Suốt ngày hôm ấy, từ sáng sớm, A Múi nấp dưới gầm giường trong một căn phòng nhỏ và tối, đầu gục xuống, người không nhúc nhích và không dám thở mạnh.
Dưới chân ngọn núi Hồng Tử Sơn là một cánh rừng rậm, đầy những cây thông và các loài cây khác. Một con suối nhỏ chảy qua một cánh đồng trồng bắp. Bên cạnh cánh đồng là một dãy bảy căn nhà, phần lớn đã cũ kỹ và xiêu vẹo. Chỗ này là làng Ðào. Tuy nhiên trong làng chẳng có ai họ Ðào cả. Bốn trong số bảy căn nhà này là của gia đình họ Trần, căn nhà cuối dãy phía tây là nhà từ đường để thờ tự linh hồn người chết, và ở giữa dãy là một căn nhà tương đối mới và đẹp đẽ của phú ông họ Trần.
Chính trong căn nhà thứ bảy, căn nhà nghèo nhất, chỉ có năm phòng nhỏ của gia đình họ Vương, là nơi A Múi đang nằm ẩn nấp. Thực ra nửa căn nhà này đã cầm cho phú ông họ Trần rồi. Hai năm trước khi ông già Vương chết, họ Trần đã cho người góa phụ vay bốn chục ngàn để có tiền làm tiệc ma chay cho chồng. Do đó bây giờ bà Vương sống với con trai, thằng Tiểu Bội, và người con gái, A Múi, trong phía sau của túp lều mà không thuộc quyền của Trần phú ông. Trong căn phòng kế nhà bếp -- đúng hơn là trong góc bếp, vì chiếc giường được ngăn khỏi nhà bếp bằng một vài tấm ván mỏng -- A Múi run rẩy và nín thở suốt ngày trong một nỗi kinh sợ khó hiểu. Một vài cái thớt và những giỏ tre trống rỗng dựa vào tường nhà bếp.
Nhà bếp lúc này đang rất ồn ào. Có bốn chiếc bàn vuông bằng gỗ, có ghế kê hai bên, và những chiếc ghế này cùng với những người ngồi trên ghế đã làm chật cứng căn phòng nhỏ. Tất cả người ta có thể đếm được hơn ba mươi người, không những chỉ có dân làng Ðào mà thôi, mà còn có khách từ các làng Dự và Hồng Tường bên cạnh nữa. Họ ngồi ăn nhậu một cách thỏa thuê. Phần lớn khách mặc quần áo vải xanh hoặc trắng, và đi chân đất. Tuy nhiên có ba người mặc áo choàng dài là Trần phú ông, Ngô thương gia, một người biết đọc biết viết, và vị Lão Trượng Tóc Bạc được kính trọng vì tuổi tác. Rất ít khi những nhân vật mặc áo dài này đến thăm một nơi bần hàn như thế, và hiển nhiên họ biết rằng sự hiện diện của họ đem lại sự trang trọng cho bữa tiệc.
Ðồ ăn thì khá sơ sài, chỉ có bốn chiếc tô lớn đựng thịt, cá, củ cải và canh trên mỗi bàn. Nhưng bốn tô này được múc thêm luôn luôn, và mỗi lần múc thêm thì lập tức lại vơi đi ngay. Ngoài ra một lát nữa, các người đàn bà trong làng cũng được mời ăn nữa. Mọi người ăn đến phình bụng, tự động lấy thịt và rót rượu mà không cần phải giữ mẽ; sự hiện diện của họ trong bữa tiệc cũng chẳng có thiện ý gì, mà chính là một biện pháp trừng phạt bà mẹ của một đứa con gái không biết xấu hổ. Họ không quan tâm đến gánh nặng tài chính cho bà góa phụ họ Vương! Ðó là cách bảo vệ phép công.
