongkut không tin loại kinh chứa chất huyền thoại như kinh Bản sinh Jakata, cuốn kinh kể lại các kiếp xưa của đức Phật. Năm 1840 nhân có năm nhà sư Tích Lan sang thăm, vua Thái cho cả năm vị tới tu viện tham luận với sư Mongkut và sư nhận ra ngay là đạo Phật Tích Lan nguyên thuỷ, tinh ròng, chưa bị uống cong thay đổi và Tam Tạng Kinh ở Tích Lan còn trọn vẹn. Năm 1842 Mongkut cử năm vị sư sang Tích Lan mượn 40 bộ về dịch, năm 1844 sang Tích Lan trả kinh và mượn nốt 30 bộ khác. Bốn mươi nhà sư Tích Lan nhân đó theo sang Thái, ở lại năm năm, và toàn bộ Tam Tạng được dịch sang Thái ngữ nhưng mãi tới năm 1893 mới được in ấn (đời vua Rama V, con Mongkut).

Trong thời gian làm sư trưởng viện, Mongkut giao thiệp với các giáo sĩ Thiên chúa giáo, học Anh ngữ với các giáo sĩ Mỹ, lại học cả Pháp ngữ với giám mục Pallegois, giám mục dạy Latin cho Mongkut và đổi lại ngài dạy Pali cho giám mục. Mongkut không ngần ngại học hỏi và áp dụng phương pháp hoằng đạo của Thiên chúa giáo cho Phập giáo và thiết lập pháp môn mới, Dharmayukta, cùng với pháp môn cũ, Mahanikaya, phát triển trên xứ Thái, ảnh hưởng sang cả Cao Miên, Lào cho tới ngày nay.

Mongkut dùng chữ Pali viết kệ tụng và tu chỉnh nghi lễ. Sau này, khi lên ngôi vua, 1851, Mongkut phạt nặng các tu sĩ phạm giới rượu chè, thuốc phiện, dâm dục, ăn quá ngọ: họ phải hoàn tục, hay đi cắt cỏ cho voi ăn.

Một chính sách cai trị phá chấp

Vua Rama III mất năm 1851, hoàng tử lại nghiện thuốc phiện nên không được truyền ngôi. Hoàng gia họp lại và đi mời sư Mongkut, hoàng thế tử đích vị, anh của Rama III về làm vua, tức Rama IV. Năm ấy Mongkut đã 47 tuổi, dày kinh nghiệm đời và đày đạo đức. Ngay lễ đăng quang ngài đã phá chấp: mời người ngoại quốc dự lễ và họ không phải quỳ mọp như thần dân Thái, treo chuông cửa cung cho dân tới đánh chuông khiếu nại ... cấm hoàng gia và quan chức bắt nô tỳ, cấm ép gái đẹp làng xóm về phủ đệ làm màn ca múa riêng ...

Mongkut đặc biệt cởi mở với các giái sĩ Cơ đốc, ngài từng nói với một giáo sĩ Mỹ: ông có thể cải đạo toàn dân Thái nhưng còn một người ông không cải được là tôi! Có lần một tăng sĩ cải sang Cơ đốc giáo, vua Rama III đòi trừng phạt, ngài Mongkut đã ngăn lại và chủ trương mọi người được tự do lựa chọn tín ngưỡng. Năm 1850 Thái bị dịch tả hoành hành, nhà vua Rama III đòi các giáo sĩ cung cấp chim để làm lễ phóng sinh, các giáo sĩ Hoa Kỳ tuân lệnh nhưng tám giáo sĩ Pháp bất tuân liền bị trục xuất sang Tân Gia Ba, riêng giáo sĩ Pallegois, bạn của sư Mongkut, đã linh động, cố thuyết phục giáo sĩ Pháp là trong Thánh Kinh không có câu nào cấm thả chim muông cả! Vua Mongkut còn cho phép các giáo sĩ cất nhà thờ, khuyến khích và bảo vệ họ khi đi truyền đạo, tặng tiền bạc và khi mất, như giám mục Pallegois, được tẩm liệm theo nghi lễ hoàng gia với thuyền bát nhã và súng chào.

Vua Mongkut chẳng những mài miệt học văn hóa, thần học, mà ngài còn say mê tân học, địa lý ... ngài tính nhật thực ngày 18 tháng 8 năm 1868 chính xác hơn các nhà thiên văn học Pháp tới 2 giây đồng hồ! Mỗi lần sứ thần Thái đi Âu châu ngài đều gởi mua dụng cụ máy móc và sách báo khoa học, ngài thường xuyên đọc báo Anh ngữ từ Singapore gởi quạ Ngay từ năm 1835 khi thấy giáo sĩ Hoa Kỳ có máy in Kinh Thánh, ngài đã lập ngay một nhà in trong chùa Bovorniwet, khi lên ngôi nhà in được chuyển vào cung Grand Palace và bản tin The Royal Gazette được phát hành cho hoàng gia triều đình đọc.