Sự thực là phải cầm nốt nửa căn nhà còn lại thì người đàn bà khốn khổ ấy mới có đủ tiền để đãi bữa tiệc kỳ lạ này. Một người tình cảm có thể nhận xét rằng những đồ ăn mà khách gắp bằng những đôi đũa kia quả thực là máu và thịt của góa phụ Vương, vì bữa tiệc này là một sự khánh tận cho bà. Tuy nhiên bằng sự hy sinh này bà mới có thể cứu được mạng sống cho con gái. Không ai có thể phủ nhận được con gái bà phạm tội đó. Mặc dù một tội như thế đòi hỏi ít nhất hai người mới có thể phạm được, nhưng luật lệ mạnh mẽ bất thành văn của Trung hoa chỉ bắt một mình con gái bà chịu trách nhiệm, và cho phép bất cứ người dân làng nào cũng có quyền đánh, mắng chửi, hành hạ hoặc giết nàng nếu người đó cho rằng làm thế là thích đáng. Vậy thì liệu mạng sống của đứa con có thể được cứu thoát bằng bữa tiệc tốn kém đãi những dân làng bị xúc phạm, và nhất là xin được lòng thương của Trần phú ông, Ngô thương gia và vị Lão Trượng Tóc Bạc không? Mặc dù cuối cùng chính bà có thể kiệt quệ đến chết, nhưng bà góa phụ cũng nhất quyết thực hiện cho được bữa tiệc này.
Hai ngày hôm trước, vào lúc buổi chiều, bà đã phải sai đứa con trai tới nhà Trần phú ông. Ðứa con trai đã phải cúi lạy, van xin lòng thương xót và xin vay một số tiền ba chục ngàn, và dùng phần còn lại căn nhà của góa phụ Vương làm bảo đảm. Rồi với số tiền trong tay, đứa con trai theo lệnh của mẹ, chạy ra chợ mua ba chục cân thịt, hơn hai chục cân cá, một giỏ củ cải và một ít đồ gia dụng khác cho bữa tiệc. Từ sáng sớm ngày hôm trước, góa phụ Vương rất bận rộn lau rửa và sửa soạn món ăn, nấu rượu, và làm những việc vặt khác đến nỗi bà không có một phút nghỉ ngợi.
Khi khách tới, bà còn bận hơn nữa. Một mình bà, bà làm việc không nghỉ, hầu hạ khách, lúc nào cũng lo đổ đầy thức ăn vào những cái tô, hâm rượu nóng. Rượu đó cũng giống như mạch máu trong người bà bị hút cạn, nhưng lúc bà nào cũng cố giữ một nụ cười, và làm như có vẻ vô cùng vui thích với bổn phận của mình làm.
Một gã thô lỗ kêu lên, "Hày anh Hạnh Căn, đừng ngần ngại! Ðây không phải là một dịp hội hè, nhưng là một bữa ăn không tốn tiền. Coi kìa, anh không cần phải trả lại gì đâu, vậy thì ăn đi chứ! Ăn cho no đến cổ đi.”
Người tên là Hạnh Căn trả lời, "Ông bạn nói phải lắm. Tại sao lại chậm chạp nhỉ? Hãy ăn đi vì cơ hội ăn như thế này cũng hiếm lắm... Ðúng ra cô gái A Múi, tuy không biết xấu hổ, nhưng trông khá đẹp. Bao nhiêu con gái quanh đây có thể thể sánh được với con bé đó? Thực ra...”
Gã thứ ba la lên, "Càng có nhiều con gái như A Múi thì càng có nhiều tiệc nhậu. Riêng tôi, tôi hy vọng chúng ta sẽ có dịp nữa --".
"Ái chà, Lão Phá ơi! Lúc nào cũng khoe khoang. Ông bạn là một tên quỷ lúc nào cũng thèm khát đàn bà! Nhưng đừng quên trong vụ này: đứa con gái ngay dưới mũi ông bạn lại đi chọn một thằng cha ở làng bên cạnh, chứ không phải ông bạn!"
"Lão Phá, hà hà!"
"Hà! Lão Phá dở quá!"
Góa phụ Vương có vẻ như không hiểu những lời phẩm bình của khách, và chỉ cúi xuống cho tròn nhiệm vụ hầu hạ, và luôn giữ một nụ cười trên mặt. Bà không dám cau mặt lấy một lần. Nhưng A Múi nghe thấy hết và run sợ, và bò lết thật xa tới chân tường. Nàng không biết cảm giác nàng đang trải qua là sự nhục nhã hay kinh hoàng, hoặc phẫn nộ, hoặc chỉ là một nỗi buồn nặng nề, nhưng có một cái gì giống như một tảng đá dường như đè bẹp nàng xuống, và tim nàng nóng cháy như bị một con dao bằng sắt nung đỏ đâm vào. Mấy hôm trước nàng đã can đảm phó mặc thân mình cho bất cứ cái gì mà số phận đem đến, nhưng bây giờ nàng chỉ còn muốn bò lê.