Thân Anh Quốc

Vua Mongkut đặc biệt thân thiện với Anh quốc; ngài dùng một Đại úy Anh luyện quân sĩ và các sĩ quan Anh chỉ huy thuyền chiến Thái, người Anh luyện cảnh sát còn người Pháp chỉ được dùng vào việc luyện lính gác! Ngài cho người Anh vào kỹ nghệ làm đường mía, khai mỏ ... xưa nay vẫn trong tay người Tàu.

Năm 1853 vua cho nhập cảng máy in tiền giấy, lập đưòng dây điện tín với Miến Điện và Penang, đặt đường xe lửa. Ngài cử sứ thần sang Anh với cả thuyền chở phẩm vật dâng tặng nữ hoàng Victoria kể cả một thớt voi, ba tranh phật, kéo vàng cắt tóc và quần lót lụa Thái! Ngài còn tự tay viết thư bằng Anh ngữ cho nữ hoàng, cuối thư ngự bút là người anh em thân mến của nữ hoàng: her affectionate brother, về sau, trong thư đáp lễ, nữ hoàng Victoria cũng vui vẻ kết thư bằng câu "your affectionate sister and friend" - chị em và bạn thân mến của huynh. Giữa thế kỷ XIX, đệ nhất cường quốc là Anh, mà giao hảo thân thiện như thế quả là khôn ngoan và nhìn xa thấy rộng.

Vua Mongkut và Việt Miên Lào

Năm 1864, thế tử Norodom chạy sang Thái cầu cứu vì bị em đoạt ngôi. Thái cho quân đưa Norodom về và cai trị Cao Miên. Sau trước áp lực của giám mục Pháp Miche (dụ Cao Miên về với Pháp) và đại úy Doudart de Lagrée mang quân Pháp sang, Thái phải rút quân vào năm 1864 nhường Cao Miên cho Pháp đô hộ. Trong bức thư sứ thần Thái dâng lên nữ hoàng Anh, vào năm 1857 có câu xác định đất đai vương quốc Thái. King Mongkut the Supreme or Major King of Siamese Kingdom and its adjacent tributary countries: Laos, Cambodia, and several provines of Malay Peninsula ect, ect ... Các thư ngoại giao của Mongkut thường rất dài và thêm chữ vân vân và vân vân - etc, etc ... như phim The King and I đã mô tả. Qua các lá thư này có thể hình dung sự tranh chấp ngấm ngầm giữa thực dân Anh và Pháp ở Đông Á cùng ảnh hưởng của các nhà truyền giáo. Thái khéo léo kết bạn với nhiều nước Âu Mỹ, nghiêng về Anh vì Anh mạnh nhất, nghiêm chỉnh nhất, và không có dã tâm đánh bật gốc văn hóa tín ngưỡng địa phương. Anh chỉ chú trọng tới thương mại, dù ở Trung Đông, Ấn, Miến Điện, Mã Lai hay Thái.

Trong hiệp ước ký kết với Anh qua sứ thần Parkes năm 1856 xác nhận quan hệ ngoại giao song phương, chính vua Mongkut đã dịch sang Thái ngữ và còn dịch sang Hán Văn lẫn Việt Văn (chữ Nôm ?) để Hoa kiều và Việt kiều ở Thái có thể hiểu được. Cuộc tiếp rước sứ thần Anh và tiếp nhận thư của nữ hoàng Anh được tổ chức hết sức trọng thể, hơn 2500 lính chào và một cỗ voi của chính nhà vua che lọng chở thư nữ hoàng Anh vào cung! Trong 17 năm trị vì, vua Mongkut ban rất nhiều chiếu chỉ và châu phê ngự bút, châu bản số 144 đoạn liên quan tới VN như sau "Năm nay có thể hạn hán 60 ngày, chưa biết hạn hạn nặng hay nhẹ, chưa cần ngăn cấm xuất cảng gạo, cứ tiếp tục cho dân chúng giao thương. Chớ nghe lời bày đặt của một số sư, tiểu và những người thiếu hiểu biết, phao tin là người Anh thu mua gạo đổ xuống biển, đây là tin thất thiệt vô lý, chớ phao tin đồn nhảm là người Anh lấy gạo Thái mang cho VN (Yuan). Người Việt là cha của người Anh từ bao giờ mà dám nói như thế!"

Bài học canh tân của vua Phật Mongkut

Vua Mongkut mất năm 1868, sau khi lên vùng rừng núi, cùng với thống đốc Anh ở Singapore, Sir Harry Ord, để quan sát nhật thực, ngài bị mắc bệnh sốt rét rừng và 2 tháng sau, thăng hà ở Bangkok. Tuy không được sang thăm Anh quốc, nhưng mối giao hảo giữa hai nước đã đặt đầu cầu cho công cuộc canh tân Thái: con vua Mongkut, Rama V đã sang thăm nữ hoàng Anh năm 1893 và tới năm 1926 thì Thái đã có trên 2000 sinh viên du học Anh quốc! Sứ thần Parkes gọi vua Mongkut là vị lãnh tụ tân tiến nhất Á Đông, vượt xa thời đại, Bowring thì tán tụng Mongkut là ông vua vĩ đại nhất Đông phương và là một trong những học giả uyên thâm nhất về Phật giáo.

Công cuộc canh tân đất nước của vua Mongkut đi trước Minh Trị Thiên Hoàng Nhật Bản (1867-1912) cả một thế hệ, hai hạt giống thiện mà vua đã gieo trồng nẩy nở viên mãn trên xứ Thái: Thái cả 150 năm nay tránh được họa thực dân, họa CS và họa mất gốc. Nếu kể từ sau cuộc chiến xâm lăng của Miến Điện vào Thái năm 1767, thì suốt 238 năm nay Thái được hưởng thái bình thịnh trị và triều đại Chakri tới nay đã truyền được chín đời vua, vua Rama IX hiện tại trị vì hơn 60 năm, một minh quân đã và đang được toàn dân và thế giới mến phục. Một số bài học canh tân có thể rút tiả từ vua Mongkut:

1- Việc canh tân đất nước cần khởi đầu bằng việc xây dựng căn bản tinh thần dân tộc, tinh thần ấy sẵn có trong Phật giáo Thái, chỉ cần hiện đại hoá và tẩy rửa một viên ngọc quý, không cần vay mượn ý thức hệ hay đạo giáo nào khác. Giáo dục nhà chùa trang bị cả văn lẫn vũ cho hành giả, riêng số lượng kinh sách đã là đại bách khoa, dạy từ đạo đức đến vũ trụ thiên văn, rốt ráo và rộng lớn hơn Tứ Thư Ngũ Kinh nhiều. Cho nên không lấy làm lạ, thời kỳ Lý Trần các hiền nhân như Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Hưng Đạo, Quang Khải, Ngũ Lão ... không có bằng cấp khoa bảng, nhưng giống lớp Samurai Nhật Bản, họ văn vũ song toàn.

2. Phật giáo nguyên thủy (tiểu thừa) hữu hiệu trong cuộc chấn hưng đạo đức là vì: tự giác ưu tiên, chưa tu thân mà đã vội lý luận kinh kệ, chưa tự giác giữ giới mà đã đi bố thí pháp như Bồ Tát thì dễ rơi vào vòng luẩn quẩn kiến chấp triết lý ngôn từ. Hình ảnh một tu sĩ chân đất khất thực là tấm gương nhẫn nhục khổ hạnh sống động, tự nó toả ra ánh sáng chinh phục giác tha quần chúng hang cùng ngõ hẻm, vì thế từ Tích Lan, Miến Điện tới Thái, Lào ... Phật giáo nguyên thủy đã giữ được thế sâu rễ bền gốc trước các tôn giáo ý hệ Tây phương.

3. Vua Mongkut đã để lại cho Thái một truyền thống tăng sĩ tài đức, những bậc đại sư cao tăng lần lượt tiếp nối xuất hiện. Sau khi lựa chọn đúng đường thì phần cốt yếu là huấn luyện thanh lọc nhân sự: sư sãi giữ giới làm gương cho tín đồ, thực tập hỷ xả phá chấp tạo hoà khí với mọi người. Thái không giết người theo đạo Cơ đốc như ở các nước Phật giáo bị bôi bác bởi Tống Nho như Việt, Tàu, Hàn, Nhật, tinh thần phá chấp cao thượng dung hóa khế cơ của nhà Phật đủ sức chinh phục các tôn giáo khác, đủ sức giữ vững nền tảng quần chúng, mà không cần tới chính quyền yểm trợ qua bạo lực. Cũng như giáo sĩ Cơ đốc Pháp, Bồ Đào Nha khi tới Thái thì họ cảm phục, mà tới Tàu, Việt, Hàn, Nhật thì xảy chuyện lấn áp xung khắc, đấy chính là vì ở Thái họ gặp chính pháp chân tu, mà ở nơi khác thì họ gặp mạt pháp hủ Nho phong kiến.