Dưới chân ngọn núi Hồng Tử Sơn là một cánh rừng rậm, đầy những cây thông và các loài cây khác. Một con suối nhỏ chảy qua một cánh đồng trồng bắp. Bên cạnh cánh đồng là một dãy bảy căn nhà, phần lớn đã cũ kỹ và xiêu vẹo. Chỗ này là làng Ðào. Tuy nhiên trong làng chẳng có ai họ Ðào cả. Bốn trong số bảy căn nhà này là của gia đình họ Trần, căn nhà cuối dãy phía tây là nhà từ đường để thờ tự linh hồn người chết, và ở giữa dãy là một căn nhà tương đối mới và đẹp đẽ của phú ông họ Trần.
Chính trong căn nhà thứ bảy, căn nhà nghèo nhất, chỉ có năm phòng nhỏ của gia đình họ Vương, là nơi A Múi đang nằm ẩn nấp. Thực ra nửa căn nhà này đã cầm cho phú ông họ Trần rồi. Hai năm trước khi ông già Vương chết, họ Trần đã cho người góa phụ vay bốn chục ngàn để có tiền làm tiệc ma chay cho chồng. Do đó bây giờ bà Vương sống với con trai, thằng Tiểu Bội, và người con gái, A Múi, trong phía sau của túp lều mà không thuộc quyền của Trần phú ông. Trong căn phòng kế nhà bếp -- đúng hơn là trong góc bếp, vì chiếc giường được ngăn khỏi nhà bếp bằng một vài tấm ván mỏng -- A Múi run rẩy và nín thở suốt ngày trong một nỗi kinh sợ khó hiểu. Một vài cái thớt và những giỏ tre trống rỗng dựa vào tường nhà bếp.
Nhà bếp lúc này đang rất ồn ào. Có bốn chiếc bàn vuông bằng gỗ, có ghế kê hai bên, và những chiếc ghế này cùng với những người ngồi trên ghế đã làm chật cứng căn phòng nhỏ. Tất cả người ta có thể đếm được hơn ba mươi người, không những chỉ có dân làng Ðào mà thôi, mà còn có khách từ các làng Dự và Hồng Tường bên cạnh nữa. Họ ngồi ăn nhậu một cách thỏa thuê. Phần lớn khách mặc quần áo vải xanh hoặc trắng, và đi chân đất. Tuy nhiên có ba người mặc áo choàng dài là Trần phú ông, Ngô thương gia, một người biết đọc biết viết, và vị Lão Trượng Tóc Bạc được kính trọng vì tuổi tác. Rất ít khi những nhân vật mặc áo dài này đến thăm một nơi bần hàn như thế, và hiển nhiên họ biết rằng sự hiện diện của họ đem lại sự trang trọng cho bữa tiệc.
Ðồ ăn thì khá sơ sài, chỉ có bốn chiếc tô lớn đựng thịt, cá, củ cải và canh trên mỗi bàn. Nhưng bốn tô này được múc thêm luôn luôn, và mỗi lần múc thêm thì lập tức lại vơi đi ngay. Ngoài ra một lát nữa, các người đàn bà trong làng cũng được mời ăn nữa. Mọi người ăn đến phình bụng, tự động lấy thịt và rót rượu mà không cần phải giữ mẽ; sự hiện diện của họ trong bữa tiệc cũng chẳng có thiện ý gì, mà chính là một biện pháp trừng phạt bà mẹ của một đứa con gái không biết xấu hổ. Họ không quan tâm đến gánh nặng tài chính cho bà góa phụ họ Vương! Ðó là cách bảo vệ phép công.
Sự thực là phải cầm nốt nửa căn nhà còn lại thì người đàn bà khốn khổ ấy mới có đủ tiền để đãi bữa tiệc kỳ lạ này. Một người tình cảm có thể nhận xét rằng những đồ ăn mà khách gắp bằng những đôi đũa kia quả thực là máu và thịt của góa phụ Vương, vì bữa tiệc này là một sự khánh tận cho bà. Tuy nhiên bằng sự hy sinh này bà mới có thể cứu được mạng sống cho con gái. Không ai có thể phủ nhận được con gái bà phạm tội đó. Mặc dù một tội như thế đòi hỏi ít nhất hai người mới có thể phạm được, nhưng luật lệ mạnh mẽ bất thành văn của Trung hoa chỉ bắt một mình con gái bà chịu trách nhiệm, và cho phép bất cứ người dân làng nào cũng có quyền đánh, mắng chửi, hành hạ hoặc giết nàng nếu người đó cho rằng làm thế là thích đáng. Vậy thì liệu mạng sống của đứa con có thể được cứu thoát bằng bữa tiệc tốn kém đãi những dân làng bị xúc phạm, và nhất là xin được lòng thương của Trần phú ông, Ngô thương gia và vị Lão Trượng Tóc Bạc không? Mặc dù cuối cùng chính bà có thể kiệt quệ đến chết, nhưng bà góa phụ cũng nhất quyết thực hiện cho được bữa tiệc này.
Hai ngày hôm trước, vào lúc buổi chiều, bà đã phải sai đứa con trai tới nhà Trần phú ông. Ðứa con trai đã phải cúi lạy, van xin lòng thương xót và xin vay một số tiền ba chục ngàn, và dùng phần còn lại căn nhà của góa phụ Vương làm bảo đảm. Rồi với số tiền trong tay, đứa con trai theo lệnh của mẹ, chạy ra chợ mua ba chục cân thịt, hơn hai chục cân cá, một giỏ củ cải và một ít đồ gia dụng khác cho bữa tiệc. Từ sáng sớm ngày hôm trước, góa phụ Vương rất bận rộn lau rửa và sửa soạn món ăn, nấu rượu, và làm những việc vặt khác đến nỗi bà không có một phút nghỉ ngợi.
Khi khách tới, bà còn bận hơn nữa. Một mình bà, bà làm việc không nghỉ, hầu hạ khách, lúc nào cũng lo đổ đầy thức ăn vào những cái tô, hâm rượu nóng. Rượu đó cũng giống như mạch máu trong người bà bị hút cạn, nhưng lúc bà nào cũng cố giữ một nụ cười, và làm như có vẻ vô cùng vui thích với bổn phận của mình làm.
Một gã thô lỗ kêu lên, "Hày anh Hạnh Căn, đừng ngần ngại! Ðây không phải là một dịp hội hè, nhưng là một bữa ăn không tốn tiền. Coi kìa, anh không cần phải trả lại gì đâu, vậy thì ăn đi chứ! Ăn cho no đến cổ đi.”
Người tên là Hạnh Căn trả lời, "Ông bạn nói phải lắm. Tại sao lại chậm chạp nhỉ? Hãy ăn đi vì cơ hội ăn như thế này cũng hiếm lắm... Ðúng ra cô gái A Múi, tuy không biết xấu hổ, nhưng trông khá đẹp. Bao nhiêu con gái quanh đây có thể thể sánh được với con bé đó? Thực ra...”
Gã thứ ba la lên, "Càng có nhiều con gái như A Múi thì càng có nhiều tiệc nhậu. Riêng tôi, tôi hy vọng chúng ta sẽ có dịp nữa --".
"Ái chà, Lão Phá ơi! Lúc nào cũng khoe khoang. Ông bạn là một tên quỷ lúc nào cũng thèm khát đàn bà! Nhưng đừng quên trong vụ này: đứa con gái ngay dưới mũi ông bạn lại đi chọn một thằng cha ở làng bên cạnh, chứ không phải ông bạn!"
"Lão Phá, hà hà!"
"Hà! Lão Phá dở quá!"
Góa phụ Vương có vẻ như không hiểu những lời phẩm bình của khách, và chỉ cúi xuống cho tròn nhiệm vụ hầu hạ, và luôn giữ một nụ cười trên mặt. Bà không dám cau mặt lấy một lần. Nhưng A Múi nghe thấy hết và run sợ, và bò lết thật xa tới chân tường. Nàng không biết cảm giác nàng đang trải qua là sự nhục nhã hay kinh hoàng, hoặc phẫn nộ, hoặc chỉ là một nỗi buồn nặng nề, nhưng có một cái gì giống như một tảng đá dường như đè bẹp nàng xuống, và tim nàng nóng cháy như bị một con dao bằng sắt nung đỏ đâm vào. Mấy hôm trước nàng đã can đảm phó mặc thân mình cho bất cứ cái gì mà số phận đem đến, nhưng bây giờ nàng chỉ còn muốn bò lê.