4. VN khó được như Thái: các nước nghiêng về văn hóa Ấn Độ và Anh dường như tránh được điên đảo tưởng loại hiện sinh, Mác xít, còn các nước theo văn hóa Tàu, Pháp dễ rơi vào nhị biên lý luận ngã mạn, từ đó tới độc tài phong kiến cực đoan. Là vì văn hóa Anh thực tiễn, trí thức gentleman Anh trọng danh dự và quân tử, họ gặp Gandi thì trả lại độc lập, gặp Mongkut thì giao hảo thân tình, còn Pháp, Tàu thì ưa biện chứng lý luận đỉnh cao trí tuệ, vì thế nên mới kiến chấp Judeo Mác xít mới có môi trường phát triển, và Pol Pot cùng nhóm ngụy trí thức Tây học, mới mất quân bình tâm trí điên đảo sát sinh gây họa cho Đông dương!

5. Trí thức VN, từ thời Tự Đức, cũng cố gắng đi tìm lối thoát cho dân tộc: sang Nhật, sang Nga, sang Pháp, Tây du, khuynh tả khuynh hữu, cần vương, xã hội ... mà vẫn luẩn quẩn trong rọ điên đảo tưởng cho tới hiện tại. Thậm chí đến tinh thần phá chấp từ bi của nhà Phật cũng nhiều khi bị biến thể thành triết lý xuông với số học giả tầm chương trích cú kinh kệ nhiều hơn số tu tập thực chứng, bàn về Thiền thì nhiều mà thực sự tu thiền thì ít, thuyết là vô tâm đối cảnh, vượt biên kiến, lắng nghe nỗi khổ tha nhân, mà thực tế có khi lại lộng ngôn bênh phe này, hạ phe kia, nghiêng về tả, khuynh về hữu, chân giả thiện ác, đạo đế tục đế, bất phân minh, chẳng khác gì phàm phu vô minh vậy.

6. Người Thái, gốc Âu Việt từ Nam Chiếu xuống, là anh em của Lạc Việt, là láng giềng thân thiết của ta Bắt chước lối sống hoà hợp cởi mở khiêm nhưòng của láng giềng cũng là điều hay trước khi đi tìm ở đâu xa.

Một thể chế quân chủ lập hiến là đường lối dân chủ thích hợp cho Đông Phương, nhưng muốn có một vua Phật như Mongkut, như Lý Công Uản, như Trần Nhân Tôn không phải dễ, dân tộc phải tạo phước lành, trồng cây đức, đợi thời :

Bảo sơn thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

May ra mới gặp thiện duyên chuyển hóa vậy.

Tham khảo

- King Mongkut and The British by M.L. Manich Jumsai-Chalermnit-Bangkok. 1991

- In His Own Words by Vasana Chivarakorn-Bangkok Post 12-18-2004 - Excerpts fom Collected Proclamations.

- Thái Air Magazine 12-04

- VN Sử Lược - Trần Trọng Kim

- Sử liệu Thái liên quan tới VN khá nhiều: thế kỷ XVII có nhóm người Cơ Đốc giáo VN chạy sang Thái tị nạn, vua Rama V con Mongkut đi thăm Java (Nam Dương) cũng là nơi mà phái đoàn VN với Cao Bá Quát từng thăm viếng buôn bán, vua Rama VI cũng đi thăm Nam Dương và mang về Thái một số thợ thêu lụa người Việt, chính nhóm thợ Việt này đã dạy cung nữ của Hoàng Hău Thái thêu thùa và chỉ cách thêu trên lụa láng (flat silk embroidery). Với số trống đồng khá nhiều ở Thái, nhất là Bắc Thái, nền văn hóa Lan Na hẳn có nhiều liên hệ với Nam Trung Hoa, và theo các nhà khảo cứu Tàu, Âu Mỹ và Thái hiện tại thì người Nam Chiếu ỐNanchao- khi bị nhà Nguyên đánh đã chạy sang Thái năm 1253 và từ vùng Chieng Mai đã bành trướng Nam tiến, thành lập nước Xiêm La ngày nay.

Thái đã phải nhượng đất đai cho thực dân Pháp như vùng Luangprabang, Vientian ... nhường mấy tỉnh phiá Nam sát Mã Lai ngày nay cho Anh, để mưu cầu hoà bình. Đệ Nhị thế chiến Thái mềm dẻo với quân chiếm đóng Nhật, sau 1975 Thái cũng đạt được yêu cầu 23.000 quân Mỹ trú đóng rút đị So với VN thì chính sách ngoại giao Thái lấy dĩ hoà di quý làm chuẩn, tránh đổ máu vô ích cho dân, nói theo nhà Phật thì họ ở quốc độ gần cực lạc, còn ta vẫn giậm chân ở quốc độ sân hận nóng nảy sát phạt A tu la.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết