DIỄN ĐÀN CÀ MAU
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
DIỄN ĐÀN CÀ MAU

Diễn Đàn Cà Mau - Tôi Yêu Cà Mau

Chào Mừng Bạn Đến Với Diễn Đàn Mũi Cà Mau
Chúc Các Bạn Vui Vẻ

Latest topics

» Thanh gia nhiệt, điện trở nhiệt, điện trở khô, điện trở đun hóa chất, điện trở lò nung
by tramanh09 2024-05-03, 11:55 am

» Tấm Graphite, Gioăng Graphite, Graphite bôi trơn, Graphite chịu nhiệt độ cao, bột Graphite
by tramanh09 2024-04-23, 4:32 pm

» Tổng đại lý nhập khẩu và phân phối dây đai băng tải, dây Curoa các loại
by tramanh09 2024-04-17, 3:11 pm

» Cầu chì công nghiệp , cầu chì động cơ, cầu chì tủ điện, cầu chì trạm biến áp
by tramanh09 2024-04-12, 8:31 am

» Tấm Graphite bôi trơn, Bột than chì, Tấm Graphite chặn đầu lò , Gioăng Graphite,
by tramanh09 2024-04-09, 9:46 am

» Cung cấp cầu chì trung thế , cầu chì cao thế , cầu chì tự rơi,
by tramanh09 2024-04-04, 10:04 am

» Tổng đại lý cung cấp các loại vòng bi công nghiệp chính hãng
by tramanh09 2024-03-25, 9:46 am

» Cung cấp cầu chì trung thế 6,6KV, 7.2KV, 11KV, 12KV, 24KV
by tramanh09 2024-03-19, 10:42 am

» Tấm Bạc trượt tự bôi trơn, bạc đồng lỗ Graphite, bạc Graphite, bạc đồng tiết dầu
by tramanh09 2024-03-14, 3:20 pm

» CHỔI THAN CÔNG NGHIỆP CHO NHÀ MÁY MÍA ĐƯỜNG
by tramanh09 2024-03-08, 4:34 pm

» Vòng bi công nghiệp, vòng bi NSK, vòng bi NTN, vòng bi SKF, Vòng bi NACHI
by tramanh09 2024-03-05, 10:54 am

» Vòng bi RENK, bánh răng RENK, gối trục RENK, gối đỡ RENK, vành chặn dầu RENK
by tramanh09 2024-02-28, 11:55 am


You are not connected. Please login or register

Truyện kiếp hiệp: Giang Hồ Tam Nữ Hiệp

Chuyển đến trang : Previous  1, 2

Go down  Thông điệp [Trang 2 trong tổng số 2 trang]

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 26 Tâm phúc nghi ngờ Song ma lại mời rượu Đồng môn tề tựu liên thủ diệt hung tăng


Tuy Liễu Ân uống thuốc giải nhưng chưa kịp vận khí điều nguyên, sau một hồi ác chiến, chất độc dần dần phát tác, biết không thể nào đánh lâu được, thế là y lộn người múa cây thiền trượng xông ra. Cung tiển thủ phóng tên, tên bay ra như mưa, chỉ trong chốc lát Liễu Ân đã chạy ra đến cổng, mắng lớn: “Niên Canh Nghiêu, con bà nhà ngươi, nếu lọt vào tay Phật gia, ta sẽ đánh gãy chân chó của ngươi!” rồi tung cước đá vỡ tung cánh cổng của nhà họ Niên, rồi vung hai trượng đánh nát hai con sư tử đá mới nghênh ngang bỏ đi.


Liễu Ân bỏ đi xong, Niên Canh Nghiêu bước xuống sân, chỉ thấy dưới đất toàn là tên gãy, trong lòng không khỏi kinh hãi, Song ma nói: “Để y chạy thoát, biết làm thế nào đây?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ta sẽ lập tức hoạch tội y, Hoàng thượng chắc chắn sẽ không tin lời y. ta lại bảo Xa Tịch Tà và Đổng Cự Xuyên bắt y, y làm sao thoát khỏi lòng bàn tay của ta”.


Liễu Ân chạy ra khỏi nhà họ Niên, càng nghĩ càng tức. Y chạy vào quả núi gần đấy, ngồi đả tọa một hồi đẩy chất độc ra, thầm nhủ: “Mình một tay khó vỗ nên kêu, có tìm tên tiểu tử trả thù cũng đánh không lại bọn chúng. Chi bằng về kinh bẩm cáo Hoàng thượng để người cách chức y, sau đó lại sẽ tìm y tính sổ”. Liễu Ân cứ tưởng rằng Ung Chính có thể lấy lại công bằng cho mình thế là một mình hầm hầm đi về phía Bắc.


Còn Phùng Lâm sau khi chạy thoát khỏi nhà họ Niên cũng lên phía Bắc, hôm sau đến Tân An, người trên đường qua lại đều để ý đến nàng, thầm nhủ: “Mình là con gái một thân một mình, khó tránh bị người ta để ý”. Nàng không biết rằng người ta để ý là vì nàng quá xinh đẹp. Phùng Lâm lại nghĩ: “Chắc bọn Liễu Ân sẽ không tha cho mình. Mình phải cải trang”. Lúc này đã vào trấn, chợt nghe phía sau có tiếng nhạc ngựa vang lên, Phùng Lâm quay đầu nhìn lại thì thấy một thư sinh thiếu niên mặt trắng không râu, ăn mặc trông rất sang trọng. Nàng thầm nhủ: “Bộ quần áo của người này trông thật đẹp, đêm nay mình phải cải trang thành y”. Nàng theo dõi thấy y vào một căn khách sạn cũng đi theo. Lão chưởng quầy đang bận rộn tiếp đãi, hỏi: “Xin hỏi đại gia cần một hay hai phòng?” thư sinh ấy nói: “Cái gì?” quay đầu nhìn lại thì thấy có một thiếu nữ tuyệt sắc đang đi phía sau, biết lão chưởng quầy hiểu lầm, cười rằng: “Ta đi chỉ có một mình, làm sao ở được hai phòng?” lão chưởng quầy cũng cười: “Tôi tưởng tiểu cô nương này đi cùng ngài”. Phùng Lâm hừ một tiếng, lão chưởng quầy nói: “Cô nương đừng trách, lâu nay rất ít phụ nữ đi một mình”. Thư sinh ấy thuê một phòng, Phùng Lâm cũng thuê một phòng, lão chưởng quầy nhíu mày, không dám cho nàng ở. Phùng Lâm nói: “Cái gì? Ngươi tưởng ta không có tiền?” rồi lấy ra hai thỏi vàng, lão chưởng quầy vội vàng cười: “Nào dám, nào dám, tiểu điếm hầu hạ sơ sài, chỉ sợ cô nương chê mà thôi”. Thế là vội vàng dắt nàng lên phòng.


Đến nửa đêm Phùng Lâm lẳng lặng ngồi dậy vọt lên mái ngói, nhảy đến phòng bên cạnh, kề tai lắng nghe, bên trong chẳng hề có tiếng tăm gì, nàng thầm cười: “Thư sinh này chắc không phải là người lăn lộn trên giang hồ, không cần phải cẩn thận”. Thế là bóp nát khung cửa sổ chui tọt vào, nàng mò mẫm đến bên giường, lấy bộ quần áo. Người trên giường chợt cười lạnh nhảy ra, đưa tay móc một cái, chụp trúng cổ tay của Phùng Lâm! Phùng Lâm trầm vai thu chỏ, rút tay ra, thư sinh ấy kêu ồ một tiếng, xỉa tay về phía trước đâm vào huyệt Thiên Trụ phía sau ót của nàng.


Đêm hôm tối tăm mà thư sinh vẫn nhận huyệt chẳng sai tí nào, chắc chắn y là một cao thủ, nếu là nửa năm trước, Phùng Lâm đã trúng đòn. Thư sinh ra tay nhanh như điện chớp, khi điểm tới, y chợt thấy mềm nhũn, ngón tay lệch qua một bên, Phùng Lâm trở tay vỗ lại một chưởng, Phùng Lâm bị chưởng lực của y đẩy qua một bên suýt nữa đã té sầm xuống, người ấy rất bất ngờ, cũng bị chưởng lực của Phùng Lâm đánh thối lui, y vội vàng lướt người đến cửa, đánh đá lửa lên, cười nói: “Ta đã thừa biết ngươi sẽ tới. Ngồi xuống, ngồi xuống, chúng ta từ từ nói chuyện, đừng kinh động đến người trong khách sạn”. Phùng Lâm thấy hành tung đã bại lộ nàng ngượng ngùng chỉ đành ngồi xuống.


Thư sinh ấy châm cây đèn dầu, cười nói: “Với võ công và diện mạo của ngươi, cớ gì phải làm kẻ trộm?” Phùng Lâm nói: “Làm sao ngươi biết ta đến ăn trộm?” thư sinh nói: “Từ sau khi gặp nhau, ngươi cứ đi sát theo ta, nếu không nhận ra điều đó, ta làm sao có thể đi lại trên giang hồ? Nhưng ngươi đã nhìn lầm rồi, ta tuy ăn mặc sang trọng nhưng chẳng có thứ gì đáng cho ngươi đánh cắp. Nếu ngươi thiếu tiền dùng, ta tặng ngươi một thỏi vàng, nhiều nữa thì ta không có”. Phùng Lâm cười nói: “Ai cần vàng của ngươi?” rồi nàng tháo chiếc nút trên áo ngoài, để lộ một sâu chân trâu, đó là chân phẩm trong hoàng phủ, mỗi viên trân châu đều bằng nhau, vừa tròn vừa lớn. Chỉ một viên chân trâu cũng đáng hai trăm lượng vàng. Thư sinh ấy thất kinh, dù y hiểu biết rộng rãi nhưng cũng không đoán được lai lịch của Phùng Lâm.


Thư sinh chợt nghĩ ngợi, rồi đột nhiên đưa tay sờ chui kiếm, gằn giọng nói: “Ngươi không phải là nữ anh hùng hắc đạo, chắc là nữ cao thủ của nha môn? Thất kính, thất kính!” Phùng Lâm bật cười nói: “Cái gì mà hắc đạo với bạch đạo, ta chẳng biết gì cả!” thư sinh nói: “Vây ngươi đến đây làm gì?” Phùng Lâm nói: “Bộ đồ của ngươi đáng bao nhiêu tiền? Bán cho ta!” Thư sinh ngạc nhiên, không đoán được dụng ý của nàng, không biết nàng đùa hay thật. Phùng Lâm nói: “Ta dùng sâu chân trâu này mua bộ đồ của ngươi, chắc ngươi không thiệt thòi chứ?” thư sinh nói: “Ngươi đang nói càn gì thế?” Phùng Lâm nói: “Ai rảnh đùa với ngươi!” thư sinh thấy nàng nói có vẻ nghiêm chỉnh, liền bảo: “Tặng ngươi một bộ đồ cũng đâu có đáng gì. Xin hỏi tôn sư là ai? Có thể cho biết danh tánh hay không?” Phùng Lâm lại bật cười, nói: “Chúng ta bèo nước gặp nhau, cần gì phải hỏi cho kỹ càng. Hơn nữa ta có nhiều sư phụ, làm sao có thể nói từng người cho ngươi biết”. Thư sinh nói: “Ngươi cần quần áo đàn ông để làm gì?” Phùng Lâm nói: “Ngươi không cho thì ta đi vậy”. Thư sinh này không đoán được lai lịch của Phùng Lâm thì chẳng cam lòng, y mỉm cười đứng dậy nói: “Nếu ngươi có bản lĩnh thì hãy cứ đi ra”. Phùng Lâm nghĩ: “Đánh nhau ta không sợ, nhưng sợ kinh động đến người khác thì không hay lắm” liền bải: “Nói cho ngươi nghe cũng chẳng sao, nhưng ngươi đừng rêu rao ra đấy nhé”. Thư sinh nói: “Đương nhiên”. Phùng Lâm nói: “Cha ta là một cường đạo, người buộc ta lấy một người ta không thích, nên ta bỏ chạy, nhưng người có rất nhiều tai mắt, ta sợ người ta bắt gặp nên phải cải dạng”.


Phùng Lâm đương nhiên nói dối, nhưng nàng nói như thế lại hợp với chuyện của Ngư Nương. Thư sinh ấy ngẩn ra nhìn nàng, chợt hỏi: “Năm nay ngươi được bao nhiêu tuổi?” Phùng Lâm nói: “Ngươi thật vô phép, hỏi tuổi tác người ta làm gì?” Thư sinh ấy cười ha hả: “Được, không hỏi thì không hỏi vậy. Ngươi cũng không cần cho ta biết lai lịch. Chúng ta hiểu lòng nhau là được”.


Phùng Lâm nói: “Vậy ngươi có chịu bán cho ta bộ quần áo không?” Thư sinh nói: “Ta tặng ngươi”. Phùng Lâm cả mừng đáp tạ. Thư sinh lại bảo: “Võ nghệ ta tuy kém cỏi, nhưng trên giang hồ vẫn có một vài bằng hữu. Ngày mai hãy đi cùng ta. Đảm bảo chẳng ai dám động thủ với ngươi”. Phùng Lâm thầm nhủ: “Thư sinh này thật lớn lối, mình phải xem thử y là nhân vật thế nào”.


Thư sinh này chẳng phải ai khác, đó chính là Lý Nguyên, đệ tử thứ sáu của Độc tý thần ni, cũng tức là sư đệ của Bạch Thái Quan. Y là một cộng tử thế gia ở Hồ Nam, mười năm qua không bước chân ra khỏi Lưỡng Hồ. Gần đây Cam Phụng Trì gởi thư bảo y trong ngày Thanh Minh phải lên Mang Sơn tế mộ phần sư phụ bởi vậy Lý Nguyên mới một mình lên miền Bắc.


Tuy nhiều năm qua Lý Nguyên không bước chân ra khỏi Lưỡng Hồ, nhưng vẫn còn trao đổi tin tức với các đồng môn. Y đã nghe loáng thoáng chuyện Bạch Thái Quan, bởi vậy những lời của Phùng Lâm lúc nãy khiến y nghi ngờ nàng là Ngư Nương. Nhưng nhìn lại nàng chỉ là một cô bé mười ấy tuổi đầu, mà chuyện của Bạch Thái Quan đã đồn trên giang hồ năm sáu năm trước. Theo lẽ Ngư Nương không đến nỗi trẻ tuổi như thế. Nhưng chợt nghĩ: “Phụ nữ biết thuật trụ nhang, nghe nói bát muội Lữ Tứ Nương trông chỉ giống như một thiếu nữ hai mươi tuổi. Nếu Ngư Nương được dị nhân truyền thụ, giữ được diện mạo thanh xuân cũng không lấy gì là lạ. Dù nàng không phải là Ngư Nương, mình cứ đi cùng nàng một đoạn, sau này lên Mang Sơn, hỏi ra sẽ rõ”.


Hôm sau Phùng Lâm thay trang phục nam tử, mua một thớt ngựa khỏe, quả nhiên đi cùng Lý Nguyên. Trên suốt quãng đường hai người cứ dùng lời dọ nhau, Phùng Lâm rất khéo léo, Lý Nguyên chẳng thể nào thử được. Đi được một đoạn, hai người xuống ngựa nghỉ ngơi, ngồi trò chuyện dưới bóng râm. Lý Nguyên nói: “Trên giang hồ nữ tử giỏi võ công có thể đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ Lữ Tứ Nương thì là Ngư Nương”. Phùng Lâm mỉm cười, trong lòng rất thắc mắc. Lý Nguyên lại nói: “Võ công của ngươi cũng thuộc hạng khá, ta thấy ngươi dù không bằng Lữ Tứ Nương nhưng cũng ngang tài ngang sức với Ngư Nương”. Phùng Lâm lại mỉm cười nói: “Ngươi đã gặp hai người bọn họ?” Lý Nguyên ngẩn người, nói: “Chưa từng gặp”. Phùng Lâm cười: “Nếu ngươi không gặp hai người bọn họ, sao biết võ công của họ đến mức nào mà so sánh bừa thế?” Lý Nguyên vốn chỉ muốn dọ hỏi nàng, không ngờ bị nàng hỏi đến cứng họng, gượng cười rằng: “Tuy chưa từng gặp nhưng cũng nghe đồn đãi, bởi vậy mới biết đại khái. Ngươi đã từng gặp bọn họ chưa?” Phùng Lâm cười nói: “Ta đã gặp. Võ công của Lữ Tứ Nương đúng là hiếm có. Ngư Nương tuy biết võ nghệ nhưng cũng chẳng ra sao”. Phùng Lâm đã nói sự thực. Năm ngoái nàng đã động thủ với Lữ Tứ Nương, Ngư Nương và Liễu Ân ở Tam Đàm Ấn Nguyệt ở Hàng Châu. Lý Nguyên nghe nàng khen Lữ Tứ Nương mà chê Ngư Nương, càng ngờ rằng nàng chính là Ngư Nương, đang định dò hỏi tiếp. Phùng Lâm chợt kêu: “Đi mau, đi mau!” Lý Nguyên ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy một nhà sư tay cầm thiền trượng xăm xăm bước tới, đó chính là Liễu Ân. Lý Nguyên thất kinh, Liễu Ân kêu lớn: “Lục đệ hãy thong thả, đã gần mười năm chúng ta không gặp nhau!” Phùng Lâm thấy Lý Nguyên không đi, nghĩ thầm: “Nếu ta mà đi, lập tức sẽ bị Liễu Ân nhận ra. Y võ công cực kỳ cao cường, cướp ngựa đuổi theo, mình chắc chắn không thoát nổi”. Bởi vậy mới giả vờ trấn tĩnh, hờ hững dựa vào gốc cây, trong lòng nghĩ cách thoát thân.


Mười năm qua Lý Nguyên không gặp Liễu Ân nhưng cũng biết những việc làm của Liễu Ân gần đây, trong lòng thầm kêu khổ. Liễu Ân nói: “Sư đệ có khỏe không? Bằng hữu này là ai thế?” cũng như những đồng môn khác, võ công của Lý Nguyên quá nửa là do Liễu Ân truyền thụ, tuy biết y đã phản thầy nhưng cũng phải chào hỏi đàng hoàng tử tế, đáp rằng: “Vẫn bình an. Bằng hữu này chỉ là người khách qua đường”. Liễu Ân kêu ồ một tiếng, nheo mắt nhìn Phùng Lâm. Lý Nguyên nói: “Nghe nói gần đây sư huynh được nhiều điều đắc ý”. Liễu Ân nói: “Ồ, sư đệ không vui cho ta sao?” Lý Nguyên không dám đáp, Liễu Ân vẫn nhìn Phùng Lâm, Lý Nguyên thầm trách Phùng Lâm không hiểu lễ tiết giang hồ, bước tới nói với nàng: “Đây là Liễu Ân sư huynh của ta, ngươi hãy đến chào hỏi”. Phùng Lâm vung tay, chợt phóng ra ba mũi trủy thủ, một mũi bắn về phía con ngựa của Lý Nguyên, hai mũi bắn về phía Lý Nguyên, Lý Nguyên không kịp đề phòng nên chỉ tránh được một mũi, bị mũi kia bắn trúng vai trái bổ nhào xuống đất. Phùng Lâm phóng lên thớt ngựa, lấy trủy thủ đâm vào mông ngựa, thớt ngựa hí dài rồi tung vó chạy về phía trước!


Té ra Phùng Lâm nghe Liễu Ân và Lý Nguyên xưng huynh gọi đệ, trong lòng thầm tính: “Nếu không chạy cho mau, lát nữa huynh đệ bọn chúng hiểu ra, mình sẽ hỏng bét”. Nàng tuy tuổi còn nhỏ nhưng lắm mưu kế, biết Liễu Ân võ công cực cao, chắc chắn không thể phóng phi đao trúng y được bởi vậy mới phóng sang Lý Nguyên, thầm nhủ: “Sư đệ của y bị thương, y chắc chắn chẳng rảnh đuổi theo mình”. Phùng Lâm nghĩ không sai, nhưng đã vô cớ đả thương Lý Nguyên.


Liễu Ân thấy Phùng Lâm phóng lên ngựa bỏ chạy, đuổi theo không kịp nên quả nhiên cứu Lý Nguyên trước. Thực ra Lý Nguyên cũng chẳng thương yêu gì người sư đệ này mà muốn trị xong cho Lý Nguyên, buộc Lý Nguyên theo mình vào kinh. Liễu Ân xé lớp áo ngoài của Lý Nguyên, khoét thịt nặn chất độc ra, y vừa chạm vào người Lý Nguyên, lòng chợt nảy ra một ý, thế là mò mẫm trong người Lý Nguyên, lấy ra được một viên sáp, Liễu Ân bóp nát viên sáp, bên trong có một mẩu giấy, té ra đó là thư của Tăng Tịnh gởi cho Nhạc Chung Kỳ. Tăng Tịnh là bằng hữu của phụ thân Nhạc Chung Kỳ. Bức thư này khuyên Nhạc Chung Kỳ sau khi lấy được binh quyền thì nên dấy binh kháng Thanh. Liễu Ân tuy không biết nhiều chữ, nhưng vẫn hiểu được đại khái, thầm nhủ: “Nhạc Chung Kỳ là phó thủ của Niên Canh Nghiêu, có bức mật hàm này làm bằng chứng, mình có thể lật nhào cả Niên Canh Nghiêu”. Y nghĩ có thể trả thù, bất giác cả mừng. Lúc này Liễu Ân đã đổi ý, chỉ muốn áp giải Lý Nguyên về kinh lãnh thưởng, còn việc y có theo mình hay không cũng chẳng quan trọng


Hồi sau, Lý Nguyên dần tỉnh lại, thấy trong tay Liễu Ân cầm một mảnh giấy vẻ mặt nhơn nhơn. Lý Nguyên toát mồ hôi lạnh, biết sự việc đã bại lộ, thế là liều mạng vùng lên chạy, Liễu Ân cười lạnh đẩy một cái khiến Lý Nguyên té sấp xuống đất.


Liễu Ân quát: “Ngươi làm gì thế?” Lý Nguyên kêu lên: “Sư huynh, huynh có phải là người Hán không?” Liễu Ân nói: “Người Hán thì thế nào?” Lý Nguyên nói: “Nếu là người Hán thì hãy trả bức thư cho đệ”. Liễu Ân hừ một tiếng, nói: “Ngươi hãy ngoan ngoãn theo ta đi Bắc Kinh”. Lý Nguyên lại nói: “Huynh đã quên lời dặn của sư phụ rồi sao?” Liễu Ân cười rộ nói: “Sư phụ đã chết, nay ta chính là sư phụ của các ngươi”. Lý Nguyên nổi cáu nói: “Hay thật, Liễu Ân! Ngươi hãy giết ta đi!” “Ngươi muốn chết đâu có dễ, có điều ngươi cũng biết thủ đoạn của ta, ngươi muốn ta dùng thủ pháp Phân cân thác cốt lột da bẻ xương ngươi hay muốn ta dùng thủ pháp điểm huyệt khiến ngươi khó chịu đến ba ngày rồi chết?” hai thủ pháp này đều là hình phạt cực kỳ lợi hại, thủ pháp Phân cân thác cốt còn đau đớn hơn cả bị tùng xẻo, nhưng nếu bị y dùng thủ pháp độc ác điểm huyệt, cầu sống không được cầu chết không xong, còn đau khổ hơn cả bị tùng xẻo. Lý Nguyên xuất thân từ nhà giàu, bất giác lạnh mình. Liễu Ân thấy y tái mặt, cười rằng: “Ngươi đã nghĩ kỹ chưa?” Lý Nguyên từng đọc thi thư, nhớ đến câu “Người sống từ xưa ai chẳng chết, để lại lòng son chiếu sử xanh”, thế là đảm khí tăng lên, mắng rằng: “Không cần lắm lời, nếu ta sợ chết thì không phải là Giang Nam thất hiệp nữa!”


Liễu Ân cười gằn, kéo Liễu Ân đến sát mình, giơ bàn tay to lớn bóp vào cổ của Lý Nguyên. Lý Nguyên nhắm mắt đợi chết, chỉ nghe Liễu Ân cười nói: “Đáng tiếc từ rày về sau, Giang Nam thất hiệp chỉ còn lại sáu người. Ngươi cứ mãi nhắc đến di huấn của sư phụ, vậy ta cho ngươi đi gặp sư phụ! Từ đây cách Mang Sơn rất gần, ngươi có muốn ta chôn ngươi cùng sư phụ không?” Lý Nguyên nảy ra một ý, nghĩ bụng ngày mai có thể đến Mang Sơn, tuy không sợ chết nhưng nếu có một tia hy vọng cũng không thể bỏ qua. Liễu Ân đã chạm vào xương cổ của y, Lý Nguyên kêu lớn: “Sư huynh, đệ nghe theo huynh”. Liễu Ân cười ha hả, buông tay thầm nhủ: “Anh chàng công tử này quả nhiên sợ đến vãi đái!” Lý Nguyên nói: “Đệ sẽ theo huynh về Bắc Kinh, nhưng mong huynh đừng liên lụy đến Tăng lão tiên sinh”. Liễu Ân hừ một tiếng nói: “Sau này hẵng tính. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn nghe lời, ta có thể nương tay”. Liễu Ân lại hỏi Phùng Lâm làm sao đi cùng với y, Lý Nguyên trả lời thật tình. Liễu Ân biết mười năm nay y không bước chân ra khỏi giang hồ. Đoán rằng y chẳng phải nói dối. Bởi vậy không hỏi nhiều, tiếp tục lên đường.


Trưa ngày hôm sau đi ngang qua chân núi Mang Sơn, Liễu Ân nghe tiếng nước Hoàng Hà chảy ầm ầm, nhìn lại Mang Sơn cao ngất, nhớ đến chuyện xưa, bất giác đưa mắt nhìn xung quanh, Lý Nguyên chợt nói: “Sư huynh, hôm nay là ngày mấy?” Liễu Ân nói: “Ai mà nhớ”. Lý Nguyên nói: “Hôm nay chính là tiết Thanh Minh!” Liễu Ân tính lại quả nhiên không sai, nói: “Tiết Thanh Minh thì thế nào?” Lý Nguyên nói: “Sau khi sư phụ chết, tiểu đệ đã nhiều lần muốn lên tảo mộ nhưng vì công việc bận rộn, chưa thể nào đi được. Trong lòng hối hận vô cùng. Hôm nay tiết Thanh Minh đi ngang qua núi. Tiểu đệ xin sư huynh khai ân, cho đệ lên núi lạy trước mộ sư phụ”. Liễu Ân đỏ mặt, mình cũng chưa bao giờ đến tảo mộ sư phụ. Liễu Ân chẳng hề để ý đến cái chết của Độc tý thần ni, nhưng Độc tý thần ni dẫu sao cũng là sư phụ của y, nay đã đi ngang qua núi, lại là tiết Thanh Minh, bởi vậy cũng có ý tảo mộ, thế mới đáp: “Thôi được, chúng ta lên núi”. Rồi nắm tay Lý Nguyên dắt lên Mang Sơn.


Phong cảnh mùa xuân ở Mang Sơn thật đẹp, hoa rừng đua nhau khoe sắc. Đi một hồi đã lên đến ngọn núi chính, dòng thác trên núi buông xuống, tia nước bắn tung tóe. Liễu Ân tuy ham mê cảnh phồn hoa, nhưng lúc này cũng không khỏi thấy thoải mái. Ngẩng đầu nhìn lên, y vẫn còn nhớ mõm đá nhô ra ở phía trước mặt chính là nơi sư phụ dạy mình khinh công, chỉ vì từ nhỏ căn cơ của mình không tốt, bởi vậy không luyện khinh công đến mức đăng phong tạo cực. Y lại nhớ tảng đá lớn bên cạnh dòng suối là nơi mình thử trượng, dấu trượng trên đá chắc vẫn còn. Liễu Ân vừa đi vừa nghĩ ngợi, một hồi sau đã cùng Lý Nguyên lên đến đỉnh núi.


Trên đỉnh núi, hai con chim điêu của Độc tý thần ni bay lượn kêu vang trời tựa như tiếp khách. Liễu Ân kêu: “Tiểu bạch tiểu hắc”. Hai con điêu bay lướt qua đầu Liễu Ân, Liễu Ân kêu lên: “Ồ, tiểu bạch tiểu hắc chẳng thèm để ý đến ta nữa!” chợt nhớ rằng năm nay mình đã gần sáu mươi, rời khỏi Mang Sơn cũng hơn hai mươi năm, “tiểu bạch tiểu hắc” cũng trở thành “lão bạch lão hắc” cả rồi.


Hai con chim điêu xuất hiện, Lý Nguyên phấn chấn tinh thần, tiếp tục bước tới, từ xa có thể nhìn thấy khu vườn mộ. Liễu Ân chợt nói: “Ồ, bên đó có người”. Nói chưa dứt, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đột nhiên xuất hiện, Liễu Ân thất kinh, quay người chụp Lý Nguyên, Lý Nguyên đã chạy ra xa, Lữ Tứ Nương huýt một tiếng sáo, hai con điêu từ trên không bổ xuống, Liễu Ân cả giận, quét cây thiền trượng lên ngang đầu, quát: “Hai con súc sinh các ngươi cũng dám bức hiếp ta!” hai con chim điêu chỉ lướt xuống rồi lại bay lên, chỉ trong chớp mắt, Lữ Tứ Nương đã vung kiếm phóng tới trước, dắt Lý Nguyên chạy lên.


Liễu Ân nổi cáu, Lữ Tứ Nương mỉm cười, trên núi có một đám người đi xuống, không những có sáu sư đệ mà cả Quan Đông tứ hiệp và Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh cũng đến. Châu Tầm lạnh lùng nói: “Liễu Ân, ngươi cũng tới sao?”


Lúc này Lý Nguyên mới biết người cứu mình là Lữ Tứ Nương, y rất kinh ngạc. Cam Phụng Trì đã thấy y bị thương ở vai, Lý Nguyên kể rõ mọi việc, Châu Tầm nói: “Hiếm có dịp ngươi đến đây, mời lên trước mộ sư phụ nói chuyện”.


Liễu Ân nghĩ cách thoát thân, cầm cây thiền trượng hiên ngang đi về phía trước, chỉ trong chốc lát đã đến vườn mộ, chỉ thấy bia mộ viết rằng “Tiền Minh công chúa võ lâm hiệp ni chi mộ” góc trái có ghi tên của các môn nhân: Châu Tầm, Lộ Dân Đảm, Tào Nhân Phụ, Bạch Thái Quan, Lý Nguyên, Cam Phụng Trì, Lữ Tứ Nương nhưng không có tên của Liễu Ân. Liễu Ân giằng cây thiền trượng xuống đất, nói: “Lập bia mộ này là chủ ý của ai? Ai viết chữ?”


Cam Phụng Trì nói: “Chính ta đã hỏi ý kiến các đồng môn rồi lập lên. Còn chữ trên bia mộ là do tam ca viết, thế nào?” Liễu Ân nói: “Vậy tại sao ngươi không hỏi ý ta? Trên bia mộ sao không có tên của ta?” Cam Phụng Trì im lặng không đáp. Châu Tầm nói: “Hôm nay chúng ta đã tề tựu ở đây, giờ hành lễ theo thứ tự”.


Bảy người xếp thành một hàng, Châu Tầm đứng đầu đang định hành lễ. Liễu Ân nhảy vọt tới trước, vỗ vù một chưởng đẩy Châu Tầm ra chiếm ở phía trước. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lữ Tứ Nương phóng vọt lên chặn trước mộ, giơ ngang trường kiếm, lạnh lùng nói: “Đồng môn bọn ta tảo mộ, người ngoài không được tham dự. Ngươi muốn quỳ bái, phải đợi bọn ta tế xong đã”.


Liễu Ân kêu lên: “Phản rồi, phản rồi! Khi ta nhập môn ngươi vẫn còn chưa ra đời, thế mà giờ đây ngươi quản cả ta!” Châu Tầm phóng lên một tảng đá lớn nói: “Các đệ tử của Độc tý thần ni xin tế cáo trước linh tiền xuống sư phụ, đuổi phản đồ Liễu Ân ra khỏi sư môn. Nhân lúc các vị tiền bối võ lâm ở đây, hôm nay công cáo thiên hạ!” Liễu Ân phóng lên tảng đá, Lữ Tứ Nương cũng bước tới đứng bên cạnh Châu Tầm. Châu Tầm tiếp tục nói: “Phản đồ Liễu Ân phản sư phản đạo, hôm nay bọn đệ tử nghe theo di huấn của sư phụ, thanh lý môn hộ. Mong các vị tiền bối võ lâm làm chứng”. Châu Tầm nói xong, Cam Phụng Trì quát: “Liễu Ân, ngươi còn muốn bọn ta ra tay?” Liễu Ân cười lạnh, đột nhiên xoay người vọt một cái, cây thiền trượng múa thành một vòng tròn, Lộ Dân Đảm và Bạch Thái Quan vội tránh ra, Liễu Ân xông ra chạy lên ngọn núi phía bên trái. Đó là chỗ bọn Quan Đông tứ hiệp xem lễ, con gái của Tào Nhân Phụ là Tào Cẩm Nhi cùng Ngư Nương đang ngồi trên tảng đá trò chuyện, Liễu Ân đột nhiên xông tới, Ngư Nương kinh hoảng kêu một tiếng, rút đao phóng ra, Tào Cẩm Nhi chạy ra phía trước, bị Liễu Ân chụp trúng, y kêu lớn: “Ai dám lên đây!”


Cam Phụng Trì mắt như đổ lửa, cao giọng kêu: “Liễu Ân, ngươi thật vô sỉ! Sắp chết mà vẫn còn bức hiếp tiểu bối!” Liễu Ân cười ha hả, giơ Tào Cẩm Nhi lên không xoay một vòng, cười lạnh nói: “Tào Nhân Phụ, ngươi đã lớn tuổi, chắc là không trẻ con như bọn chúng, ngươi hãy nói một câu công bằng!”


Tào Nhân Phụ xếp hàng thứ tư trong các đồng môn, lớn hơn Liễu Ân đến hai tuổi. Tào Cẩm Nhi là con gái độc nhất của ông ta, bởi vậy ông ta cưng như trứng mỏng. Lúc này Tào Nhân Phụ thấy con gái trong tay Liễu Ân, lòng đau đớn vô cùng, rung giọng nói: “Liễu Ân, ngươi có còn là người không?” Liễu Ân cười hì hì, Tào Nhân Phụ nói: “Các đồng môn đã quyết định thì chẳng sai, dù ngươi có giết Cẩm Nhi, ta cũng nói ngươi là phản đồ!” lúc này Liễu Ân chợt thét một tiếng, vung tay ném Tào Cẩm Nhi xuống vực! Trủy thủ của Cam Phụng Trì và Mai Hoa châm của Bạch Thái Quan đều bắn về phía Liễu Ân nhưng nào trúng được y!


Mọi người đều kêu hoảng, Tào Nhân Phụ suýt nữa ngất xỉu. Lữ Tứ Nương đột nhiên vọt xuống sơn cốc, Liễu Ân mặt tái xanh, nói: “Hay thật, bọn tiểu bối các ngươi dám ám toán ta”. Cam Phụng Trì rút đao xông lên, xem ra sắp đánh nhau với Liễu Ân. Bạch Thái Quan kêu: “Ồ, bát muội đã lên, còn có một người nữa”. Chỉ trong chớp mắt, Lữ Tứ Nương đã bế Tào Cẩm Nhi phóng lên, Tào Nhân Phụ chạy tới đỡ Tào Cẩm Nhi, Lữ Tứ Nương nói: “Không sao!” Tào Nhân Phụ bế con gái vào lòng, chỉ thấy chân tay nàng bị thương, áo quần nhuốm máu nhưng vẫn còn sống, bất giác mừng đến phát khóc.


Té ra Tào Cẩm Nhi vốn tính tình cứng rắn, tuy võ công của nàng không bằng Liễu Ân, nhưng trong lúc nguy cấp vẫn nhớ đến một tuyệt chiêu cứu mạng mà Dịch Lan Châu đã dạy, nàng móc chân lên trên, đá trúng vào mạch môn của Liễu Ân, Liễu Ân buộc phải ném ra ngoài, may mà Lữ Tứ Nương khinh công cao cường, nhảy xuống chụp được chân của nàng nên mới cứu được.


Lúc này Cam Phụng Trì mới quát: “Liễu Ân, tên hèn hạ nhà ngươi còn dám đứng ở đây?” Liễu Ân tự cho mình là anh hùng, mắng rằng: “Ta hèn hạ? Ngươi có dám tử chiến với ta không?” Cam Phụng Trì nói: “Tự làm tự chịu, ngươi đã làm điều ác mà không chịu nhận. Chẳng phải là kẻ hèn nhát sao?” Liễu Ân cả giận, nói: “Được, chúng ta đến trước mộ sư phụ, ta phải xem thử các ngươi làm gì được ta?” Liễu Ân tuy nói cứng nhưng trong lòng đã hoảng, y đang định tìm lời thoát hiểm.


Liễu Ân bước đến trước mộ sư phụ, đứng ở chỗ cao nhất, cười lạnh nói: “Các ngươi mời nhiều bằng hữu võ lâm đến đây, ta có chết cũng chẳng sợ!” Cam Phụng Trì nói: “Nói càn, bọn ta thanh lý môn hộ, đâu cần mượn ta người ngoài!” Liễu Ân hơi yên lòng, lại nói: “Ngoại trừ Lữ Tứ Nương, sáu người các ngươi đều do ta đích thân dạy dỗ, các ngươi bảo thanh lý môn hộ, ta cũng thanh lý môn hộ, tốt xấu gì ta cũng là sư huynh của các người, coi như là một nửa sư phụ của các người, hôm nay các người phạm thượng, đồng tình giết thầy, trước tiên ta sẽ trừng phạt các ngươi, xem võ nghệ của các ngươi có đủ giết được ta hay không!” bọn Cam Phụng Trì vốn muốn cùng Lữ Tứ Nương vây công, nhưng thấy y huênh hoang, rõ ràng là nói sáu người họ không phải là đối thủ của y, Châu Tầm lên tiếng trước: “Hay lắm, bọn ta sẽ để cho ngươi chết được nhắm mắt, vậy ngươi muốn thế nào?” Lữ Tứ Nương nói: “Ta và ngươi không có tình đồng môn, hôm nay ngươi không thể nào thoát được!” Liễu Ân tức giận nói: “Nếu trận thứ nhất ta thua, các ngươi sẽ định tội, nếu ta thắng, sẽ lại tỉ thí với ả tiện tì kia!” trong số các đồng môn, y ngại nhất là Lữ Tứ Nương, nhưng nghĩ thầm: “Nếu đơn đả độc đấu chắc chắn có thể thắng nàng” nên mới dùng lời gạt nàng ra ngoài rồi vung gậy cao giọng kêu: “Được, các ngươi cùng xông lên!” rồi bổ một gậy về phía Châu Tầm!


Võ công của Châu Tầm không giỏi lắm, y rút cây kích gạt lên, chỉ thấy hai tay đều tê rần, Cam Phụng Trì phóng vọt tới, tay phải cầm đơn đao đánh một chiêu Bạt Vân Kiến Nhật, chém ngang qua, tay trái móc lại thi triển thủ pháp Cầm Nã móc mạch môn của Liễu Ân, rõ biết là không kìm chế y được, dụng ý chẳng qua là yểm hộ cho Châu Tầm. Liễu Ân lanh lẹ lạ thường, y quét đơn đao của Cam Phụng Trì ra, rồi đánh vù một chưởng, bề ngoài là đánh Cam Phụng Trì ở trước mặt nhưng thực sự là đánh Lộ Dân Đảm ở bên cánh trái, Châu Tầm lướt bước giơ kích đâm mũi kích vào sau ót của Liễu Ân, Liễu Ân rùng người xuống, cây trượng đẩy ra sau kêu keng một tiếng, gạt cây phương thiên họa kích của Châu Tầm bay ra, chưởng trái vỗ vào ngực của Lộ Dân Đảm, Bạch Thái Quan nhảy vọt lên, bổ cây Quỷ Đầu đao xuống, chàng ta liền múa tít Bàn long đao pháp, nhất thời một vòng ngân quang chói lòa trước mắt Liễu Ân, Liễu Ân buộc phải rút chưởng phòng thân, thi triển thủ pháp tay không đoạt binh khí lao vào Bạch Thái Quan, tay phải cầm thiền trượng quét một lượt mấy món binh khí ra ngoài. Lý Nguyên bị thương vẫn chưa bớt, y múa cây roi bảy đốt quét xuống hạ bàn của Liễu Ân, Liễu Ân xoáy cây thiền trượng, cây roi bảy đốt quấn lên cây trượng, Liễu Ân quát: “Đi!” rồi ngầm vận nội lực giật một cái, cây roi bảy đốt của Lý Nguyên bị chấn động đứt thành ba đoạn. Lý Nguyên cả kinh nhảy ra khỏi vòng, Châu Tầm nhặt cây kích tiếp tục xông lên, Tào Nhân Phụ nói: “Lục đệ, hãy nghỉ một lát”. Lý Nguyên nghiến răng: “Cùng tiến cùng lui, không giết lão tặc, thề không ngừng tay!” rồi tháo sợi đai ra, múa tít tựa như con Du long, vẫn triển khai chiêu số nhuyễn tiên. Sợi dây đai hoàn toàn không chịu lực, không sợ bị đánh đứt, tuy không dồn Liễu Ân vào chỗ chết nhưng cũng có tác dụng kìm chế. Tào Nhân Phụ sử dụng một cây thiết tì bà có thể khóa chụp các loại binh khí hoặc cổ tay, trong cây tì bà lại chứa ám khí, lúc này cũng liều mạng già xông tới, Liễu Ân không dám không đề phòng.


Đôi bên đánh nhau đến trời đất tối sầm, nhật nguyệt tắt ngấm. Liễu Ân dốc hết tuyệt kỹ, chỉ nghe trượng phong kêu lên vù vù, trong phạm vi mấy trượng đều là tiếng gió, những người có công lực hơi thấp đều bị trượng phong đánh lệch binh khí ra. Nhưng bọn Châu Tầm lấy sáu địch một hô ứng lẫn nhau, Liễu Ân cũng không dễ phá vỡ trận thế. Lại thêm Cam Phụng Trì chỉ kém Liễu Ân không bao nhiêu, chàng và Bạch Thái Quan hợp lực tấn công trung lộ, chặn cây thiền trượng của Liễu Ân. Tào Nhân Phụ và Lộ Dân Đảm tấn công ở mặt trái mỗi khi nguy cấp, Tào Nhân Phụ lại nhấn vào cây thiết tì bà phóng ra ám khí; Lý Nguyên và Châu Tầm tấn công cánh phải phối hợp kìm chế. Sáu người chia thành ba nhóm bao vây Liễu Ân.


Quần hùng trên núi đều kinh tâm động phách, tuy trong lòng nôn nóng nhưng không tiện rút đao tương trợ. Lữ Tứ Nương thì khí định thần nhàn, dựa vào gốc cây đứng xem, chốc chốc lại mỉm cười. Huyền Phong nói: “Xem ra Giang Nam lục hiệp không thắng được sư huynh của họ, trận thứ hai chỉ có một mình Lữ Tứ Nương càng khó thắng hơn, có lẽ tên hung tăng này sẽ thoát hiểm!”


Dương Trọng Anh nói: “Nếu y thắng liền hai trận, khi xuống núi chúng ta lại sẽ chặn đánh y tiếp. Chúng ta trừ hại cho võ lâm, chẳng liên quan gì đến việc họ thanh lý môn hộ”. Liễu Tiên Khai cười nói: “Lão tiền bối không cần lo lắng, lát nữa xin mời xem Lữ Tứ Nương ra tay”. Trong Quan Đông tứ hiệp, Liễu Tiên Khai đã từng lãnh giáo bản lĩnh của Lữ Tứ Nương nên rất có lòng tin đối với nàng.


Đôi bên đã quần thảo một canh giờ, bọn sáu người Châu Tầm đều cảm thấy công lực của Liễu Ân cao hơn trước, Liễu Ân cũng cảm thấy sáu sư đệ không còn như ngày trước. Trong lúc kịch chiến Liễu Ân dần dần toát mồ hôi trán, hơi thở nặng nề, hai bên vẫn khó phân thắng bại. Liễu Ân thầm nhủ: “Không xong, mình vốn có sở trường dẻo dai, nhưng lúc này không nên đánh lâu với bọn chúng nữa”. Thế là trượng pháp thay đổi, liên tục đánh ra những đòn sát thủ. Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan dốc hết toàn lực mới chặn được, bốn người kia không dám tiến tới gần, Liễu Ân đánh vù một trượng, binh khí của hai người Cam, Bạch đều dạt ra, y quát lớn: “Ngừng tay! Trận này coi như huề nhau, ta muốn xem công phu của ả tiện tì kia có tiến bộ gì hay không?” y nói thế có nghĩa tự coi mình là sư huynh Chưởng môn, nói xong nhảy ra khỏi vòng chiến, giơ ngang cây gậy trước ngực trừng mắt nhìn Lữ Tứ Nương.


Trận đánh này khiến Liễu Ân tốn không ít khí lực, bọn Châu Tầm cũng đã mệt rã rời. Cam Phụng Trì nghĩ, nếu cứ giằng co tiếp, sẽ nắm chắc phần thắng trong tay nhưng cũng có một hai người bị nội thương, bởi vậy mới cầm đao lui xuống, tỏ vẻ đồng ý. Bọn Châu Tầm cũng lùi theo. Lữ Tứ Nương mỉm cười, phóng vọt vào giữa sân.


Liễu Ân định thần, quát: “Nếu trận này ta thắng, đôi bên không được trả thù nhau”. Câu này cho thấy y đã hơi nhụt chí. Lữ Tứ Nương nói: “Xin tuân lệnh!” rồi đâm soạt tới một kiếm. Liễu Ân lật cây trượng, đánh một chiêu Phiên Giang Đảo Hải cuộn tới, bọn ba người Châu Tầm, Tào Nhân Phụ và Lý Nguyên chưa bao giờ thấy bản lĩnh của nàng tiểu sư muội, nhìn Liễu Ân đánh ra chiêu hiểm độc đều không khỏi thất kinh! Cam Phụng Trì nói: “Không sao!” chợt nghe Lữ Tứ Nương hú dài một tiếng, chân trái đạp vào đầu trượng, mượn lực đạp ấy lộn người lên lướt qua đầu Liễu Ân, người chưa hạ xuống đã đánh tròn cây Sương Hoa kiếm trên không trung, sử dụng chiêu số Bằng Bác Cửu Tiêu, đâm vào cái đầu trọc của Liễu Ân! Quần hùng đều khen hay, Liễu Ân vung cây trượng lướt lên, đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, gạt kiếm của Lữ Tứ Nương ra, thầm thất kinh: “Công phu của ả tiện tì lại cao hơn trước nhiều”.


Lữ Tứ Nương thấy Liễu Ân sau trận đánh kịch liệt mà dư thế vẫn còn, nàng chẳng dám coi thường, thế là triển khai Huyền Nữ kiếm pháp, kiếm thế như cầu vồng tấn công tới. Liễu Ân múa cây thiền trượng, thấy chiêu phá chiêu, thấy thức phá thức, cũng có công có thủ.


Đánh được nửa canh giờ vẫn chưa phân thắng bại. Liễu Ân vừa thất kinh vừa hối hận: “Hừ, sớm biết như thế không nên tốn khí lực với sáu tên kia”. Lữ Tứ Nương thấy y có ý khiếp sợ, kiếm chiêu càng gắt hơn, đúng như sông dài biển rộng cuồn cuộn xốc tới. Liễu Ân nghiến răng quát lớn một tiếng, dốc hết nội gia chân lực múa tít cây trượng, một trượng như núi bao bọc kiếm quang của Lữ Tứ Nương!


Bọn Châu Tầm lại thất kinh, một hồi sau chỉ thấy một luồng ngân quang luồn qua lách lại trong rừng bóng trượng. Lúc này họ đã không nhìn thấy đâu là Liễu Ân đâu là Lữ Tứ Nương nữa.


Té ra Lữ Tứ Nương sớm liệu rằng cuối cùng rồi cũng sẽ quyết chiến với Liễu Ân, nên ngoại trừ kiếm pháp, trong thời gian năm năm ở Tiên Hà lĩnh, nàng đã âm thầm tu luyện nội công, nghiên cứu kỹ càng nội công yếu quyết của sư phụ và Dịch Lan Châu, bởi vậy tiến bộ rất nhiều về mặt nội công, so với Liễu Ân cũng chẳng kém bao nhiêu. Mà Liễu Ân vừa trải qua một trận kịch chiến, khí lực đã hao tổn mất một nửa, bởi vậy giờ đây Lữ Tứ Nương không những chiếm thượng phong về kiếm pháp mà cả về công lực cũng ngang tay với Liễu Ân! Trước đây sở dĩ Lữ Tứ Nương thua Liễu Ân là bởi công lực không thâm hậu bằng y, mà giờ đây công lực đôi bên lại ngang bằng nhau, Liễu Ân mới bạo dạn tấn công chẳng hề e ngại.


Với bản lĩnh của Liễu Ân, dẫu đã lọt xuống thế hạ phong nhưng vẫn có thể đánh thêm nửa ngày, thế mà giờ đây y lại nôn nóng lo sợ, cố gắng tốc chiến tốc quyết, dốc hết toàn lực liều mạng tấn công, Lữ Tứ Nương lấy khỏe đợi mệt, thừa cơ tấn công, lại đánh được nửa canh giờ, Liễu Ân đã lộ vẻ mệt nhọc, đang lúc kịch đấu quần hùng chợt nghe một trận cười dài, Liễu Ân cầm trượng tháo chạy, té ra y đã bị Lữ Tứ Nương đâm mù một mắt.


Lữ Tứ Nương khinh công trác tuyệt, nào để cho y chạy thoát, nàng phóng người lên, chặn trước mặt Liễu Ân, kiếm quang đánh ra loang loáng buộc Liễu Ân thối lui trở về!


Lúc này Liễu Ân tựa như một con hổ dữ bị thương, y múa cây thiền trượng kêu lên vù vù xông tới. Cam Phụng Trì kêu: “Bát muội cẩn thận!” Lữ Tứ Nương định thần ứng phó, thanh kiếm đánh tựa như bươm bướm xuyên hoa, bước chân lanh lẹ như linh miêu bắt chuột, người mềm mại như cành liễu đu đưa trước gió, Liễu Ân đánh cây thiền trượng sang phía Đông, nàng tránh phía Tây, Liễu Ân quét cây thiền trượng đến phía Nam nàng lách sang phía Bắc; nhưng không chỉ né tránh, trong khi né tránh nàng cũng liên tục tấn công. Lại một hồi kịch chiến, quần hùng chợt thấy hoa mắt, chỉ nghe Liễu Ân kêu thảm, con mắt còn lại cũng bị Lữ Tứ Nương đâm mù. Lữ Tứ Nương lách người tới, hớt ngang thanh kiếm, định cắt đầu Liễu Ân xuống, nàng chợt nghĩ lại dẫu sao y cũng là đại đệ tử của sư phụ, đã từng chỉ điểm võ công cho sáu sư huynh bởi vậy nên giữ cho xác y nguyên vẹn, nên kiếm đi được nửa đường đột nhiên thay đổi, mũi kiếm nàng điểm nhẹ vào huyệt đạo dưới be sườn của Liễu Ân một cái, Liễu Ân kêu lớn, phóng cây thiền trượng ra phía trước, trước khi chết mà kình đạo của y vẫn còn ghê gớm đến thế, Lữ Tứ Nương nghiêng mình lách qua, cây thiền trượng cắm sâu vào vách núi chỉ còn lộ ra một đoạn rất ngắn.


Liễu Ân có võ công tuyệt đỉnh, chỉ vì một ý nghĩ sai lầm mà đi vào nẻo tà, giờ đây phải chết thảm trước mộ sư phụ, quần hùng đều thở dài lấy đó làm gương. Cam Phụng Trì nghĩ trước đây y từng thay sư phụ truyền võ nghệ cho mình, bởi vậy cũng than: “Nếu huynh chịu nghe theo di huấn của sư phụ, đâu đến nỗi có kết quả như hôm nay”. Mọi người bàn bạc một hồi, quyết định chôn y bên cạnh mộ sư phụ, lập bia nói rõ mọi việc đã năn người đời sau. Mọi người đều quyết định do Lữ Tứ Nương chấp bút, Lữ Tứ Nương cùng Lộ Dân Đảm vào căn nhà đá trước kia Độc tý thần ni ở để tạc văn bia. Cam Phụng Trì ngồi một mình im lặng chẳng nói, chợt nghe bên ngoài tựa như có tiếng người, Lữ Tứ Nương cũng kinh ngạc, vội vàng đẩy cửa ra. Khi ra đến chỗ mộ địa chẳng thấy bóng người, nhưng đầu của Liễu Ân đã không còn nữa.


Chính là:


Đang mừng Mang Sơn diệt phản đồ, ngạc nhiên ban ngày mất thủ cấp.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 27

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 27 Ngày trắng mất đầu đồng môn thêm kẻ địch Nước biếc soi hình ngọc nữ nhọc lòng lo


Lữ Tứ Nương kêu ủa một tiếng, nhíu mày nói: “Ai mà lớn gan dám lên Mang Sơn đánh cắp đầu?” Cam Phụng Trì cúi người xuống đất lắng nghe, nói: “Vẫn còn chưa đi xa, mau đuổi về phía Bắc!” bọn Bạch Thái Quan cùng Quan Đông tứ hiệp vội vàng đuổi theo. Cam Phụng Trì nói: “Phiền Lang Nguyệt thiền sư và Nguyên Bá đại ca ở đây trấn thủ, tam ca ngũ ca và Dương lão anh hùng đến lối ra ở phía Nam xem thử. Nhị ca và tứ ca canh giữ trong am, những người khác hãy đuổi theo cùng tôi”.


Cam Phụng Trì đuổi một hồi, chợt phát hiện có bốn người đang chạy xuống núi như bay. Lữ Tứ Nương lướt xuống như sao xẹt, đến lưng chừng núi thì nhìn rõ bọn chúng là Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà, Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long.


Số là Niên Canh Nghiêu buộc Liễu Ân làm phản, trong lòng thấp thỏm không yên, về đến doanh trại thì Ung Chính (sau khi lên ngôi, Ung Chính đổi niên hiệu là Ung Chính. Từ đây sách sẽ gọi Ung Chính là Ung Chính) đích thân đến thăm, Niên Canh Nghiêu vội vàng vào trại khấu kiến. Ung Chính rất hài lòng về chuyện y đã giải quyết Dận Đề. Niên Canh Nghiêu hơi yên bụng, thừa cơ bẩm rằng: “Liễu Ân cậy công coi thường bề trên, không những không nghe tướng lệnh của hạ thần mà còn nói xấu Thánh thượng sau lưng, bảo rằng Thánh thượng có ngày hôm nay toàn là nhờ công lao của y. Hạ thần vừa nó được vài câu y đã tức giận bỏ đi. Chắc là y muốn về cung diện thánh cáo tội hạ thần”.


Ung Chính đảo mắt, cười ha hả: “Ta đang muốn gặp y!” Niên Canh Nghiêu giật mình, sắc mặt tái nhợt. Ung Chính vỗ vai Niên Canh Nghiêu, nói: “Niên tướng quân, khanh là trụ cột của trẫm, thống suất đại quân, ngày đêm cực nhọc. Cần gì phải nổi giận vì một tên thất phu”. Rồi lại cười nói: “Y muốn gặp ta? Chỉ e khi y đến gặp ta đã không thể nói được lời nữa!” rồi lập tức gọi bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long tới ban chỉ rằng: “Hạn cho các ngươi trong vòng mười ngày phải lấy thủ cấp Liễu Ân về gặp ta!” Ung Chính đang còn phải nhờ vào Niên Canh Nghiêu nên thừa cơ hy sinh luôn Liễu Ân để vỗ về y. Bọn Thiên Diệp ra khỏi trướng, Niên Canh Nghiêu mới dập đầu xuống bẩm rằng: “Ơn lớn của chúa thượng, tiểu tướng dù gan óc đầy đất cũng không thể không báo”. Ung Chính mỉm cười kéo y dậy, nói: “Trẫm còn có việc lớn bàn với khanh”. Rồi cùng Niên Canh Nghiêu vào sau trướng bàn kín.


Bọn Thiên Diệp Tản Nhân đi tìm Liễu Ân, Liễu Ân tướng mạo hung dữ, lại là một hòa thượng nên tìm kiếm không khó. Bọn Thiên Diệp tuy biết Liễu Ân lợi hại nhưng nghĩ bụng với bốn người đủ sức giết chết y nên mới bạo dạn đuổi lên tới Mang Sơn. Không ngờ khi lên đến Mang Sơn Liễu Ân đã chết, bọn Thiên Diệp Tản Nhân thất kinh, vội vàng cắt đầu Liễu Ân chạy xuống núi.


Lữ Tứ Nương đuổi xuống lưng chừng núi, cười lạnh mắng rằng: “Bọn ngươi thật lớn gan, ai cho phép các ngươi làm loạn ở đây?” Xa Tịch Tà thấy chỉ có một mình Lữ Tứ Nương, thầm nhủ: “Kiếm pháp của ả tiện tì này lợi hại, mình phải thử xem sao”. Rồi chỉ cây trường kiếm về phía trước đánh ra một chiêu Đẩu Chuyển Tinh Hoành, quét ngang qua, Lữ Tứ Nương cười lạnh, đẩy cây Sương Hoa kiếm ra ngoài, lập tức một luồng ngân quang bùng lên, nàng chỉ xoáy nhẹ một cái đã phá được chiêu số của kẻ địch. Xa Tịch Tà đang định xuất chiêu, Lữ Tứ Nương xỉa mũi kiếm về phía trước nhanh như điện chớp, đâm soạt vào cổ họng của y, Xa Tịch Tà gạt ngang thanh kiếm, kiếm của Lữ Tứ Nương trượt xuống tựa như con ngân xà, Xa Tịch Tà vội thối lui ba bước mà vẫn không né tránh kịp, cổ tay đã bị mũi kiếm vạch một đường, hầu như không cầm được kiếm nữa. Thiên Diệp Tản Nhân thấy thế nguy cấm, vội vàng đánh ngang một chưởng mới giải nguy được cho Xa Tịch Tà, lớn giọng quát: “Tiện tì, ngươi đã hại sư huynh của ngươi, đáng tội gì?”


Lữ Tứ Nương nổi cáu mắng: “Liên quan gì đến ngươi? Mau trả thủ cấp của Liễu Ân!” rồi đâm tới soạt soạt hai kiếm, đấu với Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà lách mình tấn công từ mặt bên. Đổng Cự Xuyên nói: “Ả còn có bè đảng, chạy mau!” Thiên Diệp Tản Nhân đánh một đòn Thủ huy tì bà, vung chưởng phản công, Lữ Tứ Nương trả lại một kiếm, võ công của Thiên Diệp Tản Nhân chẳng kém gì Liễu Ân, chưởng trái biến thành quyền, đánh ra một chiêu Ngự Bộ Ban Lan, Lữ Tứ Nương rút kiếm phản công, Xa Tịch Tà đánh hờ một chiêu, thừa thế phóng ra, lúc này Cam Phụng Trì, Huyền Phong đạo trưởng và Liễu Tiên Khai cũng chạy tới giao thủ với Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long. Xa Tịch Tà vung kiếm xông tới, không ngờ trúng một đòn của Liễu Tiên Khai, đầu đau như muốn nứt ra, buộc phải du đấu với Liễu Tiên Khai. Một hồi sau, quần hùng cũng đều kéo tới, Thiên Diệp Tản Nhân chẳng có lòng nào đánh tiếp, thế là phân hai tay, chưởng trái bạt nhẹ vào chui kiếm của Lữ Tứ Nương, chưởng phải chặt vào cổ tay của nàng. Đây là chiêu lấy công làm thủ rất lợi hại, Lữ Tứ Nương xoay mũi kiếm, thân rê bước đổi, biến chiêu chặt xéo xuống, chỉ trong chớp mắt Thiên Diệp Tản Nhân đã thoát ra khỏi vòng kiếm quang của Lữ Tứ Nương.


Huyền Phong đạo trưởng và Bạch Thái Quan xông tới, Thiên Diệp Tản Nhân quát lớn một tiếng, tay trái đánh ra một chiêu Thần Ưng Phốc Thố chụp xuống đầu Bạch Thái Quan, tay phải dẫn cây gậy sắt của Huyền Phong qua, thừa thế tránh được kiếm chiêu trên tay phải của ông ta. Chỉ trong chớp mắt Thiên Diệp Tản Nhân đã liên tục tránh được ba món binh khí đánh kẹp tới, còn có thể phản công, Huyền Phong cả giận, thi triển kiếm chiêu cùng Bạch Thái Quan tấn công từ hai bên trái phải.


Lữ Tứ Nương quát: “Không trả thủ cấp của Liễu Ân, đừng hòng xuống núi!” Thiên Diệp Tản Nhân chẳng nói một lời, trở tay đánh vù ra một chưởng, đẩy cây kim đao của Bạch Thái Quan ra, lại xoay người tránh nhát kiếm của Huyền Phong đạo trưởng, hai tay vung lên, phóng vọt lên cao hơn một trượng, lướt qua đầu Huyền Phong đạo trưởng.


Lữ Tứ Nương biết Huyền Phong đạo trưởng háo thắng, nên không muốn lấy ba địch một, cùng tấn công kẻ địch. Lúc này Thiên Diệp Tản Nhân dùng Đại suất bi thủ đánh lui sư huynh, vội vàng bỏ chạy, Thiên Diệp Tản Nhân chạy như con gió lốc, phất ống tay áo, đẩy Liễu Tiên Khai ra, nhờ vậy Xa Tịch Tà mới thoát thân chạy xuống núi. Trong khoảng sát na ấy, Lữ Tứ Nương lướt theo như hình với bóng, một luồng thanh quang đâm thẳng vào lưng của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân cười dài vung tay, quát: “Nhận lấy!” một cái tay nải màu đỏ phóng tới trước mặt Lữ Tứ Nương, nàng cúi đầu vươn tay hớt lấy cái tay nải ấy, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Trả lại sư huynh cho ngươi!” Lữ Tứ Nương chạm vào cái tay nải chỉ thấy tròn tròn, nghĩ bụng chắc trong tay nải là đầu của Liễu Ân, lúc này Thiên Diệp Tản Nhân đã phóng xuống núi.


Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long đang đánh nhau với Cam Phụng Trì, thấy thế không xong, y cũng xoay người lăn xuống núi. Y luyện công phu Bát quái lưu thân chưởng, xương cốt của toàn thân có thể hoạt động như ý, lăn xuống núi mà chẳng hề bị thương. Trong bốn kẻ lên Mang Sơn, Cam Thiên Long có võ công kém nhất, đang định chạy theo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng trở tay vung ra một chưởng, Cam Thiên Long vừa mới chạy được hai bước, chợt cảm thấy sau lưng như bị trúng một nhát búa, y kêu thảm một tiếng hộc máu mồm, té nhào xuống đất. Cam Phụng Trì đang định chạy đuổi theo, Lữ Tứ Nương nói: “Đã lấy được đầu của Liễu Ân, cứ để mặc y”. Cam Phụng Trì mở tay nải ra, chỉ thấy đầu của Liễu Ân máu vẫn chưa khô, vẻ mặt trông rất nanh ác đáng ghét, chợt nhớ lại năm xưa y thay thầy truyền võ nghệ cho mình, bao nhiêu chuyện xưa dâng lên trong lòng, bất giác rơi nước mắt, thở dài: “Thôi, chúng ta nối thủ cấp của y lại, coi như y chết cũng toàn thây”. Rồi kẹp Cam Thiên Long về trước mộ sư phụ.


Lúc này bọn Lý Nguyên vẫn chưa về, trời đã tối, ráng chiều còn lửng lờ ở phía Tây, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Nhìn xem, bên góc trời có áng mây đỏ!” áng mây đỏ ấy trông rất kỳ lạ, tựa như một bức màn màu đỏ căng ra giữa lưng trời, Huyền Phong nói: “Mây đỏ xuất hiện chắc chắn có họa máu rơi!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao lại thế!” một hồi sau, áng mây đỏ càng lúc càng mở rộng, chân trời phía Nam đỏ một lúc rất lâu, Cam Phụng Trì chợt kêu lên: “Tung Sơn bốc lửa!” mọi người đều lên cao nhìn, quả nhiên thấy ở phía Tung Sơn thấp thoáng bóng lửa.


Mang Sơn và Tung Sơn cách xa nhau đến hơn ba trăm dặm, thế mà đứng ở Mang Sơn có thể thấy được lửa bốc cháy ở Tung Sơn, đủ biết thế lửa mạnh đến mức nào, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nhìn nhau, Bạch Thái Quan ngạc nhiên nói: “Chùa Thiếu Lâm có năm trăm tăng nhân, ai nấy thân mang tuyệt kỹ, sao không dập tắt lửa mà để lửa cháy ngùn ngụt như thế, thật là kỳ lạ!” Lữ Tứ Nương nói: “E rằng đây là mồi lửa của triều đình!” Cam Phụng Trì run bần bật, chợt chụp Cam Thiên Long giở lên, quát: “Ai đã đốt lửa?” Cam Thiên Long cười gằn nói: “Bọn ngươi đã đoán trúng, cần chi phải hỏi ta! Lớn mạnh như Thiếu Lâm tự mà đối chọi với triều đình cũng có kết cuộc như thế! Vài người các ngươi làm được chuyện quái gì? Hãy mau thả lão tử!” Cam Phụng Trì cười lạnh, vung chỉ xỉa vào be sườn của y, Cam Thiên Long chợt cảm thấy như trong người có vô số con rắn nhỏ bò lúc nhúc, đau đến nỗi kêu lên thảm thiết. Cam Phụng Trì nói: “Tại sao các ngươi lên Mang Sơn đánh cắp đầu, hãy mau khai thật! Nếu không sẽ còn chịu khổ nữa!” Cam Thiên Long buộc phải khai thực. Cam Phụng Trì nghiến răng mắng: “Không ngờ Ung Chính và Niên Canh Nghiêu lại ác độc đến thế. Đáng tiếc tên này đến trễ nửa ngày, nếu không Liễu Ân đã biết được bán mạng cho Hoàng đế sẽ có kết quả như thế nào!” Cam Thiên Long khai xong, Cam Phụng Trì giở y lên ném xuống sơn cốc. Lúc này phía Tung Sơn thế lửa càng lúc càng lớn, nhìn từ xa tựa như một con trường xà màu đỏ bao vây Tung Sơn, Bạch Thái Quan lo lắng nói: “Sao tam ca và lục đệ vẫn chưa trở về?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu cười nói: “Ngũ ca đừng lo lắng, họ đã về kia rồi! Ồ, sao lại thêm một người nữa!” lúc nãy chỉ có ba người Dương Trọng Anh, Lộ Dân Đảm và Lý Nguyên đi xem ở phía Nam, giờ đây lại có thêm một người nữa.


Chỉ trong chớp mắt, bốn người đã lên núi, Lữ Tứ Nương kêu: “Ồ, sao Nhất Phiêu đại sư ngài cũng đến đây? Còn Tại Khoan đâu?” Nhất Phiêu hòa thượng buồn bã ngã xuống đất, một lát sau vẫn không nói ra lời. Lữ Tứ Nương nhìn ông ta, bất giác lo lắng nói: “Ông đã bị thương, may mà không nặng”.


Té ra hôm ấy Phùng Anh rời khỏi nhà họ Niên, vội vàng lên Mang Sơn, khi lên đến Mang Sơn trời đã tối, nàng lên từ mặt Nam của Mang Sơn, vừa vào cửa núi, chợt có một người xông ra mắng: “Hừ, ả nữ tặc nhà ngươi cũng dám đến Mang Sơn! Phi đao của ngươi đâu?” người ấy vừa mắng vừa đánh tới, phía sau lại còn có một nhà sư và một thiếu niên, ba người này là Lý Nguyên, Lộ Dân Đảm và Dương Trọng Anh. Lý Nguyên từng trúng một đao của Phùng Lâm, bởi vậy lần này chợt gặp Phùng Anh, chỉ tưởng rằng Phùng Lâm tự chui đầu vào lưới nên nào chịu bỏ qua.


Phùng Anh nghe thế rất ngạc nhiên, vội vàng né tránh, hỏi: “Này, ngươi nói gì thế? Ngươi là ai?” Lý Nguyên lại nhảy bổ tới một bước, vung sợi roi đánh một chiêu Trường Xà Nhiêu Thụ, quét vào eo của Phùng Anh, mắng: “Nữ tặc, dù ngươi có thành tro ta cũng nhận ra ngươi!” võ công của Lý Nguyên chẳng kém gì Bạch Thái Quan, lại thêm đang tức giận nên ra tay rất nhanh nhẹn, Phùng Anh né tránh mấy lần suýt nữa đã bị y quét trúng, tức giận kêu: “Ngươi thật vô lý, đừng trách ta không nương tay”. Rồi rút soạt thanh kiếm ra, Lý Nguyên đánh hụt một chiêu, chợt thấy ở sau ót có gió quát tới, té ra kẻ địch đã vòng ra sau lưng mình. Lý Nguyên vội vàng rê người đổi bước, chỉ thấy mũi kiếm sáng loáng đâm vào cổ họng của mình, Lý Nguyên vung sợi đai lướt tới tấn công, toan đoạt thanh kiếm của Phùng Anh, nào ngờ Phùng Anh học được chân truyền Thiên Sơn kiếm pháp, kiếm chiêu đánh ra rất lợi hại. Lý Nguyên dù không bị thương cũng không phải là đối thủ của Phùng Anh, huống chi chàng bị thương chưa hết, lại đã từng kịch đấu với Liễu Ân!


Lộ Dân Đảm thấy đồng môn bị nguy, rút đao trợ chiến, Dương Trọng Anh cũng rất lấy làm ngạc nhiên, thầm nhủ: “Kiếm pháp của ả thiếu nữ này thật lợi hại”. Hai người Lý, Lộ sánh vai tác chiến mà vẫn thủ nhiều công ít, lọt xuống thế hạ phong, đang lúc kịch chiến Lộ Dân Đảm thay đổi đao pháp, chân bước theo bộ pháp của Bát quái chưởng, đi vào cung ly, chạy đến vị khảm, đánh ra một chiêu Thần Long Đẩu Giáp, lưỡi đao chặt vào bả vai của kẻ địch, Phùng Anh đổi hai chiêu mà vẫn không trúng vào binh khí của y thì rất ngạc nhiên. Té ra Độc tý thần ni suốt đời nghiên cứu võ học, tinh thông hết thảy mười tám ban võ nghệ nên mỗi môn đồ đều sử dụng một loại binh khí khác nhau, đều có sở trường riêng biệt. Lộ Dân Đảm được bà truyền cho Bát Quái Tử Kim đao pháp, tấn công theo phương vị của ngũ hành bát quái, trong thủ có công, chuyên dùng để khắc chế kẻ cường địch. Phùng Anh đánh mấy chiêu mà vẫn không chiếm được phần hơn, trong lòng lo lắng, kiếm chiêu thay đổi thi triển Tu Di kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp ra.


Lộ Dân Đảm tuy có sở trường về đao pháp nhưng rốt cuộc vẫn không thần diệu bằng Thiên Sơn kiếm pháp, nhất là Đại Tu Di kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp biến hóa ảo diệu, không thể nào sánh nổi, mỗi chiêu đều hàm chứa rất nhiều biến hóa. Trên đời này chỉ có Huyền Nữ kiếm pháp của Độc tý thần ni truyền lại mới có thể kháng cự nổi. nhưng chỉ có Lữ Tứ Nương học được môn kiếm pháp này. Lộ Dân Đảm và Lý Nguyên đều luống cuống tay chân. Dương Trọng Anh thấy thế không xong, rút đạn cung bắn liên tục mấy phát.


Phùng Anh thấy Dương Trọng Anh phóng ám khí, cười thầm: “Đại Tu Di kiếm thức của mình rẩy nước vào còn không lọt, mấy viên đạn nhỏ của y làm gì được mình!” rồi kiếm chiêu đánh gấp lên, vẫn tiếp tục tấn công hai người Lý, Lộ, chẳng thèm coi đạn cung của Dương Trọng Anh vào đâu. Chợt nghe mấy tiếng leng keng vang lên, Phùng Anh thấy hổ khẩu đau nhói, kiếm chiêu đã mất chuẩn, Tử Kim đao của Lộ Dân Đảm và sợi dây đai của Lý Nguyên thừa cơ tấn công vào!


Té ra Đại Tu Di kiếm thức tuy thần diệu vô cùng, thần đạn của Dương Trọng Anh cũng không thể bắn vào được nhưng công lực của Phùng Anh vẫn còn kém, thần đạn của Dương Trọng Anh không những chính xác mà kình lực cũng rất mạnh, may mà thanh kiếm của Phùng Anh là kiếm quý chứ nếu không đã bị thần đạn bắn mẻ.


Phùng Anh cả kinh, may mà Dương Trọng Anh chỉ bắn một loạt đạn, khi hai người Lý, Lộ tấn công tiếp, nàng lại có thể múa kiếm chống cự.


Phùng Anh thất kinh, mà Dương Trọng Anh càng thất kinh hơn, xưa nay thần đạn của ông ta thiên hạ vô địch, thế mà chẳng bắn trúng được một viên, các đạn sắt đã bị bảo kiếm đánh vỡ! Nếu kẻ địch là nhân vật thành danh thì chẳng có điều gì lạ, thế mà kẻ địch lại là một ả thiếu nữ mới mười mấy tuổi đầu! Dương Trọng Anh không biết rằng, kiếm Đoạn Ngọc của Phùng Anh là bảo kiếm, lại thêm nàng học được kiếm pháp tinh diệu nên vẫn có thể chống cự nổi.


Đạn cung vừa hết, Lý Nguyên và Lộ Dân Đảm lại buộc thối lui từng bước, Lý Nguyên kêu: “Dương tiền bối, mau bắn đạn!” Dương Trọng Anh lại tiếp tục phóng đạn, hai người Lý, Lộ mới có thể đánh ngang tay với Phùng Anh.


Sau một hồi, một hộp sáu mươi tư viên thiết đạn của Dương Trọng Anh đã hết, Phùng Anh vẫn chưa rút lui, Dương Trọng Anh là nhân vật đã thành danh, ông ta cũng không muốn giúp hai người Lý, Lộ tấn công một ả thiếu nữ nữa. Vả lại Dương Trọng Anh tuy không biết kiếm pháp của Phùng Anh nhưng cũng thầm khâm phục, lòng mến tài nổi lên, ông ta kêu lớn: “Đây là nơi mộ địa của Độc tý thần ni, hôm nay quần hùng võ lâm đến đây cúng tế, sao lại mang kiếm lên núi? Mau cút xuống núi!” câu này rõ ràng là ý muốn bảo nàng bỏ chạy nhưng Phùng Anh đang chiếm thượng phong, nghe thế thì lửa giận bốc lên, kiếm chiêu đánh ra càng gấp hơn. Trong lúc kịch chiến cây Bát Quái Tử Kim đao của Lộ Dân Đảm đã bị bảo kiếm của Phùng Anh chặt gãy làm đôi. Dương Trọng Anh cả kinh định xông tới trợ chiến, chưa kịp nhảy vào đã thấy Lộ Dân Đảm bị Phùng Anh đẩy lùi đến mép vực, Lộ Dân Đảm vận dụng liền mấy loại thân pháp nhưng không tránh nổi vòng kiếm quang của nàng!


Thực ra Phùng Anh không muốn dồn Lộ Dân Đảm vào chỗ chết, nàng chỉ bực bội bọn họ, định trừng phạt họ mà thôi. Dương Trọng Anh lo lắng, bắn ra ba viên đạn cuối cùng, Phùng Anh hơi chậm lại, từ dưới sườn núi chợt có một người phóng lên, Lộ Dân Đảm kêu: “Nhất Phiêu đại sư cứu tôi!” nhà sư ấy vung quyền đấm vù ra, Phùng Anh kêu lên một tiếng rơi xuống sơn cốc tựa như con diều đứt dây.


Té ra Nhất Phiêu hòa thượng nghe Lộ Dân Đảm kêu, vội vàng chạy đến cứu người, thấy Phùng Anh chỉ là thiếu nữ trẻ tuổi, liền đẩy ra một chiêu Bài Sơn Vận Chưởng, chưởng lực rất mạnh mẽ, nhưng môn hộ đã mở rộng, Phùng Anh vung kiếm đâm vào huyệt Khí Du dưới cổ họng của ông ta, may mà Phùng Anh còn có ý nương tay, thấy Nhất Phiêu đại sư lách người né tránh, nàng đâm lệch mũi kiếm qua vai của ông ta, nhưng bản thân của nàng đã bị chưởng lực đánh rơi xuống sơn cốc.


Lữ Tứ Nương thấy Nhất Phiêu hòa thượng bị thương rất ngạc nhiên, hỏi Dương Trọng Anh: “Là cường địch nào thế?” Lộ Dân Đảm nghiến răng nói: “Chính là ả nha đầu mà chúng ta đã gặp ở Hàng Châu”. Lữ Tứ Nương nghe xong rất ngạc nhiên, nghĩ bụng Phùng Lâm võ công tuy cao nhưng làm sao có thể đả thương nổi Nhất Phiêu đại sư. Nàng đang định lên tiếng, Nhất Phiêu đại sư đã đứng dậy, mỉm cười nói: “Các vị huynh đệ đã trách nhầm rồi!”


Ông ta vừa nói như thế, mọi người đều ngạc nhiên. Cam Phụng Trì nói: “Đại sư đã bị thương như thế này, rõ ràng ả thiếu nữ ấy rất độc ác”. Nhất Phiêu cởi áo ngoài, lộ ra vết thương trên vai, chỉ thấy ở nơi xương tì bà có một vết thương rất cạn, ở huyệt Thông Hải còn có một chấm đỏ lớn như đầu đinh, nếu bị điểm vào huyệt Thông Hải khí huyết không thể nào lưu thông được, bởi vậy Cam Phụng Trì đã thôi cung quá huyệt cho ông ta.


Lý Nguyên nói: “Vừa ra tay đã đâm vào yếu huyệt, chẳng phải độc ác sao?” Nhất Phiêu nói: “Lão nạp chưa bao giờ thấy ai có kiếm pháp tinh diệu như nàng ta. Chắc là nàng đã hợp nhất tâm và kiếm nên có thể tùy ý thu phát, lúc nãy nàng chỉ cần dùng lực, chẳng phải xương tì bà của lão nạp đã bị nàng chặt gãy hay sao? Lúc đó lão nạp đã trở thành phế nhân, chẳng thể nào luyện võ được nữa!” Lộ Dân Đảm thầm nhủ: “Với kiếm pháp của ả, đúng là có thể chặt gãy xương tì bà của Nhất Phiêu đại sư. Từ đó có thể thấy hình như ả đã nương tay đối với mình”. Bất giác trong lòng thấy thắc mắc.


Lữ Tứ Nương nói: “Dù thế nào đi nữa chúng ta cũng không thể trừ nàng”. Lý Nguyên nói: “Lẽ nào bát muội nhận ra ả? Ả là ai?” Lữ Tứ Nương nói: “Có thể là truyền nhân của Dịch lão tiền bối, cũng có thể là đồ đệ của Song ma”. Lộ Dân Đảm ngạc nhiên nói: “Sao lại nói thế?” Lữ Tứ Nương đang định kể lại chuyện của Đường Hiểu Lan, chợt nhìn lại Nhất Phiêu rồi im bặt.


Lộ Dân Đảm nói: “Sao bát muội không nói?” Lữ Tứ Nương nói: “Chuyện này rất dài, Nhất Phiêu đại sư từ xa đến đây chắc có việc gấp, chúng ta nghe ông ấy nói thử xem”.


Nhất Phiêu nói: “Cũng chẳng có việc gấp gì, Tại Khoan thấy cô nương đi lâu mà không trở về, bảo lão nạp đem thư đến cho cô nương”. Rồi ông ta lấy bức thư ra đưa cho Lữ Tứ Nương, nói tiếp: “Tháng trước có một người cháu họ của cô nương tên là Lữ Nguyên đến tìm Tại Khoan”. Lữ Tứ Nương vốn đang mỉm cười, vừa mở thư ra xem sắc mặt chợt tái nhợt. Trong thư viết rằng: Ung Chính lên ngôi, lập tức phái quân đến bắt hết gia tộc của Lữ Lưu Lương, chỉ có một mình Lữ Nguyên chạy thoát. Ngoài việc đốt hết sách của Lữ Lưu Lương, bọn chúng còn đào mộ của Lữ Lưu Lương và Lữ Bảo Trung moi xác thị chúng. Lữ Nguyên chạy lên Tiên Hà lĩnh, không gặp Lữ Tứ Nương chỉ đành cho Thẩm Tại Khoan biết việc này. Nhất Phiêu hòa thượng rất nóng nảy, nếu ông ta biết việc này chắc chắn sẽ liều mạng cướp ngục, chẳng giúp ích được gì mà lại có hại, sau khi suy nghĩ, Thẩm Tại Khoan quyết định giấu Nhất Phiêu, chỉ nhờ ông ta đem thư cho Lữ Tứ Nương. Nhất Phiêu thấy Lữ Tứ Nương mặt tái nhợt, hỏi: “Tại Khoan nói gì thế?” Lữ Tứ Nương đưa thư cho ông ta, rút kiếm chém tảng đá bên cạnh làm đôi, ứa nước mắt mà nói: “Thù này không trả, thề không làm người”. Bọn Cam Phụng Trì cũng đã xem xong thư của Thẩm Tại Khoan, nói: “Nếu như thế, chúng ta hãy cùng đi!”


Sáng hôm sau quần hùng xuống Mang Sơn, Lữ Tứ Nương đã bớt đau đớn mới kể lại chuyện của Đường Hiểu Lan, Lý Nguyên nói: “Thế ra Phùng Anh và Phùng Lâm là đôi tỉ muội sinh đôi giống nhau, vậy không biết ta đã gặp Phùng Anh hay Phùng Lâm?” Lữ Tứ Nương nói: “Cả Đường Hiểu Lan cũng không nhận ra, đừng nói là chúng ta”. Cam Phụng Trì nói: “Muốn phân biệt họ chỉ có một cách, võ công của Phùng Anh cao hơn”. Nhất Phiêu nói: “Giả sử võ công của Phùng Lâm cũng tiến bộ thì sao?” Cam Phụng Trì nói: “Vậy chẳng cách nào nhận ra nữa”. Nhất Phiêu nói: “Đường Hiểu Lan đâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Y và Thập nhị chỉ thần thâu Trần Đức Thái đến Tuyết Hồn cốc dưỡng thương”.


Nhất Phiêu nói: “Ung Chính vừa mới lên ngôi được mấy tháng mà đã bắt bớ tràn lan, lại còn hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm!” Cam Phụng Trì hỏi: “Đại sư có đi ngang qua Tung Sơn không?” Nhất Phiêu nói: “Trên đường tôi gặp đại quân của Niên Canh Nghiêu kéo về phía Tung Sơn, chỉ đành đi đường vòng, không lâu sau thì thấy Tung Sơn bốc lửa, năm trăm cao tăng trong chùa Thiếu Lâm ai nấy đều mang tuyệt kỹ, nếu bị bọn chúng quét sạch một mẻ lưới thì chính là hào kiếp của võ lâm!” Cam Phụng Trì nhớ lại năm xưa mình đã từng đưa Ấn Hoằng lên Tung Sơn, nghe Vô Trú thiền sư dự liệu chùa Thiếu Lâm sẽ có đại kiếp, nói: “Vô Trú thiền sư nhìn xa trông rộng, mong có thể thoát khỏi trận hào kiếp này”. Đứng từ xa nhìn về phía Tung Sơn, thế lửa vẫn chưa tắt, quần hùng đều không khỏi thở dài.


Lại nói Phùng Anh chạy ra khỏi Mang Sơn, nhớ lại mọi chuyện từ trước đến nay, cảm thấy từ khi xuống núi trải qua rất nhiều chuyện kỳ lạ. Trên đường gặp rất nhiều người vô duyên vô cớ đuổi theo nàng, Niên Canh Nghiêu lại coi nàng là người khác, ở Mang Sơn gặp phải một thiếu niên tay cầm dây đai lại bảo mình dùng độc đao đả thương, thật không biết là lẽ gì!


Phùng Anh suy đi nghĩ lại, nhủ rằng: “Chả lẽ trên đời này còn có một người tướng mạo rất giống mình?” rồi nàng đi thẳng đến Trần Lưu, quyết lòng tìm cho ra lẽ.


Lúc này Phùng Lâm cũng có suy nghĩ như nàng. Đêm ấy nàng thoát ra khỏi căn nhà trong khu vườn, đánh cắp một con ngựa chạy ra khỏi Trần Lưu, nhớ lại Lý Trị đã từng xem nàng là đồ đệ của Dịch Lan Châu, lúc nào cũng gọi nàng là “Anh muội”, Niên Canh Nghiêu vừa về đã hỏi nàng có ra khỏi khu vườn hay không, lại nói thấy nàng đánh nhau với Song ma. Từ đó có thể thấy chắc chắn có một người rất giống nàng. Phùng Lâm cũng muốn về nhà họ Niên tìm cho ra lẽ nhưng vì sợ Liễu Ân nên chỉ đành đi bừa về phía trước.


Ngày nọ, Phùng Lâm đang đi trên đường, chợt thấy phía trước có một thớt ngựa trắng, trên ngựa có một nước mặc đồ đỏ trông rất nổi bật, eo nàng có đeo cây bội kiếm, lại còn có túi ám khí, chắc là người luyện võ. Phùng Lâm thầm nhủ: “Từ ngày mình xuất đạo chưa gặp một nữ tử biết võ công, không biết võ công của ả này thế nào?” thế là nàng phóng ngựa đi theo sau thiếu nữ ấy. Thiếu nữ nghe phía sau có tiếng vó ngựa nên quay đầu lại, liếc Phùng Lâm một cái, Phùng Lâm thấy nàng mặt như trăng rằm, mắt sáng như sao, bờ môi cong cong trông rất đẹp nhưng vẻ mặt ngạo mạn khó ưa. Phùng Lâm thấy nàng ta trừng mắt nhìn mình cũng lườm lại một cái. Nàng thiếu nữ chợt hừ một tiếng tỏ vẻ khinh bỉ rồi thúc ngựa phóng về phía trước.


Phùng Lâm từ nhỏ sống trong hoàng phủ, mọi người đều tôn trọng nàng, bất giác nổi cáu thầm nhủ: “Ả thiếu nữ này thật vô phép, mình cứ đi theo trêu ả một phen”. Phùng Lâm quên rằng mình đang cải dạng nam trang, thiếu nữ thấy nàng đi theo sau tưởng nàng có ý trêu ghẹo nên nổi cáu.


Nếu là một người bình thường thì không sao, nhưng nàng ta chính là Dương Liễu Thanh nổi tiếng kiêu ngạo trên giang hồ. Bằng hữu trên giang hồ vì nể mặt Dương Trọng Anh nên nhường nàng vài phần. Nàng tưởng rằng mình tài ba hơn người nên tự xem mình là nữ hiệp. Lần này Dương Trọng Anh cùng Đường Hiểu Lan đến kinh sư, vốn là bảo nàng ở nhà. Nàng đợi mấy tháng không thấy cha trở về, lại nhớ Đường Hiểu Lan nên một mình đến kinh sư.


Phùng Lâm thấy Dương Liễu Thanh kiêu ngạo nên cứ đi theo trêu tức nàng. Khi Dương Liễu Thanh đi nhanh, nàng cũng ra roi phóng nhanh, khi Dương Liễu Thanh chậm lại, nàng cũng buông dây cương. Dương Liễu Thanh bị nàng trêu tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, đến nơi hoang vắng nàng chợt kìm ngựa tháo đạn cung xuống, trừng mắt quát: “Tên tiểu tử nhà ngươi làm gì thế?”


Phùng Lâm bật cười, nói: “Cô nương, đường ai nấy đi, việc gì đến cô nương nào?” Dương Liễu Thanh trợn mắt, quát: “Tiểu tử, ngươi tên gì? Là người ở phe nào?” Phùng Lâm cười rằng: “Chúng ta chẳng thân thiết nhau, cô nương hỏi làm gì? Vả lại con đường này chẳng phải của cô nương. Cô nương đi được mà lẽ nào tôi lại không?”


Dương Liễu Thanh cười lạnh, cao giọng nói: “Ngươi có biết ta là ai không?” Phùng Lâm đáp lời: “Biết, cô nương là người đi tìm nam nhi!” Dương Liễu Thanh đỏ mặt, quát: “Hảo tiểu tử, tuổi tác còn trẻ mà miệng lưỡi khinh bạc, tha ngươi không được!” rồi nàng kéo dây cung, bắn ra ba viên thiết đạn, Phùng Lâm lách người tránh được một viên, vung tay hớt được viên thứ hai rồi nhẹ nhàng bắn trở về trúng viên thứ ba rơi xuống.


Dương Liễu Thanh cả giận kéo dây cung bắn tới, Phùng Lâm kêu: “Ôi chao, không xong!” rồi nàng đột nhiên ngã trút xuống ngựa nhưng vẫn chưa chạm xuống đất, té ra nàng dùng chân móc vào lưng ngựa đu người xuống, lúc này thớt người đã lướt ra hơn mười trượng, viên đạn của Dương Liễu Thanh chỉ bay xẹt qua lưng ngựa chứ không trúng được nàng!


Dương Liễu Thanh không khỏi thầm lo. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Lâm lại lộn người lên lưng ngựa, kêu: “Có qua thì phải có lại, tiếp đao!” rồi nàng vỗ ngựa xông về phía trước, hai mũi phi đao bắn vọt ra như điện chớp! Dương Liễu Thanh xoay eo, định tránh mũi thứ nhất rồi sẽ đánh rơi mũi thứ hai, nào ngờ mũi thứ hai phóng sau mà đến trước, Dương Liễu Thanh vừa lách sang bên trái, một luồng hàn quang đã lướt tới trước mặt, Dương Liễu Thanh vội vàng giơ thanh đạn cung lên gạt, chỉ nghe soạt một tiếng, cây đạn cung đã gãy làm đôi. Dương Liễu Thanh cảm thấy ở cổ mát rượi, mũi phi đao thứ nhất đã bay xẹt qua da. Đó là Phùng Lâm chỉ có ý trêu đùa chứ không muốn lấy mạng nàng bằng không mũi phi đao đã đâm vào cổ họng.


Dương Liễu Thanh vừa kinh vừa giận, nàng rút thanh bội kiếm vỗ ngựa xông lên toan tử chiến với Phùng Lâm, chợt nghe phía sau vọng lại tiếng vó ngựa, Phùng Lâm tinh mắt đã nhận ra ở cách hai ba dặm có rất nhiều ngựa, người ngồi trên ngựa tựa như là bọn công sai, nàng thầm nhủ: “Nếu Ung Chính phái người đến đây thì thật không hay”. Thế là tay trái vỗ vào cổ ngựa, thớt ngựa ấy là chiến mã của Niên Canh Nghiêu, bị nàng vỗ một cái mới hí dài lên một tràng. Dương Liễu Thanh chợt thấy ngựa của Phùng Lâm lướt qua như gió, nàng hoa cả mắt lên, thế là đâm hai nhát vào ngựa của Phùng Lâm, chợt thấy trên đầu tựa như bị người ta vỗ nhẹ, tiếng gió kêu lên vù vù, thớt ngựa của Phùng Lâm đã phóng lướt qua, Dương Liễu Thanh sờ lại trên đầu té ra hai cây ngọc thoa đã bị Phùng Lâm rút mất!


Dương Liễu Thanh cả giận vỗ ngựa đuổi theo, càng chạy càng xa, một lúc sau chẳng thấy bóng dáng Phùng Lâm đâu cả.


Phùng Lâm phóng ngựa chạy nửa canh giờ đến hơn hai mươi dặm, từ xa đã thấy Tung Sơn, nàng thở phào thầm nhủ: “Nghe nói trên trên Tung Sơn có chùa Thiếu Lâm, mình đã học được võ công của các nhà các phái, không biết có thể sánh với tăng nhân trong chùa hay không”. Thế là nàng nảy ra ý muốn lên chùa Thiếu Lâm lễ bái, khi chiều chạng vạng nàng đến một trấn nhỏ tên gọi là Quách Gia trấn, nơi này cách Tung Sơn khoảng hai ngày đường, nếu ngựa chạy nhanh nửa ngày sẽ tới.


Phùng Lâm đến trú tại một khách sạn sang trọng nhất trong trấn, cơm nước xong xuôi đang định nghỉ ngơi, chợt nghe bên ngoài có giọng thiếu nữ nói: “Chưởng quầy, chuẩn bị cho ta một phòng tốt nhất!” lão chưởng quầy cung kính đáp: “Dương nữ hiệp, ở đây vẫn còn phòng tốt. Tiểu nhị, đưa quý khách đến phòng phía Đông”. Phùng Lâm nghe giọng nói ấy quen, nàng ghé mắt qua khe cửa nhìn ra, chỉ thấy đó chính là người mình đã gặp trên đường, nàng mỉm cười thầm nhủ: “Chỉ một chút bản lĩnh mà cũng gọi là nữ hiệp!” căn phòng của Dương Liễu Thanh vừa khéo bên cạnh phòng nàng.


Một hồi sau, Phùng Lâm nghe có tiếng ngáy nhỏ, định ngồi dậy chợt nghe bên ngoài có tiếng người tiếng bước chân, khách sạn mở cửa, khách khứa bên trong đều xôn xao, lão chưởng quầy lớn giọng kêu: “Công sai đến tra xét! Các vị khách quan đang ở trong phòng đừng ra ngoài”. Phùng Lâm lo lắng, khoác áo ngồi trên giường. Nào ngờ tiếng bước chân của các công sai tựa như chia thành hai nhóm, một nhóm lục soát các dãy phòng ở hai bên.


Phùng Lâm lo lắng giới bị, phòng bên cạnh chợt vọng ra tiếng cãi cọ, Dương Liễu Thanh rít lên: “Các người đã lục soát xong chưa? Mau ra ngoài cho ta!” một tên quan sai cười hì hì nói: “Lục phòng đã xong nhưng vẫn chưa lục trên người của cô nương!” lời chưa dứt chỉ nghe bốp một tiếng, tên quan sai ấy tựa như bị ăn một tái tai, rống lên như lợn bị chọc tiết. Dương Liễu Thanh quát: “Cút ra ngoài cho bổn cô nương!” thế là bọn quan sai đang lục soát ở các phòng khác cũng kéo tới, Dương Liễu Thanh quát lên: “Cút!” rồi vỗ ra hai chưởng, đánh ngã hai tên quan sai ra ngoài, rút thanh kiếm nhảy vọt ra, bọn quan sai kêu: “Ả nữ tặc thật hung dữ!”


Chợt có người quát: “Bắt ả nữ tặc này trước!” lập tức nghe tiếng đao kiếm giao nhau. Phùng Lâm thất kinh nghĩ: “Ồ, trong số bọn quan sai quả nhiên có cao thủ!” nàng thò đầu ra nhìn, chỉ thấy bốn tên quan sai vây Dương Liễu Thanh ở giữa, kẻ đi đầu sử dụng một cây Câu Liêm thương, chiêu nào đánh ra cũng rất lợi hại, Dương Liễu Thanh chỉ có thể chống đỡ, tính thế rất nguy hiểm. Phùng Lâm thầm nhủ: “Được, nể tình ngươi cũng là phận nữ nhi, ta cứu ngươi”. Rồi lấy hai cây ngọc thoa của Dương Liễu Thanh bắn ra, Dương Liễu Thanh chợt thấy Phùng Lâm, thất kinh nghĩ: “Chắc tên khốn khiếp này cùng một giuộc với bọn ưng khuyển! Hỏng bét!”


Người sử dụng Câu Liêm thương lách người kêu: “Để ý!” hai tên quan sai bao vây Dương Liễu Thanh đột nhiên ngã nhào ra đất, Dương Liễu Thanh nhảy vọt ra khỏi vòng, Phùng Lâm cười hì hì: “Trả lại ngọc thoa cho cô nương, sao cô nương không nhận!” Dương Liễu Thanh phóng ra khỏi khách sạn nhanh như gió, nàng kéo cây đạn cung bắn bừa vào bên trong. Tên sử dụng Câu Liêm thương gầm lớn, gạt thiết đạn ra, đang định xông ra chợt nghe một giọng đàn bà kêu lên: “Bắt tên tiểu tử này lại, ồ, hắn không phải là tiểu tử thối mà là ả nha đầu ngang ngạnh, ả chính là khâm phạm của Hoàng thượng!”


Phùng Lâm vừa nghe thì thất kinh, người đàn bà này chính là Diệp Hoành Ba, vợ của Hàn Trọng Sơn! Diệp Hoành Ba cười lạnh nói: “Hừ, đồ đệ mà dám đánh lại cả sư phụ!” rồi vỗ một chưởng phách không, mũi phi đao của Phùng Lâm bị chưởng phong đánh bay ngược trở lại chạm với hai mũi phi đao phát sau rồi rơi xuống đất. Hán tử sử dụng Câu Liêm thương cũng phóng lên, đánh ra một chiêu Quy Xà Tỏa Giang, cây Câu Liêm thương xỉa về phía trước khóa kiếm của Phùng Lâm, Phùng Lâm đâm soạt soạt hai nhát kiếm, hai tên công sai đứng gần bị thương, rồi nàng quay lại đấu với tên hán tử sử dụng Câu Liêm thương.


Diệp Hoành Ba cười hềnh hệch, kêu lớn: “Lão thối, mau đến đây xem đồ đệ ngoan của lão!” đột nhiên một tiếng động lớn như trời long đất lở vang lên, vách tường phía Tây của khách sạn đổ nhào, tiếng kêu thảm vang lên, có hai người phóng ra, chỉ nghe Hàn Trọng Sơn kêu lớn: “Mụ thối tha, xem đây!” Phùng Lâm đưa mắt nhìn, chỉ thấy có một nhà sư vàng vọt gầy ốm, hai mắt sáng quắc có oai, gầm lớn một tiếng, tay trái xách một đại hán ném xuống, tay phải đánh bật cậy tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn. Hàn Trọng Sơn bị chưởng lực của nhà sư đánh bật thối lui. Phùng Lâm phân tâm nhìn, cái Câu Liêm thương đã đánh bổ tới, suýt nữa đã bị y đâm trúng, Phùng Lâm buộc phải ngưng thần chống cự với kẻ địch. Trong tai vẫn nghe tiếng Hàn Trọng Sơn: “Mụ thối, mau qua đây, Vương Ngạo, ngươi để ý phi đao của ả nha đầu, chỉ được bắt sống, ngươi cẩn thận!” Diệp Hoành Ba liếc Phùng Lâm, rút kiếm giúp chồng của mình, bọn vệ sĩ cũng xông lên bao vây nhà sư, chỉ có một mình hán tử sử dụng Câu Liêm thương chặn Phùng Lâm.


Đang lúc kịch chiến chợt nghe tiếng kêu thảm vang lên liên tiếp, chắc là có kẻ bị nhà sư đánh ngã. Hán tử sử dụng Câu Liêm thương võ công rất cao, Phùng Lâm phải dốc hết tâm trí đối phó với y, không dám đưa mắt nhìn xung quanh.


Té ra nhà sư này chính là Hoằng Pháp đại sư giám tự chùa Thiếu Lâm. Sau khi giám tự tiền nhiệm là Bản Vô đại sư bị Niên Canh Nghiêu hại chết ông ta được thăng lên làm giám tự, Ung Chính lên ngôi, trụ trì chùa Thiếu Lâm Vô Trú thiền sư liệu rằng sẽ có hào kiếp giáng xuống, hai năm nay đã ra lệnh cho các tăng lữ chùa Thiếu Lâm dọn dẹp đồ đạc âm thầm bỏ đi, một nhánh đến Phồ Điền Phúc Kiến, một nhánh đến Nam Hải Quảng Đông, trước đêm chùa Thiếu Lâm bị hỏa thiêu, chín phần mười nhà sư đã đi sơ tán. Hôm ấy, nghe nói Niên Canh Nghiêu đóng quân ở trấn Chu Tiên, Hoằng Pháp và trưởng lão Đạt Ma viện mời trụ trì lánh nạn, nào ngờ Vô Trú thiền sư mỉm cười nói: “Các người hãy chạy cho mau, một mình ta sẽ ở đây!” bọn Hoằng Pháp đại sư không chịu, Vô Trú thiền sư nói: “Nếu Ung Chính và Niên Canh Nghiêu lên Tung Sơn mà không thấy lão nạp nào chịu bỏ qua? Ta dù sống được một lúc nhưng cũng liên lụy đến tất cả mọi người trong chùa. Phật tổ dạy, ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục, lão nạp dù bất tài nhưng cũng nguyện cố gắng hết sức”. Bọn Hoằng Pháp vẫn không chịu, Vô Trú nghiêm nghị chắp tay, nói: “Hôm nay ta lấy thân phận chủ trì chùa Thiếu Lâm lệnh cho các ngươi phải mau rời khỏi chốn này!” bọn Hoằng Pháp đại sư chỉ đành rời khỏi chùa, sáng hôm sau đại quân của Niên Canh Nghiêu đã bao vây Tung Sơn.


Ung Chính và Niên Canh Nghiêu đều xuất thân từ Thiếu Lâm, biết rõ các nhà sư trong chùa võ công cao cường, đã sớm chuẩn bị sẵn hỏa khí lợi hại nhất, dùng ba trăm Ngự lâm quân cầm ống lửa có chứa lưu huỳnh bao vây chùa rồi sau đó khai hỏa. Ngoài ra Ung Chính còn phái hơn một ngàn cung tiển thủ giương cung chờ sẵn bên ngoài. Nào ngờ lửa cháy phừng phừng mà cửa chùa Thiếu Lâm vẫn đóng chặt, chẳng ai chạy ra.


Ung Chính thấy bất ngờ, nói với Niên Canh Nghiêu: “Chả lẽ bọn chúng ngồi bên trong chờ chết?” trong chớp mắt, chùa Thiếu Lâm chìm vào biển lửa. Một mảng vách tường đổ xuống, chỉ thấy ở giữa một tòa thạch tháp có một người đang ngồi, Niên Canh Nghiêu nói: “Chắc các trụ trì chịu không nổi thế lửa nên chạy lên đỉnh tháp? Cung tiển thủ cẩn thận!” nói chưa dứt, Vô Trú niệm một tiếng Phật hiệu từ trên tháp nhảy vọt xuống xông vào biển lửa, một lát sau thạch tháp đổ ầm xuống, ba mươi sáu đại điện chùa Thiếu Lâm cùng Hoa Nghiêm bảo tháp đều hóa thành tro bụi! Niên Canh Nghiêu thở phào nói: “Trụ trì chùa Thiếu Lâm đã tự thiêu, các nhà sư chắc cũng đã hóa thành tro bụi trong biển lửa!” Ung Chính nghĩ thầm, Vô Trú thiền sư là người đứng đầu năm trăm nhà sư, cả ông ta cũng không thoát, không lẽ gì những người khác lại chạy trước ông ta, chỉ có một điều không rõ ràng đó là tòa thạch tháp cao hơn mười trượng, sao có thể dễ dàng sụp đổ như thế?


Ung Chính không biết rằng, tháp Hoa Nghiêm đổ một nửa là do thế lửa, một nửa là do Vô Trú thiền sư tự hủy. Vô Trú thiền sư từ dưới đất lên đỉnh tháp, cứ mỗi tầng đều dùng chưởng đánh chấn động các trụ cột, sau đó lại xuất hiện trên đỉnh tháp để Ung Chính thấy ông ta tự nhảy vào lửa mà yên tâm, vì thế mới bảo vệ được nhiều tăng lữ chùa Thiếu Lâm. Vì Ung Chính thấy kẻ đứng đầu đã bị trừ, dù nghi ngờ có người chạy thoát cũng truy cứu không nghiêm ngặt.


Sau khi Ung Chính và Niên Canh Nghiêu phóng hỏa đốt chùa Thiếu Lâm, để lại một tốp người canh giữ, lại phái một tốp người đi tuần tra ở phạm vi ba trăm dặm núi Tung Sơn, mục địch là đề phòng cao nhân của phái khác đến Tung Sơn thăm dò.


Sau khi chùa Thiếu Lâm bị đốt nửa tháng, việc tra xét lơi lỏng bớt, Ung Chính cùng bọn Cáp Bố Đà đi làm việc khác, chỉ để lại vợ chồng Hàn Trọng Sơn coi sóc mọi việc ở Hà Nam. Còn trên Tung Sơn chỉ để lại Hải Vân hòa thượng và thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt canh giữ. Hoằng Pháp đại sư biết triều đình đã lơi lỏng, lòng lo cho Vô Trú thiền sư nên lén trở về Hà Nam mới biết trụ trì đã hy sinh, vì thế trời đen tối lên núi tìm kiếm ở tháo Hoa Nghiêm, lấy được một nắm đất làm thánh vật của chùa Thiếu Lâm định đem về Phố Điền để lưu lại cho đệ tử đời sau chiêm ngưỡng. Hoằng Pháp đại sư võ công cao cường, lén lên Tung Sơn mà bọn Hải Vân không biết. Đáng tiếc chẳng thoát được cửa ải thứ hai, cuối cùng đã gặp phải bọn vợ chồng Hàn Trọng Sơn ở trong khách điếm này.


Người đang đánh nhau với Phùng Lâm tên là Vương Ngạo, y là đệ nhất cao thủ ở Hà Nam, Tuần phủ Hà Nam sai y giúp vợ chồng Hàn Trọng Sơn. Người này võ công tuy không bằng vợ chồng Hàn Trọng Sơn nhưng hơi cao hơn Phùng Lâm, vả lại y cũng là người giỏi đánh ám khí, đã luyện được loại ám khí độc môn độc địa.


Phùng Lâm ác chiến với Vương Ngạo, liên tục dùng võ công của mấy phái mà vẫn không thoát thân được, nàng chợt nhớ Hàn Trọng Sơn dặn rằng y phải bắt sống nàng, thầm nhủ: “Kẻ này không dám lấy mạng mình, cần gì phải sợ y?” thế là kiếm pháp đánh ra rất gấp, toàn những chiêu số tấn công, võ công của Phùng Lâm cách Vương Ngạo không bao xa, lại chẳng lo lắng gì, nên cứ tấn công liều tới, đòn thế hiểm hóc hơn trước, Vương Ngạo bị nàng đánh đến thối lui từng bước, xem ra nàng sắp xông ra khỏi cửa. Vương Ngạo nghiến răng dấn tới chặn trước cửa, cây Câu Liêm thương đẩy về phía trước chặn kiếm của Phùng Lâm lại, tay trái giương lên, Phùng Lâm chợt thấy cổ tay tựa như bị kiếm chích vào, nàng cũng không hề để ý, dùng chiêu số Thiên Cân Nhất Vũ của phái Vô Cực lội Câu Liêm thương của Vương Ngạo ra ngoài cửa, rồi đâm lại soạt soạt hai kiếm, mở được một lối thoát nhảy ra khỏi cửa. Chợt nghe Vương Ngạo cười ha hả: “Nha đầu ngang ngạnh, ngươi đã trúng ám khí độc môn của ta, sau không mau buông kiếm đầu hàng để xin ta chữa trị?” Phùng Lâm khựng người, Vương Ngạo đã đuổi tới sau, chẳng ngờ bị Phùng Lâm trở tay phóng lại hai mũi phi đao, Vương Ngạo xoay người gạt một cái, keng một tiếng, cây Câu Liêm thương đánh rơi được một mũi phi đao, nhưng mũi thứ hai vẫn bay lướt qua vai, y thấy vai đau nhói lên. Vương Ngạo cả giận, quát: “Nha đầu ngang ngạnh muốn chết!” rồi cây Câu Liêm thương đánh như mưa bão, bao bọc Phùng Lâm vào ở giữa. Ngay lúc này, chợt nghe một tiếng ầm vang lên, cánh cổng của khách sạn bị vỡ tung bay ra ngoài, mấy bóng người xông ra.


Chính là:


Lần đầu bị ám toán, nguy cơ mà không biết.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 28

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 28 Thất chí đau lòng chân tình sinh ái niệm Kim châm cứu nạn bệnh lạ đau lòng ai


Những kẻ vừa mới xông ra ngoài chính là vợ chồng Hàn Trọng Sơn, hai người bọn chúng cùng bốn tên bổ khoái bao vây Hoằng Pháp đại sư, bốn tên bổ khoái võ công kém hơn, chỉ trong chớp mắt đã bị Hoằng Pháp đại sư đánh trọng thương, nửa canh giờ sau lại có bốn tên võ sĩ bị ông ta đánh ngã. Vợ chồng Hàn Trọng Sơn thất kinh cố gắng chống đỡ. Võ công Hoằng Pháp đại sư chỉ kém Thiếu Lâm tam lão, vợ chồng Hàn Trọng Sơn tuy là hảo thủ thuộc hàng nhất đẳng nhưng cũng không chiếm được bao nhiêu tiện nghi. Có điều Hoằng Pháp đại sư cũng không thoát ra được.


Trận đánh diễn ra một lúc lâu, Hoằng Pháp đại sư nôn nóng trong lòng, lo rằng bên đối phương sẽ có cao thủ đến, ông ta ngầm vận chân lực nội gia múa chưởng một vòng rồi đấm quyền ra. Hàn Trọng Sơn giơ ngang chưởng đỡ lại nhưng nào được, bình một tiếng, quyền phong đã quét trúng sườn phải, cả thân người bị đẩy ra đến cổng.


Diệp Hoành Ba đánh hờ một kiếm phóng người toan chạy, Hoằng Pháp đại sư nhảy bổ ra cửa, chợt nghe tiếng kêu tu tu, một vật đen thui bắn tới, Hoằng Pháp đại sư tung người né tránh, món ám khí ấy thật lạ, có thể bay vòng trở lại, Hoằng Pháp đại sư cả giận vỗ tới một chưởng, chưởng phong quét ra, món ám khí bay vào vách tường. Hoằng Pháp đại sư co giò toan đuổi theo, nào ngờ ám khí chạm vào vách tường đột nhiên bắn lên, Hoằng Pháp đại sư thấy gót chân đau nhói, té ra ám khí đã móc vào đến xương chân. Hoằng Pháp đại sư dùng hai ngón tay kẹp vào rút ám khí ra, khi đuổi ra bên ngoài thì vợ chồng Hàn Trọng Sơn đã biến mất. Món ám khí mà Hoằng Pháp đại sư trúng chính là Hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn. Vương Ngạo đang ác đấu với Phùng Lâm, thấy vợ chồng Hàn Trọng Sơn hô nhau bỏ chạy, Hoằng Pháp đại sư rượt ra đến cửa khiến y hoảng vía cũng phóng người bỏ chạy. Phùng Lâm đang định đuổi theo, chợt bên tai có người kêu: “Cô nương đừng đuổi nữa! Để lão nạp xem thử, cô nương đã trúng ám khí”. Phùng Lâm chưng hửng, chỉ thấy nhà sư ấy đứng trước mặt mình. Nàng thầm nhủ: “Lão hòa thượng này thật lợi hại, vừa nhìn đã nhận ra mình là nữ cải dạng nam trang. Mình trúng ám khí gì?” Hoằng Pháp đại sư cầm tay Phùng Lâm, sờ nhẹ vào, mặt chợt biến sắc kêu lên: “Đây là ám khí Thất Sát Bạch Mi châm của Đường gia Tứ Xuyên”.


Phùng Lâm không biết ám khí Thất sát bạt mi châm là gì, cũng không biết Đường gia Tứ Xuyên là thế nào, chỉ cười hỏi: “Lão hòa thượng, ông thật là có bản lĩnh, có thể đánh bọn vợ chồng Hàn Trọng Sơn bỏ chạy. Ông đã trúng Hồi hoàn câu của bọn chúng. Chắc đau lắm. Nhưng tôi chẳng đau tí nào cả, ông hãy tự trị cho mình trước”. Hoằng Pháp nghe nàng không những biết tên của Hàn Trọng Sơn mà còn biết cả loại ám khí mà mình vừa mới trúng, bất giác ngạc nhiên, vội vàng hỏi: “Sư phụ của cô nương là ai? Cô nương tên là gì?” Phùng Lâm chưng hửng, vốn định không muốn nói nhưng thấy nhà sư mặt mũi hiền từ, lại đối xử với mình tốt, buột miệng nói: “Tôi có rất nhiều sư phụ, vợ chồng Hàn Trọng Sơn cũng là sư phụ của tôi, nhưng lão hòa thượng đừng lo, tôi sẽ dạy ông cách trị thương”. Hoằng Pháp vừa nghe cảm thấy rất bất ngờ.


Phùng Lâm mỉm cười tiếp tục nói: “Hồi hoàn câu không có độc, có lẽ móc câu đã ăn sâu vào thịt, ông dùng từ thạch hút ra là được. Ông xem, đơn giản biết bao nhiêu”. Phùng Lâm thầm nhủ: “Mình chỉ như bị mũi cắn mà ông ta lo lắng đến thế, chắc là võ công của ông ta tuy cao nhưng không rành ám khí”. Phùng Lâm nghĩ nhà sư này đối xử tốt với mình, lại muốn thừa cơ cho ông ta thấy mình hiểu ám khí như thế nào mà không biết rằng đã múa rìu qua mắt thợ.


Hoằng Pháp đại sư bật cười, thầm nhủ: “Đứa trẻ này thật đáng yêu, đáng tiếc thích tỏ ra thông mình, không biết trời cao đất dày”. Té ra Thất sát bạt mi châm là loại ám khí cực độc của Đường môn Tứ Xuyên, nhỏ tựa như lông nên được gọi là Bạch Mi châm. Khi cắm vào người, sẽ thuận vào buồng máu mà đến buồng tim, thần tiên cũng khó cứu. Phùng Lâm bị trúng châm ở cổ tay, có lẽ bảy ngày sau Bạch Mi châm sẽ đến buồng tim. Vả lại trong vòng ba ngày mà không thể ngăn độc châm dâng lên, sau này dù có thuốc giải cũng tàn phế. Chỉ có nhà họ Đường mới có thuốc giải, Vương Ngạo là con rể của nhà họ Đường ở Tứ Xuyên, y vốn không phải muốn lấy mạng Phùng Lâm mà chỉ vì muốn buộc nàng đầu hàng. Không ngờ việc diễn ra quá bất ngờ, Vương Ngạo vội vàng bỏ chạy, lúc này cũng không biết đã ở nơi nào nên chẳng thể nào xin được thuốc giải.


Hoằng Pháp đại sư cười xong rồi lại lo, thấy nàng xinh xắn đáng yêu, nếu để nàng biết trong vòng bảy ngày sẽ độc phát thân vong không biết nàng sẽ đau lòng thế nào. Chùa Thiếu Lâm tuy có nhiều linh dược nhưng lại không có thứ trị Thất Sát Bạch Mi châm.


Hoằng Pháp đại sư thầm lo, Phùng Lâm thấy ông ta im lặng không nói, cười rằng: “Ông có thể đi được không? Nếu không được tôi sẽ tìm từ thạch cho ông”. Hoằng Pháp đại sư chắp tay nói: “Tiểu cô nương có lòng dạ Bồ Tát, lão nạp xin đa tạ. Tôi không cần dùng từ thạch, cô nương đừng lo cho tôi. Nhưng vết thương của cô nương...” Hoằng Pháp đại sư không nỡ nói lời thực, chỉ đành ấp úng, Phùng Lâm nói: “Thế nào?” Hoằng Pháp đại sư lấy ra ba viên thuốc: “Cô nương uống mỗi ngày một viên. Sau đó đến chùa Thiếu Lâm ở Phổ Điền Phúc Kiến, cứ bảo rằng trên đường gặp được lão nạp, lão nạp kêu cô nương đến, họ sẽ giữ cô nương lại”. Loại thuốc này chính là Tiểu Hoàn đơn, tuy không phải là thuốc giải nhưng trong vòng năm ba ngày có thể ngăn độc khí dâng lên, trong vòng một tháng không đến nỗi độc phát thân vong. Hoằng Pháp đại sư tính toán, trong vòng hai ngày ông ta sẽ đến phủ nha Hà Nam bắt Vương Ngạo buộc y đưa ra thuốc giải. Nhưng không biết có thành công hay không nên không dám nói trước. Hoằng Pháp đại sư là tội phạm của triều đình nên không dám dắt Phùng Lâm đi cùng.


Phùng Lâm cầm viên thuốc, cười hì hì: “Thuốc này có đắng không?” Hoằng Pháp nói: “Không đắng, không đắng. Hãy mau nuốt vào. Có người đến, lão nạp phải đi đây!” rồi phóng lên nóc nhà bỏ chạy, Phùng Lâm thấy chân trái của ông ta tuy bị thương nhưng đi lại vẫn nhanh nhẹn, lúc này trăng đã lên đến giữa bầu trời, dưới ánh trăng có hai bóng người đuổi tới, một người chính là Đường Hiểu Lan. Phùng Lâm kinh hoảng, chỉ lo Đường Hiểu Lan đi cùng với Lữ Tứ Nương đến bắt mình.


Nàng liền đứng dậy chay thật nhanh, chợt nghe nhà sư lên tiếng hỏi: “Đường Hiểu Lan, có phải ngươi và Trần đại ca đấy không?” Phùng Lâm thầm nhủ: “Ồ, té ra họ quen biết nhau”. Nàng càng chạy nhanh hơn, nhà sư và Đường Hiểu Lan không đuổi theo, chắc là Đường Hiểu Lan chưa phát hiện ra nàng mà nhà sư cũng bận trò chuyện với họ.


Phùng Lâm chạy một hồi đã đến trấn nhỏ, thầm nhủ: “Mình cần gì phải lên Phố Điền ở Phúc Kiến, Tung Sơn ở gần đây, muốn đến Thiếu Lâm tự sao lại bỏ gần lấy xa. Vả lại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn nổi tiếng hơn Thiếu Lâm ở Phúc Kiến nhiều”.


Chạy được khoảng hai ba mươi dặm trời vẫn chưa sáng, Phùng Lâm mệt rã rời, cởi áo ngoài nằm xuống ở sườn núi, không bao lâu thì ngủ thiếp đi.


Trong mơ màng nàng chợt nghe tiếng bước chân, Phùng Lâm xoay người lại, chợt có người kêu: “Ồ có thiếu nữ ngủ ở đây!” Phùng Lâm bật người dậy định thần nhìn, sợ đến nỗi chẳng còn muốn ngủ nữa, hai người ấy chính là Vương Ngạo và Diệp Hoành Ba.


Số là sau khi Hàn Trọng Sơn và Diệp Hoành Ba, không lâu sau hội họp với Vương Ngạo, Hàn Trọng Sơn bị trúng một chưởng của Hoằng Pháp đại sư tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng phải nghỉ ngơi vài ngày, Vương Ngạo đã trúng độc đao, chất độc dần dần phát tác. Hàn Trọng Sơn nói: “Lão lừa trọc Hoằng Pháp đã trúng Hồi hoàn câu của ta, mụ già hãy đuổi theo y. Ta sẽ kêu Thiên Diệp sư đệ giúp bà”. Rồi lại bảo với Vương Ngạo: “Ngươi đã trúng độc đao của nha đầu, hãy bắt ả để lấy thuốc giải”. Thật ra Hàn Trọng Sơn cũng có thuốc giải nhưng sợ Vương Ngạo không chịu ra sức nên mới không đưa cho y, chỉ cho y hai viên thuốc giải độc bình thường rồi thúc y đuổi theo.


Phùng Lâm đứng vọt dậy, xoay người toan bỏ chạy, Diệp Hoành Ba giơ ngang kiếm chặn lại, Phùng Lâm giơ ngang kiếm chặn lại. Phùng Lâm đánh một chiêu Cơ Ưng Lược Vũ đâm qua. Diệp Hoành Ba cười ha hả: “Ngươi còn có bao nhiêu sức mà dám đấu kiếm với sư nương!” rồi chặn ngang thanh kiếm ra ngoài, chiêu này công thủ đều có rất lợi hại. Nhưng Diệp Hoành Ba sợ ngộ thương Phùng Lâm không dám dốc hết toàn lực, chỉ gạt hờ một cái, tưởng rằng kiếm của Phùng Lâm bị mụ gạt bay, nào ngờ Phùng Lâm ngày nay chẳng phải lúc trước, hai kiếm giao nhau, cây kiếm của Diệp Hoành Ba bị bạt ra, mụ ta thất kinh thầm nhủ: “Hừ, sao ả nha đầu tiến bộ thần tốc đến thế?” rồi mụ không dám sơ ý, đâm soạt soạt mấy kiếm đè bẹp kiếm thế của Phùng Lâm.


Diệp Hoành Ba dốc bản lĩnh thật sự ra, Phùng Lâm đương nhiên không phải là đối thủ của mụ, nhưng trong vòng năm bảy mươi chiêu vẫn chưa nao núng. Vương Ngạo định xông lên, Diệp Hoành Ba quát: “Không cần ngươi giúp đỡ, lão nương không tin chẳng bắt được ả!” kiếm chiêu đánh gấp, lập tức nhốt Phùng Lâm trong làn kiếm quang. Có điều Diệp Hoành Ba chỉ muốn bắt sống, nên Phùng Lâm tuy gặp nguy hiểm nhưng vẫn có thể chống đỡ nổi.


Khoảng năm mươi chiêu nữa lại trôi qua, Diệp Hoành Ba thấy chẳng còn mặt mũi nào, toan đánh liều đâm nàng bị thương, thế là kiếm chưởng đều sử dụng, kiếm đâm vào Ma huyệt, chưởng đoạt binh khí, Phùng Lâm cố gắng chống đỡ mấy chiêu mà rất vất vả, xem ra sắp bị bắt sống, chợt có người kêu: “Anh muội, có phải muội đấy không?” Phùng Lâm không dám quay đầu giơ kiếm chống trả, lớn giọng đáp, “Lý đại ca, mau đến đây giúp muội!” Diệp Hoành Ba đè kiếm xuống, khiến Phùng Lâm chẳng thể nào giở kiếm lên được, tay trái xỉa vào Ma huyệt của nàng!


Ngay lúc này Lý Trị đã phóng tới, tay phải cầm trường kiếm gạt qua, đánh bạt cái Câu Liêm thương của Vương Ngạo ra, chưởng trái đẩy về phía trước, hóa giải chiêu số điểm huyệt của Diệp Hoành Ba. Diệp Hoành Ba nhận ra đó là chàng thiếu niên mà mình đã gặp ở Tam Đàm Ấn Nguyệt, cười hì hì nói: “Lại thêm một tên khâm phạm nữa!” kiếm chiêu chợt nở rộ đánh về phía Lý Trị, Lý Trị xoay chui kiếm, đâm vào be sườn của kẻ địch. Diệp Hoành Ba đánh ra một chiêu Phong Hầu Đoạt Ấn, toan chặn kiếm của Lý Trị lại, nào ngờ kiếm chiêu vừa mới thi triển, kiếm của Lý Trị đã đâm tới phía bên phải, Diệp Hoành Ba bị chàng ta đánh luôn mấy quái chiêu khiến chân tay luống cuống, Phùng Lâm nhảy ra, Diệp Hoành Ba lớn giọng kêu: “Vương Ngạo, đối phó ả nha đầu!” Vương Ngạo triển khai Câu Liêm thương chạy đến trợ chiến, trong lòng cười thầm: “Té ra cả hai đứa trẻ mà đánh cũng không lại, thế mà còn lên mặt!”


Bốn người vừa hợp đã phân, kiếm của Lý Trị theo sát Diệp Hoành Ba, hai bên đều thi triển đòn sát thủ, từ dưới rừng đánh lên tới trên núi. Kiếm pháp của Lý Trị rất quái dị, thiên hạ chẳng ai địch nổi, Diệp Hoành Ba có công lực tuy cao nhưng trong nhất thời cũng bị lọt xuống thế hạ phong. Phùng Lâm thấy Lý Trị đến thì tinh thần phấn chấn, nàng đã có kinh nghiệm đêm qua, đánh Vương Ngạo mà không cần tiến gấp, chỉ triển khai Vô Cực kiếm pháp loang loáng che kín môn hộ. Vương Ngạo đánh liền hai mươi chiêu người dần dần đuối, miệng khát khô, biết rằng chất độc đã phát tác, thế công đành chậm lại.


Phùng Lâm cười hì hì: “Tên cẩu tặc nhà ngươi chẳng qua chỉ có thế, sao còn chưa mau đầu hàng!” võ công của Vương Ngạo trên thực tế hơn nàng, chỉ vì độc tính phát tác quá nhanh nên không cầm cự nổi, giận dữ cười lạnh: “Nha đầu ngang ngạnh, ngươi đã trúng độc châm của ta, trong bảy ngày chắc chắn sẽ mất mạng, thế mà còn làm hung!”


Phùng Lâm cười ha hả, nói: “Nói càn!” rồi đột nhiên chuyển thủ làm công, sử dụng Đạt Ma kiếm pháp mà Ung Chính đã từng dạy cho nàng, chỉ trong vòng mười chiêu đã khiến Vương Ngạo luống cuống. Vương Ngạo kêu: “Ngươi không tin lời ta? Có phải huyệt Khúc Trì của ngươi đang đau nhói hay không?” Huyệt Khúc Trì nằm ở giữa khớp cổ tay, Vương Ngạo tính rằng Bạch Mi châm từ huyết quản đi lên, giờ đây đã đến gần huyệt Khúc Trì, bởi vậy mới lên tiếng cảnh cáo, không ngờ Phùng Lâm đã uống Tiểu Hoàn đơn của Hoằng Pháp đại sư, Bạch Mi châm đã bị huyết dịch chặn lại, tạm thời không dâng lên, bởi vậy không cảm thấy đau đớn. Phùng Lâm thấy y toát mồ hôi, tưởng rằng y dọa dẫm mình, cười hì hì nói: “Xem thử là ai chết trước!” thế rồi kiếm chiêu càng hiểm hóc hơn, chỉ trong chốc lát Vương Ngạo đã trúng hai nhát kiếm, y lướt sang Diệp Hoành Ba, Diệp Hoành Ba đang đánh nhau rất hăng với chàng thiếu niên, không ai hơn được ai, y nghĩ bụng Diệp Hoành Ba không thể nào giúp cho mình được nữa, bất giác nhụt khí, nói với giọng van vĩ: “Ta chết ngươi cũng chẳng sống, chi bằng chúng ta trao đổi thuốc giải, đôi bên không phạm nhau!” Phùng Lâm cả cười: “Nếu ngươi cầu xin, có lẽ ta sẽ tha cho ngươi, ngươi có ý đồ uy hiếp, ta không thể tha được cho ngươi!” rồi nàng xoáy thanh kiếm một cái, cây Câu Liêm thương của Vương Ngạo vuột khỏi tay rơi xuống. Vương Ngạo nhìn Phùng Lâm rồi kêu: “Ngọc mạo hoa dung, đáng tiếc, đáng tiếc!” Phùng Lâm tức giận nói: “Đáng tiếc thế nào?” rồi nàng vung kiếm đâm từ trước ngực ra tới sau lưng của Vương Ngạo!


Lý Trị và Diệp Hoành Ba đều dốc hết bản lĩnh, Lý Trị hơn ở chỗ kiếm pháp quỷ dị, Diệp Hoành Ba hơn ở chỗ công lực thâm hậu, đôi bên đọ nhau hơn trăm chiêu, Lý Trị toát mồ hôi trán, hơi thở gấp gáp, Diệp Hoành Ba đang chuyển thủ thành công liên tục chiếm được tiên cơ, chợt nghe Vương Ngạo kêu thảm, bất giác lạnh mình thầm nhủ: “Nếu hai người bọn chúng liên thủ chắc mình sẽ thua to”. Thế rồi đánh hờ ra một chiêu rồi chạy như bay, còn Lý Trị thì thở phì phò gọi Phùng Lâm mà không đuổi theo.


Phùng Lâm nhớ lại trước kia mình đã mặc khi chàng bi thương mà lòng hổ thẹn, Lý Trị cười nói: “Anh muội, huynh tìm muội đến khổ. Chẳng phải muội rất thân thiết với mụ già lúc nãy sao? Ba năm trước ở Tam Đàm Ấn Nguyệt, muội cùng đi với mụ ta mà giờ đây sao lại đánh nhau với mụ?” Phùng Lâm mỉm cười nói: “Muội thích thân thiết với ai cũng được, có gì là lạ? Mụ yêu phụ này bức hiếp muội, muội không thích mụ ta nữa”.


Lý Trị thầm mừng, nghĩ rằng: “Dẫu sao nàng cũng không mất hết Lý Trị, nay đã phân biệt được người tốt kẻ xấu. Nàng còn nhỏ không hiểu biết việc đời, mình phải giúp nàng mới được”. Chàng chợt thấy Phùng Lâm nhíu mày thì hỏi: “Anh muội, muội đã bị thương à?” Phùng Lâm nói: “Không, chỉ là ở gần huyệt Khúc Trì hơi đau, không biết là vì cớ gì?” nói xong thì chợt nhớ đến lời Vương Ngạo, bất giác thất kinh. Té ra Phùng Lâm uống Tiểu Hoàn đơn, tạm thời kìm chế được Bạch Mi châm, nhưng sau một hồi kịch đấu, huyết lưu chảy gấp, Bạch Mi châm dần dần dâng lên. Lý Trị cũng hiểu chút ít y đạo, thế là đưa tay chạm vào cổ tay nàng, Phùng Lâm đỏ mặt, Lý Trị chẳng hề để ý vì từ nhỏ chàng và Phùng Anh vẫn thường chơi đùa bên nhau, chàng chợt thất kinh kêu: “Muội đã bị thương bởi ám khí có độc! Ám khí này chắc chắn rất nhỏ, chắc là Mai Hoa châm!” Phùng Lâm nói: “Không phải Mai Hoa châm, hình như là Thất Sát Bạch Mi châm”.


Lý Trị thất kinh, mồ hôi trán tuôn xuống ròng ròng. Phùng Lâm thấy chàng căng thẳng như thế thì kinh hãi hỏi: “Có phải Thất Sát Bạch Mi châm rất lợi hại không?” Lý Trị vội hỏi: “Ai đã nói cho muội biết? Có phải muội đã thực sự trúng Thất Sát Bạch Mi châm không?” Phùng Lâm chỉ Vương Ngạo, nói: “Chính là y đã cho muội biết, y đã bắn ra Thất Sát Bạch Mi châm. Y còn nói, bảy ngày nữa muội sẽ độc phát thân vong!” rồi nàng nghiêng đầu nghĩ ngợi, cười nói: “Hừ, muội không tin. Lúc nãy y còn đòi trao đổi thuốc giải với muội, muội cứ mặc kệ y. Y cứ tưởng muội là trẻ con, muội không mắc lừa y đâu”. Lý Trị vừa nghe thì sợ đến nỗi mặt tái xanh, không đợi nàng nói xong đã vội vàng bước lên lục soát trên người Vương Ngạo, Phùng Lâm che mặt nói: “Hừ, y chết trông thật khó coi, lôi xác sang một bên, muội không muốn nhìn”.


Lý Trị không thèm để ý, chàng lấy ra được một ống ám khí, mở nắp ống thì bên trong có mấy cây tiểu hoa châm nhỏ như lông trâu, Lý Trị đau nhói lòng, vội vàng tiếp tục lục soát mà chẳng tìm thấy thuốc giải, Phùng Lâm nói: “Ngươi không nghe lời ta, ta phải đi đây!” rồi nàng chạy đến bên mép múi, Lý Trị vội vàng kêu: “Muội đừng chạy!” rồi đá cái xác sang một bên, lấy lá cây che kín. Phùng Lâm bật cười nói: “Ta không chạy nữa. Này, Thất Sát Bạch Mi châm có lợi hại thật không?”


Lý Trị thấy nàng chết đến nơi mà vẫn không hề biết, cứ vui đùa như một đứa trẻ, vừa đau lòng vừa lo lắng, hỏi: “Binh khí của người này đâu?” Phùng Lâm trả lời: “Rơi xuống sông rồi”. Nước sông chảy cuồn cuộn, xem ra chẳng tìm được nữa. Thuốc giải của Vương Ngạo được giấu trong cây thương, dù Lý Trị có tìm được cũng không biết cách phá cơ quan, huống chi đã không thể nào tìm được nữa.


Lý Trị đã biết lai lịch của Thất Sát Bạch Mi châm, thầm tính: “Từ đây đến Tứ Xuyên ít nhất cũng phải đi hơn một tháng, dù Đường gia có chịu cho thuốc giải cũng chẳng kịp”. Trong lòng lo lắng nên bất giác rơi lệ, rồi lại nghĩ: “Nhưng không thể cho Anh muội biết, nàng biết chắc chắn sẽ sợ chết, dù không thể cứu được cũng phải để cho nàng sống vui trước khi chết”. Chàng len lén quay đi lau nước mắt. Nhưng Phùng Lâm đã thấy, trong lòng rất cảm động, thầm nhủ: “Trước đây khi chàng ta bị thương mình bỏ chàng, thế mà chàng chẳng trách gì mình, giờ đây mình đã trúng ám khí, chàng còn lo hơn mình gấp trăm lần. Ôi chao, người này tuy không thông minh lắm nhưng cũng thật hiếm có”. Sống trong hoàng phủ, tuy Phùng Lâm được thương yêu nhưng đây là lần đầu tiên trong đời nàng cảm nhận được sự quan tâm của người khác đối với mình.


Lý Trị quay đầu lại, gượng cười nói: “Anh muội, muội thích gì? Huynh sẽ chìu muội”. Phùng Lâm nói: “Sao huynh lại lo như thế, cả cười cũng rung! Cười chẳng ra cười, thật khó coi!” rồi nàng nhăn mặt trêu Lý Trị khiến cho chàng cũng phải bật cười. Phùng Lâm nói: “Muội không lo gì cả! Sao huynh phải lo. Muội tin Thất Sát Bạch Mi châm không lấy được mạng muội. Đêm hôm qua muội đã uống thuốc giải của lão hòa thượng, chẳng thấy đau đớn gì cả. Ông ta còn bảo muội đến chùa Thiếu Lâm ở Phố Điền. Huynh nghĩ thử xem, nếu muội không sống được bảy ngày, làm sao ông ta nói như thế? Trên đường muội đã chết từ lâu!” Lý Trị mừng rỡ hỏi: “Lão hòa thượng nào? Có còn thuốc hay không?” Phùng Lâm nuốt một viên thuốc rồi nói: “Hòa thượng ấy võ công rất giỏi”. “Nhưng ông ta cũng phải có tên chứ?” “Ông ta không nói muội làm sao biết?” Lý Trị thầm nhủ: “Chẳng lẽ là cao tăng chùa Thiếu Lâm, hay là trụ trì của chùa Thiếu Lâm ở Phố Điền. Nhưng chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn chẳng phải sẽ gần hơn nhiều hay sao, ôi, mình thật ngốc! Chẳng nhớ ra chùa Thiếu Lâm! Linh đơn diệu dược trong chùa rất nhiều, nói không chừng không cần đến thuốc giải của Đường gia cũng có thể cứu cho nàng”. Lý Trị không biết chùa Thiếu Lâm đã bị thiêu hủy, càng không ngờ rằng Phùng Lâm đã gặp giám tự chùa Thiếu Lâm Tung Sơn mà vẫn không thể nào cứu được.


Phùng Lâm thấy Lý Trị đứng ngẩn ra, nói: “Huynh nghĩ gì thế?” “Huynh muốn cùng muội đến Tung Sơn. Dù chúng ta không cần đi nhanh, ngày mai cũng sẽ tới nơi. Chẳng phải sẽ còn nhanh hơn cả đi Phố Điền hay sao?” Phùng Lâm vỗ tay cười nói: “Muội cũng nghĩ như huynh, này, sau khi chúng ta xin được thuốc giải, lại sẽ tỉ kiếm với cao tăng chùa Thiếu Lâm”. “Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, muội đến Thiếu Lâm không được làm càn”. Lại bảo: “Sư phụ của muội và Bản Không đại sư trụ trì trước kia của chùa Thiếu Lâm vốn quen biết nhau, người trong chùa chắc chắn sẽ tiếp đã muội”. “Thế à? Sao muôi chưa từng nghe sư phụ nói?” “Dịch bá mẫu thấy muội còn bé, đâu phải chuyện gì cũng nói!” “Đúng thế, người chê muội lắm lời nên chẳng nói gì cho muội biết” Lý Trị chưng hửng, nói: “Trước kia muội rất trầm tĩnh, giờ lớn lên mới thích nói nhiều phải không?” Phùng Lâm giật mình, thầm nhủ: “Lại hỏng bét”. Nhưng nàng vốn lanh lẹ, sắc mặt vẫn bình thản, chẳng hề biểu hiện ra, mỉm cười rằng: “Đối với người gần gũi nhất muội mới lắm lời, đối với người quen bình thường muội đâu thích nói”. Lý Trị nghĩ cũng có lý. Phùng Lâm và Dịch bá mẫu tình như mẹ con, nàng nũng nịu trước Dịch bá mẫu cũng là chuyện bình thường. Phùng Lâm thấy chàng mỉm cười, không dám nói nhiều, cẩn thận hỏi dò rằng: “Cựu cựu của huynh đâu?” “Người có chuyện phải quay về Thiên Sơn”. Phùng Lâm thở phào, nàng biết Lý Trị tính tình trung hậu, chắc chắn chàng sẽ không biết mình giả làm đồ đệ của Dịch Lan Châu.


Phùng Lâm lại cải dạng nam trang đi cùng Lý Trị, trên suốt quãng đường nàng cứ gợi cho Lý Trị kể chuyện trên Thiên Sơn, không đầy nửa ngày nàng đã biết hết chuyện về Thiên Sơn thất kiếm, mối quan hệ giữa họ cùng tính cách của đồ đệ Dịch Lan Châu.


Tung Sơn là tên gọi chung của hai núi Thiếu Thất và Thái Thất, hôm sau hai người đã đến chân núi Thiếu Thất, lúc này chùa Thiếu Lâm đã bị hỏa thiêu gần một tháng, Lý Trị và Phùng Lâm đứng từ xa nhìn thấy trái núi trọc lóc, rất kinh hãi, hai người lên núi, chỉ thấy một đống đổ nát hoang tàn.


Phùng Lâm nói: “Sao lại thế này, hay là huynh đã đi nhầm đường. Ở đây chẳng có căn nhà nào, làm sao tìm ra chùa Thiếu Lâm?” Lý Trị nói: “Chùa Thiếu Lâm ở đâu ai mà không biết, làm sao đi nhầm được”. Rồi chỉ đống đổ nát nói: “Muội có thấy đống gạch kia không? Chắc chắn ở đây đã xảy ra một trận hỏa hoạn”. Hai người rất thất vọng, Lý Trị càng đau đớn hơn, thầm nhủ: “Cứu Anh muội chỉ hy vọng ở Thiếu Lâm, mà nay Thiếu Lâm đã bị hỏa thiêu, mình đi đâu tìm linh đơn diệu dược đây?”


Phùng Lâm cười nói: “Huynh lại lo rồi à? Dù không có thuốc giải, muội cũng không đến nỗi chết”. Phùng Lâm đã nuốt viên Tiểu Hoàn đơn cuối cùng, nàng chỉ cảm thấy cổ tay đau nhói chứ chẳng hề gì. Lý Trị nhảy lên một tảng đá lớn nhìn ra, chợt kêu lên: “Hình như ở đằng kia có một căn nhà, ồ, còn có một người nữa”. Chàng nhảy xuống chạy tới phía trước mấy trượng, mừng rỡ nói: “Người này là một hòa thượng”. Phùng Lâm nói: “Chắc chắn là nhà sư chùa Thiếu Lâm, chúng ta gọi y!” rồi nàng chúm môi huýt một tiếng sáo, người ấy phóng tới như bay, quả nhiên là một hòa thượng. Lý Trị cung kính hỏi: “Xin hỏi pháp danh của đại sư?” hòa thượng nói: “Các ngươi tìm ai?” Phùng Lâm thấy hòa thượng đầu đội mũ sừng dê, mình mặc cà sa màu đen, mắt lộ huung quangg, tay cầm một cây trường kiếm sáng loáng, trông chẳng giống như cách ăn mặc của sư chùa Thiếu Lâm, trong tay cầm sẵn phi đao, buột miệng trả lời: “Chẳng tìm ai cả”. Lý Trị lại nói: “Xin hỏi chùa Thiếu Lâm bị đốt từ lúc nào? Vô Trú thiền sư có ở đây hay không?” hòa thượng ấy cười gằn, cao giọng nói: “Các ngươi tìm chủ trì của chùa Thiếu Lâm? Hừ, đến thật đúng lúc, ta đang tìm các ngươi đây!”


Lý Trị giật mình, nói: “Đại sư nói thế là có ý gì?” hòa thượng nói: “Ý gì? Là ta muốn ngươi đi gặp Vô Trú!” cây trường kiếm chợt vung ra, quét vù tới một nhát kiếm.


Người này chính là Hải Vân hòa thượng ở lại Tung Sơn canh giữ, y đã canh ở đây gần cả tháng, hôm nay mới thấy người ngoài, thầm nhủ: “Hừ, rốt cuộc cũng có hai tên tiểu tặc tự chui đầu vào lưới”. Lý Trị suýt nữa bị y đâm trúng, chàng phóng mình lên cao mới tránh được nhát kiếm ấy. Hải Vân hòa thượng múa kiếm đâm tiếp, Phùng Lâm phóng ra ba mũi phi đao, Hải Vân hòa thượng vạch một vòng tròn rồi xoay người hai cái, ba mũi phi đao đều bị kiếm phong quét lên trời, rơi xuống sơn cốc trở lại. Lý Trị kêu lên: “Anh muội, đừng động thủ. Nếu muội động thủ huynh sẽ giận đấy!” rồi rút kiếm ác đấu với Hải Vân hòa thượng.


Hải Vân hòa thượng vốn chẳng xem Lý Trị vào đâu, không ngờ chàng ta chỉ mới đánh mấy chiêu mà đã cảm thấy khó hóa giải. Y thất kinh không dám sơ suất, cây trường kiếm kêu lên vù vù, kiếm quang chụp xuống toàn thân, kiếm pháp của Lý Trị tuy quái dị tuyệt luân nhưng cũng không thể nào đánh vào được. Chỉ trong chớp mắt hai người đánh nhau đến hơn năm mươi chiêu, Hải Vân hòa thượng đầu tiên lấy thủ làm công, sau đó lấy công đối công, cả hai bên tám lạng nửa cân, chẳng ai thua ai. Phùng Lâm cứ nhấp nhổm muốn nhảy vào, có điều nàng sợ Lý Trị giận nên không dám tiến lên. Phùng Lâm vốn rất ít nghe lời người khác, chỉ vì Lý Trị thương yêu nàng, nên bất giác nàng đã thay đổi, không thể nào không nghe lời Lý Trị.


Hải Vân hòa thượng đánh được năm mươi chiêu mà vẫn chẳng chiếm được phần tiện nghi nào, chỉ cảm thấy kiếm pháp của kẻ địch quái dị vô cùng, chẳng thể nào nắm bắt được; vốn là y muốn đánh cả hai, nhưng giờ đây lại sợ Phùng Lâm tấn công vào. Lý Trị cũng thầm thất kinh, bởi vì kiếm pháp của Hải Vân hòa thượng nhanh như sấm sét, mỗi nhát kiếm đều như nặng đến ngàn cân, nếu đánh tiếp chỉ sợ sẽ thất bại. Đang tìm cách thoát ra, chợt nghe kẻ địch hú dài, tựa như muốn gọi đồng bọn, trong lòng càng lo, thế là chàng vội đâm soạt ra một kiếm. Hải Vân hòa thượng thấy mũi kiếm của kẻ địch máy động, tựa như đâm ở phần thượng bàn nhưng lại đâm xuống gối, y lùi một bước, chưởng trái bạt ngang ra, tay phải cầm kiếm giơ ngang ngực, phòng thủ cả trên dưới trái phải, dù đối phương biến chiêu như thế nào cũng có thể ứng phó nổi. Không ngờ mũi kiếm của Lý Trị vẫy một cái, đổi hướng đâm về phía huyệt Tiếu Huyệt ở trung bàn. Hải Vân hòa thượng không kịp đề phòng, bị mũi kiếm điểm vào, vừa ngứa ngáy vừa tê rần, lập tức cười lên như phát cuồng. Lý Trị cả mừng, xoay người lại kéo Phùng Lâm chạy xuống núi. Chạy đến lưng chừng núi, phó thủ của Hải Vân hòa thượng là thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt đã đuổi tới, đôi Phán Quan bút phân ra hai bên trái phải chặn lại giữa đường. Bọn lính canh trên núi Tung Sơn lúc đầu rất nhiều, sau mấy ngày chẳng thấy chuyện gì, Ung Chính lại có việc khác nên dần dần rút đi chỉ còn để lại Hải Vân hòa thượng và Tần Trung Việt. Võ công của Tần Trung Việt tuy không bằng Hải Vân hòa thượng nhưng chiêu số điểm huyệt bằng đôi bút Phán Quan của y cũng rất độc đáo, muốn đánh lùi y trong chốc lát là điều không thể.


Đấu được khoảng ba mươi chiêu, chợt nghe Hải Vân hòa thượng gầm lớn đuổi xuống. Lý Trị lạnh mình, huyệt Tiếu Yêu là một trong những huyệt gây tê, nằm ở cuối xương sườn mềm, thuộc vị trí của thận tạng, nếu bị điểm trúng chắc chắn sẽ cười như điên không ngừng, sức lực tiêu tan. Nào ngờ Hải Vân hòa thượng chỉ cười một hồi lại có thể chạy xuống như bay, quả thực công lực của y đúng là bất phàm! Phùng Lâm rút đoản kiếm, tay cầm phi đao, Lý Trị nói: “Muội đứng sang một bên, nếu huynh không địch nổi, muội hãy chạy xuống núi trước”. Khi chàng đang nói thì Hải Vân hòa thượng đã đuổi tới.


Lý Trị trước sau đều gặp địch, tình thế thay đổi, đánh được năm mươi chiêu, chiêu số đã dần đần bị kẻ địch vây khốn, Hải Vân hòa thượng vung cây trường kiếm xoáy một cái, keng một tiếng, kiếm của y đã chập vào thân kiếm của Lý Trị, Lý Trị không thể nào triển khai được kiếm chiêu, Tần Trung Việt phân hai cây bút ra, đánh ra một chiêu Song Phong Quán Nhĩ, bút trái xỉa hờ vào mặt, bút phải đâm vào huyệt Huyền Cơ trên ngực, xem ra Lý Trị khó thoát nổi chiêu này.


Phùng Lâm lướt qua một bên, lúc nàng không thèm để ý đến lời của Lý Trị nữa, đã vung tay lên, phi đao bắn ra, Tần Trung Việt xoay người né tránh, cây bút lệch qua một bên, đến khi điểm lại thì đã bị Phùng Lâm ném thêm một mũi phi đao đánh lệch Phán Quan bút của y, Tần Trung Việt nhảy tránh sang một bên, Lý Trị điểm cây trường kiếm về phía trước, hóa giải chiêu số của Hải Vân hòa thượng, kêu lớn: “Anh muội, chạy mau, đừng xông lên!” Phùng Lâm cười rằng: “Huynh đừng giận, một mình huynh chẳng đánh được lão lừa trọc, sau này hẵng giận cũng không muộn”. Tuy miệng đang nói nhưng tay nàng chẳng hề ngừng, cây đoản kiếm quét ngang về phía Tần Trung Việt.


Võ công của Phùng Lâm rất phức tạp, chỉ trong chốc lát đã đổi sáu bảy loại chiêu số khác nhau, Tần Trung Việt cũng chỉ là hảo thủ thuộc hàng số hai, bởi vậy đầu váng mắt hoa trước những chiêu số biến ảo vô thường của nàng, sau năm mươi chiêu, y chỉ có thể chống đỡ. Lý Trị luôn miệng quát tháo mà Phùng Lâm không thèm để ý. Đang đấu nhau rất hăng, Tần Trung Việt chợt tìm thắng trong bại, y đánh liều bước sấn tới, giơ hai bút điểm vào huyệt Mệnh Môn ở sau lưng của Phùng Lâm. Khinh công của Phùng Lâm cao hơn y, Tần Trung Việt vừa bước sấn tới, nàng đã chuẩn bị, khi Tần Trung Việt điểm hai bút đến sau lưng, Phùng Lâm đã điểm mũi chân xoay người nửa vòng, lướt xéo ra, quét kiếm ra phía sau một vòng tròn, hai bút của Tần Trung Việt vừa chạm vào kiếm của nàng, bị nàng xoáy một cái, dùng lực đánh lực chỉ nghe keng keng hai tiếng, hai cây bút đã bị nàng cuộn vuột khỏi tay. Phùng Lâm lại xoay người đâm một kiếm, chặt đứt năm ngón tay của Tần Trung Việt. Tần Trung Việt kêu thảm lăn người xuống núi.


Hải Vân hòa thượng và Lý Trị đều có sở trường, vốn là không ai thắng ai. Có điều lúc nãy Hải Vân hòa thượng bị điểm trúng huyệt Tiếu Yêu, tuy có nội công thâm hậu, chẳng hề tổn thương nhưng khí lực đã giảm một chút, vốn đã bị kiếm pháp của Lý Trị chèn ép, nay thấy Tần Trung Việt đã mất mạng, y càng kinh hãi hơn, cây trường kiếm đánh ra một chiêu Lý Quảng Xạ Thạch, bề ngoài là tấn công tới nhưng thực sự là thối lui.


Phùng Lâm kêu: “Hòa thượng béo, ngươi có còn cười được không?” rồi vung tay ném ra ba mũi phi đao, Hải Vân hòa thượng đã tấn công ra không thể nào rút về đề phòng, chưởng trái vung chưởng thành gió, đánh bay phi đao, nhưng như thế lực đạo của nhát kiếm đã giảm xuống, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lý Trị đâm xuống một kiếm, ở khớp gối của Hải Vân hòa thượng đã bị mũi kiếm chém đứt gân, Hải Vân hòa thượng cũng thật ghê gớm, y nhào người xuống đất rồi lăn xuống núi.


Phùng Lâm cười khanh khách: “Ồ, giống gì thế? Chẳng khác gì chó đói táp phân”. Nàng cười chưa dứt cũng té nhào xuống. Té ra sau một hồi kịch chiến, Bạch Mi châm đã lại dâng lên, độc tính phát tác, tuy có Tiểu Hoàn đơn nhưng chẳng thể nào kìm được.


Lý Trị cả kinh cúi người xuống nhìn, chỉ thấy sắc mặt của nàng vàng ệch, chàng kêu mấy tiếng mà không nghe nàng trả lời. Lý Trị đưa tay sờ ngực Phùng Lâm, chỉ cảm thấy ấm áp, rõ ràng khí vẫn chưa đứt, chỉ là dùng lực quá độ nên ngất đi. Lý Trị liền kề miệng xuống tiếp khí cho nàng. Một lát sau Phùng Lâm dần dần tỉnh lại, lúc này Lý Trị mới thấy xao xuyến trong lòng, vội vàng nhích miệng ra, khẽ hỏi: “Thế nào rồi?” Phùng Lâm nói: “Muội rất khát”. Lý Trị biết độc tính đã phát tác, nói: “Chúng ta tìm một nơi nghỉ ngơi”. Rồi bế Phùng Lâm ra phía sau núi, tìm một sơn động, Lý Trị bế nàng vào động rồi lấy áo khoác của mình đắp cho nàng, sau khi được uống một ít nước, Phùng Lâm đã dần dần tỉnh táo hơn, nàng nói: “Huynh hãy đi đi, cứ mặc muội”. “Anh muội, muội yên tâm, muội sẽ khỏe lại ngay. Huynh sẽ ở bên cạnh muội!” Phùng Lâm lẩm bẩm nói: “Muội không tốt, muội không ở cạnh huynh”. Lý Trị biết nàng nhắc lại chuyện trước kia, nói: “Muội đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, để huynh tìm trái cây cho muội ăn”. Phùng Lâm lại lẩm bẩm: “Muội lừa huynh, muội có lời muốn nói với huynh...” nàng nói chưa dứt thì đã ngất đi.


Lý Trị chẳng còn cách nào, chỉ biết nhẹ nhàng vỗ về nàng, một lát sau Phùng Lâm lại tỉnh dậy, miệng há to, tựa như muốn nói gì đó, Lý Trị nói: “Anh muội, muội đừng nói chuyện, hãy nghỉ ngơi”. Rồi lại lấy tay nải của Phùng Anh định kê đầu cho nàng để nàng ngủ dễ chịu một chút. Nhưng tay chàng chạm vào một vật rất dày, Lý Trị lấy ra xem, té ra đó là một quyển sách, bìa đề bốn chữ lớn “Kim châm độ thế”.


Lý Trị vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chàng đã nghe mẹ mình nói rằng, kim châm độ thế là tâm huyết một đời của Phó Thanh Chủ. Phần đầu tiên quyền kinh kiếm quyết cũng bình thường, nhưng phần y thư thứ hai là vật hiếm có trên đời. Không biết sao lại lọt vào tay “Phùng Anh”? chàng nghĩ lại, Dịch Lan Châu đã từng cho mẹ mình biết chuyện Chung Vạn Đường chết thảm, bà ta còn bảo quyển sách này chắc chắn trong tay Chung Vạn Đường, đáng tiếc lúc đó quên tìm kiếm. Lý Trị thầm nhủ: “Có thể Dịch bá mẫu bảo Phùng Anh đi lấy quyển sách này. Mình vốn không nên xem lén, nhưng trong sách chắc chắn có cách giải Thất Sát Bạch Mi châm, nay đã lâm vào đường cùng, chỉ đành phải xem trước, nếu may mắn cứu được Anh muội, mình lại sẽ thú thật với nàng”.


Lý Trị lấy quyển y thư ra, bắt đầu đọc từng trang, xem được hơn hai mươi trang chợt thấy đề mấy chữ “bệnh ly hồn”. Lý Trị thầm nhủ: “Bệnh này thật là!” nhưng vì vội vàng tìm cách giải độc cho Phùng Lâm chàng lại lật tiếp hơn mười trang nữa, chợt thấy một trang viết rằng: “Cách giải tà độc phi châm”. Lý Trị cả mừng, ra đến cửa động xem cho kỹ. Phùng Lâm chợt trở mình nói: “Huynh làm gì thế?” Lý Trị nói: “Huynh đang xem sách của muội”. Phùng Lâm lại lẩm nhẩm: “Chứng ly hồn, chứng ly hồn, huynh có hiểu không?”


Lý Trị giật mình, lúc này Phùng Lâm đã nhắm mắt xoay người ngủ thiếp đi. Lý Trị thầm nhủ: “Tại sao nàng lại nhắc đến chứng ly hồn, ồ, nàng khác hẳn khi ở Thiên Sơn, không nhớ nhiều chuyện lúc nhỏ, chả lẽ đã mắc chứng ly hồn? Chuyện này sau hẵn tính, mình phải tìm cách giải độc trước”.


Võ Thành Hóa tinh thông y lý, Lý Trị cũng học được nhiều điều ở ông ta nên có thể hiểu được những điều trong sách nói. Xem qua một lượt, chàng cả mừng, té ra cách giải Thất Sát Bạch Mi châm cũng giống như cách giải những loại độc khác, không cần phải nhờ thuốc giải mà có thể dùng phương pháp châm cứu của Phó Thanh Chủ. Trước tiên dùng ngân châm đâm các huyệt đạo có liên quan, sức đề kháng trong cơ thể sẽ được kích thích, từ đó giảm bớt độc tính, cuối cùng dùng ba đậu cho người uống đại tả, chất độc sẽ theo phân bài tiết ra ngoài, còn ngân châm rất nhỏ, dù không lấy ra được cũng chẳng có hại gì.


Lý Trị mừng rỡ gấp sách lại, nhưng chợt nhớ ở nơi núi rừng hoang vắng, chẳng có ngân châm để châm cứu lại chẳng có ba đậu, biết làm thế nào đây. Nghĩ ngợi một hồi, chàng mới nhìn ra ngoài động, khắp nơi đều là cây trúc, thầm nhủ: “Mình gọt tre làm châm, có lẽ cũng được. Cũng có thể dùng thuốc khác để thay cho ba đậu, tóm lại làm cho người bệnh đại tả là được”. Chàng nhớ có một loại vỏ cây, ăn lúc còn hườm hườm sẽ bị tiêu chảy, chắc có thể thay cho ba đậu.


Lý Trị thấy Phùng Lâm đã ngủ say, thế rồi mới cởi áo đắp cho nàng rồi ra ngoài động tìm trái cây. Đi ra khỏi cửa động, nhìn xuống sơn cốc chợt thấy có một bóng người tập tễnh bước lên, cứ đi hai bước lại dừng một bước, có lúc lại rên rĩ, nhìn kỹ lại thì thấy đó chính là hòa thượng bị mình đâm bị thương lúc nãy. Thầm nhủ: “Ồ, té ra tên này chưa chết”. Lý Trị không rảnh quan tâm tới y, thế là đi tìm trái cây, tìm nửa ngày cũng đã thấy. Lý Trị chọn năm sáu trái hường hường rồi chặt cành tre vót thành kim nhọn đem về động.


Lúc này Phùng Lâm đã tỉnh, không thấy Lý Trị thầm nhủ: “Ồ, chàng ta bỏ mình ra đi, cũng đáng lắm”. Lý Trị đã trở về. Phùng Lâm nói: “Sao huynh vẫn chưa đi? Muội tứ chi vô lực, trong người khó chịu muốn nôn, đầu nhức miệng khô, chắc là không thể cứu được nữa. Huynh hãy trở về Thiên Sơn mà tìm Anh muội của huynh đi”. Lý Trị tưởng nàng thần trí không tỉnh táo, cười rằng: “Chẳng phải Anh muội ở đây sao? Muội hãy yên tâm, huynh sẽ trị cho muội, đảm bảo muội sẽ khỏe ngay”. Rồi kéo Phùng Lâm dậy, nói: “Anh muội thứ lỗi, đừng trách huynh vô lễ”. Phùng Lâm nói: “Sao?” Lý Trị nói: “Hãy vén ống quần lên để huynh châm cứu vào huyệt đạo cho muội”. “Huynh đừng phí công nữa!” nàng thấy Lý Trị lộ vẻ nôn nóng, chợt cười nói: “Được, muội sẽ để huynh trị”.


Lý Trị dùng thúc châm đâm vào các huyệt đạo của nàng, để nàng ngủ một hồi, đến lúc chạng vạng thức dậy, Phùng Lâm thấy đói rã cả ruột, Lý Trị cả mừng: “Tạ ơn trời đất, thế là xong rồi! Muội có muốn ăn trái cây không? Trái cây này ngọt lắm”.


Chính là:


Một đôi người có duyên, hoạn nạn thấy chân tình.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 29

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 29 Ngọc nữ lộ cơ tâm lòng đầy thắc mắc Quân vương tham tuyệt sắc nguy hiểm trùng trùng


Phùng Lâm mỉm cười nói: “Huynh thật là giỏi”. Rồi cắn một miếng, nhăn mặt kêu: “Huynh lừa muội, trái cây này rất chua”. “Chua càng tốt, nghe lời huynh, hãy ăn trái cây này”.


Phùng Lâm miệng khát bụng đói, thế là ăn hết một nửa số trái cây, một hồi sau bụng cứ réo ùng ục, Phùng Lâm đỏ mặt nói: “Huynh ra ngoài một tí”.


Chàng vừa bước ra cửa động, chợt thấy bên ngoài động có bóng người thấp thoáng, Lý Trị quát: “Ai?” rồi nhặt một hòn đá ném về phía bóng người.


Người ấy bám vào sợi dây rồi đu xuống núi, nấp trong bụi rậm. Lý Trị đã nhìn rõ ràng, đó chính là Hải Vân hòa thượng, trong lòng thầm kêu không xong, không dám bỏ Phùng Lâm đuổi theo, chỉ ra dòng suối bên cạnh rửa chân tay.


Mấy ngày sau Phùng Lâm đã dần dần khỏe, nàng có thể vịn vách hang động đi lại được. Bao nhiêu thức ăn dự trữ, Lý Trị đều nhường cho nàng. Hôm nay chàng ra ngoài tìm một ít thú rừng. Đi một hồi chàng chợt nghe tiếng kêu thét theo gió núi vọng lại. Lý Trị giật mình, nằm phục người xuống đất lắng nghe, thì ra đó là tiếng kêu của Phùng Lâm! Lý Trị kêu lên: “Không xong, chắc chắn Anh muội đã gặp lão hòa thượng hung ác ấy”.


Lý Trị thi triển khinh công chạy trở về, vì lúc này chàng đã cách hang động rất xa nên chạy một hồi đã thở hổn hển, hai chân tựa như mang gông, cảm giác rất nặng nề. Lúc này tiếng kêu của Phùng Lâm càng rõ ràng hơn, rõ ràng là gọi tên chàng, Lý Trị chạy về phía sơn động, vì chàng quá vội nên vấp phải hòn đá té nhào xuống, bao nhiêu sức lực tiêu tan, chẳng cất bước nổi nữa.


Lý Trị lo lắng: “Giờ đây mình đã đuối sức, chạy trở về cũng chẳng ích gì”. Chàng ngồi xuống đất, tiện tay kéo cành cây bên cạnh, vạch mấy trái trên cây, một hồi sau, tiếng quát tháo đã dần đến gần, té ra nơi Lý Trị ngã xuống cách hang động không xa, Phùng Lâm đánh nhau với kẻ địch đã lướt dần đến nơi Lý Trị ẩn thân. Lý Trị nhìn ra phía sau tảng đá, kẻ đang đánh nhau với Phùng Lâm là một hòa thượng hung dữ, chỉ thấy chân trái của y tập tễnh, di chuyển chậm chạp, có lẽ đã bị thương.


Té ra Hải Vân hòa thượng dưỡng thương trong sơn cốc mấy ngày, vết thương dần dần lành hẳn, y thấy Lý Trị vót tre làm trúc châm, y biết chàng dùng trúc châm giải độc cho Phùng Lâm bởi vậy cả mừng thầm nhủ: “Hai tên này đã trúng kịch độc, cơ hội của mình đã tới”. Y không biết rằng chỉ có một mình Phùng Lâm trúng độc mà thôi.


Hải Vân từ dưới sơn cốc bò lên, đến trước cửa sơn động dòm ngó không cẩn thận nên đặt phải cạm bẫy mà Lý Trị đã đặt, bởi vậy trúng liền hai mũi tên đau đến nỗi kêu lên oai oái, rồi y toan lấy cỏ khô lấp cửa động định phóng lửa. Phùng Lâm rút kiếm xông ra đánh nhau với Hải Vân.


Khi Phùng Lâm lên núi vẫn ăn mặc kiểu nam tử, nay đã mặc quần áo của nữ nhi, Hải Vân hòa thượng thất kinh. Y tưởng rằng hai người đã trúng kịch độc, nào ngờ chỉ có một mình Phùng Lâm, mà sau khi nàng đã được giải độc, được ăn ngủ đầy đủ, tinh thần đã hồi phục, ngoại trừ hơi ốm, chẳng hề có vẻ gì bệnh hoạn. Hải Vân hòa thượng thầm kêu không xong, nhủ rằng: “Chả lẽ bọn chúng bày cạm bẫy dụ mình mắc câu?” rồi y đâm hờ tới một kiếm xoay người bỏ chạy.


Phùng Lâm nhốt mình trong động mấy ngày, vừa thấy ánh mặt trời thì tinh thần phấn chấn, thấy Hải Vân hòa thượng bị thương bỏ chạy, thầm nhủ: “Lão lừa trọc đang bị thương, mình phải nhân cơ hội này trừ mối họa”. Khinh công của Phùng Lâm vốn rất giỏi, lại thêm sau khi Hải Vân hòa thượng bị thường càng chẳng bằng nàng, y chạy được hai ba mươi bước thì bị nàng đuổi theo, Hải Vân hòa thượng thầm nhủ: “Võ công của ả này kém hơn mình, đồng bọn của ả lại không có ở đây, mình bắt ả làm con tin để uy hiếp tên kia”.


Hải Vân hòa thượng công lực thâm hậu, tuy y đã bị thương nhưng bản lĩnh còn hơn cả Phùng Lâm, y dụ nàng đến chỗ địa hình hiểm trở, đột nhiên xoay người phản công, chặn mất lối ra, dồn Phùng Lâm trong vùng núi đá, thế là cả hai người quần thảo ác liệt với nhau. Bất giác đã kéo đến chỗ nấp của Lý Trị.


Lý Trị nấp sau tảng đá nhìn ra, thấy kiếm chiêu của Phùng Lâm kín kẽ không hề có sơ hở, mừng thầm nói: “Tuyệt kỹ kim châm của Phó Thanh Chủ quả nhiên linh diệu lạ thường. Xem ra nàng đã khỏe hẳn”. Nhưng Hải Vân hòa thượng công lực thâm hậu, kiếm thế loang loáng tuy thân pháp không lanh lẹ bằng Phùng Lâm nhưng cũng đã chiếm thượng phong, Phùng Lâm chỉ có thể chống đỡ chứ không thể trả đòn.


Lý Trị nhìn một hồi, thấy Phùng Lâm chỉ trong khoảnh khắc mà sử dụng đến năm sáu loại kiếm pháp, mỗi khi gặp nguy thì kiếm pháp thay đổi.


Phùng Lâm vừa mới bệnh khỏi, khí lực dẫu sao vẫn còn yếu, chống chọi được hơn một trăm chiêu thì kiếm pháp dần dần tán loạn. Hải Vân hòa thượng cười ha hả, tay phải múa kiếm như gió, tay trái triển khai công phu tay không đoạt binh khí toan giật bảo kiếm của Phùng Lâm. Phùng Lâm kêu lên: “Lý ca ca, đến đây mau!” Hải Vân hòa thượng cười lớn: “Ngươi kêu cả nửa ngày mà y chẳng trả lời ngươi, ngươi có muốn ta nói cho ngươi biết ta đang ở đâu không?” Phùng Lâm cố gắng chống hai chiêu, suýt nữa bị y chụp trúng, Hải Vân hòa thượng vừa tấn công vừa mỉa mai: “Lý đại ca của ngươi đang đợi gặp ngươi ở suối vàng có điều ta không nỡ tiễn ngươi xuống suối vàng mà thôi!”


Lý Trị nghe thế bốc lửa giận, hít một hơi rồi đứng bật dậy quát: “Tên giặc trọc kia, ta đợi ngươi đã lâu, ha ha, hôm nay ngươi cũng tự chui đầu vào lưới!” Hải Vân hòa thượng thất kinh, khi y chưa bị thương đã không phải là đối thủ của Lý Trị, chợt thấy chàng xuất hiện thì nghĩ rằng quả đúng mình đã rơi vào cạm bẫy, cố gắng đánh hai kiếm đẩy Phùng Lâm tránh qua một bên, nhân lúc Lý Trị chưa phóng tới đã xoay người bỏ chạy. Phùng Lâm vỗ tay cười lớn nói: “Lý ca ca, mau đuổi theo!” chợt thấy Lý Trị sắc mặt tái nhợt, lảo đảo như muốn ngã xuống, Phùng Lâm thất kinh nhưng chợt cười lớn nói: “Ha ha, huynh đánh được một con hổ, dù sao ăn canh xương hổ vẫn ngon hơn!” Lý Trị chưng hửng, nhưng lập tức hiểu ra, chàng cười lớn nói: “Phải đấy, muội đi lột da hổ, còn huynh sẽ múc nước. Chúng ta đã ngán thịt dê nướng, cũng nên thay đổi khẩu vị”. Nói xong lại té xuống đất, may mà Phùng Lâm đã bước tới bên cạnh đỡ chàng. Nàng khẽ nói bên tai chàng, nói: “Huynh nhịn một lát, đợi lão lừa trọc đi xa, muội sẽ đỡ huynh về”.


Phùng Lâm lên đỉnh núi nhìn, khi Hải Vân hòa thượng khuất bóng nàng mới cười nói: “Nguy hiểm thật, té ra huynh cũng dùng kế không thành!” rồi đưa tay sờ vào trán Lý Trị, áy náy nói: “Huynh chắc chắn đã mệt, huynh cảm thấy thế nào? Đừng bệnh đấy nhé!” Lý Trị thấy nàng lo lắng như thế, trong lòng cảm thấy an ủi, thầm nhủ: “Nàng cũng biết quan tâm đến người khác”. Phùng Lâm nói: “Còn may, huynh không bị sốt. Sao huynh không nói?” Lý Trị rất ái ngại, khẽ nói: “Huynh đang đói, không phải bệnh”. Phùng Lâm bật cười rồi đỡ chàng về lại sơn động.


Về đến sơn động, Phùng Lâm nói: “Còn một ít lương khô, huynh hãy ăn đi. Muội đi săn đây!” Lý Trị nói: “Muội vừa mới khỏi bệnh, cũng nên nghỉ ngơi đi thôi!” Phùng Lâm nói: “Thật kỳ lạ, muội đánh một hồi, toàn thân đổ mồ hôi, nhưng tinh thần lại khỏe khoắn. Huynh hãy nằm nghỉ một lát”. Rồi mỉm cười bước ra khỏi động.


Lý Trị ăn lương khô rồi nằm xuống đất, nhìn tòa sơn động đến xuất thần, thầm nhủ: “Sau khi rời khỏi Thiên Sơn, Anh muội đã thay đổi. Thiên Sơn kiếm pháp của Dịch bá mẫu tuy thần dịu nhưng tại sao lúc nãy Anh muội lại dùng đến năm sáu loại kiếm pháp, nhưng rốt cuộc vẫn không thi triển kiếm pháp của bổn môn?” chàng ta suy đi nghĩ lại mà vẫn chẳng hiểu, bất giác nhớ đến những chuyện từ sau khi gặp Phùng Lâm, chàng chỉ cảm thấy lời lẽ với cách làm việc của nàng cùng với những thói quen nhỏ hàng ngày đều khác với Phùng Anh, “chả lẽ nàng không phải là Anh muội? Không thể, không thể! Trên đời này làm sao có hai người hoàn toàn giống nhau?” dần dần bóng chiều ngã về Tây, sơn động đã tối mịt mà chẳng thấy Phùng Lâm trở về!


Lý Trị thầm lo: “Chả lẽ nàng lại bỏ mình như lần trước?” nhưng nghĩ lại: “Từ lúc lên Tung Sơn, xem ra nàng có vẻ ngoan ngoãn hơn trước, chắc nàng không đến nỗi bỏ mình”. Đang suy nghĩ chợt thấy có một bóng người hiện ra trước cửa động, Phùng Lâm xách một cái đùi dê nướng bước vào. Lý Trị thầm trách mình đã nghĩ xấu cho nàng.


Phùng Lâm tay phải xách đùi dê, tay trái kéo Lý Trị ngồi dậy, đưa đùi dê cho chàng nói: “Huynh ngửi thử xem, có thơm không?” Lý Trị luôn miệng khen: “Thơm lắm, thơm lắm!” rồi cầm lấy đùi dê cắn nhồm nhoàm. Phùng Lâm cười nói: “Hunh không nên ăn quá nhiều, coi chừng trúng thực”. “Muội hãy yên tâm, chúng ta luyện nội công, bao tử không yếu như người bình thường”. Trong chốc lát chàng đã ăn sạch cái đùi dê.


Phùng Lâm nhìn chàng mà buồn cười, chợt nhớ chàng đã vì mình mà chịu đói, Lý Trị lại nói: “Huynh lo muội sẽ không trở về!” “Muội không dám nướng gần hang động, sợ ảnh hưởng đến huynh”. “Hay lắm, bây giờ muội đã hiểu việc”.


Chỉ thấy Lý Trị nhìn nàng xuất thần, Phùng Lâm cười nói: “Sao thế? Có phải huynh lại giận muội không?” Lý Trị chợt nói: “Huynh đang nghĩ đến một chiêu kiếm”. “Chiêu kiếm nào?” “Lúc nãy muội đấu kiếm với tên hung tăng, tên hung tăng ấy đánh ra một chiêu gọi là Hàn Đào Phách Ngạn, muội dùng Nhất Vĩ Độ Giang trong Thiếu Lâm kiếm pháp nhẹ nhàng hóa giải thế công, khéo léo tránh qua được, điều đó đương nhiên là đúng; nhưng huynh nhớ trong Hàn đào kiếm pháp của Dịch bá mẫu có một chiêu gọi là Lãng thông kim môn, một chiêu bốn thức, kín kẽ lạ thường, chuyên dùng để khắc chế chiêu Kinh Đào Phách Ngạn. Tại sao muội không dùng? Không biết huynh nói có đúng hay không, muội hãy đánh lại chiêu Lãn Thông Kim Môn cho huynh xem thử”.


Phùng Lâm ngạc nhiên, cười gượng đáp nói: “Muội đã quên rồi”. “Muội làm sao quên được?” Phùng Lâm đỏ ửng mắt, nói: “Sau khi xuống núi, muội đã từng bệnh nặng, lúc đó không có huynh chăm sóc, một bà già bưng thuốc cho muội uống, bệnh xong thì chẳng còn nhớ đến chuyện trước kia nữa”. Phùng Lâm đương nhiên nói dối, Lý Trị nghe xong cũng cảm thấy khó tin, chàng ta chỉ mở to mắt nhìn nàng.


Phùng Lâm thầm nhủ: “Sớm muộn gì chàng ta cũng biết, mình không cần phải nói dối nữa”. Lý Trị chợt thở dài nói: “Đáng tiếc! Thiên Sơn kiếm pháp ảo diệu vô cùng thế mà muội đã quên mất”. Phùng Lâm bước tới nắm tay Lý Trị, chợt cười nói: “Nếu muội nói dối, huynh có giận muội không?”


Lý Trị chợt nghe câu này thì thất kinh, vội hỏi: “Muội nói dối những gì?” Phùng Lâm nói: “Muội không hề biết Thiên Sơn kiếm pháp!” Lý Trị cười lớn: “Đây mới là lời nói dối, muội không hiểu Thiên Sơn kiếm pháp thì ai biết?” Phùng Lâm ứa nước mắt, chợt nói: “Muội biết tâm ý của huynh, huynh nghi ngờ muội không phải là Anh muội của huynh, huynh cảm thấy chăm sóc cho muội không đáng đúng không?” Lý Trị giật mình nói: “Sao muội lại nói như thế? Chúng ta là người hiệp nghĩa, dù cho không quen biết nhau, khi gặp nạn bị thương cũng phải giúp đỡ lẫn nhau. Huống chi là huynh với muội? Muội nói như thế đã coi huynh là người thế nào?” Phùng Lâm vốn muốn nói ra sự thật, nhưng thấy chàng ta như thế thì kìm lại, bật cười nói: “Muội chỉ đùa với huynh, huynh cho là thật ư?”


Suốt đêm ấy cả hai đều trằn trọc chẳng yên giấc. Phùng Lâm chưa bao giờ thấy một quân tử chí thành như thế, trong lòng suy đi nghĩ lại, chốc thì muốn cho chàng ta biết sự thật, chốc thì lại muốn giấu mãi. Không biết thế nào mà chợt nhớ đến Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu hùng tài bá khí, ngôn hành cử chỉ đều uy nghi, Phùng Lâm rất khâm phục trong lòng, trước khi đến Tung Sơn, nàng ta thường cảm thấy Lý Trị không thể bì được với y, nhưng sau một trận bệnh, bóng hình của Niên Canh Nghiêu dần dần nhạt nhòa. Phùng Lâm lại nhớ đến việc Ung Chính bức hôn, chợt có một ý nghĩ kỳ quái: “Làm người tại sao phải kết hôn, mình cũng chẳng biết, nhưng phụ nữ rồi cũng phải có chồng, có lẽ không thể tránh được. Giá như bảo mình chọn một người chồng thì mình sẽ chọn ai? Niên Canh Nghiêu? Hay là anh chàng Lý Trị ngốc nghếch này? Tốt nhất người đó phải hiền lành như đất, mình có thể vo tròn bóp méo mặc ý. Hừ, ý nghĩ này thật ngốc! Giờ đây mình không muốn kết hôn, nghĩ điều đó làm gì?” bất giác bật cười.


Lý Trị cũng đang nghĩ ngợi mông lung, nhớ lại những lời Phùng Lâm đã nói, trong lòng thấy thắc mắc, chợt nghe Phùng Lâm cười mới ngồi dậy nói: “Muội vẫn chưa ngủ sao?” Phùng Lâm nói: “Muội nhớ lại lão lừa trọc bị huynh dọa chạy nên bất giác buồn cười”. “Ban đêm rất lạnh, muội phải cẩn thận, có cần đốt lửa hay không?” “Không cần, muội không phải là nàng tiểu thư sợ gió sợ mưa”. Nàng ngủ không được, ngồi dậy trò chuyện cùng Lý Trị, nàng lấy tay nải rút quyển sách ra, Lý Trị cười nói: “Nhờ quyển sách này mà huynh mới cứu được mạng của muội”.


Phùng Lâm nghĩ đến ân đức của Lý Trị, chẳng có gì báo đáp được nên mới đưa quyển sách cho chàng rồi nói: “Huynh thích quyển sách này, muội sẽ tặng cho huynh”. Lý Trị ngạc nhiên nói: “Quyển sách này chẳng phải Dịch bá mẫu bảo muội lấy sao?” “Đúng thế, huynh làm sao biết?” “Người muốn muội lấy quyển sách này, đương nhiên lại phải trả lại cho truyền nhân của phái Vô Cực. Muội làm sao có thể cho người khác?” Phùng Lâm thầm nhủ: “Hỏng bét, lần này đã để cho chàng biết mình nói dối mất”, bởi vậy mới thở dài thườn thượt. Lý Trị nhìn quyển sách rồi thở dài nói: “Nhớ năm xưa Dịch lão tiền bối cùng Phó tổ sư của phái Vô Cực từ Trung Nguyên đến tái ngoại, có thể có mối giao tình nhiều đời với phái Vô Cực, nay thấy Phó Thanh Chủ chẳng có một truyền nhân, cũng không biết trả quyển sách này cho ai, nếu Dịch lão tiền bối thấy quyển sách này chắc đau lòng lắm!” Phùng Lâm đảo mắt, cười nói: “Việc này không cần huynh lo, phái Vô Cực đã có truyền nhân”. Lý Trị nói: “Ai? Có phải Niên Canh Nghiêu không? Niên Canh Nghiêu tuy là đồ đệ của Chung Vạn Đường nhưng y bán thầy cầu vinh. Nghe Dịch lão tiền bối nói, người cùng mẫu thân của huynh sẽ giúp Chung Vạn Đường thanh lý môn hộ, đuổi Niên Canh Nghiêu ra khỏi phái Vô Cực!”


Khi chàng đang nói đến đấy, chợt thấy Phùng Lâm nhíu mày, vẻ mặt không vui, Lý Trị ngạc nhiên dừng lại, nắm tay Phùng Lâm hỏi: “Sao muội lại không vui?”


Phùng Lâm khó chịu vô cùng, nàng không ngờ rằng Niên Canh Nghiêu, kẻ mà nàng khâm phục bấy lâu nay lại là kẻ xấu xa trong mắt người hiệp nghĩa võ lâm. Nàng muốn hỏi Niên Canh Nghiêu đã phản sư như thế nào nhưng lại sợ Lý Trị nói ra những chuyện khiến mình đau lòng hơn, cuối cùng cũng kìm được. Lý Trị hỏi: “Muội bảo phái Vô Cực có truyền nhân, nếu không phải Niên Canh Nghiêu thì là ai?”


Phùng Lâm đã nghĩ sẵn một câu chuyện, nàng định thần rồi nói: “Là người huynh quen biết đấy”. “Ai?” “Là muội!” Lý Trị thất kinh, nói: “Sao Dịch bá mẫu lại chịu để cho muội sang phái khác? Muội là truyền nhân duy nhất của người, nếu muội trở thành đệ tử của phái khác, chả lẽ đã uổng phí mười năm tâm huyết của người sao?” “Sư phụ nói người vốn muốn tìm truyền nhân khác cho phái Vô Cực nhưng nếu người đó không giỏi sẽ có lỗi với Phó Thanh Chủ, đến khi tìm ra thì người tuổi đã già, chẳng còn bao nhiêu thời gian. Nên mới bảo muội lập lại môn hộ cho phái Vô Cực. Còn truyền nhân của phái Thiên Sơn chẳng phải còn có Đường thúc thúc của muội sao?” Phùng Lâm nghe Lý Trị kể lại nên biết quan hệ của những người trong phái Thiên Sơn nên nói rất suôn sẻ.


Lý Trị vừa nghe đã cười nói: “Thế ra muội sẽ là Chưởng môn của phái Vô Cực trong tương lai, xin chúc mừng!”


Phùng Lâm cười nói: “Nên muội có quyền tặng quyển sách này cho huynh”. “Huynh không muốn theo phái khác, muội tặng cho huynh làm gì?” “Muội chẳng có thứ gì tặng cho huynh, huynh phải lấy quyển sách này. Hãy yên tâm, muội không cần huynh theo phái Vô Cực”. Lý Trị cười nói: “Đừng trẻ con như thế nữa. Đây là báu vật của phái Vô Cực, muội không thể tùy tiện tặng cho người khác”. “Phần đầu là quyền kinh kiếm quyết, muội đã nhớ kỹ. Phần sau là y thư, muội chẳng hiểu gì cả, còn giữ lại để làm gì?”


Lý Trị nghe nàng nhắc đến y thư, mắt sáng lên, chợt nảy ra một ý nghĩ: “Anh muội bảo sau khi bị bệnh thì quên hết Thiên Sơn kiếm pháp, không biết là thật hay giả”. Rồi chàng mỉm cười nói tiếp: “Vậy muội hãy đưa phần y thư cho huynh”. Phùng Lâm thấy chàng chịu lấy, mừng rỡ đưa phần sau cho chàng, cười rằng: “Thôi được, huynh cứ xem hết, sau này muội có bệnh gì sẽ đến tìm huynh”. Hai người nhìn nhau cười.


Sáng hôm sau, Lý Trị thức dậy, Phùng Lâm đã không còn trong hang. Lý Trị thầm nhủ: “Chắc chắn nàng đi săn”. Lý Trị ăn no nê, lại được ngủ một giấc, tinh thần đã hoàn toàn hồi phục. Chàng chạy ra ngoài hít thở không khí trong lành rồi vận động cho thư giãn gân cốt rồi mới chạy lên núi tìm Phùng Lâm.


Chàng lên ngọn Thiếu Thất tìm kiếm một hồi, chỉ thấy một đống đổ nát hoang tàn. Bỗng nhiên từ xa vọng lại tiếng người nói cười. Lý Trị lách người nấp ra sau tảng đá lớn. Có một đám người từ xa đi lại, đến trước tảng đá chợt đứng yên. Lý Trị liếc nhìn ra, chỉ thấy có một hán tử tuổi khoảng ba mươi ăn mặc rất sang trọng, khí độ phi phàm, y đứng lại đưa mắt nhìn xung quanh, những người đi theo y đứng cách ra hai bên, người đứng sát y nhất trông rất uy võ, Lý Trị vừa nhìn đã suýt nữa kêu lên thành tiếng!


Người đó chính là Niên Canh Nghiêu, chỉ thấy y khúm núm cười nói: “Hoàng thượng tính toán như thần, uy nhất đều có, mới lên ngôi không đầy mấy tháng mà bốn biển phục tùng, xung quanh khiếp sợ, Dận Đề nắm trong tay hai mươi vạn hùng binh mà vẫn bó tay chịu trói, chùa Thiếu Lâm khoe khoang võ nghệ vô song nay cũng tiêu tan thành tro bụi, dầu Tần hoàng Hán Võ Đường tông Tống tổ cũng chẳng bằng Hoàng thượng”. Lý Trị cả kinh, không ngờ người này chính là đương kim Hoàng đế Ung Chính.


Ung Chính mỉm cười nói: “Đó cũng là công lao của Niên tướng quân”. Niên Canh Nghiêu chỉ đống đổ nát, nói: “Năm trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm đều bị thiêu trong lửa đỏ, chẳng ai dám ra chống cự, đủ thấy sự uy võ của Thánh thượng”. Ung Chính cười ha hả, chợt buồn rầu nói: “Chùa Thiếu Lâm có từ ngàn năm nay, nay hủy trong một ngày cũng khiến trẫm đau lòng”. Niên Canh Nghiêu vội nói: “Hoàng thượng khoan dung nhân hậu, đáng tiếc nhà sư chùa Thiếu Lâm không biết lễ pháp của triều đình, không hiểu được thánh ân”. Lý Trị nghe mà cảm thấy chán ghét, bất đồ rùng mình.


Ung Chính lại nói: “Chùa Thiếu Lâm bị phá hủy cũng đáng tiếc, sau khi trẫm về kinh sẽ ra lệnh cho Tuần phủ Hà Nam xây dựng lại chùa miếu, gọi tăng nhân hữu đạo khác chủ trì”. Lý Trị nghe đến đây, chợt thấy hòn đá phía trước y hơi rung rinh.


Lý Trị khom người lại, chợt nghe một tiếng quát như sấm: “Ai, mau ra đây!” tảng đá đổ ầm xuống, Lý Trị tung người vọt ra, đã rơi vào vòng vây!


Số là sau khi hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm, chỉ có một mình Hải Vân hòa thượng ở lại canh giữ, một tháng sau chẳng thấy y trở về báo cáo, Ung Chính lại muốn xem thử tình hình chùa Thiếu Lâm thế nào nên nhất thời nổi hứng, dắt theo bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Cáp Bố Đà lên Tung Sơn lần nữa. Lúc này đột nhiên phát hiện thấy mai phục, Ung Chính vẫn bình tĩnh, mỉm cười phất tay nói: “Sau khi chùa Thiếu Lâm bị hỏa thiêu, tông chủ các phái trong võ lâm chẳng ai dám tới, người này dám lên Tung Sơn quả nhiên gan cũng lớn lắm. Các ngươi tạm thời lui xuống, để trẫm hỏi y”.


Lý Trị kiêu hãnh nói: “Ngươi muốn hỏi gì?” Ung Chính nói: “Ngươi có phải là đệ tử tục gia của chùa Thiếu Lâm không?” Lý Trị nói: “Không phải”. “Vậy ngươi có giao tình gì với trưởng lão trong chùa?” “Trưởng lão trong chùa Thiếu Lâm đức cao vọng trọng, ta làm sao xứng kết giao với họ”. Niên Canh Nghiêu biến sắc, Ung Chính cười ha hả: “Vậy tại sao ngươi lên Tung Sơn?”


“Ngươi có xích mích gì với chùa Thiếu Lâm, tại sao ngươi lại đốt chùa?” những kẻ tùy tùng quát: “Tên thất phu lớn gan, dám tra vấn Hoàng thượng!” Ung Chính nhíu mày thầm nhủ: “Thật là một tên tiểu tử không sợ chết, nếu thu phục được y chắc chắn có thể dùng”.


Một tên tùy tùng bẩm báo: “Đã phát hiện thi thể thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt, Hải Vân hòa thượng vẫn chưa tìm ra. Xin Hoàng thượng ra lệnh bắt tên tiểu tặc này lại thẩm vấn”.


Lý Trị nghĩ: “Xem ra hôm nay khó thoát, không thể liên lụy đến Anh muội”. Vì thế không đợi Ung Chính hỏi, đã đáp rằng: “Tất cả là do ta làm!” Ung Chính hỏi: “Tần Trung Việt bị ngươi giết, còn hòa thượng kia?” “Đã bị ta đâm một nhát kiếm, chẳng ai cứu nổi, chắc là đã chết!” bọn tùy tùng đều nổi cáu, toan động thủ. Ung Chính lại cười hỏi: “Tiểu tử, ngươi đừng khoác lác. Một mình ngươi làm sao có thể vượt qua trạm canh gác của Hàn Trọng Sơn, lại giết chết hai cao thủ của trẫm?”


Lý Trị chưng hửng, thầm nhủ: “Chả lẽ Hoàng đế này tinh thông võ nghệ?” Niên Canh Nghiêu nói: “Hoàng thượng minh xét, tên tiểu tử này chắc chắn có vây đãng. Xin truyền lệnh cho Ngự lâm quân lục soát!”


Lý Trị lo lắng, buột miệng nói: “Cao thủ cái gì, chẳng qua là đồ vô tích sự!” Thiên Diệp Tản Nhân đứng bên cạnh giận dữ nói: “Hoàng thượng, nếu không dạy cho tên tiểu tử này một bài học, vệ sĩ cung đình chẳng còn mặt mũi nào nữa”. Ung Chính mỉm cười, gọi Cáp Bố Đà tới, khẽ dặn mấy câu rồi nói: “Tiểu tử, ngươi đừng tưởng có thể lên được Tung Sơn là đã ghê gớm lắm, đừng tưởng có thể giết hai người của trẫm là đã ngông nghênh tự đại, trong số các tùy tùng trẫm dắt theo đến hôm nay, ngươi cứ chọn một người ra đấu, chỉ cần ngươi đấu ngang tay, trẫm cho ngươi xuống núi”. Lý Trị đã liều chết, chẳng còn sợ y nữa, rút kiếm quát: “Ngươi cứ tùy tiện chọn người! Ra một người đấu một người, ra hai đấu hai!” chàng cố ý nói lớn để Phùng Lâm nghe thấy mà nấp vào.


Ung Chính cười nói: “Tên tiểu tử này thật ngông cuồng, Cáp Bố Đà!” Cáp Bố Đà nhảy ra, rút đôi chùa lưu tinh quét về phía Lý Trị.


Lý Trị thấy y hung hăng nên lách người nhảy bổ tới vẫy ra một kiếm, mũi kiếm đâm nhanh như điện chớp về phía trung lộ của Cáp Bố Đà, Cáp Bố Đà thuận theo kiếm thế, gót chân xoay một vòng, cây chùy trong tay trái tạt vào thân kiếm. Nào ngờ kiếm pháp của Lý Trị khác với người, chàng đâm về phía trung lộ nhưng thực sự là chém xuống hạ bàn, Cáp Bố Đà quét chùy qua, mũi kiếm của kẻ địch đã đâm tới trước khớp gối, y cả kinh tung chân trái đá bay lên, gót chân chạm vào mũi kiếm thối lui ba bước. Ung Chính khen: “Kiếm pháp hay!”


Cáp Bố Đà nghe Hoàng đế khen đối phương, cảm thấy mặt mũi chẳng còn, thế là múa tít đôi chùy lao bổ tới. Công lực của y tương đương với Liễu Ân, lúc nãy là do khinh địch, nay y muốn lấy lại sĩ diện trước mặt Hoàng đế nên múa tít đôi chùa kêu lên vù vù, uy thế thật kinh người. Kiếm pháp của Lý Trị tuy quỷ dị vô cùng nhưng cũng bị đôi chùy của y chèn ép đến nỗi không thể thi triển được. May mà không khi xuống núi Lý Trị đã có nhiều kinh nghiệm chứ nếu không đã sớm bị y bắt sống.


Hai người đấu được bảy mươi chiêu, Ung Chính nói với Thiên Diệp Tản Nhân, “Tiểu tử này tuổi còn trẻ mà có thể cầm cự được với Cáp tổng quản lâu như thế, coi như cũng hiếm có!” Thiên Diệp nói: “Song y đã dần dần đuối sức, nhiều nhất cũng chỉ có thể cầm cự được năm mươi chiêu nữa”. Ung Chính chợt nói: “Kiếm pháp của y quái dị, ngươi có nhận ra không?” Thiên Diệp Tản Nhân đỏ mặt, y không thể nào nhận ra được kiếm pháp của Lý Trị. Ung Chính nghĩ ngợi một hồi rồi nói: “Ta đã từng thấy Thiên Sơn kiếm pháp và Huyền Nữ kiếm pháp, kiếm pháp của người này không phức tạp như Thiên Sơn kiếm pháp, cũng không tinh vi như Huyền Nữ kiếm pháp. Nhưng lại hơn hai nhà này ở chỗ quái dị, xem ra đây không phải là Đạt Ma kiếm pháp thì cũng là kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ”. Thiên Diệp Tản Nhân nghe thế thầm thất kinh, nói: “Hoàng thượng, kiếm pháp của người này chắc chắn là kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ, có lẽ y là con trai của Võ Quỳnh Giao. Võ Quỳnh Giao ra tay hiểm độc, còn khó đối phó hơn cả Dịch Lan Châu, chúng ta không thể tùy tiện đả thương y”. Ung Chính nói: “Ta đã sớm căn dặn Cáp tổng quản, ta mặc y là con trai của ai, người này gan dạ như thế đúng là nhân tài hiếm có”.


Lại đấu được ba mươi chiêu nữa, Lý Trị đã đuối sức, quả nhiên đang nao núng, nhưng Cáp Bố Đà muốn bắt sống chàng cũng không dễ. Cáp Bố Đà tuy giỏi hơn một bậc nhưng bị hạn chế vì không được đả thương chàng, kiếm pháp của Lý Trị biến hóa khó lường, Cáp Bố Đà đã nhiều lần muốn đánh bay bảo kiếm của chàng nhưng đều bị chàng khéo léo né tránh.


Cáp Bố Đà nôn nóng chợt nghĩ ra một cách, y liên tục đánh ra những đòn sát thủ, xem ra sắp giết chết Lý Trị. Cứ mỗi lần tung đòn sát thủ, Cáp Bố Đà đều quát lớn bảo chàng đầu hàng. Nào ngờ Lý Trị lại cứ liều đánh chẳng hề sợ hãi, trong lúc kịch đấu, chùa lưu tinh của Cáp Bố Đà cứ lướt qua đỉnh đầu chàng đến năm sáu tấc, thật là kinh người. Lý Trị mắng: “Ngươi muốn ta đầu hàng, đừng nằm mơ!” thế rồi kiếm quyết thay đổi, chuyển thủ làm công liều mạng xông tới, đang lúc căng thẳng, chợt nghe một tiếng kêu thét lên, Phùng Lâm đã xuất hiện ở bìa rừng.


Lý Trị kêu: “Anh muội, chạy mau!” chàng hơi phân tâm, bảo kiếm đã bị kẻ địch đánh bay. Bên tai đã nghe Ung Chính quát: “Dừng tay!” Phùng Lâm nghe tiếng đánh nhau nên chạy tới bìa rừng, chợt thấy Ung Chính dắt theo rất nhiều cao thủ đứng một bên quan chiến, nàng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, đang định bỏ chạy. Nhưng liếc nhìn lại thì thấy có Cáp Bố Đà đang dồn ép Lý Trị, nàng thầm nhủ: “Nếu mình không cứu, chàng khó giữ mạng”. Lúc này Phùng Lâm cũng không sợ Ung Chính nữa mà rút độc đao nhảy ra phía trước.


Ung Chính vừa kinh vừa mừng, cười nói: “Lâm nha đầu, ngươi đùa đủ chưa, sao còn chưa theo ta trở về!” Phùng Lâm giơ cây đao chĩa vào tim, kêu lớn: “Nếu ngươi đả thương Lý ca ca, ta cũng không muốn sống nữa!” Ung Chính cười nói: “Ai đả thương y, ngươi đến đây!”


Lúc nãy Lý Trị bị bao vây mà không hề sợ, thế mà giờ đây thấy Phùng Lâm cầu xin trước mặt Hoàng đế thì lại kinh hãi vô cùng! Chàng hầu như tưởng mình đang nằm ác mộng, chợt cảm thấy cổ tay nhói lên, Cáp Bố Đà đã chụp được mạch môn của chàng.


Phùng Lâm bước dấn tới từng bước. Niên Canh Nghiêu giật mình, sợ rằng Phùng Lâm sẽ kể đã nấp ở nhà mình, thế là nháy mắt với nàng. Phùng Lâm tựa như chẳng hề hay biết, vẫn lẳng lặng bước tới bên cạnh Hoàng đế.


Ung Chính nói: “Lâm nha đầu, bỏ đao xuống”. Phùng Lâm chẳng thèm để ý. Ung Chính nói: “Vua không nói chơi, ngươi cất đao ta sẽ không đả thương y”. Phùng Lâm nhướng mày, cất đao vào túi ám khí, nói: “Tứ bối lạc, tôi xin thỉnh an trước người!” Cáp Bố Đà nói: “Ngươi gặp Hoàng thượng sao không quỳ?” ý là muốn nhắc nàng đổi cách gọi. Ung Chính cười nói: “Ả ngang ngạnh đã quen, không cần câu thúc”. Rồi lại cười nói: “Ngươi đi khắp nơi chắc đã khổ nhiều. Hoàng phủ của chúng ta trước kia đã đổi thành cung Ung Hòa, phòng của ngươi vẫn còn như cũ”. Phùng Lâm nói: “Ngài cứ thả chàng, tôi sẽ trở về”. Ung Chính cười bảo: “Ngươi theo ta về kinh, ta sẽ thả y”. Phùng Lâm nói: “Vua không nói chơi, ta theo ngươi trở về!”


Lý Trị há mồm trợn mắt, Phùng Lâm gọi chàng hai tiếng mà chàng vẫn chẳng trả lời. Ung Chính phẫy tay, Cáp Bố Đà kéo Lý Trị đi xuống trước. Ung Chính nói: “Y là người thế nào của ngươi? Y và ngươi rất thân thiết phải không?” Phùng Lâm nói: “Y là nghĩa huynh của tôi, đương nhiên rất tốt với tôi!” nàng vừa nói vừa nghĩ cách đối phó.


Ung Chính chợt thấy nhói lòng, chỉ cười lạnh chứ không nói. Niên Canh Nghiêu thấp thỏm lo âu nhưng lại mừng vì Phùng Lâm không nói gì đến mình. Niên Canh Nghiêu bẩm: “Xin mời Thánh thượng đến nhà tiểu thần trước”. Ung Chính khẽ gật đầu, Phùng Lâm đảo mắt liếc nhìn y, Niên Canh Nghiêu vội vàng cúi đầu.


Nhà của Niên Canh Nghiêu cách Tung Sơn không xa, sau khi xuống núi lại đổi khoái mã, đêm hôm ấy đã đến nhà họ Niên. Ung Chính nói: “Ngươi sắp xếp chỗ ở cho ả”. Niên Canh Nghiêu nhận lệnh, bắt nàng nhốt trong thư phòng trước kia. Bên ngoài thư phòng có Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân canh giữ.


Từ khi Niên Canh Nghiêu trở về nhà, y đã tu sửa lại vườn hoa, xây thêm nhiều phòng ốc, không hoang tàn như trước nữa. Ung Chính và Lý Trị ở trong vườn hoa. Ăn cơm xong, Ung Chính chợt sai người gọi Niên Canh Nghiêu đến.


Niên Canh Nghiêu lo lắng không yên, vào gặp Hoàng đế. Ung Chính nói: “Trẫm muốn lập Lâm nha đầu làm quý phi, khanh thấy thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đó là việc nhà của Hoàng thượng, hạ thần không dám nói nhiều”. Ung Chính bảo: “Ngươi biết Lâm nha đầu lai lịch bất minh, tuy quy cách trong cung đã nới lỏng nhưng thái hậu vẫn còn sống...” y muốn nói gì đấy nhưng lại thôi. Niên Canh Nghiêu thừa hiểu điều đó, y thầm nhủ: “Năm xưa ta đoán ý Hoàng đế, quả nhiên không sai”. Thế rồi mới tâu rằng: “Hạ thần mạo muội nhận Lâm quý nhân làm nghĩa muội”. Ung Chính cười nói: “Ngươi quả nhiên thông minh. Tốt, hãy cứ nhận làm đường muội. Ngươi sai người đưa ả vào cung, thái hậu chắc chắn sẽ chẳng nói gì”. Niên Canh Nghiêu thầm mừng. Ung Chính chợt nói: “Việc chinh Tây có thể chậm lại. ngày mốt ta và ngươi về kinh”. Niên Canh Nghiêu vốn muốn thừa cơ gặp Phùng Lâm, nghe thế tựa như bị dội nước lạnh, hỏi: “Còn chuyện của Ngư Xác thì thế nào?” té ra sau khi Niên Canh Nghiêu giải quyết chuyện Dận Đề, vốn định trở về nhà ở thêm ba ngày, sau đó Ung Chính đến, bảo y tạm gác lại chuyện Tây chinh, âm thầm bố trí đại quân đối phó Ngư Xác.


Ung Chính cười nói: “Cứ để Ngư Xác làm đại vương thêm hai tháng nữa”. “Y muốn cầu xin Hoàng thượng giao Sơn Đông chi y quản hạt, vậy phải đối phó thế nào?” Ung Chính cười nói: “Vài tháng nữa, y đã là con cá trong chum”. Niên Canh Nghiêu chỉ đành kêu phải, cúi người thoái lui. Thầm nhủ: “Nếu Lâm nhà đầu vào cung, sớm muộn gì cũng lộ ra chuyện mình che giấu ả, phải đối phó thế nào đây?” Y về phòng cứ đi tới đi lui, nghĩ cách đối phó.


Phùng Lâm bị nhốt trong thư phòng, thấy màn trướng như mới, gối cao nệm ấm, bất giác nhớ lại chuyện xưa. Thầm nhủ: “Niên Canh Nghiêu đối xử với mình không tệ, làm sao gặp được y đây?” rồi lại nghĩ: “Hình như mình đã từng ở nơi này, nhưng sao mình chẳng nhớ ra, nếu ở thêm nửa năm có thể sẽ tìm được một chút manh mối”. Nàng đang suy nghĩ, Ung Chính đã cho gọi nàng.


Phùng Lâm bước vào phòng, trong phòng chỉ có một mình Ung Chính. Ung Chính hỏi: “Nàng ở trong hoàng phủ bao nhiêu năm, ta đối xử với nàng không tệ, tại sao nàng lại chạy trốn?” Phùng Lâm dẫu môi, nói: “Tôi chỉ thấy chán, muốn ra ngoài đi đây đó, chả lẽ đã phạm phải thiên quy gì?” Ung Chính thấy lòng xốn xang, cười nói: “Được, chuyện xưa không truy cứu nữa, từ rày về sau nàng không được ra ngoài nữa!” Phùng Lâm nói: “Tôi chẳng phải là người nhà của ngài, tại sao ngài lại quản tôi?” Ung Chính cười nói: “Từ rày về sau nàng sẽ là người nhà của ta!” rồi bước tới toan hôn Phùng Lâm, Phùng Lâm lách ra nói: “Ngài xem tôi là bọn cung nữ hạ tiện hay sao?”


Ung Chính giật mình, cười rằng: “Ta sẽ phong nàng làm quý phi, ngoại trừ Hoàng hậu, trong cung nàng là kẻ tôn quý nhất”. Phùng Lâm rất bực tức, cố nén giận. Ung Chính lại nói: “Thế nào, hôm nay nàng đừng ra ngoài nữa!” rồi nắm lấy tay nàng.


Phùng Lâm thầm nhủ: “Võ công của y hơn mình, nếu động thủ thì khó đối phó lắm”. Nàng chỉ mỉm cười nói: “Đường đường là Hoàng đế mà ngài làm chuyện lén lút như thế, không thấy hổ thẹn sao? Ngài muốn phong tôi làm quý phi cũng phải chờ tôi chấp nhận mới được”. Nào ngờ Ung Chính có ý đối với Phùng Lâm đã lâu, nay thấy nàng đã lớn hơn trước rất nhiều, trông càng xinh đẹp muôn phần trong lòng ngứa ngáy chẳng kìm chế nổi.


Chính là:


Trời sinh mỹ lệ gặp tai ương, lọt vào thâm cung ngày tháng dài.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 30

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 30 Mật thất giấu gian tướng quân lộ mặt thật Đêm khuya thổ lộ quân chủ phí tâm cơ


Phùng Lâm lui hai bước, Ung Chính cười nói: “Trẫm muốn làm chuyện gì, ai dám nói ra nói vào!” rồi bước sấn tới trước đưa tay kéo Phùng Lâm. Phùng Lâm chợt nói: “Tứ bối lạc lên ngôi tôi vẫn chưa chúc mừng. Xin chúc mừng Hoàng thượng!” Ung Chính chưng hửng, nói: “Sao nàng lại khách sáo như thế?” “Di chiếu trên điện Đại quang minh sửa thật hay!” Ung Chính thất kinh, nghĩ bụng chính nàng và Thiên Diệp Tản Nhân đã đánh cắp di chiếu rồi Khoa Long Đa đã sửa di chiếu, biến sắc nói: “Nàng có nói cho ai hay không?” “Tôi còn biết đại thể, làm sao dám nói bừa. Nhưng nếu có người chọc giận tôi, tôi sẽ la lên”. Dận Đề tuy đã được trừ, nhưng vây đảng của các bối lạc khác vẫn còn, nếu chuyện này mà lộ ra ngoài, ngai vàng của Ung Chính sẽ của vững, nhất thời lửa dục tắt mất một nửa, cười rằng: “Thôi được, ta sẽ dùng lễ quý phi, chính thức rước nàng vào cung, chúng ta lại sẽ làm vợ chồng”. “Sau này hẵng nói”. “Nàng không theo ta, ta sẽ giết Lý ca ca của nàng!”


Phùng Lâm giật thót tim, thầm nhủ: “Phải nửa tháng mới vào hoàng cung, thoát được lúc nào hay lúc đó”. Rồi cười nói: “Đêm đã khuya, tôi quay về đây”. Ung Chính thấy nàng đã dịu giọng, thầm nhủ: “Phú quý vinh hoa ai mà không muốn. Nha đầu này chỉ làm cao, chắc chắn đòi sách phong chính thức mới được”. Trong lòng mừng rỡ, xua tay nói: “Được, nàng hãy quay về!”


Phùng Lâm đi được hai bước, vừa ra đến cửa, Ung Chính lại vẫy tay nói: “Trở vào đây!” Phùng Lâm giật thót tim, quay đầu hỏi: “Hoàng thượng còn có gì căn dặn?” Ung Chính chần chừ nói: “Nàng đi lại trên giang hồ chẳng để ý gì đến bề ngoài. Ta bảo bọn cung nga trang điểm lại cho nàng”. Phùng Lâm rất ngạc nhiên, không hiểu tại sao y lại nghĩ đến chuyện này!


Ung Chính bước vào phòng trong, một hồi sau dắt hai ả cung nga ra, một người tay cầm hộp trang điểm, một người bưng chậu rửa mặt, sửa sang tóc tai cho nàng, Phùng Lâm bực dọc ngồi chờ bọn chúng. Một ả cung nga lấy ra chiếc hộp nhỏ, bên trong có chứa phấn son, ả cung nga chấm vào rồi bôi lên cánh tay Phùng Lâm. Phùng Lâm nói: “Tại sao lại bôi lên cánh tay, có một giấu đỏ thật khó coi!” rồi nàng lấy áo lau qua, quả nhiên lau không đi. Ung Chính cười ha hả: “Nàng hãy dùng nước rửa đi thôi!” Phùng Lâm rất ngạc nhiên, giật khăn trong tay ả cung ngay chấm vào nước rồi dùng lực chà, không ngờ càng chà càng đỏ, Ung Chính cười ha hả tỏ vẻ rất đắc ý.


Té ra Ung Chính thấy nàng quan tâm đến Lý Trị, trong lòng ghen tuông nên bảo bọn cung nga dùng thủ cung sa thử cho nàng. Người ta cho thằn lằn ăn chu sa và mỡ trâu hoặc mỡ dê, sau nhiều ngày, thằn lằn trở thành màu đỏ, người ta rút máu thằn lằn ra trộn với phấn son, bôi lên cánh tay của thiếu nữ, nếu thiếu nữ vẫn còn là trinh nữ sẽ chẳng thể nào bôi sạch được, càng bôi màu càng tươi hơn.


Phùng Lâm làm sao biết Hoàng đế dùng thủ cung sa thử nàng, cứ chùi mãi mà không ra, tức giận nói: “Ngài làm trò quái gì thế?” Ung Chính cười xong bảo cung nga đỡ nàng ra khỏi phòng. Phùng Lâm giằng ra khỏi tay ả cung nga tự mình chạy ra ngoài.


Hôm sau, Niên Canh Nghiêu mời cha mẹ đến cử hành lễ nhận con gái, Phùng Lâm cứ để mặc cho bọn chúng sắp xếp, mẹ của Niên Canh Nghiêu vốn yên thương Phùng Lâm, biết rằng nếu nhận nàng làm con nàng sẽ được đưa vào cung nên rất ái ngại. Bà ta chải tóc cho nàng mà nước mắt rơi lả chả. Phùng Lâm thấy thế khẽ nói: “Mẹ, con thật không nỡ rời mẹ”. Mẹ của Niên Canh Nghiêu nói: “Con ngoan, mẹ cũng không nỡ xa rời con. Chỉ trách...” bà ta vốn muốn nói: “Chỉ trách Canh Nghiêu không có phước”. Nhưng lại cúi đầu quay đi. Phùng Lâm thừa biết điều đó, nói: “Sao Canh Nghiêu ca ca không đến thăm con?” “Từ rày về sau con sẽ là quý phi, không có lệnh của Hoàng thượng, hắn làm sao dám tự tiện gặp con!” “Mẹ phải bảo với y, con rất nhớ y”. “Ta biết rồi”. Rồi xoay người đi len lén lau nước mắt.


Đến giờ cơm tối Song ma canh giữ Phùng Lâm, Tát Thiên Thích bưng cơm vào, tức giận nói: “Lâm quý nhân, mời dùng thiện!” Phùng Lâm nói: “Tát bá bá, sao người lại đối với con như thế?” Tát Thiên Thích nói: “Quý nhân lại kêu tôi là bá bá nữa sao? Có phải lại lấy kiếm đâm tôi hay không?” Trước đây Tát Thiên Thích nghĩ Phùng Anh là Phùng Lâm, suýt nữa đã bị nàng đâm bị thương, đến nay vẫn chưa hết giận. Phùng Lâm ngạc nhiên nói: “Con nào dám động thủ với người, sao người lại nói thế?” Tát Thiên Thích thấy nàng có vẻ tự nhiên, không giống như giả mạo, ngạc nhiên nói: “Tháng trước ở gần Niên Gia, ngươi chẳng phải mắng bọn ta, lại còn đâm nhị đệ bị thương hay sao?”


Phùng Lâm giật mình: “Thật kỳ lạ, đến giờ con vẫn chưa rõ, ngày hôm ấy con vẫn chưa hề bước ra khỏi phòng, Niên Canh Nghiêu vừa quay về đã bảo con động thủ với các người, con vẫn tưởng y gặp ma, nay nghe các người nói như thế, chả lẽ trên đời còn có một người rất giống con bởi vậy các người mới tưởng người đó là con?” Tát Thiên Thích khựng người, y cũng không biết Phùng Lâm còn có một tỷ tỷ sinh đôi, mười sáu năm trước, y cướp Phùng Anh ở núi Thái Hàng, sau bị Dịch Lan Châu đánh cắp, cuối cùng y đã cướp Phùng Lâm từ trong tay Chung Vạn Đường, thế nhưng từ đầu đến cuối y vẫn nghĩ rằng đó chỉ là một người, nghe thế ngạc nhiên nói: “Hôm ấy thật không phải là ngươi? Trên đời này sao lại có người giống nhau như thế?”.


Phùng Lâm chợt nói: “Tát bá bá, có phải người đã đưa con vào cung không?” Tát Thiên Thích nói: “Sao thế?” “Xin người hãy cho con biết, cha mẹ con rốt cuộc là ai?” Tát Thiên Thích kinh hãi, thầm nhủ: “Mình là một trong những kẻ thù của ả, làm sao nói cho ả biết”. Vì thế mới cười khan một tiếng nói: “Ta chẳng phải đã nói nhiều lần với ngươi hay sao? Ngươi là đứa trẻ bị bỏ rơi bên đường, ta đã nhặt ngươi về”. Phùng Lâm dẫu môi, nói: “Con không tin!” “Ngươi không tin ta cũng đành chịu”. “Nếu con là đứa trẻ bị bỏ rơi, người nhặt con về, vậy người coi như là cha mẹ của con, con là con gái của người. Người không có con gái, con làm con gái của người có được không?” Tát Thiên Thích thấy lòng nhói lên, nói: “Người đã là quý nhân, ta làm sao dám trèo cao!” Phùng Lâm chợt nói: “Tát bá bá, người đã lớn tuổi mà vẫn phải làm việc trong cung, cớ gì phải khổ như thế? Chi bằng con sẽ giúp người ra ngoài, con sẽ phụng dưỡng người suốt đời”. Tát Thiên Thích chợt giật mình suy nghĩ, y đi theo Ung Chính vốn là muốn làm quốc sư, nhưng không ngờ ở Trung Nguyên có quá nhiều người giỏi, trong phe Ung Chính, y vẫn mãi bị bọn Liễu Ân, Cáp Bố Đà đè đầu cưỡi cổ, mười mấy năm qua chỉ là một tên vệ sĩ, giờ lại phải nghe Niên Canh Nghiêu sai khiến. Y nghe Phùng Lâm nói như thế thì thầm nhủ: “Cứ thế này mãi thì chừng nào ngóc đầu lên nổi, chi bằng tìm một đứa con cho nó phụng dưỡng lúc tuổi già”. Nhưng y nghĩ lại thủ đoạn của Hoàng đế và Niên Canh Nghiêu, tuy là một ma đầu nhưng cũng cảm thấy lạnh mình.


Trong mắt Phùng Lâm lộ vẻ cầu khẩn, Tát Thiên Thích rùng mình, chợt tránh ánh mắt của nàng, nói: “Ngươi đừng nghĩ bừa nữa, ta ra ngoài đây”. Phùng Lâm rất thất vọng, ăn cơm xong ngồi phệt xuống giường, tựa như một nhà sư già nhập định, thoạt nhìn vách đứng muất xuất thần. Lúc này đã canh hai, nàng chợt nghĩ: “Trong phòng có cửa ngầm thông ra ngoài, sao mình không ra xem thử?” nhưng nghĩ lại: “Có ra cũng chẳng ích gì, bên ngoài có người canh giữ, mình làm sao có thể thoát nổi. Vả lại Lý Trị vẫn còn nằm trong tay bọn chúng”. Nàng lại ngồi thêm một canh nữa, nghe tiếng trống canh ba vang lên, bên ngoài cửa tiếng bước chân tựa như Song ma đã đổi phiên gác, Phùng Lâm thầm nhủ: “Mình có ngồi ở đây cũng vô ích, chi bằng ra ngoài xem thử, Song ma đối với mình không tệ, nếu đến phiên họ canh gác, có lẽ cũng không ngăn cản mình, mình đến gặp Lý ca ca, lúc đó có chết cũng cam lòng”. Nàng bước ra khỏi trướng, đè vách tường, mở cánh cửa ngầm đi vào vách trong.


Vách trong tối om om, Phùng Lâm lần mò bước về phía trước, chợt thấy có một khối đen cũng di động về phía mình, Phùng Lâm thất kinh, cầm mũi trủy thủ tẩm độc trong tay, chỉ nghe người ấy khẽ kêu: “Lâm muội, yên lặng, là ta!”


Lúc này nàng đã vào vách trong một hồi, mắt bắt đầu quen với bóng tối nên có thể nhận ra đó là Niên Canh Nghiêu, Phùng Lâm thu cây độc đao lại, chầm chậm tiến về phía trước, hai tay nắm vào nhau, trong tĩnh lặng Niên Canh Nghiêu có thể nghe được tim Phùng Lâm đập thình thình.


Rất lâu, rất lâu sau, Phùng Lâm mới nói: “Huynh cũng đến sao?” “Huynh biết muội nhớ huynh nên liều chết đến đây”. Trong bóng tối Phùng Lâm thoáng nở nụ cười, nói: “Muội biết huynh sẽ tới!”


Từ sau khi gặp Niên Canh Nghiêu ở Hàng Châu, Phùng Lâm cảm thấy như đã từng quen biết với y, sau đó lại đến nhà họ Niên trú ngụ, tình yêu đã ngầm nảy nở. Lúc này bàn tay nhỏ nhắn của nàng đã nằm gọn trong tay của Niên Canh Nghiêu, nàng thầm nhủ: “Chưa chắc Niên Canh Nghiêu xấu như bọn họ nói, có lẽ y cũng giống như mình, không hợp với sư phụ nên mới rời bỏ sư môn!”


Chỉ nghe Niên Canh Nghiêu hỏi: “Muội có muốn trốn không?” “Huynh làm thế nào được?” Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Huynh khuyên muội không nên trốn, hôm nay không phải như lúc trước, Hoàng thượng đã đến đây...”


Té ra lần trước sau khi Phùng Lâm chạy trốn, Niên Canh Nghiêu đã tìm kiếm kỹ càng, phát hiện mật thất, lúc đầu cũng muốn bít cửa ngầm lại nhưng sau đó lại nghĩ, có lẽ sau này sẽ dùng nên mới lắp đặt thêm cơ quan, lại đào được một địa đạo từ bên ngoài thông vào đây.


Phùng Lâm nghe Niên Canh Nghiêu nói, nàng cũng lạnh mình hỏi: “Huynh nắm trong tay đại quân mà cũng sợ y sao?” “Huynh lén vào đây, không thể chần chừ lâu được, chúng ta phải nói những chuyện quan trọng trước”.


Phùng Lâm thật tình nghĩ ở mặt tốt, tưởng rằng Niên Canh Nghiêu mạo hiểm đến đây chắc chắn là tìm cách cứu nàng, cười nói: “Còn có chuyện gì quan trọng?” Niên Canh Nghiêu chần chừ một lúc, chưa biết nói thế nào, Phùng Lâm đã tiến đến gần y, khẽ bảo: “Muội cũng có chuyện quan trọng muốn hỏi huynh, hình như trước đây muội đã từng gặp huynh, không biết có phải là trong mơ hay không?” “Huynh hình như cũng gặp muội, té ra chúng ta rất có duyên”. “Muội cũng không biết đó có phải là duyên hay không, chỉ cảm thấy huynh là người muội rất thân thiết, thân thiết như huynh muội vậy”.


Niên Canh Nghiêu cười thầm, Phùng Lâm tiếp tục nói: “Giờ đây muội đúng là muội muội của huynh, muội rất vui. Muội chẳng muốn vào cung tí nào cả, huynh có thể lén thả muội như lúc ở Hàng Châu hay không? Có lẽ huynh không thể cứu muội, nhưng huynh hãy tìm cách cứu Lý ca ca. Niên ca ca, muội sẽ cảm kích huynh suốt đời. Có lẽ chúng ta gặp nhau trong mơ nên vừa gặp huynh, muội đã thấy tin tưởng”.


Niên Canh Nghiêu thấy lòng xao xuyến nhưng chợt nghĩ lại: “Mình giờ đây vẫn chưa đủ lông đủ cánh, khó khăn lắm mới lấy được binh quyền, không thể vì một đứa con gái mà hỏng đại sự”. Phùng Lâm nói một hồi, Niên Canh Nghiêu chợt bảo: “Sau này chúng ta sẽ có nhiều dịp gặp lại, muội hãy nghe huynh nói đây”. Phùng Lâm nhìn y, Niên Canh Nghiêu nói: “Muội có cho Hoàng thượng biết trước đây huynh đã từng giấu muội không?” “Không hề!” Niên Canh Nghiêu bớt lo hơn, nói: “Hoàng thượng đã lên tiếng không ai dám chống cự. Sau khi vào cung, Ngài chắc chắn sẽ yêu thương muội, lúc đó muội còn có quyền lực hơn cả Hoàng hậu, chúng ta một trong một ngoài tiếp ứng lẫn nhau. Muội là người thông minh, huynh không nói nữa!”


Niên Canh Nghiêu mạo hiểm vào đây thực sự là muốn nói những điều này. Phùng Lâm nghe xong thấy như sấm nổ bên tai, lập tức đứng đờ ra, chẳng nói được lời nào, nàng không ngờ rằng Niên Canh Nghiêu lại bỉ ổi đến thế.


Tiếng trống canh lại vang lên, Niên Canh Nghiêu nói: “Muội hãy về phòng trước, đừng để lộ chuyện này. Chúng ta hiểu lòng nhau, đôi bên giúp đỡ lẫn nhau, ai cũng có lợi. Muội muội, muội là người thông minh, huynh không cần phải nói nhiều”.


Thật ra y không yên tâm nên lại nói một lần nữa. Phùng Lâm nghe y nói hiểu lòng nhau mà chợt thấy buồn nôn. Niên Canh Nghiêu rút tay nàng ra, nói: “Huynh phải đi đây!” Trong bóng tối chợt nghe tiếng bước chân, Cáp Bố Đà vỗ cửa, nói: “Lâm quý nhân, mở cửa tiếp giá, Hoàng thượng đến thăm!” Té ra Ung Chính định rằng ngày mai về kinh, trong lòng nôn nóng nên đến thăm nàng.


Niên Canh Nghiêu kinh hoảng, đưa tay lên cái nẫy cơ quan, định mở cửa ngầm, Phùng Lâm chợt chụp tay y, trầm giọng nói: “Không được đi!” Bên ngoài Ung Chính kêu lớn: “Lâm nhi, nàng ngủ chưa?”


Niên Canh Nghiêu toát mồ hôi lạnh, sợ rằng phát ra tiếng động nên không dám rút ra khỏi tay Phùng Lâm, chỉ khẽ van nài: “Hảo muội tử, đừng đùa nữa, buông tay ra!” Ung Chính đợi ở bên ngoài rất lâu, thấy không mở cửa, kêu lên: “Nàng làm gì bên trong thế?” rồi lẩm bẩm: “Quái, sao không có người trả lời! Này, nàng không mở cửa, ta sẽ tự vào đấy nhé!” Phùng Lâm nắm chặt tay Niên Canh Nghiêu, khẽ nói bên tai y: “Ngươi dắt ta ra ngoài cứu Lý Trị, sau đó ta thả ngươi”. Niên Canh Nghiêu vừa kinh vừa giận, Phùng Lâm lại nói: “Ngươi không chịu, ta lập tức kêu lớn!” Bên ngoài cửa đánh bình một tiếng, Ung Chính đã đấm một quyền lên cửa.


Niên Canh Nghiêu mở cửa ngầm, kéo Phùng Lâm vào địa đạo, nhằn giọng hỏi: “Muội muốn hại ta chết?” “Ta cũng chỉ có một câu, ngươi có chịu cứu Lý Trị hay không?” “Ta cũng không biết y bị nhốt ở đâu”. “Được, ta la lên đây!” Bên ngoài cửa lại kêu bình thêm một tiếng!


Niên Canh Nghiêu chạy được hai bước, ác niệm nảy sinh, thầm nhủ: “Chi bằng cứ giết quách ả cho rồi!” Phùng Lâm chợt kêu lên một tiếng, Ung Chính ở bên ngoài nói: “Ta còn tưởng nàng không có ở bên trong, mở cửa mau!”


Niên Canh Nghiêu vội nói: “Được, ta hứa với ngươi, đừng kêu ầm lên nữa!” thầm nhủ: “Võ công của ả không tệ, giết ả không xong càng hỏng bét. Vả lại dù cho có thể giết được ả ở đây cũng không thoát tội”.


Ung Chính đợi một hồi, thấy bên trong không có tiếng trả lời, Cáp Bố Đà đứng xuôi theo một bên nhìn lén y, Ung Chính cảm thấy rất ái ngại, thầm nhủ: “Ả nha đầu này cũng thật ngang ngạnh. Ả chẳng thèm để ý đến mình, mình còn để mặt ở đâu nữa chứ?” kêu lên hai tiếng mà vẫn không ai trả lời. Ung Chính tức tối ngầm vận chuyển lực đánh bật hai cánh cửa ra.


Niên Canh Nghiêu nghe đánh ầm một tiếng, hồn vía bay lên mây, kéo Phùng Lâm chạy nhanh. Phùng Lâm nói: “cứu Lý Trị ra, ta sẽ lập tức bỏ đi, nếu ta chạy không thoát cũng sẽ khai ra ngươi!”


Niên Canh Nghiêu chạy ra địa đạo, cùng Phùng Lâm nấp sau hòn non bộ, chỉ về căn phòng ở hướng tây, nói: “Lý Trị bị nhốt ở đấy”. Phùng Lâm nói: “Ngươi hãy giúp ta dụ bọn người kia đi!” Niên Canh Nghiêu hơi nghi ngờ, Phùng Lâm nói: “Ngươi có làm hay không, nếu không chịu ta trở về gặp Hoàng thượng!”


Lại nói Ung Chính bước vào trong phòng thấy chẳng bóng người, thất kinh kêu lên: “Chả lẽ lúc nãy không phải là tiếng nói của ả?” Cáp Bố Đà sợ đến nỗi tái xanh mặt, lúng túng nói: “Sau khi nô tài đổi phiên gác, còn thấy bóng của nàng trên cửa sổ”. “Chắc hẳn nàng vẫn còn trong phòng”.


Trong cung có rất nhiều loại cơ quan theo kiểu cửa ngầm hay vách đôi, bởi vậy Ung Chính liền đẩy cái giường ra, cầm cây chùy lưu tinh trong tay Cáp Bố Đà quét quanh vách một vòng, phát động cơ quan, cánh cửa ngầm mở ra, Ung Chính nói: “Không ngờ tiểu Niên lại có trò này!” Cáp Bố Đà nói: “Trong vườn có thân tín của Hoàng thượng, chắc hẳn Niên Canh Nghiêu và nàng sẽ chạy không thoát. Bọn họ vẫn còn trong địa đạo”. Ung Chính nói: “Ngươi vào xem thử, nếu phát hiện thì mời bọn họ ra, đừng lên tiếng”.


Một hồi sau, Cáp Bố Đà chui ra khỏi địa đạo, tâu rằng: “Bên trong không có người!” Ung Chính chợt nói: “Việc hôm nay chỉ có ta và ngươi biết, không được nói cho người thứ ba hay! Thấy Niên tướng quân thì vẫn phải giữ vẻ cung kính như thường, quyết không lộ ra mặt!” Ung Chính cực kỳ thâm trầm, lúc này tuy đã muốn giết Niên Canh Nghiêu nhưng tây vực vẫn chưa được bình định, ngưu hồ vẫn chưa trừ, những kẻ chống đối vẫn còn nhởn nhơ, y quyết không thể quyết liệt với Niên Canh Nghiêu.


Cáp Bố Đà toát mồ hôi lạnh, run giọng nói: “Nô tài biết”. Ung Chính xua tay nói: “Mau ra bên ngoài lục soát. Ta liệu rằng tiểu Niên cũng không dám lớn gan cùng Lâm nha đầu chạy trốn”. Cáp Bố Đà kêu vâng một tiếng, lập tức đẩy cửa bước ra, sau đó tiếng cảnh hiệu vang lên!


Niên Canh Nghiêu bị Phùng Lâm ép buộc, chợt nghe tiếng cảnh hiệu, nảy ra một kế, thế là chạy ra ngoài, thấy kẻ canh giữ Lý Trị là Xa Tịch Tà, Niên Canh Nghiêu chỉ về phía đông nói: “Bên kia có biến, ngươi hãy chạy qua giúp!”


Xa Tịch Tà chạy đi, Phùng Lâm mới chạy ra, Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi hãy tự cứu lấy”. “Ngươi hãy ngoan ngoãn ngồi ở đằng kia, không được giở trò. Đợi ta ra ngoài ngươi mới được đi”. Rồi cầm kiếm nhảy vào trong phòng.


Sau khi Ung Chính dùng thủ cung sa thử, biết Phùng Lâm và Lý Trị chẳng có quan hệ gì, lại muốn thu phục chàng nên vẫn đối đãi tốt với chàng, chẳng hề gông cùm, Phùng Lâm nhảy vào trong phòng, kêu lớn: “Chạy mau!”


Hai ngày nay Lý Trị tự nhiên nằm mơ, bao nhiêu câu hỏi cứ vởn vơ ở trong lòng, ngay lúc này chàng cũng không thể nào hỏi được, chi đành chạy theo Phùng Lâm nhảy tót ra cửa sổ.


Trong vườn bóng người thấp thoáng chạy về phía nơi ở của Phùng Lâm. Phùng Lâm chạy ra sau hòn dã sơn, cười với Niên Canh Nghiêu: “Ngươi có thể đi rồi đấy!” Tình cảm của nàng đối với Niên Canh Nghiêu tuy đã tiêu tan nhưng dẫu sao vẫn còn một chút duyên bằng hữu nên cũng không muốn làm khó y.


Niên Canh Nghiêu đưa tay ra, nói: “Mong muội có thể thoát khỏi miệng hùm, nếu chúng ta có duyên, kiếp sau sẽ gặp lại!” Phùng Lâm thấy bẽ bàng, đưa tay ra nắm lất tay y, Niên Canh Nghiêu đột nhiên trở tay chợp vào mạch môn rồi vỗ một chưởng vào ngực nàng.


Té ra Niên Canh Nghiêu cân nhắc lợi hại, thầm nhủ: “Hai người bọn chúng chắc chắn không thoát nổi, dù cho có thoát, ả cũng đã hết tình hết nghĩa đối với mình, giữ ả lại cũng mang họa”. Khi thấy nàng và Lý Trị mạo hiểm chạy ra, lòng thầm nhủ: “Ả đã phụ mình, chi bằng cứ để mình phụ ả”. Y biết võ công của Phùng Lâm không tệ, nên cố ý dùng lời để khiến nàng xúc động, thừa lúc nàng phân tâm đột nhiên ra độc sát thủ.


Lý Trị bước ra phía trước, thấy nàng cười nói với Niên Canh Nghiêu đã nghi ngờ, chàng chợt quay đầu cả kinh kêu lên: “Ngươi làm gì thế!” rồi trở tay vỗ ra một chưởng gạt tay của Niên Canh Nghiêu ra, tay phải cầm kiếm vẫy một đóa kiếm hoa vào ngực của Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu thu người, buông tay Phùng Lâm, xoay người bỏ chạy.


Thế là việc ấy kinh động đến bọn thị vệ trong vườn, lập tức có người chạy đến, Lý Trị nổi giận định đuổi theo Niên Canh Nghiêu, Phùng Lâm vội kéo chàng vào bụi hoa, Lý Trị nói: “Tên gian tặc thật nham hiểm, đúng là trên đời hiếm có!” Phùng Lâm né tránh ánh mắt của Lý Trị, khẽ nói: “Cứ mặt y, chúng ta chạy mau!” Trong lòng nàng hổ thẹn vô cùng!


Vườn hoa nhà họ Niên rất rộng, người không quen thuộc đường lối đi cả nửa ngày cũng chẳng tìm được đường ra. Phùng Lâm dắt Lý Trị chạy băng qua những bụi hoa, đang chạy chợt nghe Thiên Diệp Tản Nhân kêu lớn: “Các người mau đến đây, lục soát ở giữa vườn!” Phùng Lâm len lén nhìn ra, chỉ thấy Niên Canh Nghiêu và Thiên Diệp Tản Nhân đứng trên hòn đá cao, tay chỉ về phía mình ẩn thân. Phùng Lâm thầm kêu khổ, nhủ rằng: “Y còn biết rõ đường lối trong vườn hơn cả mình, làm thế nào bây giờ?” Lý Trị định xông ra, Phùng Lâm kêu: “Khoan đã!” chỉ thấy hơn mười người chia làm ba mặt áp tới, Phùng Lâm tính toán: “Y bất nhân thì mình bất nghĩa, bọn người ấy không dám lấy mạng mình, mình gặp Hoàng đế sẽ vạch trần mưu gian của y rồi sau đó tự sát”. Nàng đã quyết định nên đã vững lòng hơn, thấy ba tên thị vệ bước tới càng lúc càng gần. Phùng Lâm nắm tay Lý Trị, chỉ cảm thấy lòng bàn tay của chàng toát mồ hôi.


Phùng Lâm thầm nhủ: “Lý ca ca thật đáng thương, ngày ấy chàng sa vào vòng vây mà không hề sợ chết. Hôm nay tay chân lạnh ngắt chắc là vì lo cho mình!” Thế là nàng quyết tâm định một mình dẫn dụ kẻ địch. Chợt thấy ba tên thị vệ lại rẽ về lối khác mà không đến gần, bất giác thấy ngạc nhiên!


Té ra không những Phùng Lâm và Lý Trị lo lắng mà Niên Canh Nghiêu càng hoảng hơn. Y cũng liệu rằng nếu Phùng Lâm bị bắt, chắc chắn sẽ khai y ra. Lúc này y chỉ còn tìm cách ngầm giúp họ chạy thoát!


Phùng Lâm thở phào, dắt Lý Trị chạy vòng vèo một hồi đã ra đến cửa vườn, Phùng Lâm nói với Lý Trị: “Phía trước là một hồ sen, chắc chắn phải chèo thuyền mới qua được, nhưng hai bên hồ sen có rất nhiều thuyền, giữa hồ có một tảng đá, hồ sen rộng khoảng mười trượng, tảng đá giữa hồ cách chiếc thuyền gần nhất khoảng hơn ba trượng, huynh hãy nhìn kỹ vị trí của tảng đá ấy, thấy muội phất tay, huynh lập tức nhảy ra phóng lên thuyền, mượn tảng đá làm bàn đạp vọt qua bờ bên kia. Huynh đã nhìn thấy rõ chưa?” Lý Trị gật đầu, Phùng Lâm thấy bờ bên kia không có người, nàng khẽ phất tay một cái, Lý Trị lập tức vọt qua bờ bên kia.


Nào ngờ bờ bên kia đã có Song ma mai phục, Lý Trị đang ở trên không trung, chân chưa hạ xuống đất. Tát Thiên Thích đã từ phóng ra, vươn tay tóm chân Lý Trị kéo xuống!


Hay cho Lý Trị, chàng lâm nguy mà không loạn, người đang ở trên không trung đã đâm xuống một kiếm, Tát Thiên Thích thu tay lại, Lý Trị hạ người xuống. Nào ngờ Tát Thiên Thích giỏi thuật Miêu Ưng Phốc Kích, y phóng lên khỏi mặt đất, lật cánh tay qua cánh thân kiếm, lại chụp được vai của Lý Trị, cả hai người cùng rơi xuống đất.


Lý Trị chợt thấy đau nhói, trỏ trái thúc một cái thoát được kẻ địch, đâm ra soạt soạt hai kiếm. Tát Thiên Thích nói: “Hừ, tên tiểu tặc, ngươi muốn chạy!” rồi lao bổ tới. Tát Thiên Thích gầm lớn một tiếng, vỗ ra phù phù hai chưởng, khiến Lý Trị chấn động cả người, Tát Thiên Thích lại chụp xuống một trảo! Chợt Phùng Lâm đã nhảy vọt qua, phóng tới như mũi tên bắn, Tát Thiên Thích giật mình, đã chụp hụt trảo ấy, bên tai chỉ nghe tiếng Phùng Lâm kêu: “Tát bá bá, Cáp Bố Đà ở bên bờ đối diện, cớ gì người phải chặn chúng tôi!” Tát Thiên Thích hơi chần chừ, Phùng Lâm đã kéo Lý Trị lướt ra khỏi trảo của y, Tát Thiên Đô vỗ ra một chưởng, Tát Thiên Thích khẽ kêu: “Cứ để mặc nó đi”. Chỉ trong chớp mắt Phùng Lâm và Lý Trị đã lẫn vào bụi cây.


Nhưng bọn thị vệ trong vườn nghe Tát Thiên Đô gầm lớn đã đuổi tới, pháo thủ Cáp Bố Đà là Bằng Văn Ứng canh ở cửa xông tới trước tiên. Tát Thiên Thích cũng chẳng thể nào giúp được Phùng Lâm nữa!


Bằng Văn Ứng hỏi: “Ả nha đầu và tên tiểu tặc chạy về hướng nào?” Tát Thiên Thích trả lời: “bọn chúng rất lanh lẹ, tôi giao thủ mấy chiêu đã chụp tên tiểu tặc bị thương, nhưng bọn chúng vẫn thoát được, trong bóng tối không nhìn rõ, chắc là đi về hướng kia” rồi y chỉ bừa về một hướng. Bànhg Văn Ứng nói: “Được, chúng ta hãy cẩn thận tìm kiếm! Chúng mọc cánh cũng khó thoát!” rồi phát ra hai mũi hưởng tiễn, chỉ trong chốc lát, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới. Phùng Lâm lạnh mình, võ công của hai người này trác tuyệt, vả lại nửa phía bên này không rộng như phía bên kia, cây cối cũng không nhiều, vòng vây dần dần siết chặt thì muôn lần khó thoát.


Lý Trị chợt nói: “Chúng ta liều với bọn chúng!” Phùng Lâm lắc đầu, chợt nghe Cáp Bố Đà kêu lớn: “Lâm quý nhân, Hoàng thượng mời quý nhân trở về!” Phùng Lâm thất kinh, thầm nhủ: “Mình và Cáp Bố Đà cách nhau đến mấy trượng, chả lẽ y đã thấy chỗ mình ẩn thân?” Nàng đã định nhảy ra, chợt nghe bọn thị vệ kêu: “Ở đây, ở đây!” rồi tiếng bước chân chạy về hướng Tây bắc, cả Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân hình như cũng chạy về hướng ấy, Phùng Lâm ngạc nhiên kêu: “Chuyện hôm nay thật khiến cho muội bất ngờ! Chả lẽ bọn chúng gặp ma!” nàng vẫn nằm phục trong bụi hoa, chẳng dám động đậy, một hồi sau chợt nghe tiếng binh khí chạm nhau, trong phạm vi mấy trượng gần chỗ nàng ẩn thân chẳng có một bóng người. Phùng Lâm nói: “Đây đúng là cơ hội trời ban, chúng ta mau chạy ra khỏi khu vườn này!”


Lúc này nàng chợt nghe tiếng nữ tử, quả là giọng nói ấy rất giống với Phùng Lâm, Lý Trị rất tinh mắt, chàng chợt khẽ kêu lên: “Ồ, thật lạ, phía bên kia có người giống muội!”


Phùng Lâm giật mình, ngước mắt nhìn lên, nàng thiếu nữ ấy đã sa vào vòng vây, lại bị người ta che nên không thấy được nữa. Phùng Lâm vẫn ngày đêm mong muốn tìm ra thân thế của mình, nay đã có một chút manh mối, trên thế gian này đúng là có một người rất giống mình! Trong chốc lát Phùng Lâm vừa mừng vừa ngạc nhiên, bao nhiêu ý nghĩ dâng trào, nhưng nay đang trong chốn nguy hiểm, tuy có thể vươn tay ra là vén được bức màn bí mật nhưng Phùng Lâm đành phải buông xuôi. Hai người bọn họ len lén ra khỏi vườn.


Phùng Anh cũng vì thân thế của mình mà đến, nàng đến nhà họ Niên chính là tìm một người giống mình. Không ngờ vừa vào trong vườn đã sa vào vòng vây, có người kêu nàng là Lâm quý nhân, có người mắng nàng là nha đầu ngang ngạnh, có người khuyên nàng trở về, có người buộc nàng bó tay chịu trói, hầu như khiến nàng tưởng rằng đã rơi vào thế giới điên cuồng. Phùng Anh ngạc nhiên, lòng thầm nhủ có lẽ một người nào đó rất giống mình, nhưng người đấy có ở đây không? Nàng đã định hỏi thì bọn họ đã tấn công. Phùng Anh đành phải thi triển Thiên Sơn kiếm pháp đánh lùi bọn thị vệ, Thiên Diệp Tản Nhân xông vào đánh ra một chiêu Phong Quyển Tàn Vân, chụp vào cổ tay của Phùng Anh! Phùng Anh thất kinh, người này ra tay thật hiểm độc, nàng hơi lách vai rồi nghiêng người trả lại một kiếm.


Nhát kiếm ấy vừa nhanh vừa chuẩn, phương vị cũng thật là chính xác, lập tức công thủ đổi thế, Thiên Diệp Tản Nhân kêu ối một tiếng, buộc phải biến chiêu thoái lui. Y kinh hãi trước kiếm pháp tinh diệu của Phùng Anh, thầm nhủ: “Ả nha đầu ra ngoài không bao nhiêu năm mà sao học được kiếm pháp ghê gớm như thế này!”


Bọn thị vệ tuy đông nhưng ai nấy đều tưởng nàng là Phùng Lâm, bởi vậy chẳng ai dám đả thương nàng, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Các ngươi lui xuống, để cho ta!”


Thiên Diệp Tản Nhân tuy võ công cao hơn Phùng Anh, nhưng không dám phát hết chưởng lực, bị rơi vào thế nguy hiểm, Cáp Bố Đà đã ném binh khí xông đến trợ chiến. Hai cao thủ đại nội đã vây chặt được nàng nhưng không thể nào cướp được cây kiếm trong tay nàng.


Ung Chính đang chạy ra thì thấy Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu đã hoảng sợ, nhưng không hề lộ ra mặt, tâu rằng: “Nghe nói Lâm quý nhân đã chạy thoát, Hoàng thượng yên tâm, Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà đã đuổi theo”. Ung Chính nói: “Khanh gia đã vất vả!” Niên Canh Nghiêu giật mình, khi nhìn lại Ung Chính, y vẫn thản nhiên nắm tay Niên Canh Nghiêu cười nói: “Khanh là một đại tướng mà hôm nay phải chỉ huy truy bắt một ả nha đầu, nói ra cũng thật buồn cười!” Niên Canh Nghiêu thấy nhà vua vẫn tin tưởng y, trong lòng thấy bớt lo, Ung Chính lại nói: “Đàn bà chỉ là vật tiêu khiển, có mất cũng chẳng đáng tiếc”. Niên Canh Nghiêu mới định thần trả lời rằng: “Hoàng thượng lòng dạ rộng rãi, chẳng ai bì được. Lâm quý nhân tuổi còn trẻ, có lẽ nhất thời ham chơi nên đi ra ngoài, Hoàng thượng cứ gọi quý nhân về giao cho gia mẫu canh giữ”. Ung Chính cười nói: “Nếu bắt được nàng trở về, lúc đó lại phiền Niên thái phu nhân về kinh bầu bạn với nàng”. Niên Canh Nghiêu nói: “Hoàng thượng yên tâm, nàng quyết không thể nào ra khỏi khu vườn này được”. Thật ra y cũng cầu mong cho Phùng Lâm thoát cho mau.


Đi được mấy bước, có tên thị vệ đến báo: “Đã tìm được Lâm quý nhân, Cáp tổng quản và Thiên Diệp Tản Nhân đang khuyên quý nhân trở về”. Ung Chính nói: “Tốt lắm, để ta đích thân ra kêu nàng về” rồi cười nói với Niên Canh Nghiêu: “Chúng ta ra xem thử”. Niên Canh Nghiêu vừa mới hơi vững bụng, giờ đây lại hoảng lên, dù y là một kẻ kiêu hùng nhưng cũng không khỏi hơi run rẫy, trong khoảng sát na ấy, Ung Chính đã cảm nhận được điều đó nhưng chỉ giả vờ không biết, vẫn tiếp tục nắm tay y cùng lên thuyền chèo qua bờ bên kia.


Phùng Anh một mình đấu với Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân, mấy lần suýt bị đoạt kiếm. Đang lúc căng thẳng, chợt có người kêu: “Các ngươi lui xuống để trẫm hỏi nàng”. Phùng Anh không ngờ người ấy là Hoàng đế, đang lúc căng thẳng, chẳng rảnh rỗi suy nghĩ chữ trẫm có nghĩa là gì, chợt thấy xung quanh yên ắng, hai người đang giao thủ với mình cũng nhảy ra khỏi vòng, nàng đưa mắt nhìn lên, thấy có một người khoảng hơn ba mươi tuổi, khí độ cao quý, ánh mắt nghiêm nghị mỉm cười với mình, nói: “Lâm nhi, sao nàng lại làm thế, hãy mau theo ta trở về!”


Phùng Anh thầm nhủ: “Hai người đấu với mình võ công cao cường hiếm thấy trên đời, thế mà vẫn cung kính đối với y, nếu y không phải là tông chủ của một phái chắc cũng là quan lớn trong triều, dẫu sao mình cũng chẳng thoát được, cứ đi vào cùng y, xem thử y có nói lý hay không” liền bảo: “Tốt lắm, ta cũng không muốn đấu với các người nữa, ngươi đến rất đúng lúc, ta có việc muốn hỏi rõ ngươi”. Ung Chính không biết nàng muốn hỏi chuyện gì, sợ rằng nàng lại nói càng, liền bảo: “Được, vào rồi hẳn nói!”


Niên Canh Nghiêu nghe trống ngực đập thình thình. Phùng Anh cùng họ đi xuống thuyền, nàng chợt kêu lên: “Ngươi là Niên Canh Nghiêu, ta nhận ra ngươi!” Niên Canh Nghiêu giật mình, mồ hôi lạnh toát ra, hầu như đứng chẳng vững nổi.


Ung Chính cười nói: “Nha đầu ngốc, nàng điên rồi sao? Sao nàng lại không nhận ra Niên tướng quân? Hôm nay nàng mới vừa bái nghĩa phụ nghĩa mẫu”. Phùng Anh chưng hửng, thầm nhủ: “Chắc bọn họ nghĩ mình là Lâm quý nhân nào đó”.


Về đến bên kia bờ, Ung Chính cười nói: “Niên tướng quân, đêm nay khanh đã mệt, hãy nghĩ sớm đi”. Niên Canh Nghiêu trong lòng thấp thỏm lo âu, chỉ đành cáo lui.


Ung Chính dắt nàng vào hoa sảnh, xung quanh không có người, Phùng Anh hỏi: “Có phải ở đây có một Lâm quý nhân hay không, nàng đâu rồi?” Ung Chính kinh hãi hỏi: “Có phải nàng trúng ta rồi không?” Phùng Anh trả lời: “Các ngươi mới trúng tà, chắc chắn đã nghĩ ta là nàng, các ngươi hãy gọi nàng ra đây, sự việc sẽ rõ ràng ngay!” Ung Chính cười ha hả: “Nàng thật thú vị, nói chuyện vui mà lại thật như thế, người đẹp như nàng, đừng nói là nhân gian, trên trời cũng khó tìm, làm sao có một người giống như nàng?” dù Phùng Anh nói thế nào, Ung Chính cũng không tin, Phùng Anh khổ sở vô cùng, nói: “Nếu các người không tin, ta chỉ đành đi thôi!”


Ung Chính cười nói: “Nàng nói thật dễ, nàng đã chạy ra một lần, đã mất thân phận lắm, nàng còn muốn chạy nữa, trẫm còn để mặt mũi ở đâu!”


Phùng Anh lần này đã nghe rõ ràng, thất kinh hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi có thân phận gì? Chuyện gì thế này?”


Ung Chính cả cười, nói: “Đừng giả điên giả dại nữa! Khanh đã hứa cùng trẫm trở về kinh, giờ lại hối hân ư? Khanh hãy nghĩ xem, thân phận quý phi tôn quý biết chừng nào, làm sao có thể tùy tiện lộ mặt làm chuyện hoang đường được!”


Phùng Anh run giọng nói: “Ngươi là Hoàng đế?” Ung Chính nghiêm mặt nói: “Ta là Hoàng đế, khanh là quý phi, năm nay khanh cũng đã mười sáu tuổi, cũng nên học phép tắc của hoàng gia!”


Phùng Anh thoái lui một bước, liếc mắt nhìn lên mặt y, lúc này nàng không còn sợ ánh mắt khiếp người của Ung Chính nữa, hừ một tiếng nói: “Hừ, té ra ngươi là tên bạo quân hoang dâm vô đạo!”


Ung Chính cố kiềm nén cơn tức giận nói: “Ta hoang dâm vô đạo thế nào?” Phùng Anh nghiêm mặt nói: “Nghe ngươi nói, chắc là Lâm quý nhân nào đó đã sợ ngươi ép buộc nên đã bỏ chạy. Nay ngươi đã là thiên tử, không tìm cách làm cho thiên hạ thái bình mà lại bức bách nữ tử, không phải hoang dâm vô đạo thì là gì?”


Ung Chính cố kiềm nén, cười lạnh nói: “Hay thật, khanh nói ta hoang dâm vô đạo? Hôm nay ta sẽ triệu hạnh khanh!” rồi đưa tay kéo tay nàng, Phùng Anh cả giận, trở tay tát vào mặt Ung Chính một bạt tai!


Phùng Anh ra tay tuy nhanh nhưng Ung Chính vẫn lách kịp, có điều chưởng phong quét vào mặt cũng thấy đau nhói.


Ung Chính cả giận kêu: “Phản rồi, phản rồi! Hay lắm, ta sẽ giết Lý Trị ca ca của ngươi trước!” Phùng Anh cả kinh, nói: “Ngươi nói gì? Ai là Lý Trị ca ca?” Ung Chính nói: “Hừ, ngươi sợ rồi sao? Có phải ngươi đã yêu tên tiểu tử thối đấy không? Ta đếm ba tiếng, nếu ngươi không chịu nghe ta sẽ truyền lệnh giết chết y”.


Phùng Anh nghe thấy thầm nhủ: “Chả lẽ Lý Trị ca ca đã lọt vào tay bọn chúng?” Ung Chính đếm “một”, thấy Phùng Anh suy nghĩ, trong lòng thích thú, tưởng rằng nàng đã sợ, lại đến một tiếng “hai”, chưa kịp nói tiếng “ba” thì Phùng Anh đã rút thanh kiếm đâm về phía y, kêu: “Ngươi không thả Lý Trị ca ca, ta khiến ngươi đỗ máu!”


Ung Chính thất kinh, Phùng Anh đâm tới hai nhát kiếm, suýt nữa đã trúng, Phùng Anh đâm tiếp nhát kiếm thứ ba, Ung Chính xoay người tiện tay chụp một cái ghế gạt lên, cái ghế này làm bằng gỗ đàn nên rất gắng chắc, Phùng Anh chẳng chém đứt được, chỉ thấy hổ khẩu đau nhói. Ung Chính nói: “Chỉ có chút võ công mà muốn tạo phản?”


Phùng Anh cả giận, triển khai Truy Phong kiếm pháp tấn công về phía y, lúc đầu Ung Chính tưởng võ công của Phùng Lâm chẳng là đối thủ của mình, nào ngờ đánh được mấy chiêu, chỉ cảm thấy kiếm chiêu của nàng vừa nhanh vừa dữ, tựa như giống với Đường Hiểu Lan, kiếm khế như cầu vồng biến ảo vô cùng, chiêu nào cũng đánh vào yếu hại của mình. Ung Chính múa tiếp cái ghế kêu lên vù vù, thế mà chẳng gạt được thanh kiếm của nàng ra!


Phùng Anh cũng kinh hoảng, nàng tưởng rằng Hoàng đế sống ở trong cung, được nuông chiều nên không biết võ công. Nàng liệu rằng trong vòng ba chiêu sẽ bắt được y làm con tin, nào ngờ Ung Chính lấy ghế làm vũ khí, đánh ra những chiêu số của phái Thiếu Lâm, kình lực lại rất lớn, đúng là loại công phu thuộc hàng nhất đẳng.


Chỉ trong chớp mắt, Phùng Anh đã đánh được ba mươi chiêu.


Niên Canh Nghiêu chẳng lòng dạ nào ngủ nghê, lúc này nói chuyện với Cáp Bố Đà bên ngoài, Cáp Bố Đà nghe theo lời Ung Chính, cũng đối xử với y kính cẩn như thường. Đang lúc trò chuyện chợt nghe tiếng bốp bốp bên trong, hai người nhìn nhau, vì chưa nghe nhà vua gọi nên không dám vào cứu giá. Cáp Bố Đà nói: “Ả nha đầu thật lớn gan, hình như đã động thủ với Hoàng thượng!” Niên Canh Nghiêu thầm mừng, nghĩ bụng: “Ả với Hoàng thượng gây đến mức này, chắc là không nói xấu mình, mà có nói ra Hoàng thượng cũng chẳng tin”.


Cáp Bố Đà chợt kêu: “Không xong!” Niên Canh Nghiêu nói: “Sao thế?” “Ả nha đầu này kiếm pháp tinh diệu, chỉ e Hoàng thượng không phải là đối thủ. Hoàng thượng lại không chịu gọi, chúng ta vào cũng không được. Làm thế nào đây!” Lúc này Niên Canh Nghiêu đang mong Phùng Lâm giết quách Hoàng đế, cũng chiều theo Cáp Bố Đà nói: “Đúng thế, ả không phải là thích khách bình thường mà là quý phi tương lai, Hoàng thượng động thủ với quý phi, chúng ta không thể vào được”.


Bên trong càng đánh càng kịch liệt, có tiếng bàn ghế ngã đổ, Cáp Bố Đà chợt nói: “Được, ta thà bị Hoàng đế trách tội cũng phải vào cứu giá!” Cáp Bố Đà xông vào, Niên Canh Nghiêu cũng chột dạ, vội vàng tranh vào cứu giá!


Lúc đầu Ung Chính tưởng rằng có thể buộc Phùng Anh cúi đầu, lại cảm thấy nếu gọi vệ sĩ vào thì sự việc càng không thể giải quyết. Bởi vậy cứ muốn ác đấu với Phùng Anh. Nào ngờ đánh đến năm sáu mươi chiêu, cái ghế dẫu sao cũng không linh hoạt bằng kiếm, về Phùng Anh dồn ép sức nên đã bị thương, trong lòng lo lắm. Đang định gọi vệ sĩ, Cáp Bố Đà và Niên Canh Nghiêu đã xông vào. Ung Chính nói: “Khanh gia đến thật đúng lúc, hãy bắt ả tiện tì này cho trẫm. Bắt sống càng tốt, giết chết hay đả thương cũng không sao!”


Cáp Bố Đà được lệnh xông tới, Niên Canh Nghiêu không chịu lọt phía sau, cũng nhảy tới trợ chiến. Phùng Anh kiếm pháp tuy tinh diệu nhưng đấu với Ung Chính một hồi khí lực đã giảm mất một nửa, giờ đây bị hai cao thủ vây đánh, được khoảng năm mươi chiêu đã bị Cáp Bố Đà quét một chưởng trúng vào cổ tay, thanh kiếm vuột khỏi tay, Niên Canh Nghiêu lướt sát tới xỉa vào huyệt Tinh Thúc của nàng, lập tức toàn thân nàng tê rần.


Ung Chính thấy Phùng Anh ngã xuống đất, rất ái ngại. Niên Canh Nghiêu khẽ bẩm: “Quý phi có lòng phản nghịch, để lại bên mình không phải là phước của Hoàng thượng”. Ung Chính nói: “Khanh gia hộ giá có công, nói lời thẳng không kiêng dè, đúng là trung thần của trẫm. Khanh gia hãy tạm lui, trẫm tự biết xử lý”. Niên Canh Nghiêu mừng rỡ dập đầu thoái lui.


Ung Chính gọi Cáp Bố Đà nói: “Ngươi hãy giải huyệt cho ả, nhốt vào phòng khác, ngươi phải đích thân canh giữ”. Cáp Bố Đà buông tay kêu vâng một tiếng, Ung Chính gọi hai tên thái giám đến khiêng Phùng Anh đi theo Cáp Bố Đà.


Cáp Bố Đà vừa bước ra khỏi cửa phòng, Ung Chính chợt nhớ ra một chuyện, bảo y quay trở lại, hỏi: “Lý Trị đâu?” Cáp Bố Đà cũng mới biết Lý Trị chạy thoát, dập đầu tâu rằng: “Nô tài tội đáng chết, đốc thúc không nghiêm, Xa Tịch Tà tự tiện rời khỏi phiên gác, đã để y chạy trốn. Lúc nãy nô tài cũng chỉ mới biết, sợ Hoàng thượng lo phiền nên không dám vào bẩm báo”. Ung Chính phẫy tay nói: “Được, ngươi hãy lui ra”.


Cáp Bố Đà đi rồi, Ung Chính ngồi trong phòng suy đi nghĩ lại: “Chắc chắn là ả tiện tì thấy ý trung nhân đã chạy thoát nên mới dám đấu với mình. Hừ, không ngờ ả lại yêu tiểu tử này như thế”. Trong lòng y thấy chua chát khó chịu. Rồi chợt nghĩ: “Lúc nãy ả nghe mình đòi giết tên tiểu tử, thần sắc căng thẳng vô cùng, nếu ả biết y đã chạy thoát, chắc là không như thế”. Thế là sát cơ nổi lên, nhưng chợt nghĩ: “Người đẹp như thế mà giết đi há chẳng đáng tiếc hay sao?” y cứ suy đi nghĩ lại mà không biết có nên giết hay không.


Chính là:


Người đẹp trời sinh khó lìa bỏ, quân vương cũng phải nhíu đôi mày.


Muốn biết sau đó thế nào mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 31




Khéo léo cứu giai nhân thâm ân cần báo


Lòng nghi sinh ma quỷ dấm chua khó trừ


Lại nói chuyện Đường Hiểu Lan đấu với Xa Tịch Tà ở Tuyết Hồn cốc, vì cướp lại kiếm Du Long nên đã bị tổn thương xương chân, bởi vậy không thể cùng quần hùng lên mang sơn. Thần thâu Trần Đức Thái cũng bị chấn thương bởi chưởng lực của Đổng Cự Xuyên, cũng không thể đi lại được. Hai người dưỡng thương trong cốc được hơn một tháng mới hồi phục. Dương Trọng Anh nhờ người nhắn tin kêu Đường Hiểu Lan trở về Sơn Đông. Đường Hiểu Lan rầu rỉ, thầm nhủ: “Sư phụ kêu mình trở về, chắc chắn lại thúc mình kết hôn. Nhưng ân sư có lệnh, không thể bất tuân, chi đành cùng Trần Đức Thái rời khỏi Tuyết Hồn cốc đến Sơn Đông”. Không ngờ đi được hai ngày, gặp Hoằng Pháp đại sư ở một trấn nhỏ, Hoằng Pháp đại sư nói có một thiếu nữ đã trúng Thất Sát Bạch Mi châm vừa mới rời khỏi đây. Hoằng Pháp tuy không biết tên của Phùng Anh nhưng Đường Hiểu Lan nghe ông ta kể đã biết là một trong hai tỉ muội.


Đường Hiểu Lan nghe được tin này, lập tức cùng Trần Đức Thái đến Trần Lưu. Hai người mai phục ở một hòn núi gần nhà họ Niên, định rằng chờ Niên Canh Nghiêu rời khỏi nhà sẽ đến thăm dò.


Hôm nay hai người Đường Trần thấy hoa viên nhà họ Niên đèn đuốc sáng trưng, tiếng quát tháo vọng tới, Trần Đức Thái lẻn ra điểm huyệt một tên canh cửa kéo về núi, họ cũng biết Hoàng đế đang ở nhà họ Niên, bọn chúng đang bắt Phùng Lâm.


Đường Hiểu Lan cả kinh, chợt nảy ra một ý nói với Trần Đức Thái: “Trần đại ca, hôm nay tôi mới đến nhà họ Niên” Trần Đức Thái thất kinh nói: “Đệ muốn đi nạp mạng, chỉ thủ hạ của Niên Canh Nghiêu chúng ta đã không địch nỗi, huống chi Hoàng đế cũng ở nhà họ Niên, ở đó cao thủ như mây, làm sao có thể xông vào?” Đường Hiểu Lan mỉm cười, nói: “Chính vì có Hoàng đế nên đó là thời cơ tốt nhất”. Rồi hạ giọng dặn Trần Đức Thái mấy câu, Trần Đức Thái gật đầu lia lịa khen hay.


Đường Hiểu Lan một mình đến cửa cầu kiến, lúc đó Phùng Lâm đã bị bắt, bọn vệ sĩ đã nghỉ ngơi, đến nửa đêm trong vườn chỉ có Thiên Diệp Tản Nhân, y thấy có người cầu kiến cảm thấy ngạc nhiên, mở cửa ra thì gặp Đường Hiểu Lan, y càng kinh ngạc hơn. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi có việc gấp, cần phải gặp Hoàng thượng, phiền ông hãy thông báo”. Thiên Diệp Tản Nhân nhớ lại kẻ này chính là vệ sĩ của Khang Hy, trước kia đã từng tuân lệnh Khang Hy đến phủ Tứ bối lạc, cũng là chỗ quen biết cũ của đương kiêm Hoàng thượng, bởi vậy không dám chậm trễ vội vàng vào thông báo.


Ung Chính đang suy đi nghĩ lại trong phòng, muốn giết Phùng Anh nhưng lại không nỡ, chợt nghe báo Đường Hiểu Lan cầu kiến, bực bội nói: “Lại là một tên tiểu tử nữa, ngươi hãy đánh y năm mươi hèo, sáng mai trẫm sẽ hỏi y”. Thiên Diệp Tản Nhân định lui xuống, Cáp Bố Đà nói: “Người này có chiếu thư của tiên hoàng, lại từng theo Thập tứ bối lạc đến Thưởng Xuân viên thăm bệnh cho tiên đế. Hình như là có cơ mật gì đó?” Ung Chính giật mình, nói: “Thôi được, cứ gọi y vào”.


Đường Hiểu Lan thấy Ung Chính, chỉ vái dài chứ không quỳ xuống. Ung Chính nổi giận nói: “Hừ, ngươi thật lớn gan dám đến đây gặp trẫm!” Đường Hiểu Lan cầm mảnh ngọc của Khang Hy trong tay, mỉm cười nói: “Chúc mừng Hoàng thượng lên ngôi báu, Hoàng thượng có nhận ra mảnh ngọc này không?”


Khang Hy biến sắc nói: “Ngươi có chuyện cơ mật gì muốn nói?” Đường Hiểu Lan nói: “Xin Hoàng thượng cho tả hữu lui ra”. Ung Chính thầm nhủ: “Đường Hiểu Lan võ công tuy bất phàm nhưng cũng không thể nào đả thương được mình”. Liền bảo: “Cáp tổng quản và Thiên Diệp Tản Nhân hãy tạm thời lui ra”.


Trong khách sảnh rộng rãi chỉ còn lại Ung Chính và Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan vẫn cầm mảnh ngọc, Ung Chính nói: “Tiên đế có di chiếu bảo trẫm phải đối xử tốt với ngươi, ngươi hãy ngồi xuống”. Đường Hiểu Lan cũng không khách sáo ngồi xuống. Ung Chính lại nói: “Hôm ấy tiên đế giá băng, ngươi theo Thập tứ bối lạc xông vào Thưởng Xuân Viên là có ý gì?”


Đường Hiểu Lan mỉm cười nói: “Hoàng thượng thật giỏi thủ đoạn”. Ung Chính tưởng rằng Đường Hiểu Lan chỉ việc hôm mình bị bắt, cười lạnh nói: “Trẫm xuất thân ở Thiếu Lâm, có gì phải sợ ngươi. Ngươi và ả tiện tì Lữ Tứ Nương có phải đồng mưu hại trẫm hay không? Ngươi nói thật ra, trẫm sẽ không tính chuyện xưa”. Đêm Ung Chính ngồi lên ngôi báu, y chưa kịp thẩm vấn thì Đường Hiểu Lan đã được Lữ Tứ Nương cứu đi, Ung Chính có nhiều câu hỏi ở trong lòng nên muốn hỏi cho rõ.


Đường Hiểu Lan chỉ cười lớn chứ không đáp, Ung Chính sầm mặt. Đường Hiểu Lan chợt nói: “Chuyện ngày mười sáu tháng ba năm Khang Hy thứ năm mươi chín, Hoàng thượng có còn nhớ không?”


Đêm hôm ấy Đường Hiểu Lan lần đầu tiên vào cung, gặp Phùng Lâm lẻn vào điện Đại quang minh, lúc đó Đường Hiểu Lan không biết Ung Chính bảo nàng xem lén di chiếu, cho đến khi Ung Chính lên ngôi, Đường Hiểu Lan nhớ lại chuyện ấy nên mới dùng lời hỏi dò.


Ung Chính nghe xong, mặt biến sắc, hừ một tiếng nói: “Quả thật ngươi có lòng trung với Thập tứ bối lạc”. Y vẫn tưởng rằng Đường Hiểu Lan là vệ sĩ của tiên đế, cũng là tâm phúc của Dận Đề.


Đường Hiểu Lan nghe thế thầm nhủ: “Xem ra mình đoán không sai!” rồi nhớ lại cái chết thê thảm của tiên đế, run giọng nói: “Ung Chính, ngươi đã làm chuyện tốt!”


Ung Chính thất kinh, đứng phắt dậy vung tay bóp vào cổ họng Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan rụt vai lại, tránh được chiêu ấy, lớn giọng nói: “Ngươi có giết ta cũng vô dụng!”


Ung Chính mặt tái xanh, chợt cười ha hả: “Ngươi xem đấy, ta cũng đâu sợ. Ngươi có bản lĩnh gì có thể làm lung lay ngôi báu, đoạt giang sơn của ta? Tục ngữ có nói, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, ngươi nói thật ra đi, ai đã sai khiến ngươi? Có phải Bát bối lạc hay là Cửu bối lạc? Nếu ngươi muốn đoạt vị cho bọn chúng, thế thì ngươi đã sai rồi! Nếu ngươi nói thực, chắc chắn sẽ có lợi cho ngươi”.


Sau khi Thập tứ bối lạc Dận Đề bị giam lỏng, trong số các bối lạc, Ung Chính sợ nhất là Bát bối lạc Dận Tự. Dận Tự tinh thông võ nghệ, lại rất được lòng người. Còn Cửu bối lạc Dận Đường là cùng một phe với Dận Tự. Sau khi Ung Chính đoạt ngôi, sợ các bối lạc khác dùng cách gậy ông đập lưng ông, mưu đoạt ngôi vua của mình, nên lúc nào cũng phải đề phòng.


Ngày ấy trong Thưởng Xuân viên, sau khi Ung Chính bóp chết Khang Hy, Đường Hiểu Lan mới xông vào, tuy tình trạng chết của Khang Hy đáng nghi nhưng cũng không dám ngờ rằng đó là do Ung Chính gây ra, nay nghe khẩu khí của Ung Chính, chàng hiểu rằng tiên đế đã bị y giết chết.


Trong khoảng sát na, Đường Hiểu Lan hầu như không thể kiềm được nữa, chàng muốn rút kiếm liều với y, Ung Chính mắt lộ huung quangg, khóe miệng cười lạnh. Đường Hiểu Lan rùng mình, đây không phải là lúc phô cái dũng của kẻ thất phu. Ung Chính bước dấn tới một bước, hỏi: “Ngươi có nói hay không? Kẻ sai khiến ngươi là Bát bối lạc hay Cửu bối lạc?” Đường Hiểu Lan cố nén lửa giận, ngửa mặt cười nói: “Ta là ai mà ngươi cũng không biết! Bọn chúng nào xứng sai khiến ta? Ngươi coi trọng ngôi vua, chả lẽ người khác cũng giống như ngươi?”


Ung Chính chưng hửng, nói: “Ngươi nói Bát bối lạc không muốn đoạt ngôi vua?” Đường Hiểu Lan cười ha hả: “Ta nói bản thân ta, có liên quan gì đến y? Ta thấy mình may mắn, may mà không lớn lên trong hoàng gia, ha ha!”


Ung Chính mắng: “Ngươi điên rồi phải không?” Y làm sao biết Đường Hiểu Lan là con rồng cháu phượng, chỉ là vì chàng tận mắt thấy sự hắc ám trong hoàng gia, bởi vậy nhất thời không kiềm chế được nên mới bi phẫn.


Đường Hiểu Lan cười rộ một hồi, Ung Chính lại hỏi: “Ngươi không giúp Bát bối lạc đoạt ngôi vua, vậy ngươi đến đây làm gì? Muốn nói cơ mật gì?”


Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi sai người lén đến điện Đại quang minh lại bức tử tiên hoàng trong Thưởng Xuân Viên, đó chẳng phải là bí mật sao? Đối với ngươi không tính là bí mật, nhưng các Hoàng tử khác thì đó là bí mật to bằng trời, lẽ nào bọn ho chịu để cho ngươi yên!”


Ung Chính mắt lộ huung quang, hừ một tiếng nói: “Ngươi muốn uy hiếp ta?...” Y chưa kịp nói “người đâu, người đâu”, Đường Hiểu Lan chợt cười lạnh, tiếng cười như đâm vào tai, dù Ung Chính là kẻ xảo quyệt nhưng cũng không khỏi lạnh mình, chỉ nghe Đường Hiểu Lan nói: “Nếu hôm nay ngươi giết ta, trong vòng mười ngày bí mật của ngươi sẽ lan truyền khắp kinh sư!”


Ung Chính cười gằn: “Ngươi một mình đến đây, dù ta băm ngươi nát thành tương ai mà biết? Ngươi hãy ngoan ngoãn nghe lời trẫm, sẽ được công danh phú quý. Tiên đế còn có di chiếu gì trao cho ngươi?” Ung Chính đang muốn dùng cả mềm lẫn cứng để tra hỏi, Đường Hiểu Lan chợt cười dài, vỗ tay, trên mái chợt có người nói: “Đường huynh đệ yên tâm, lời của các người ta đã nghe cả!” Ung Chính kêu lớn: “Bắt thích khách!” Người trên mái nhà cười ha ha, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân đuổi theo, chỉ trong chớp mắt người ấy đã biến mất.


Người ấy chính là Trần Đức Thái, y có bản lĩnh lẻn vào nhà người ta trộm cắp chưa từng thất bại. Đường Hiểu Lan và y đã tính kỹ, sau khi náo loạn, bọn canh sĩ đã nghỉ ngơi; vả lại một mình Đường Hiểu Lan vào cầu kiến, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân đều chú ý ở chàng ta bởi vậy bọn chúng chỉ canh bên ngoài, để ý tiếng động bên trong. Bởi vậy Trần Đức Thái mới ung dung mai phục, cả gan lên tiếng!


Ung Chính mặt tái nhợt, ủ rủ ngồi xuống ghế chẳng nói lời nào. Một lát sau, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân vào thỉnh tội nói rằng thích khách đã chạy xa. Cáp Bố Đà khẽ nói: “Hoàng thượng, xin hãy trao Đường Hiểu Lan cho thần, thần sẽ dùng cực hình bức cung, không lo y không nói ra lai lịch của thích khách”. Ung Chính đang tức giận, vung tay hướng vào mặt Cáp Bố Đà, y chợt nhớ Cáp Bố Đà trung thành cẩn cẩn bởi vậy chưa chạm vào mặt đã vỗ xuống ghế lại, nói: “Các ngươi ra ngoài, trẫm tự có chủ ý, không cần các ngươi nhiều lời!”


Đường Hiểu Lan vẫn bình tĩnh đợi Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân lui ra, mỉm cười nói: “Hoàng thượng, không nên nổi giận!”


Ung Chính nổi giận cùng cực, y chỉ đảo mắt một cái thì mặt đã dãn ra, cười lớn nói: “Giỏi lắm, hãy nói đi, ngươi vào đây gặp trẫm không phải nghe ai sai khiến, phải chắc chắn có việc cầu xin trẫm. Ngươi cứ nói thẳng ra, ngươi muốn cầu xin chuyện gì?”


Đường Hiểu Lan nói: “Hoàng thượng quả nhiên cao minh hơn Thập tứ bối lạc, chả trách nào đã có được ngai vàng”. Sau khi nói mấy câu khen ngợi có kèm theo mỉa mai, chàng chợt nghiêm mặt nói: “Thần lớn gan xin Hoàng thượng trao Lâm cô nương cho thần!”


Ung Chính chưng hửng, y không ngờ rằng Đường Hiểu Lan mạo hiểm là vì một nữ tử. Y nghĩ lại Phùng Lâm mặt đẹp như trăng, trong lòng thấy rất quyến luyến. Nhưng nghe Đường Hiểu Lan nói: “Sau khi tôi dắt nàng đi, thề không bước vào chốn thị phi, càng không quản đến chuyện hoàng gia của các người nữa”. Ung Chính giật mình, thầm nhủ: “Hình như y có liên quan gì đến hoàng thất? Tại sao phụ hoàng lại tin tưởng y như thế? Y rút cuộc có lai lịch thế nào?”


Đường Hiểu Lan thấy Ung Chính trầm ngâm không nói, lớn giọng nói: “Quân tử nói một lời xe bốn ngựa khó đuổi. Chúng ta từ rày về sau nước sông không phạm nước giếng, lời tôi đã hết, ngài cần gì phải lo sợ?” điều đó cho thấy rằng, nếu Ung Chính chịu thả Phùng Lâm, chàng sẽ không vạch trần bí mật của y.


Ung Chính cười ha hả, cố che giấu vẻ ái ngại, đưa tay nói: “Nếu ngươi cần ả, ta sẽ ban cho ngươi. Người đẹp ai thấy cũng yêu, không ngờ trẫm là vua của một nước mà không có phước hưởng, từ rày về sau ngươi phải đối đãi tốt với ả! Nào, người đâu!” Đường Hiểu Lan không ngờ y lại nghĩ thế, đỏ mặt, hừ một tiếng nói: “Chả trách nào Bản Vô đại sư mắng ngươi là thái hoa dâm tặc! Ta thật lấy làm tiếc cho họ Ái Tân Giác La!”


Ung Chính sầm mặt, lại cười nói: “Ngươi có còn nhớ chuyện phong lưu của trẫm khi ở Sơn Đông. Đúng, chúng ta vẫn còn là bằng hữu!”


Khi y đang nói, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân đã bước vào, Ung Chính vẫy tay nói: “Cáp tổng quản, hãy đưa Lâm cô nương đến đây”. Rồi lại bảo với Thiên Diệp Tản Nhân: “Ngươi hãy đem rượu quý của trẫm đến. Trẫm muốn uống cùng Đường huynh mấy chén”.


Hai người nhận chỉ lui xuống, Đường Hiểu Lan nhớ việc Niên Canh Nghiêu đã giết chết Bản Vô đại sư bằng rượu độc, cười lạnh nói: “Tôi làm xong việc sẽ đi, không cần uống rượu với ngài”.


Thiên Diệp Tản Nhân cầm bình rượu bước vào, rót hai chén rồi buông tay lui xuống. Ung Chính cười nói: “Hiếm có dịp nào cố nhân đến đây, chúng ta đã cùng nhấm rượu ở Thanh Đảo, thoắt cái đã mười năm, thời gian như bóng câu qua cửa sổ, nghĩ lại cũng khiến người ta cảm thán!”


Đường Hiểu Lan vẫn ngồi yên không nhúch nhích. Ung Chính chợt cười nói: “Ngươi sợ trẫm hạ độc ngươi sao? Trẫm muốn giết ngươi, cần gì phải bỏ độc trong rượu?” rồi uống cạn chén rượu, ném ly cười nói: “Nếu ngươi đã lo sợ như thế, trẫm làm sao có thể gửi gắm cho ngươi?”


Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Không uống e rằng sẽ sinh ra rắc rối. Bí mật của y trong tay mình, chắc y không dám giết mình. Uống chén rượu có hại chi?” cũng bưng chén uống cạn rồi ném xuống đất. Ung Chính cười ha hả.


Đường Hiểu Lan chỉ thấy mùi rượu thêm nồng chứ chẳng có gì khác lạ. Lúc này Cáp Bố Đà đã dắt Phùng Anh lên. Phùng Anh kêu: “Ngươi muốn giết muốn mổ cứ tuỳ ý. Muốn ta nghe lời, muôn lần không thể. Ngươi hoang dâm vô đạo như thế, ta thấy ngôi vua của ngươi cũng không được b

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 35 Cái chết giải oán thù ma đầu tặng thuốc Một lời mở nút thắt dốc lòng tâm sự


Con thuyền nhỏ lướt đi như tên bắn, càng lúc càng gần. Chỉ thấy trên thuyền có hai lão già gầy ốm sắc mặt vàng vọt, người mặc bộ đồ màu vàng, đó chính là Tát thị song ma. Phùng Anh kêu lên: “Lại là hai tên lão tặc, Đường thúc thúc, móng tay của bọn chúng có độc, lát nữa thúc thúc phải cẩn thận”. Lúc này con thuyền nhỏ đã cập bờ, Song ma nhảy xuống. Tát Thiên Thích kêu: “Lâm nha đầu, ngươi đừng lo, ta đến cứu ngươi”. Phùng Anh nói: “Ngươi là ai, ai cần ngươi cứu?” Tát Thiên Thích thấy Đường Hiểu Lan đứng bên cạnh, kêu: “Ồ, ngươi cũng có đây, hãy theo ta về đảo Miêu ưng làm đồ đệ của ta đi thôi!”


Đường Hiểu Lan chợt kêu: “Đây là kẻ thù của Anh nhi, trời đất thương xót, nên trước khi ta chết khiến các ngươi đến đảo này”. Đường Hiểu Lan nghĩ mình không còn sống quá một trăm ngày nữa cho nên muốn trước khi chết, cho Phùng Anh biết thân thế của nàng, nay thấy kẻ thù, không kịp nói nhiều đã lập tức rút kiếm xông tới.


Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô kêu: “Hay thật, ca ca, đệ đã bảo không nên tìm ả nha đầu này thế mà huynh không nghe, huynh thấy chưa, bọn chúng coi chúng ta là kẻ xấu!” Tát Thiên Thích nói: “Hiểu Lan, còn nhắc đến chuyện mười năm trước làm gì? Hơn nữa huynh đệ bọn ta đâu có giết cả nhà của ả!”


Phùng Anh vừa nghe như sấm nổ giữa trời xanh, kêu lên: “Đường thúc thúc, người nhà của Anh nhi có phải đã chết thảm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế, cha và tổ phụ của Anh nhi đều bị Huyết Trích Tử giết, còn mẹ của Anh nhi bị bọn chúng bắt đi. Còn Anh nhi cũng bị bọn chúng nhốt trong ổ giặc mấy năm!”


Phùng Anh phóng vọt tới lia thanh bảo kiếm đâm về phía Tát Thiên Thích, mũi kiếm máy động, ánh hàn quang vẫy ra tựa như cơn mưa hoa! Tát Thiên Thích vọt ngang người, kêu lên: “Lâm nha đầu, dẫu sao ta cũng có ơn nuôi dưỡng đối với ngươi. Mẹ ngươi tuy bị ta bắt đi nhưng sau đó đã bị Vương Lăng bức tử, chẳng liên quan gì đến ta!” thật ra Quảng Luyện Hà đã đánh cho Vương Lăng một trận rồi bỏ đi, còn Vương Lăng vì sĩ diện của mình nên phao lên rằng đã giết Quảng Luyện Hà. Song ma không biết sự thực, chỉ tưởng đó là thực.


Lúc này Phùng Anh đã đau đớn cõi lòng, không thèm hỏi Vương Lăng là ai, đã lia kiếm đâm về phía Tát Thiên Thích!


Tát Thiên Thích vội thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích, đột nhiên nhảy vọt lên hơn ba trượng, Phùng Anh lao bổ tới nhưng y lại né qua, Phùng Anh đâm tới, chỉ nghe Tát Thiên Thích kêu: “Lâm nha đầu, ngươi chẳng phải đã từng bảo sẽ làm con gái của ta sao?” Tát Thiên Thích vẫn coi Phùng Anh là Phùng Lâm, Phùng Anh nổi giận quát: “Ai làm con gái của ngươi? Ta là môn hạ của phái Thiên Sơn, làm sao nhận giặc làm cha?” Tát Thiên Thích chưng hửng, kêu lên: “Cái gì, ngươi là môn hạ của phái Thiên Sơn?” Truy Phong kiếm pháp của Phùng Anh rất lợi hại, nàng đâm soạt soạt hai kiếm, Tát Thiên Thích cả kinh, thầm nhủ: “Kiếm pháp của ả nha đầu này càng lúc càng lợi hại!” y đã lách người tránh kiếm. Tát Thiên Đô chợt quát lớn một tiếng, nhổ một cây măng đá làm binh khí phóng vọt người xuống quét ra ngang eo, Phùng Anh gạt đoản kiếm lại, bị cây măng đá đánh lệch hướng, tuy hổ khẩu tóe máu nhưng cây bảo kiếm vẫn chẳng hề hấn gì. Tát Thiên Đô kêu lớn: “Ca ca, huynh không giết ả thì ả giết huynh. Việc đã đến nước này, huynh còn nương tay sao?”


Phùng Anh chạm với Tát Thiên Đô một chiêu, biết y lực mạnh vô cùng, không dám tiếp liều. Nàng chợt lia kiếm vào chỗ trống, Tát Thiên Đô trở tay quét lại, chỉ thấy kiếm quang loáng lên, Phùng Anh đã biến chiêu đổi vị, mũi kiếm đã máy động ở bên trái, Tát Thiên Thích rút chưởng về đẩy ra, Phùng Anh lại đến bên phải, một luồng thanh quang đâm vào sườn phải của y. Tát Thiên Đô bị nàng đánh một lúc ba chiêu hiểm hóc, luống cuống chân tay. Tát Thiên Thích thở dài một tiếng, vung tay tấn công về phía Phùng Anh, hóa giải thế nguy cho Tát Thiên Đô.


Tại sao Song ma lại đến đảo hoang này? Té ra từ sau khi Liễu Ân chết, Ung Chính nôn nóng tìm người giỏi thay cho Liễu Ân. Y ra lệnh cho Niên Canh Nghiêu cầm quân ra Hoàng Hải, chợt nhớ lại trước đây Song ma đã từng nói, ở giao giới của Hoàng Hải và Bột Hải có Xà đảo, trên Xà đảo có một kỳ nhân tên gọi Độc Long Tôn Giả. Ung Chính thầm nhủ: “Võ công của Song ma chẳng phải hạng thường, người mà bọn chúng khen ngợi dù không đúng sự thực cũng chẳng kém gì Liễu Ân. Mười năm trước, khi còn là Tứ bối lạc đã từng nhớ Song ma đem lễ vật đến Xà đảo, lúc đó Độc Long Tôn Giả chưa chịu xuất sơn, lần này y lên ngôi báu, trở thành Hoàng đế, nghĩ bụng mình đã là Hoàng đế ai dám chống lại, bởi vậy mới sai Song ma ra đảo.


Nào ngờ Song ma bị lạnh nhạt đã lâu, lại không muốn cam chịu khom gối trước người khác nên đã có lòng khác. Bọn họ biết rõ Độc Long Tôn Giả không chịu chấp nhận nhưng cũng quyết định ra đi là vì muốn rời xa Ung Chính, trở về đảo Miêu ưng xưng bá. Bọn chúng đến Xà đảo trước, lúc đó Độc Long Tôn Giả đang tỉ võ với bọn Cam Phụng Trì, Độc Long Tôn Giả không chịu ra khỏi đảo. Song ma nói với Độc Long Tôn Giả, kẻ đối đầu với y là Cam Phụng Trì trong Giang Nam thất hiệp. Độc Long Tôn Giả cười nói: “Ta mặc kệ y là thất hiệp hay bát hiệp, ta một mình sống ở hoang đảo mười mấy năm nay, hiếm có dịp người biết võ công đến đây, ta sẽ dày vò chúng rồi sau đó xua rắn cắn bọn chúng!” Độc Long Tôn Giả lại nhắc đến việc ném một thiếu nữ xinh đẹp như hoa xuống biển. Y nói: “Đáng tiếc các người không gặp ả, ả nha đầu này thật đáng yêu, ta vốn không muốn giết ả, đáng tiếc ả không biết tiến thoái”. Tát Thiên Thích hỏi kỹ dung mạo của nàng thiếu nữ, nghĩ bụng chắc là Phùng Anh. Tát Thiên Thích tuy là ma đầu giết người không chớp mắt nhưng lại cảm thấy có duyên với Phùng Lâm, hơn nữa y đã già, trái con không cái, bởi vậy càng nhớ đến Phùng Lâm hơn, nghe thế thất kinh, thế rồi từ biệt Độc Long Tôn Giả cùng Tát Thiên Đô về đảo Miêu ưng, sau đó mới dong thuyền ra biển đến các hòn đảo nhỏ gần đấy tìm kiếm, hy vọng Phùng Lâm vẫn chưa chết. Nào ngờ gặp Phùng Anh lại xảy ra một trận kịch đấu.


Tát Thiên Thích thấy Phùng Anh múa kiếm dữ dội, trong lòng đau đớn, thầm nhủ: “Ả đã biết mình là kẻ thù, mối gút này chẳng thể nào giải được nữa”. Phùng Anh đánh hết kiếm này đến kiếm khác, Tát Thiên Thích thầm nhủ: “Mối thù này đã không thể giải, mình không giết ả ả cũng giết mình”. Thế là thi triển những đòn sát thủ tấn công về phía Phùng Anh. Kiếm pháp của Phùng Anh tuy thần diệu nhưng chẳng thể nào địch nổi Song ma.


Đường Hiểu Lan nghe Song ma nói thì ngạc nhiên một lúc, lúc này thấy tình thế của Phùng Anh không xong nên rút kiếm tương trợ. Lúc này Đường Hiểu Lan đã học được chân truyền của Thiên Sơn kiếm pháp, võ công đã cao hơn lúc trước, thế là song kiếm phối hợp, chỉ thấy hai luồng kiếm quang bay lượn trong không trung, lúc phân lúc hợp, lúc tiến lúc thoái công tựa như sấm sét, thủ tựa như núi non, ác đấu được hơn một trăm chiêu, Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng phóng vọt lên mấy trượng, máu tươi ướt đẫm áo. Té ra y đã bị Phùng Anh đâm trúng một kiếm trên vai.


Phùng Anh chưa bao giờ nghe tiếng gầm quái dị như thế, bất giác lạnh mình. Chợt trên đỉnh đầu nghe tiếng kêu quái dị, mười mấy con Miêu ưng bổ nhào xuống, Phùng Anh không khỏi lạnh mình. May mà Du Long kiếm và Đoạn Ngọc kiếm là hai thanh bảo kiếm, hai kiếm triển khai ánh hàn quang bắn ra bốn phía, tạo thành một màn kiếm quang trên đầu. Bầy Miêu ưng sợ kiếm quang nên không dám tiến tới gần, chỉ chao lượn trên đỉnh đầu, chờ lúc thấy sơ hở thì nhảy bổ xuống, nhưng hai người Đường, Phùng múa kiếm nhanh đến gió mưa không lọt, bầy Miêu ưng tuy lợi hại nhưng chẳng làm gì được họ.


May mà Song ma rời đảo Miêu ưng hơn mươi năm, bầy Miêu ưng do bọn họ huấn luyện chỉ còn lại hơn mười con.


Giằng co một hồi, Phùng Anh hơi yên lòng, Tát Thiên Đô thấy bầy Miêu ưng chẳng thể đánh xuống được, trong lòng nôn nóng, lại phát ra tiếng kêu chít chít, tựa như chỉ huy bầy Miêu ưng lao bổ tới. Quả nhiên chim Miêu ưng càng lúc càng thấp, móng vuốt của chúng hầu như đã chạm vào kiếm quang, Phùng Anh chợt nhảy vọt lên, kiếm quang lướt lên tựa như rồng bay, chém đứt vuốt của hai con Miêu ưng bay thấp nhất, bầy Miêu ưng tuy sợ nhưng thấy chủ nhân ra lệnh cũng lao bổ xuống trợ chiến.


Phùng Anh và Đường Hiểu Lan thầm kêu khổ, ác đấu với hơn mười con Miêu ưng đã đủ vất vả, huống chi lại có thêm hai con ma đầu. Hai người vội thi triển Đại Tu Di kiếm thức che kín môn hộ. Hai người chỉ thủ chứ không công, cầm cự được hơn nửa canh giờ. May mà bầy Miêu ưng sợ ngộ thương chủ nhân cho nên khi bổ xuống, không dám dốc hết toàn lực, hai người tuy lọt xuống thế hạ phong nhưng vẫn chưa đến nỗi thất bại.


Đôi bên khổ đấu được hơn ba trăm chiêu, Tát Thiên Đô cứ nhảy chồm chồm tới, nhưng hai người Phùng, Đường thủ rất kín kẽ, hai tên ma đầu và bầy Miêu ưng tuy tấn công như vũ bão nhưng cũng không xông qua khỏi màn kiếm quang của họ được. Tát Thiên Đô vì mất sức quá nhiều, vai đã trúng một kiếm, di chuyển không lanh lẹ, Đường Hiểu Lan tìm sơ hở, đợi y lướt sát tới đột nhiên bước dấn trước trước nửa bước, trở tay đâm ra một kiếm, chỉ nghe Tát Thiên Đô kêu lớn, xương vai trái đã bị Du Long kiếm đâm thủng, bị thương càng nặng hơn lúc trước. Tát Thiên Thích vội vàng đỡ y, kéo bầy Miêu ưng rút lui, nấp ở phía Đông của hoang đảo dưỡng thương. Bầy Miêu ưng bay lượn bên cạnh bảo vệ cho hai tên ma đầu.


Đường Hiểu Lan thở phào, chợt thấy Phùng Anh rơi nước mắt, tra kiếm vào vỏ, nói với vẻ thê lương: “Thúc thúc, đừng giấu Anh nhi nữa”. Đường Hiểu Lan nói: “Anh muội, muội đừng trách huynh, huynh có nỗi khổ”. Mấy tháng nay, hai người sớm tối bên nhau, nhất là sau khi Phùng Anh thể hiện tình yêu, Đường Hiểu Lan bất giác đã không còn bị bó buộc bởi tình thuốc điệt nữa, gọi nàng là “Anh muội”. Nhưng Phùng Anh đã quen, nhất thời vẫn chưa thay đổi được, vẫn gọi là “thúc thúc”. Kiểu xưng hô ấy thật đáng buồn cười, nhưng trên hoang đảo chẳng có người thứ ba, cả hai người thích gọi gì thì cứ gọi thế ấy.


Lúc này trời đã về chiều. Đường Hiểu Lan nói: “Chúng ta tìm thứ gì ăn lót dạ”.


Hai người nướng cá ăn no nê, màn đêm đã buông xuống. Gió biển thổi tới có hơi lạnh. Đường Hiểu Lan nói: “Thời tiết lại thay đổi. Có lẽ trên biển lại có phong ba bão tố”. Hai người ở trên đảo mấy tháng, đã dần đần quen với thời tiết trên biển. Phùng Anh nghe tiếng gió thổi, nói: “Chắc đêm nay không có gió xoáy, chúng ta không cần nấp vào động”. Đường Hiểu Lan chợt nói: “Sắc trời thay đổi cũng như chuyện người vô thường. Không ngờ mấy tháng trước chúng ta còn ở trên đất liền, giờ đây lại bị cầm chân ở hoang đảo. Càng không ngờ chúng ta có thể ngồi bên nhau nghe tiếng biển gọi”. Vẻ mặt của chàng rất kỳ lạ, không biết là vui mừng hay đau khổ.


Phùng Anh tựa như hiểu mà không hiểu, chậm chậm nhích đến bên cạnh Đường Hiểu Lan, nắm tay chàng nói: “Thúc thúc, người hãy nói đi, người đã biết Anh nhi từ lúc còn nhỏ phải không?” Đường Hiểu Lan trả lời: “Lúc còn bé, hầu như ngày nào huynh cũng bế muội. Cha mẹ của muội là sư huynh và sư tẩu của huynh. Cha và tổ phụ của muội đều đã chết thảm, mẹ của muội thì sống chết không biết. Nha đầu ngốc, đừng khóc, muội hãy báo thù”. Lúc này Đường Hiểu Lan cũng rơi nước mắt.


Phùng Anh nghẹn ngào nói: “Thúc thúc, người hãy nói đi. Sư phụ đã từng dạy, thà đổ máu chứ không rơi nước mắt. Anh nhi không khóc nữa, thúc thúc, người hãy nói đi”. Trong bóng tối, đôi mắt Phùng Anh long lanh lệ, nàng vẫn nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan.


Đường Hiểu Lan thầm khen: “Đúng là một cô nương cứng cỏi!” rồi chàng nắm tay nàng thật chặt, chậm rãi nói: “Mười bảy năm trước, trong một đêm tối trời, còn ba ngày nữa là đến Trung Thu. Hôm đó là ngày tròn một tuổi của tỷ muội Anh nhi”. Pùng Anh kêu lên: “Ồ, thì ra Anh nhi còn có một tỷ muội, có phải là người rất giống Anh nhi hay không?” “Đúng thế. Đó là ngày tròn một tuổi của tỷ muội Anh nhi. Mọi người đều rất vui vẻ, chợt xuất hiện một người khách kỳ lạ...”


Gió đang rít, biển đang gọi, Phùng Anh chăm chú lắng nghe Đường Hiểu Lan kể chuyện. Đường Hiểu Lan nói rất chậm, có lúc nói rất nhanh. Nói đến bi kịch của gia đình họ, cũng kể về thân thế của mình. Khi nói đến chỗ đau lòng, có lúc chàng ngừng lại, chầm chậm lau nước mắt rồi lại nói tiếp.


Phùng Anh thở dài, dựa vào Đường Hiểu Lan nói: “Chả trách nào Anh nhi cứ cảm thấy thúc thúc là người thân của mình, té ra chúng ta lại thân thiết với nhau như thế”. Đường Hiểu Lan khẽ lau nước mắt cho nàng, Phùng Anh nghẹn ngào nói: “Anh nhi phải tìm mẹ và muội muội”. “Đúng thế, muội phải tìm họ. Hòn đảo này tuy nhỏ nhưng sẽ có thuyền đi ngang qua. Nhất định muội phải trở về đất liền tìm họ. Anh muội, muội một mình đi lại trên giang hồ phải cẩn thận”. Phùng Anh nói: “Thúc thúc, chẳng phải người sẽ cùng về với Anh nhi sao?” Đường Hiểu Lan cười khổ: “Làm sao huynh có thể về?” Phùng Anh chợt nhớ không bao lâu nữa Đường Hiểu Lan sẽ bị chất độc phát tác, nàng đột nhiên khóc òa lên, nằm phục trong lòng chàng.


Đường Hiểu Lan chỉ cảm thấy ái ngại, sắc mặt đỏ ửng, tim đập thình thình, một hồi sau chỉ nghe Phùng Anh thút thít nói: “Thúc thúc, mười mấy năm qua thúc thúc đã nhọc lòng vì tỷ muội Anh nhi, thậm chí còn liều mạng cứu Anh nhi, ơn tình này Anh nhi làm sao đáp đền?” Đường Hiểu Lan khẽ đẩy người nàng ra, nói: “Nha đầu ngốc, giữa chúng ta còn có hai chữ đáp đền nữa sao?” Phùng Anh ngẩng đầu lên, nhìn Đường Hiểu Lan rồi chợt nói: “Thúc thúc, thúc thúc có thích Anh nhi không?” Đường Hiểu Lan giật mình, chẳng nói ra nửa lời. Họ trong lòng đã yêu nhưng nhưng bề ngoài vẫn còn e ngại, đó là vì trong lòng chàng vẫn còn nghĩ Phùng Anh là điệt nữ của mình, vả lại trước khi chết chàng cũng không muốn làm nàng đau khổ.


Phùng Anh ngửa mặt nói: “Thúc thúc, người không thích Anh nhi sao?” Đường Hiểu Lan khẽ nói: “Chả lẽ bản thân Anh nhi không biết?” Phùng Anh nói: “Thúc thúc, Anh nhi mãi mãi ở bên cạnh thúc”. “Ai bảo đó là những lời trẻ con? Dù sông cạn đá mòn vẫn không thay đổi, sinh ly tử biệt làm sao có thể chia cách đôi ta?” Đường Hiểu Lan rúng động cõi lòng, bất giác đã ôm chặt nàng.


Hai người như ngây như ngất, không biết đã ôm nhau đến bao lâu, chợt nghe trên đỉnh đầu có tiếng kêu quạc quạc, Phùng Anh nói: “Thật đáng ghét, bầy Miêu ưng lại đến”. Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nhìn lên, kêu: “Không xong, lửa, lửa!”


Phùng Anh đang cúi đầu nhắm mắt, say sưa trong tình yêu đầu đời, chợt bị đẩy ra, nàng mở mắt ra nhìn chỉ thấy cây cối xung quanh bốc lửa. Đường Hiểu Lan kêu: “Chắc chắn đó là do Song ma. Hãy mau chặn bọn chúng cướp thuyền!” hai người xông về góc rừng phía Đông, trong rừng vọng ra tiếng cười ha hả của Tát Thiên Đô.


Té ra Tát Thiên Đô thấy gió nổi lên, nảy ra một kế, định rằng sau khi phóng hỏa sẽ dong buồm bỏ chạy để Phùng Anh và Đường Hiểu Lan chết trong biển lửa. Tát Thiên Thích vốn không nỡ lòng, nhưng thấy không thể giải được mối thù này cũng đàng mặc y. Cả hai huynh đệ đang châm lửa, Phùng Anh và Đường Hiểu Lan đã cầm kiếm xông tới.


Tát Thiên Thích kêu: “Lâm nha đầu, hãy đi theo bọn ta!” Phùng Anh đâm kiếm tới, Tát Thiên Thích lách người né tránh, Phùng Anh vung kiếm liên miên không ngớt. Tát Thiên Đô kêu: “Ca ca, chạy mau!” nhưng khinh công của Phùng Anh còn hơn cả Tát Thiên Thích, trong nhất thời Tát Thiên Thích làm sao có thể thoát thân.


Tát Thiên Đô lo lắng chợt quát lớn một tiếng, bẻ một cành cây đang bốc cháy ném về phía Phùng Anh, Đường Hiểu Lan phóng người vọt lên, cây trường kiếm bạt ra, vẫy ra một đóa kiếm hoa từ trên không đâm xuống, Tát Thiên Thích giơ chưởng trái đẩy ra, kình phong quét tới, chưởng phải rút lại, toan vặn tay của Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan lách người xoay bước, kiếm quang dồn ra như sông dài biển rộng. Tát Thiên Thích sợ thanh bảo kiếm Du Long nên không dám tiếp liều, thân thủ lại không lanh lẹ như chàng, dù công phu ngoại gia đã đến lúc đăng phong tạo cực cũng không khỏi thối lui từng bước.


Hòn đảo nhỏ này chỉ có mấy dặm, gió lớn ngoài biển thổi tới, chỉ trong chớp mắt thế lửa đã bùng lên, cây cối bị đốt cháy kêu lốp bốp, khói mù xông vào mũi, mắt bị khói hun đau nhức, hầu như chẳng mở ra nổi. Đường Hiểu Lan và Phùng Anh cùng chạy về phía bờ biển.


Tát Thiên Đô quát lớn một tiếng, huýt một tiếng sáo, bầy Miêu ưng lại từ trên bổ xuống, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh nếu né tránh Miêu ưng thì không kịp chạy. Hai người họ tuy biết bơi nhưng không giỏi, nếu không kịp chạy ra thuyền chắc chắn sẽ bị thiêu chết.


Tát Thiên Đô lại cười ha hả, một mặt chỉ huy bầy Miêu ưng vây đánh kẻ địch, một mặt chạy ra. Phùng Anh tức tối quát một tiếng, cả người lẫn kiếm phóng vọt lên. Bầy Miêu ưng sợ lửa, không dám bổ nhào xuống. Trong chớp mắt Phùng Anh đã lướt tới sau lưng Tát Thiên Đô, ánh kiếm quang lóe lên nhanh như điện chớp, Tát Thiên Đô kêu thảm một tiếng, té ra đã trúng một kiếm ở sau lưng!


Tát Thiên Thích quát lớn: “Lâm nha đầu, ngươi thật ác độc!” rồi thi triển tuyệt kỹ Miêu Ưng Phốc Kích từ trên không bổ xuống, Phùng Anh phóng vọt người lên, lia ngang thanh kiếm trên không trung, nào ngờ Tát Thiên Thích đang lơ lửng trên không trung mà vẫn có thể rút hai tay về rồi đâm xuống, Phùng Anh không kịp đề phòng, vai đã bị móng tay y chạm trúng, may mà nàng có khinh công tuyệt đỉnh cho nên chỉ vặn người một cái, đã tránh được vết thương chí mạng. Khi nàng ngã xuống đất, bầy Miêu ưng cũng lao theo.


Tát Thiên Đô đã trúng một kiếm ở sau lưng, nếu là người thường chắc chắn sẽ chết, nhưng y vốn mình đồng da sắt, tuy thế vẫn gào lên vài tiếng rồi nhảy vọt lên tiếp ứng cho Tát Thiên Thích. Đường Hiểu Lan thấy thế không khỏi kinh tâm động phách, lúc này thế lửa càng lớn hơn!


Tát Thiên Thích kêu lên: “Tiểu đệ, theo ta!” rồi y chạy vội ra phía trước. Nhờ có Miêu ưng yểm hộ, y đã xông ra đến mấy chục trượng, lúc này đã thấy bờ biển ở phía trước mặt. Chỉ nghe cuồng phong gào thét, sóng biển gầm gừ, chợt nghe một tiếng ầm thật lớn, con thuyền nhỏ đặt trên bờ biển bị gió bứt đứt dây ném lên bờ va phải tảng đá lớn, tan tành thành từng mảnh!


Đường Hiểu Lan lạnh mình, Phùng Anh kêu lên: “Thúc thúc, chúng ta không thể sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng có thể chết cùng ngày cùng tháng cùng năm, chúng ta dù chết nhưng cũng không thể để cho hai tên ma đầu thoát!” rồi nàng không màng đến Miêu ưng, cầm kiếm xoay người tấn công! Đường Hiểu Lan cũng đuổi theo hai tên ma đầu, cả hai người trước sau tấn công kẹp lại. Lúc này thế lửa càng lớn hơn, cây cối trên đảo đã làm mồi cho lửa, bị cuồng phong quét tới, cả thân cây bật lên tựa như một con rồng lửa bay lướt qua đầu, sóng gió thét gào pha lẫn với tiếng nổ lốp bốp tựa như một bản nhạc giao hưởng chết chóc. Bầy chim biển trên hòn đảo vỗ cánh bay lên, chấp chới trong cuồng phong. Bầy Miêu ưng tuy hung dữ nhưng cũng không dám bay xuống, chỉ kêu quạc quạc một hồi rồi tản đi. Trên đảo chỉ còn lại bốn con người đang lao vào nhau!


Hai tên ma đầu cậy tinh thông thủy tính, vẫn còn muốn bỏ chạy, nhưng hai người Phùng, Đường liều chết ngăn cản, Tát Thiên Thích dốc hết tuyệt kỹ bình sinh, lúc thì từ trên không bổ xuống, lúc thì áp sát tới dùng đòn Cầm Nã thủ, ai nấy cũng muốn đánh ngã đối phương, tìm đường sống nên cất tất cả mọi ái hận ân thù ở phía sau.


Hai bên vẫn liều mạng ác đấu. Những cành cây bị lửa táp chốc chốc lại rơi xuống. Tát Thiên Đô liên tục trúng ba nhát kiếm, di chuyển không lanh lẹ, Phùng Anh cũng cảm thấy vai đau nhói, chắc là chất độc đã phát tác, nàng đã có ý liều chết nàng càng tấn công dữ dội hơn. Tát Thiên Đô gào thét điên cuồng, quyền đấm chân đá, đòn nào cũng mang theo kình phong, dồn Phùng Anh về phía có lửa cháy. Phùng Anh cố nén cơn đau, nàng đột nhiên băng qua làn khói vạch thêm một nhát kiếm trên ngực Tát Thiên Đô, Tát Thiên Thích phóng tới, Phùng Anh trở tay đánh lại một kiếm quát: “Trúng!” Tát Thiên Thích bị khói mù che mắt, chợt thấy ánh kiếm quang lóe lên, khi lách người né tránh thì mười móng tay đã hoàn toàn bị chặt đứt. Hai tên ma đầu kêu lên oai oái, chợt sấm sét nổi lên, trên không trung vang lên tiếng kêu đùng đùng!


Sấm nổ giữa trời xanh, sét đánh ngoằn ngoèo, một gốc cây to lớn bị tiện đứt, Tát Thiên Đô bị tiếng sấm chấn động, khi nhảy lên thì thân cây to lớn ấy đã đè lên người, Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, vung hai tay, ném gốc cây sang một bên, nhưng bộ áo lông trên người của y đã bắt đầu bốc cháy, Tát Thiên Đô đột nhiên phóng vọt lên, lao đầu về phía Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan lách người, chỉ nghe trên bầu trời lại đánh ầm thêm một tiếng, cây rừng nghiêng ngả, ánh lửa nhảy múa lờn vờn, Tát Thiên Đô lao trúng phải một gốc cây, gốc cây đổ xuống, lửa táp vào người y, trong chốc lát y đã làm mồi cho lửa!


Tát Thiên Thích kêu: “Thiên Đô, Thiên Đô!” y không nghe thấy tiếng trả lời, y mở mắt ra thấy cảnh tượng thê thảm diễn ra trước mắt, thế là đau đớn lao về phía Đường Hiểu Lan toan xé nát chàng, Đường Hiểu Lan suýt nữa bị y chụp trúng, chàng thối lui liền từng bước, Phùng Anh vung kiếm đánh tới, Tát Thiên Thích quát lớn: “Trả mạng đệ đệ lại đây!”


Phùng Anh cười lạnh, lia thanh đoản kiếm lên, chỉ trong chớp mắt đã liên tục đánh ra mấy chiêu, mắng rằng: “Vậy mạng của người nhà ta biết đòi ở đâu? Huynh đệ của ngươi đã giết bao nhiêu người, những oan hồn ấy phải đòi nợ ở đâu?”


Tát Thiên Thích thất kinh, mấy câu này của Phùng Anh tựa như sấm động đánh vào lòng y. Y ngập ngừng, tay chân chậm lại, Phùng Anh đã vung kiếm đâm một nhát vào buồng tim của y, Tát Thiên Thích kêu lớn, hai mắt trợn ngược, chẳng thể nào nhúc nhích được nữa, Phùng Anh rùng mình rút kiếm ra, chỉ nghe Tát Thiên Thích nói: “Ta không trách ngươi!” rồi ngã xuống.


Đường Hiểu Lan kêu: “Anh muội nương tay”. Nhưng đã quá muộn. Đường Hiểu Lan nói: “Người này hình như đã có lòng hối hận, đáng tiếc thật!” lúc này sấm chớp ì đùng, mưa như trút nước, Đường Hiểu Lan thở phào, chạy đến bên cạnh Tát Thiên Thích, chỉ nghe Tát Thiên Thích nói: “Bảo Lâm nha đầu đến đây, ta có lời muốn nói”. Đường Hiểu Lan gọi Phùng Anh: “Người khi sắp chết sẽ nói lời tốt. Hãy nghe y nói gì?”


Phùng Anh trông thấy cái chết thê thảm của Tát Thiên Thích, quay mặt sang một bên rồi chậm rãi bước tới. chỉ nghe Tát Thiên Thích nói: “Lâm nha đầu, ngươi nói đúng, ta... ta...” giọng nói của y cứ ngắt quãng, nghe không rõ ràng.


Đường Hiểu Lan thở dài: “Hãy chôn y đàng hoàng tử tế”. Tát Thiên Thích chợt xoay người, gắng gượng nói: “Trên người ta có một viên thuốc, ngươi hãy lấy ra lăn trên vết thương của ngươi. Viên thuốc này còn có tác dụng rất lớn...” lúc này khí lực đã yếu nên chẳng còn nói được nữa.


Phùng Anh nhói lòng, không ngờ lão quái vật trước khi chết lại có lòng tốt như thế, nàng bất giác quay mặt lại, nói cũng thật lạ, trước khi chết trông y rất đáng sợ, nhưng giờ đây trong mắt Phùng Anh tựa như một ông già hiền từ. Phùng Anh nói: “Ông là kẻ thù của nhà ta, nhưng ông có công nuôi dưỡng ta mấy năm. Ân oán bù trừ lẫn nhau, ta cũng không tránh ông nữa”. Tát Thiên Thích mỉm cười, Đường Hiểu Lan đưa tay sờ vào ngực y, lúc này hơi đã đứt.


Phùng Anh nói: “Con người thật kỳ lạ”. Đường Hiểu Lan nói: “So với bọn người Niên Canh Nghiêu, y còn tốt hơn nhiều”. Rồi lục người y, quả nhiên lấy được một viên thuốc màu đen.


Viên thuốc này lớn như cái ly uống rượu phát ra mùi hôi thối, Đường Hiểu Lan vạch áo ngoài của Phùng Anh, lấy viên thuốc lăn hai lượt lên vết thương của nàng, Phùng Anh cảm thấy nhiệt khí dâng lên, cánh tay đã có thể cử động tự nhiên, cơn đau đã giảm xuống. Không ngờ viên thuốc này linh diệu như thế, chắc là thuốc giải độc môn của bọn họ, y còn nói viên thuốc này còn có tác dụng nữa, muội hãy giữ lấy”. Phùng Anh bịt mũi nói: “Anh nhi không cần”. Đường Hiểu Lan chỉ mỉm cười rồi cất vào trong áo.


Mưa gió đến thật nhanh nhưng cũng qua đi thật nhanh, lúc này gió chưa ngừng, mưa đã giảm, lửa đã tắt ngấm. Hoa cỏ đã cháy sạch trụi, chỉ còn lại vài cây cổ thụ trọc lóc. Đường Hiểu Lan nói: “Con thuyền của hai tên ma đầu đã vỡ, chúng ta chỉ đành chờ một thời gian nữa”. Chàng nghĩ lại không quá trăm ngày nữa mình sẽ ra đi nên không khỏi buồn rầu.


Hai người lặng lẽ đào huyệt chôn hai tên ma đầu. Sau cơn mưa lớn, trong gió mang hơi nước lạnh lẽo, Phùng Anh dựa vào người Đường Hiểu Lan, bất giác ngủ thiếp đi. Đường Hiểu Lan cởi áo ngoài đắp lên người nàng, chàng tuy mệt mỏi nhưng sự việc vừa rồi khiến chàng chẳng thể nào ngủ được, chốc thì nhớ đến việc mình sắp chết, chốc thì nhớ đến tình yêu của Phùng Anh giành cho mình, chốc lại nhớ đến tình cảnh trước khi chết của Tát Thiên Thích, chàng dù có nhắm mắt cũng chẳng ngủ được. Gió ngừng thổi, trên mặt biển hình như vọng lại tiếng quát tháo. Đường Hiểu Lan nghiêng tai lắng nghe, kéo Phùng Anh đứng dậy kêu: “Anh muội, hình như lại có thuyền tới!”


Phùng Anh dụi mắt, mừng rỡ kêu: “Hay lắm, chúng ta có thể thoát hiểm”. Đường Hiểu Lan nói: “Muội đừng mừng, chưa biết là ai sẽ tới!” Phùng Anh nói: “Mong không phải là Độc Long Tôn Giả!” hai người chạy ra bờ biển, trong đêm tối mênh mông, mặt nước lấp lánh ánh sáng, vẫn chưa thấy bóng dáng con thuyền. Phùng Anh nói: “Thúc thúc có nằm mơ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Ồ, kỳ lạ thật, rõ ràng huynh nghe có tiếng người”.


Một chốc sau, chợt nghe tiếng sáo từ xa vọng tới, âm thanh nhỏ mà trong trẻo tựa như bay lượn trên không trung, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh đều thất kinh, Phùng Anh nói: “Đây là công phu Truyền âm nhập mật!” nhìn một hồi, mới phát hiện ở phía xa có một chấm đen trôi nổi. Phùng Anh nói: “Huynh nói không sai, có một con thuyền nhỏ!” Đường Hiểu Lan nói: “Ở nơi xa tít mà tiếng sáo có thể vọng tới, công lực của người này cao thâm đến khó lường! Nếu đó là kẻ địch, hai chúng ta chẳng phải là đối thủ!”


Phùng Anh nói: “Chúng ta cứ mặc y”. Sóng biển đập vào bờ ầm ầm, chấm đen đã càng lớn hơn, lúc này đã thấy rõ đó là một con thuyền, con thuyền trôi trong sóng gió, Phùng Anh nhớ lại nỗi khổ mình từng chịu, nghiêm mặt nói: “Dù y là ai, cứu y trước rồi tính!” Đường Hiểu Lan cười nói: “Chúng ta suy nghĩ thật giống nhau, chắc y thấy ở đây có ánh lửa nên lái thuyền đến, lúc này lửa đã bị dập tắt nên y không biết phương hướng. Chúng ta hãy đốt lửa lên”. Phùng Anh nhặt một ít lá cây còn sót, bắt đầu đốt lửa lên, một hồi sau con thuyền lướt tới như tên bắn. Đường Hiểu Lan cất tiếng gọi, trên mặt biển vọng lại giọng của một thiếu nữ: “Có phải Hiểu Lan đấy không?”


Đường Hiểu Lan hầu như không dám tin vào tai mình, giọng nói ấy rất quên thuộc, dịu dàng, trước đây giọng nói ấy đã cho chàng sức mạnh, khiến cho chàng trỗi dậy từ trong tuyệt vọng, không ngờ ở đây chàng lại được nghe giọng nói này. Phùng Anh thấy chàng đứng ngẩn ra, trong mắt lộ vẻ vừa kinh vừa mừng, bất giác hỏi: “Có phải thúc thúc quen người trên thuyền không?” Đường Hiểu Lan nói: “Ồ, quen!” thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải là Hiểu Lan không?” Đường Hiểu Lan trả lời: “Là đệ, Lữ tỷ tỷ!”


Một hồi sau, con thuyền cập bến. Một nam hai nữ trên con thuyền nhảy xuống, người nam là Bạch Thái Quan, hai người nữ là Lữ Tứ Nương và Ngư Nương. Bạch Thái Quan và Ngư Nương lộ vẻ mệt mỏi, áo quần ướt đẫm, rõ ràng vừa mới trải qua sóng gió. Lữ Tứ Nương tuy mệt nhưng thần thái vẫn như thường, Đường Hiểu Lan nói: “Tôi không nằm mơ chứ, ngọn gió nào đã thổi các người đến đây?”


Lữ Tứ Nương cười nói: “Còn ngọn gió nào nữa, đó chính là gió xoáy! Nếu không thấy ánh lửa, suýt nữa chúng tôi đã làm mồi cho cá”. Ngư Nương cười nói: “Trong ba người chúng tôi Lữ tỷ tỷ bơi kém nhất, nhưng tỷ ấy lại bình tĩnh nhất, sao các người lại tới hòn đảo này, còn tiểu cô nương này có phải là người đã đi cùng Liễu Ân trước kia hay không?” Ngư Nương và Bạch Thái Quan đã từng gặp Phùng Lâm ở Hàng Châu, lúc này bất giác đổi sắc mặt.


Đường Hiểu Lan cười nói: “Không phải, người đó chính là muội muội của nàng”. Rồi vẫy tay gọi Phùng Anh đến: “Đây chính là Lữ tỷ tỷ”. Phùng Anh nhìn Lữ Tứ Nương một hồi, chợt hỏi: “Có thực là Lữ tỷ tỷ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Sao lại không phải?” Phùng Anh biết Lữ tỷ tỷ đã thành danh nhiều năm, lại nghe Đường Hiểu Lan nói Lữ Tứ Nương lớn tuổi hơn chàng, trong tưởng tượng của Phùng Anh, Lữ Tứ Nương chắc chắn là một thiếu phụ trung niên, nhưng giờ đây lại là một thiếu nữ xinh đẹp như hoa, bởi vậy bất giác ngẩn người ra.


Lữ Tứ Nương mỉm cười, kéo tay Phùng Anh nói: “Tiểu muội muội, ta chính là Lữ Tứ Nương, ta đã từng được sư phụ của muội truyền cho nội công Kiểm tinh nội thị, cho nên mới trẻ trung thế này”. Đường Hiểu Lan hỏi: “Phu phụ Bạch huynh chẳng phải đang đánh nhau với quân Thanh ở đảo Điền Hoành sao, giờ sao lại tới đây? Sao Lữ tỷ tỷ lại đi cùng với các người?” Bạch Thái Quan buồn bã nói: “Cơ nghiệp mấy mươi năm của nhạc phụ tôi đã tiêu tan”. Lữ Tứ Nương nói: “Họ Lữ chúng tôi bị triều đình truy sát, chỉ có một người cháu tên là Lữ Nguyên chạy thoát. Nửa năm trước, tôi đưa y đến chỗ Huyền Phong đạo trưởng để ông ta nhận làm học trò, từ bán đảo Lưu Đông trở về, vừa khéo gặp phải phu phụ Bạch sư huynh, Bạch huynh mời tôi cùng đến đảo Điền Hoành. Nhưng đáng tiếc đã chậm một bước, thủy sư quân Thanh đã bao vây thủy trại ở các đảo, chúng tôi vất vả lắm mới lẻn vào được, huynh đệ các thủy trại đã thương vong quá nửa, chúng tôi tuy cố gắng cự địch nhưng chẳng thể nào cứu vãn nổi. Nhưng chúng tôi đã giết được mấy vạn quân Thanh, đảo Điền Hoành cũng cầm cự được hơn ba tháng. Sau khi trại vỡ, chúng tôi đoạt một chiếc thuyền chạy đến đây”.


Rồi Đường Hiểu Lan kể lại những chuyện đã trải qua cho ba người nghe. Sáng hôm sau họ bàn bạc một hồi, quyết định cùng đến Xà đảo đối phó với Độc Long Tôn Giả.


Chính là:


Cùng ra tay bắt hổ, điểm hóa người u mê.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 36

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 36 Lấy ái giải thù ma đầu phục nhân tính Vì người mạo hiểm hiệp nữ vào kinh sư


Lại nói bọn Cam Phụng Trì bị vây trên Xà đảo bất giác đã mấy tháng. Mấy tháng qua, mỗi ngày sau khi nước triều rút, Độc Long Tôn Giả lại đến chơi trò đánh nhau với họ. Ngư Xác thấy thu đi đông tới, lại thấy tuyết tan hoa nở, nhớ lại thủy trại của mình bị quân Thanh vây đánh không biết thế nào, lại chẳng hay con gái và con rể của mình số phận ra sau; mỗi ngày đối với ông ta cứ như một năm.


Đáng mừng là trong mấy tháng đánh nhau, võ công của mọi người đều tăng lên không ít, mỗi ngày sau khi đánh nhau, Cam Phụng Trì đều tính toán lại sự được mất, giúp mọi người rèn luyện, đồng thời nghĩ ra cách công thủ rồi hàng ngày luyện tập. Trong mười người, vốn chỉ mỗi mình Cam Phụng Trì có thể tiếp được chưởng lực của Độc Long Tôn Giả, Ngư Xác, Vệ Dương Oai, Mạnh Võ Công có thể dùng binh khí chặn được vài ba chiêu. Mấy tháng sau họ đã có thể tạm chống đỡ được. Lại thêm công thủ phối hợp rất kín kẽ, dần dần đã chiếm được thượng phong, tuy không thể giết chết được Độc Long Tôn Giả nhưng mỗi khi y nao núng thì đều bỏ chạy. Mọi người cũng thử chia ra một nhóm đóng thuyền, một nhóm canh gác, nhưng sau khi lực lượng chia ra lại không đủ chống cự, kết quả là con thuyền vừa đóng xong đã bị y đập phá nên chẳng còn cách nào.


Hôm nay sau khi nước triều rút, Độc Long Tôn Giả lại đến khiêu chiến, đánh ba trăm hiệp mà vẫn chưa mệt mỏi. Trên không trung vọng lại tiếng kêu quác quác, một chốc sau, hơn mười con Miêu ưng bay tới, Cam Phụng Trì rất lấy làm lạ, thầm nhủ: “Chả lẽ Miêu ưng lại đánh nhau với rắn độc? Miêu ưng xuất hiện thì phải có đàn lớn, tại sao ít như thế này?”


Bầy Miêu ưng bay trên không trung mấy vòng, có hai con thật lớn chúc đầu kêu vang, cứ lượn vòng không ngớt trên đầu họ. Độc Long Tôn Giả chợt quát lớn một tiếng, vung gậy đánh kêu vù vù mấy trượng, bạt hết binh khí của mọi người rồi phóng đi, y vẫy tay, hai con Miêu ưng đậu xuống vai y, trên vuốt con Miêu ưng tựa như có vật gì đó.


Mười con Miêu ưng này chính là của Song ma, hai con lớn nhất rất thân thiết với Tát Thiên Thích. Tát Thiên Thích đem chúng đến Xà đảo tìm Độc Long Tôn Giả cho nên Độc Long Tôn Giả vừa thấy đã nhận ra. Trên vuốt của con Miêu ưng có một cái móng tay, lại có cả vết máu. Độc Long Tôn Giả thấy thế liền biến sắc, hỏi: “Chủ nhân của ngươi có phải bị hại chết không?” con Miêu ưng không biết trả lời, chỉ kêu quạc quạc.


Mọi người không nhìn thấy rõ trong vuốt của con Miêu ưng có vật gì, chỉ thấy Độc Long Tôn Giả nói mấy câu rồi thả tay, bầy Miêu ưng bay đi. Độc Long Tôn Giả chợt nổi giận nhảy lên, quét vù một gậy, đánh vỡ tảng đá bên cạnh, kêu lớn: “Các ngươi sống thêm một ngày nữa, ngày mai ta sẽ giết tất cả các ngươi để xóa nỗi hận trong lòng!” rồi lui vào trong rừng. Mọi người thấy bộ dạng hung thần ác sát của y thì không khỏi kinh hãi.


Vệ Dương Oai nói: “Thật kỳ lạ, bầy Miêu ưng này có liên quan gì đến chúng ta? Tại sao y vừa thấy Miêu ưng thì lại nổi giận?” Mạnh Võ Công nói: “Độc Long Tôn Giả vốn không phải là người, y tựa như rắn độc, cứ hễ gặp người là cắn, chúng ta đừng nhọc lòng suy đoán nữa. Hãy nghĩ cách ngày mai ứng phó thế nào!” Cam Phụng Trì cúi đầu trầm tư, nếu dùng võ công thì thật sự không thể. Giả sử Độc Long Tôn Giả ra độc chiêu, hơn mười người này khó tránh có người bị thương. Nếu như xui bị rắn tấn công, họ càng không thể chạy thoát. Chợt thấy Ngư Xác đi tới đi lui trên bờ biển, nhìn nước triều đến xuất thần.


Cam Phụng Trì nói: “Ngư lão tiền bối có cách gì?” Ngư Xác nói: “Ta nghĩ Độc Long Tôn Giả cậy võ công cao cường, nếu chưa đến lúc sức cùng lực kiệt, chưa chắc đã xua rắn ra trợ chiến”. Cam Phụng Trì nói: “Chúng ta ở trên đảo này thì mọc cánh cũng khó thoát, khi y xua rắn ra, chúng ta chỉ có nước chết”. Ngư Xác nói: “Nếu trước khi y xua rắn ra, chúng ta đánh ngã y rồi đối phó với bầy rắn càng dễ hơn”. Cam Phụng Trì nói: “Độc Long Tôn Giả võ công cao cường, trên đời này có ai là địch thủ của y?” “Đại hiệp hãy nghe tiếng sóng vỗ vào bờ, lực của nước biển có lẽ mạnh hơn y”. Cam Phụng Trì nói: “Làm sao dùng được lực của nước biển?” Ngư Xác nói: “Y chưa bao giờ xuất hiện ở đây vào ban trưa, chúng ta có thể lợi dụng kẻ hở này là một số cơ quan”. Cam Phụng Trì nói: “Cơ quan gì?” Ngư Xác nói: “Rất dễ! Trên đảo có rất nhiều cây tre lớn, chúng ta chặt tre xuống đục lỗ rồi lắp nước bấm, đổ nước vào...” Cam Phụng Trì cười nói: “Đó chẳng giống thủy thương của trẻ con hay sao?” Ngư Xác nói: “Đúng thế. Ta muốn làm loại thủy thương này, nếu bất ngờ bắn ra, một người khỏe mạnh sẽ bị nước bắn ngã. Mười cây thủy thương nhất thời bắn ra, Độc Long Tôn Giả cũng sẽ ngã chỏng vó. Sau khi đổ đầy nước vào ống tre lớn, chúng ta lại phủ cát lên, bãi cát ở đây có độ nghiêng, chúng ta dụ y đến chỗ lõm rồi đột nhiên phát động, lợi dụng lực quét của thủy thương, có thể khiến y ngã nhào rồi dùng thủ pháp mạnh đả thương y”. Cam Phụng Trì nói: “Công phu nội ngoại của y đã đến mức đăng phong tạo cực, không biết có thể được hay không. Nhưng chuyện đã đến nước này cũng chẳng còn cách nào khác”.


Hôm sau nước thủy triều vừa lui, Độc Long Tôn Giả lại nhảy ra, sau lưng là một bầy rắn, có đến cả vạn con. Cam Phụng Trì kêu lên: “Hỏng bét, lần này chúng ta chết không chỗ chôn thân”. Độc Long Tôn Giả chúm môi huýt một cái, bầy rắn bò ra bờ biển, đột nhiên ngừng lại, đầu đuôi nối nhau thành một vòng tròn. Độc Long Tôn Giả cười ha hả: “Hôm nay chúng ta đánh trận cuối cùng, ta sẽ khiến các ngươi chết tâm phục khẩu phục. Rắn ơi, đợi ta đánh xong, ta sẽ mời các ngươi ăn điểm tâm”. Rồi y múa cây gậy quét vù về phía Cam Phụng Trì.


Cam Phụng Trì đỡ hợt một chiêu, chạy về phía bờ biển. Độc Long Tôn Giả nói: “Này, ngươi sợ sao? Đánh với ta một trận, lát nữa ta sẽ cho ngươi chết dễ chịu hơn”. Cam Phụng Trì vung tay, ba mũi trủy thủ bay lướt qua người y, Độc Long Tôn Giả vung trượng một cái, ba mũi trủy thủ gẫy làm đôi, chưởng trái vỗ về phía Ngư Xác, Ngư Xác cũng không dám tiếp, bèn bỏ chạy về phía tây. Độc Long Tôn Giả kêu: “Các người tách ra càng không thể đối phó nổi với ta. Hừ, các người đã không muốn đấu với ta một trận cuối cùng, thật đáng ghét! Ta phải xé xác từng tên các ngươi ra cho rắn ăn!” rồi y vung gậy đuổi theo, bọn Ngư Xác cứ chạy loạn trên bãi cát, dụ cho Độc Long Tôn Giả đến nơi cát lõm xuống, rồi đột nhiên phát ra hiệu lệnh, mọi người dùng chân hất cát, lấy thủy thương, mười mấy cột nước bắn về phía Độc Long Tôn Giả. Độc Long Tôn Giả không kịp đề phòng, bị lực nước phun tới, chẳng mở mắt ra nổi, lảo đảo suýt ngã xuống. Cam Phụng Trì nhân thời cơ ấy phóng tới dốc hết toàn lực vỗ xuống một chưởng, Độc Long Tôn Giả thu vai lại, chưởng ấy trúng vào hậu tâm của y. Độc Long Tôn Giả gầm lớn rồi ngã lăn xuống đất!


Chưởng lực của Cam Phụng Trì có thể đánh vỡ cá đá núi, chưởng phải vừa đánh trúng chưởng trái đã giở lên, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, bọn Ngư Xác và Vệ Dương Oai cũng xông tới, Ngư Xác chém xuống một đao, Độc Long Tôn Giả đột nhiên gầm lớn một tiếng bật người dậy, chưởng trái của Cam Phụng Trì chưa kịp hạ xuống đã bị y chụp ném lên không, mọi người vội vàng tháo chạy, Ngư Xác chém trúng vào gót chân của y kêu soạt một tiếng, thanh đao cong queo, rồi cũng ngã lăn bởi phản lực của y. Độc Long Tôn Giả nhảy bật dậy, quát lớn: “Bầy chuột nhắt dám ám toán!” rồi huýt một tiếng sáo, bầy rắn ở phía sau đột nhiên phóng tới nhanh như tên bắn! Độc Long Tôn Giả lảo đảo lui ra phía sau, ngồi xếp bằng trên một tảng đá, chốc chốc lại phát ra tiếng kêu chít chít.


Cam Phụng Trì bị y ném một cái, phải vận khí hộ thân, lộn một vòng trên không trung hóa giải kình đạo, dầu như thế nhưng khi rơi xuống đất vẫn đầu váng mắt hoa, hơi thở suýt nữa bị bế tắt, may mà không bị nội thương. Bầy rắn lao tới, chàng và Ngư Xác lui về cùng mọi người phòng thủ.


Độc Long Tôn Giả ngồi xếp bằng vận khí, thấy tức ở nơi ngực, cũng không khỏi kinh hãi. Y vận khí mấy vòng, khi mở mắt ra thì thấy bầy rắn đã lao tới như nước triều, nhưng kẻ địch đều là những cao thủ, hơn mười người kết thành một trận vuông, đao chém gậy đánh, kiếm chặt tay xé, bầy độc xà chết vô số, có vài con rắn nhỏ đã quay đầu thoái lui. Độc Long Tôn Giả đột nhiên đứng dậy, huýt lên một tiếng quái dị, tay cầm cây gậy sắt xông vào trong vòng. Bầy rắn lại tiếp tục lao về phía trước. Cam Phụng Trì thất kinh, không ngờ Độc Long Tôn Giả đã bị trúng một chưởng mà vẫn hung mãnh như thế!


Lúc này tình thế đã thay đổi, mọi người vừa phải phòng bị độc xà, vừa phải chống lại cường địch, trận thế đại loạn. Đang lúc nguy cấp, trên mặt biển vọng lại tiếng hú trong trong trẻo. Cam Phụng Trì lắng tai nghe, mặt lộ vẻ mừng rỡ, cũng lên tiếng đáp lại. Độc Long Tôn Giả mắng: “Ngươi làm trò quái gì thế?” rồi bổ một trượng tới, Cam Phụng Trì vung cây đao lách người gạt một cái, Ngư Xác cũng nhảy vọt tới trước, chém nhau một đao, Độc Long Tôn Giả mắng lớn: “Lão già thật đáng ghét!” rồi cây gậy trên tay phải đẩy một cái khiến Cam Phụng Trì thoái lui mấy bước, chưởng trái chém về phía trước, chưởng phong sắc bén như dao, Ngư Xác kêu một tiếng: “Không xong!” khi né tránh thì cổ tay đau nhói, thanh yêu đao đã bay lên không trung, Vệ Dương Oai và Mạnh Võ Công nhảy tới tương cứu, Độc Long Tôn Giả giơ ngang gậy chặn lại, huýt một tiếng, nói thì chậm nhưng sự việc diễn ra rất nhanh, hai con rắn lớn đột nhiên ngốc đầu dậy cuộn vào người Ngư Xác. Cam Phụng Trì vung đao chém rắn độc, Độc Long Tôn Giả vung cây gậy sắt múa tiếp, nhốt cây bảo đao của Cam Phụng Trì vào vòng gậy bởi vậy chàng đã không thể nào xông ra được. Ngư Xác hai tay tóm hai đầu con rắn, cố gắng kéo ra ngoài, tình thế rất nguy hiểm! Độc Long Tôn Giả cười hềnh hệch, chiêu số chợt đẩy mạnh, quát: “Hôm nay các ngươi sẽ chết không chỗ chôn thân!” rồi quét ra vù vù hai chiêu, cây đơn đao của Mạnh Võ Công và đôi song tu của Vệ Dương Oai bị chấn động bay ra, trong tiếng cười lớn, Độc Long Tôn Giả lại bổ một gậy xuống Cam Phụng Trì.


Ngoài biển lại có tiếng hú, Cam Phụng Trì cố gắng chống ba chiêu, chỉ nghe Độc Long Tôn Giả kêu: “Kẻ nào không biết sống chết mà dám xông vào đảo của ta!” Chiếc thuyền chưa cập vào bờ, trên thuyền đã có năm bóng người xuất hiện!


Nàng thiếu nữ đi đầu lướt đi nhanh như gió, chỉ trong chớp mắt đã tới phía trước, Độc Long Tôn Giả buông Cam Phụng Trì bổ tới một gậy, chợt thấy khí lạnh căm căm dồn vào mặt, y rút tay không kịp, trở tay đẩy một cái thoái lui mấy bước, mái tóc rối bù trên đầu đã bị kiếm quang hớt bay xuống, chỉ nghe Cam Phụng Trì kêu: “Bát muội đến thật đúng lúc, giết tên yêu nhân trước rồi tính tiếp!” tiếp theo lại nghe bầy rắn kêu chít chít tháo lui!


Năm người này chính là Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan, Ngư Nương, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh. Lữ Tứ Nương vừa gặp mặt đã đánh ra một chiêu, hóa giải thế nguy cho Cam Phụng Trì. Bạch Thái Quan và Ngư Nương chạy đến cứu Ngư Xác, Ngư Xác đang vất vả, chợt cảm thấy áp lực giảm xuống, chỉ nghe tiếng con gái kêu: “Cha!” Ngư Xác mừng rỡ kêu: “Ngư Nương, là con đấy ư?” rồi kéo con gái vào lòng. Bạch Thái Quan kêu: “Nhạc phụ cẩn thận!” rồi vung đao chém thêm hai con rắn, Ngư Xác vội vàng buông tay, chợt thấy bầy rắn kêu chít chít thoái lui ra sau.


Té ra khi vợ chồng Bạch TháiQuan đến cứu Ngư Xác, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh cũng đến cứu bọn Vệ Dương Oai, bầy rắn thấy có người lạ đến nên ào lên, vừa mới tới gần Đường Hiểu Lan đã chợt quay đầu khiến cho Đường Hiểu Lan cũng thấy kỳ lạ. Té ra viên thuốc mà Bát Tý Thần Ma đưa cho Phùng Anh trước khi chết được luyện từ nước dãi của Miêu ưng với các loại bột hùng hoàn và ngô công nghiền nát, nước dãi Miêu ưng là khắc tinh của độc xà, lại thêm bột ngô công và hùng hoàn cho nên càng lợi hại, rắn độc chỉ cần ngửi thấy mùi này thì lập tức phải tránh xa. Năm xưa sở dĩ Song ma dám đến Xà đảo gặp Độc Long Tôn Giả là bởi trên người có mang theo loại thuốc này.


Độc Long Tôn Giả thấy bầy rắn quay đầu, trong tức thời vẫn chưa nghĩ ra, y lớn tiếng quát tháo, bầy rắn chẳng hề nghe lệnh. Độc Long Tôn Giả giật mình, chẳng thèm đấu với Lữ Tứ Nương nữa mà cầm trượng xông ra. Đường Hiểu Lan tung mình lao tới, Độc Long Tôn Giả đứng ở dưới chiều gió, gió thổi mùi hôi của viên thuốc, Độc Long Tôn Giả thất kinh, giơ gậy bổ xuống, Phùng Anh lướt tới từ trên đâm xuống, Thiên Sơn song kiếm công thủ đều có, Độc Long Tôn Giả không thể thủ nổi. Lữ Tứ Nương kêu: “Độc Long tiền bối, ngài đã mệt, hãy nghỉ ngơi một lát rồi đấu tiếp!” Độc Long Tôn Giả kêu một tiếng quái dị, vung gậy gạt đôi kiếm ra, chạy lên hòn núi ở gốc đảo, rồi đột nhiên y chụp một con rắn xé bụng hút máu. Lúc này đầu tóc của y dựng đứng cả lên. Tuy y bỏ chạy nhưng nhìn bộ dạng như hung thần ác sát ấy, ai cũng phải lạnh mình.


Lữ Tứ Nương lúc nãy đánh ra một kiếm là bởi bất ngờ ra tay, nàng nhờ có khinh công tuyệt đỉnh với kiếm pháp thượng thừa nến mới có thể đắc thủ. Nhưng Lữ Tứ Nương chịu một chưởng của y tựa như búa tạ giáng vào người, nàng cũng biết công lực của y cao minh hơn mình rất nhiều.


Chỉ thấy Độc Long Tôn Giả xé liền ba con rắn, hút máu no nê, rồi sau đó ngồi xếp bằng tịnh tọa trên tảng đá, tựa như đang vận công điều hòa khí lực. Cam Phụng Trì nói: “Lúc này không trừ y, lát nữa sẽ phiền phức”. Lữ Tứ Nương kéo Phùng Anh đến bên cạnh, khẽ bàn bạc với nàng. Những người khác đều nín thở chú ý nhìn Độc Long Tôn Giả.


Một hồi sau, Độc Long Tôn Giả lại cười hềnh hệch, cầm cây gậy tung người lao xuống, cao giọng nói: “Ai đã giết Song ma, cướp báu vật của y?” Phùng Anh và Đường Hiểu Lan nói: “Chính là bọn ta! Báu vật gì, bọn ta chưa hề thấy!”


Độc Long Tôn Giả chợt thở dài một tiếng, dằn cây gậy xuống đất đánh keng một tiếng, chỉ Phùng Anh mắng: “Trông ngươi trẻ tuổi xinh đẹp thế kia mà lòng dạ như rắn rết! Song ma sợ ngươi chôn thân trong bụng rắn, ra biển tìm ngươi, thế mà đã bị ngươi giết! Hừ, bọn người các ngươi còn hung dữ hơn cả rắn độc của ta. Hãy nếm một trượng của ta!” Lữ Tứ Nương nói: “Ông muốn đơn đả độc đấu với tiểu cô nương này?” Độc Long Tôn Giả nổi giận mắng: “Các người cứ cùng xông lên, ta không cần dùng rắn độc cũng có thể giết chết được các người!” Lữ Tứ Nương cười nói: “Đây là tiểu muội muội của tôi, tôi không thể cho ông bức hiếp, tốt lắm, tôi và tiểu muội muội sẽ đọ vài chiêu với ông!”


Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, cẩn thận!” Đường Hiểu Lan cũng nói: “Anh muội, nếu gặp nguy, đừng ham đánh”. Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đều nói: “Biết rồi”. Rồi mỗi người đều rút kiếm đứng sánh vai nhau đợi Độc Long Tôn Giả tấn công.


Độc Long Tôn Giả nhìn hai người, thầm nhủ: “Võ công của đứa lớn cao nhất, mình giết chết ả trước. Đứa nhỏ đừng hòng thoát!” rồi y vung cây gậy đánh ra một chiêu Đại Bằng Triển Xí quét về phía Lữ Tứ Nương!


Lữ Tứ Nương kêu: “Hay lắm!” rồi tung người phóng lên, cây gậy lướt qua chân nàng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Anh xỉa cây đoản kiếm về phía trước bằng một chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, chiêu này nhanh như điện chớp, điểm vào yếu huyệt Mệnh Môn của kẻ địch, Lữ Tứ Nương đang lơ lửng trên không, đánh ra một chiêu Bằng Bác Cửu Tiêu từ trên không đâm xuống. Hai kiếm một trên một dưới, đồng thời đâm tới, cực kỳ lợi hại. Độc Long Tôn Giả gầm lớn một tiếng, không đợi rút trượng về đã thuận tay vẫy một cái, cây trượng bắn thẳng lên, đuổi quét ngang thầm đâm lên, mũi trượng hướng vào đang điền của Lữ Tứ Nương, thân trượng lại chặn ngang kiếm của Phùng Anh, một chiêu hai thức tấn công cả hai kẻ địch, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đều né ra.


Vừa lui lại hợp, Lữ Tứ Nương đánh kiếm xuống một bên, Phùng Anh tấn công ở trung lộ, hai kiếm giao nhau như hình cái kéo, Độc Long Tôn Giả lại gầm lớn một tiếng, cây trượng trầm xuống dưới, đánh xéo vào mệch môn của Phùng Anh, đâm vào hai chân của Lữ Tứ Nương, Phùng Anh người gầy ốm, nàng chỉ hơi thu lại đã lướt qua như cá chặt, Lữ Tứ Nương xoay người, cả đường kiếm điểm vào huyệt Kiên Tỉnh bên trái của Độc Long Tôn Giả, Độc Long Tôn Giả gầm lớn một tiếng: “Trúng!” rồi xoay bước, cây gậy rút lên trên, thuận thế đánh ngược lại nhanh như cát chật, thân gậy đập vào trường kiếm của Lữ Tứ Nương, mũi gậy điểm vào mặt của nàng! Những người đứng đấy đều lạnh mình. Nào ngờ Độc Long Tôn Giả đã nhanh, Lữ Tứ Nương càng nhanh hơn, Độc Long Tôn Giả vừa đánh ra một gậy, đã nghe keng một tiếng, cây trường kiếm đè lên gậy, người bắn vọt lên không trung. Phùng Anh chém xéo ra một chiêu Bạch Hạc Sa Linh. Độc Long Tôn Giả không thể thu cây gậy về, chưởng trái vỗ ra, vận chưởng thành gió, lấy công làm thủ hóa giải chiêu số của Phùng Anh.


Đánh một hồi mà Độc Long Tôn Giả chưa chiếm được thượng phong nên đùng đùng cả giận! Y vận nội gia kinh lực, trượng pháp thay đổi kêu lên vù vù, trái công, trái vỗ ra một chưởng, phải đánh ra một gậy tấn công nhanh nư vũ bão, chỉ thấy bóng gậy như núi, kiếm quang loang loáng. Hai bên đánh đến cát chạy đá bay, quần hùng đứng xem đều cảm thấy bóng kiếm ánh gậy loang loáng đến chói mắt, tiếng kim khí giao nhau nghe đến chói tai, đúng là một trận ác đấu trăm năm khó gặp. Dù người bình tĩnh như Cam Phụng Trì cũng toát mồ hôi.


Càng đánh càng dữ, lúc này mọi người chỉ thấy ba bóng người mờ mịt trong luồng ngân quang. Cam Phụng Trì và Đường Hiểu Lan là những người võ công cao nhất trong đám người đứng xem, họ vẫn còn có thể phân biệt được tình thế hơn kém, những người khác thì cả bóng người cũng chẳng thấy rõ.


Đường Hiểu Lan nhìn một hồi nói: “Cam đại hiệp, họ đã lọt xuống dưới hạ phong, chúng ta hãy ra tay!” Cam Phụng Trì nói: “Đợi một lát nữa”. Rồi chợt tình thế thay đổi, thấy gậy của Độc Long Tôn Giả chợt chậm lại, kiếm thế của Lữ Tứ Nương như cầu vồng, kỳ ảo vô cùng, liên tục phản công. Phùng Anh thi chuyển Đại Tu Di kiếm thức, một vòng kiếm quang bao bộc lấy thân người, nàng cứ luồng qua lách lại trước người Độc Long Tôn Giả. Cam Phụng Trì hít một hơi, nói: “Kiếm pháp của bát muội lại tiến bộ, sư phụ sống dậy chẳng qua cũng chỉ có thế!” Đường Hiểu Lan luôn miệng khen, cũng nói: “Chỉ trong mấy ngày mà kiếm pháp của Phùng Anh đã tiến bộ như thế! Chúng ta không cần ra tay!”


Té ra mấy ngày trước Lữ Tứ Nương đã hỏi về võ công của Độc Long Tôn Giả, trong lòng đã nghĩ ra cách đối phó. Nàng thầm nhủ: “Kiếm pháp của phái Thiên Sơn rộng lớn thâm sâu, Huyền Nữ kiếm pháp tinh kỳ ảo diệu, kiếm pháp của hai nhà chúng ta là võ lâm song tuyệt, nếu phối hợp thì uy lực không gì bì được, Độc Long Tôn Giả có võ công tuy cao cường nhưng chưa chắc có thể chống nổi uy lực của song kiếm”. Bởi vậy mấy ngày qua đã chỉ điểm cho Phùng Anh những yếu quyết phối hợp khi đánh địch. Phùng Anh thông minh tuyệt đỉnh, vừa được chỉ đã hiểu thấu.


Nhưng kiếm pháp của Phùng Anh tuy cao, kinh nghiệm vẫn còn kém. Lại thêm Lữ Tứ Nương chỉ truyền khẩu, không thể luyện tập trong huyền. Cho nên lúc mới vào trận, song kiếm phối hợp chưa kín kẽ, suýt nữa đã bị Độc Long Tôn Giả đánh bại, sau hơn năm trăm chiêu, Phùng Anh đã dần dần bình tĩnh, ý hợp với kiếm, ngân thần dùng kiếm, không gấp không lo, quả nhiên đã xoay chuyển được tình thế.


Độc Long Tôn Giả tấn công nhiều lần mà không xong, dần dần bị đẩy xuống thế hạ phong, không dám khinh địch, trượng pháp lại thay đổi, trông tựa như chậm hơn trước nhưng kình đạo lại tăng lên, lực dồn vào trượng, trượng phong quét ra khiến Lữ Tứ Nương và Phùng Anh tấn công thêm hơn trăm chiêu nữa mà chẳng làm gì được y. Phùng Anh có công lực kém hơn, đấu một hồi nữa thì mồ hôi ướt cả quần áo, bị trượng phong quét tới, ngực tựa như bị tảng đá nặng ngàn cân đè trúng, cực kỳ khó chịu. Lữ Tứ Nương chẳng còn cách nào, liếc thấy Phùng Anh vất vả, đang định rút lui, nàng tấn công mấy kiếm, muốn đẩy Độc Long Tôn Giả thoái lui, rồi kêu Phùng Anh chạy trước.


Nào ngờ chuyện bất ngờ xảy ra, Lữ Tứ Nương vội đánh mấy kiếm, rồi cảm thấy lực đạo của Độc Long Tôn Giả không còn mạnh như trước, Phùng Anh cũng cảm nhận được điều đó, nàng phấn chấn tinh thần, phối hợp với Lữ Tứ Nương tấn công gấp gáp, một hồi sau chỉ thấy Độc Long Tôn Giả nổi gân đỏ trên trán, mồ hôi tuôn xuống như mưa, sắc mặt tái nhợt, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh cả mừng, tấn công càng gấp hơn, đè được cây gậy của Độc Long Tôn Giả.


Tại sao Độc Long Tôn Giả đột nhiên đuối sức, té ra khi y trúng chưởng của Cam Phụng Trì, nội tạng đã bị tổn thương. Nếu lúc nãy y rút lui tịnh tọa vài ngày thì có thể trị khỏi. Thế mà y quen thói háo cường, ỷ nội công của mình thâm hậu, cho nên vận khí chặn lại, bề ngoài tuy không thấy, nhưng thực sự nguyên khí đã tổn thương, sau khi đấu hơn ngàn chiêu với hai người Lữ Phùng, nội thương phát tác, ngực đau như dao cắt, Độc Long Tôn Giả vốn cậy có nội công thâm hậu, nhưng lúc này công lực đã giảm xuống, tựa như dưới chân bức tường thành kiên cố đã bị kiếm đục lỗ, làm sao có thể chịu nổi gió táp mưa sa?


Cam Phụng Trì và Đường Hiểu Lan thấy thế cả mừng, không hẹn mà đều thở phào. Lữ Tứ Nương vung kiếm lớn giọng quát: “Độc Long tiền bối, có còn muốn đánh nữa không?” Cam Phụng Trì cười nói: “Bát muội đúng là nhân từ, đối với hạng yêu nhân như thế mà cũng chiêu hàng!” Nói chưa dứt lời, chợt thấy Phùng Anh kêu thảm một tiếng, đã bị Độc Long Tôn Giả đánh trúng một chưởng ngã xuống đất! Lần này biến cố quá bất ngờ, không những những người đều không nghĩ tới, cả Lữ Tứ Nương cũng chẳng ngờ!


Té ra Độc Long Tôn Giả là kẻ ghét đời, coi tất cả mọi người như rắn rết, thầm nhủ nếu bị bọn Lữ Tứ Nương bắt sống thì không biết sẽ chịu những cực hình gì, cho nên đột nhiên dùng kim giác thần xà trợ chiến. Loại kim giác xà này là sản vật của Xà đảo, đầu rắn lồi lên như có sừng, là loại rắn có độc tính mạnh nhất. Ban đầu Độc Long Tôn Giả chọn loại rắn độc độc nhất giao phối, sau đó nuôi dưỡng đến mười mấy đời, lai tạo được một loại rắn sừng nhọn màu đỏ, những loại rắn độc khác đều bị nó cắn chết. Độc Long Tôn Giả coi nó như của quý, gọi là kim giác thần xà, thường mang theo bên mình. Việc nuôi rắn của Độc Long Tôn Giả cũng giống như người bình thường nuôi chó mèo, y vốn chỉ có ý nuôi chơi chứ không nghĩ đến sẽ dùng hắc địch chế thắng, cho đến khi y đến bước đường cùng, mới nghĩ dùng rắn độc để thử, thế mà đã thành công, Phùng Anh bị con rắn cắn một phát, lại trúng thêm một chưởng nên ngã lăn xuống đất, miệng chảy nước dãi màu đen.


Lữ Tứ Nương thất kinh, trừng mắt nhìn, Độc Long Tôn Giả vung trượng định đánh tiếp, Lữ Tứ Nương tiếp một chiêu, chợt thấy dưới đất có một con rắn nhỏ vàng lấp lánh, còn Phùng Anh thì rên rỉ: “Rắn, rắn! Rắn độc!” Lữ Tứ Nương vội vàng lách người, trong chớp mắt Đường Hiểu Lan và Cam Phụng Trì đã xông tới, Đường Hiểu Lan đến cứu Phùng Anh, con rắn nhỏ màu vàng ngửa đầu dựng đứng lên, đầu cứ lắc qua lắc lại, té ra loại rắn càng độc thì càng sợ thuốc của Song ma, con rắn này bò đi không kịp, ngửi trúng mùi thuốc nên chẳng bò nổi. Đường Hiểu Lan lia thanh kiếm chặt đứt đuôi con rắn.


Lữ Tứ Nương chặn được hai chiêu, Cam Phụng Trì đã lao tới, cả hai người tấn công ở phía trước và sau, lúc này Độc Long Tôn Giả đã đuối sức, y dốc hết toàn lực gầm lớn một tiếng, tay phải vung ra, ném thẳng cây gậy vào ngực của Lữ Tứ Nương, tay trái trở tay đánh ra một chưởng chặn Cam Phụng Trì. Lữ Tứ Nương lướt xéo người tránh được cây gậy. Cam Phụng Trì vận lực hai chưởng cầm cự với y, lúc này khí lực của Độc Long Tôn Giả đã hết, bị thần lực của Cam Phụng Trì đẩy một cái, miệng phun ra một ngụm máu tươi rồi ngã nhào xuống đất.


Cam Phụng Trì kêu: “Bát muội thế nào?” chỉ thấy Lữ Tứ Nương đầu bù tóc rối, mặt toàn là mồ hôi, rõ ràng đã rất vất vả. Lữ Tứ Nương thở hổn hển, nói: “Muội chẳng sao cả, xem thử Anh muội thế nào rồi!” Lữ Tứ Nương ngồi xuống vận công, chợt nghe Đường Hiểu Lan khóc òa lên, Cam Phụng Trì nói: “Yêu nhân thật đáng ghét, Ngư lão, xem thử y chết hay chưa? Dù y còn sống hay chết, tôi cũng phải băm vằm y ra!” Lữ Tứ Nương đứng bật dậy kêu: “Khoan đã!” Ngư Xác đá Độc Long Tôn Giả hai cái, thấy y chẳng hề động đậy, sợ vào ngực y thì thấy còn hơi ấm. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội có cao kiến gì?” Lữ Tứ Nương nói: “Tạm thời đừng đụng tới y. Hiểu Lan, Phùng Anh thế nào rồi?” Cam Phụng Trì nghiến răng nói: “Chẳng còn cách cứu nữa!”


Đường Hiểu Lan ôm Phùng Anh khóc nghẹn ngào. Lữ Tứ Nương bước lên nhìn, chỉ thấy mặt nàng tím đen, miệng chảy nước dãi có mùi tanh, Lữ Tứ Nương kề tai tội nghiệp nàng rồi nói: “Vẫn chưa đứt hơi”. Cam Phụng Trì nói: “Nàng đã bị chưởng lực của Độc Long lão yêu đánh bị thương nội tạng, dù Hoa Đà tái thế, Biển Thước phục sinh cũng chẳng thể nào cứu nổi!”


Bọn Ngư Xác chạy đến xem, thấy nàng như thế Ngư Xác không khỏi rơi nước mắt.


Lữ Tứ Nương chợt nói: “Hiểu Lan, viên thuốc của Bát tuý thần ma có còn hay không?” Đường Hiểu Lan chợt nhớ lại, nói: “Viên thuốc này có thể trị độc rắn, lúc nãy bầy rắn tháo lui, không biết có phải vì nó hay không?” Lữ Tứ Nương nói: “Hình như đúng thế”. Đường Hiểu Lan lấy viên thuốc ra, lăn ở chỗ vết thương mấy lượt, độc khí quả nhiên dần lui. Lữ Tứ Nương nói: “Loại rắn này rất độc, cắt viên thuốc ra một nửa rồi cho nàng uống vào!” Đường Hiểu Lan làm theo, một hồi sau chỉ nghe bụng nàng sôi lên ùng ục, màu đen trên mặt dần dần nhạt đi, nhưng vẫn còn hôn mê bất tỉnh, mặt tượng hơi yếu, hơi thở như sợi tơ!


Ngư Xác định thần, kêu: “Ngư Nương!” Ngư Nương nói: “Cha, con ở đây!” Ngư Xác nói: “Con có lấy được bảo tàng của cha ra không?” Cam Phụng Trì nghe thế rất bất mãn, thầm nhủ: “Vừa mới trải qua phong ba mà Ngư Xác vẫn chưa hết tính tham! Người ta đang nguy ngập, sống chết chưa biết mà y lại hỏi đến bảo tàng!”


Ngư Nương nói: “Con có mang theo được một ít. Trong đêm đại trại bị vỡ, con chỉ lấy được mười viên dạ minh châu, một cây phách thủy tê giác, một cái lư hương ba chân thời Thương và một cây chi thảo ngàn năm. Còn những thứ khác thì vẫn còn giấu trên đảo Điền Hoành, mong là bọn chúng không phát hiện”. Ngư Xác mừng rỡ nói: “Hay lắm, hãy đưa cho cha chi thảo ngàn năm”. Ngư Nương đang muốn bảo với cha dùng chi thảo để trị thương, không ngờ cha nàng đẽ lên tiếng trước.


Ngư Xác cầm lấy chi thảo, nói: “Loại chi thảo này có thể cải tử hồi sinh, hãy thử xem sao”. Rồi kêu Đường Hiểu Lan nghiền nát nửa cây chi thảo, nhét vào miệng Phùng Anh, một hồi sau sắc mặt Phùng Anh hồng hào, nôn ra một ngụm máu ứ! Ngư Xác kêu Ngư Nương dựng lều, đưa Phùng Anh vào lều nghỉ ngơi, lại nói với Đường Hiểu Lan: “Còn nửa cây chi thảo hãy giữ lấy. Anh cô nương đã từng hỏi xin tôi, chắc là đang cần dùng”.


Lữ Tứ Nương chợt nói: “Hãy đưa nửa cây chi thảo cho tôi!” Cam Phụng Trì nói: “Muội lấy làm gì?” Lữ Tứ Nương nói: “Cứu Độc Long Tôn Giả!” Cam Phụng Trì nói: “Muội... muội...” chàng ta vốn định nói: “Muội điên rồi sao?” nhưng vì xưa nay rất tôn trọng Lữ Tứ Nương cho nên không nói ra lời.


Đường Hiểu Lan nói: “Tỉ tỉ cứ cầm lấy!” Ngư Xác nói: “Đường huynh, huynh không cần dùng sao?” Đường Hiểu Lan đưa cây chi thảo cho Lữ Tứ Nương, lắc đầu cười rằng: “Tôi dùng làm gì?” Lữ Tứ Nương liếc nhìn Đường Hiểu Lan, muốn nói gì đấy nhưng lại thôi.


Cam Phụng Trì nói: “Bát muội thật sự muốn cứu y? Sau khi y khỏi lại, còn ai có thể thu phục nổi y!” Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta đều có thể thu phục được y! Việc không thể trễ, thất ca, phiền huynh cậy răng y ra!”


Cam Phụng Trì cười khổ nói: “Ta chẳng rảnh”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca là lãnh tụ võ lâm, chả lẽ không biết câu lấy đức phục người hay sao?” Cam Phụng Trì nói: “Nhưng người này là yêu tà, làm sao có tính người?” “So với Niên Canh Nghiêu thì y thế nào?” “Niên Canh Nghiêu là mặt người dạ thú, làm sao có thể bì?” “Khi y ra Xà đảo đã từng hại ai chưa?” “Chưa từng nghe nói” “Thế thì đúng rồi, các người lên Xà đảo, y mới ra tay đối với các người”. “Người ta mắc nạn lạc lên đảo, nếu người có nhân tính chắc chắn sẽ tương cứu, trái lại y xua rắn độc cắn chúng ta, chả lẽ không đáng chết?” “Đúng thế, lời của huynh đã biện hộ cho y”. “Sao lại nói thế?” “Năm xưa y bị mắc bệnh hủi, cũng giống như chúng ta gặp nạn trên biển, thế nhưng người xung quanh lại không chịu cứu y, trái lại xua đuổi y, khiến y sao không hận trong lòng cho được?”


Cam Phụng Trì vốn là người hiệp cốt nhân tâm, nghe nàng nói một hồi nghĩ kỹ lại rồi vỗ tay nói: “Bát muội dẫu sao cũng là người hiểu lý lẽ, có tầm nhìn xa hơn cả bọn ta, nếu hôm nay muội không mở đường, suýt nữa ta đã làm chuyện sai”. Thế rồi bước tới cậy răng Độc Long Tôn Giả, nhét chi thảo vào miệng y, một hồi sau tim của y đã bắt đầu đập trở lại, hơi thở vẫn còn yếu ớt, một lúc sau nữa Độc Long Tôn Giả mới dần tỉnh dậy, ánh mắt lộ vẻ kỳ dị. Cam Phụng Trì nói: “Bây giờ ông không thể vận khí, hãy nằm nghỉ ngơi hai ngày!”.


Cứ thế ba ngày trôi qua, Phùng Anh đã có thể ngồi dậy, Độc Long Tôn Giả cũng có thể nói chuyện.


Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đều khuyên y yên tâm nghỉ ngơi. Độc Long Tôn Giả lòng đầy nghi hoặc, hỏi: “Sao các người lại cứu ta? Các người chẳng phải là con người sao?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Con người cũng có nhiều loại, có người thích làm hại người khác, có người coi cứu thiên hạ là trách nhiệm, làm sao có thể gộp chung với nhau được?” Độc Long Tôn Giả như hiểu mà không hiểu, mấy ngày nằm nghỉ ngơi, nhớ lại thời còn trẻ chưa mắc bệnh hủi, quả nhiên đã gặp những người rất tốt, cũng gặp những người rất xấu, nhưng sau khi mình đã mắc bệnh, bất cứ ai cũng lạnh nhạt đối với mình, thậm chí coi là kẻ thù. Một ngày lại hỏi: “Ở bên ngoài còn có ai bị mắc bệnh hủi không?” Lữ Tứ Nương nói: “Không còn”. Độc Long Tôn Giả chợt hỏi: “Giả sử hôm nay ta vẫn còn bị bệnh, các người có tốt với ta không?” Lữ Tứ Nương trả lời: “Tốt”. Độc Long Tôn Giả lắc đầu không tin. Lữ Tứ Nương cười nói: “Ông hãy nghĩ lại xem. Ông từng xua rắn độc cắn chúng tôi, ông lại cậy võ công cao cường định đánh chết chúng tôi. Trong mắt chúng tôi ông còn đáng sợ hơn cả người bị bệnh hủi, bệnh hủi chưa chắc khiến người ta chết, còn ông và rắn độc có thể dồn người ta vào chỗ chết. Chúng tôi đã cứu ông, vậy tại sao còn căm ghét ông làm gì?” Độc Long Tôn Giả nghĩ kỹ lại, chợt khóc òa lên. Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì lui ra khỏi trại để mặc cho y khóc. Đến khi y khóc xong lại trở vào thay quần áo cho y.


Cứ như thế nhiều ngày trôi qua, Độc Long Tôn Giả đôi lúc cũng hỏi chuyện bên ngoài, dần dần đã phân biệt được thiện ác, mấy ngày nữa trôi qua, Phùng Anh đã khỏe lại, cùng Đường Hiểu Lan đến thăm hỏi, Độc Long Tôn Giả vừa thấy họ, sắc mặt thay đổi. Lữ Tứ Nương nói: “Song ma là người tốt hay kẻ xấu?” Độc Long Tôn Giả nói: “Nghe các người nói, Hoàng đế hiện nay là kẻ xấu, bọn họ giúp Hoàng đế, chắc không phải là người tốt, nhưng tiểu cô nương này cũng không thể nói là không tốt”. Lữ Tứ Nương nói: “Thế là đúng, bọn họ giúp Hoàng đế giết nhiều người tốt”. Rồi kể việc năm xưa Song ma đã đến núi Thái Hànggiết các nghĩa sĩ chống Thanh, lấy đầu người làm tiệc. Độc Long Tôn Giả đã hồi phục tính người, nghe thế cảm thấy dựng tóc gáy. Lữ Tứ Nương nói: “Cho nên không thể vì một chuyện tốt nhỏ mà che giấu được chuyện xấu lớn, cũng không thể vì một chuyện xấu nhỏ mà làm hoen ố chuyện tốt lớn”. Độc Long Tôn Giả tuy không thể hoàn toàn hiểu nhưng cũng cảm nhận được lý lẽ đó. Lữ Tứ Nương lại nói: “Có một chuyện ông vẫn chưa biết, người nhà của tiểu cô nương này là do Song ma sai người hại chết. Chính Song ma đã bắt cóc mẹ của tiểu cô nương này”. Độc Long Tôn Giả buộc miệng kêu: “Đáng chết, đáng chết!” Phùng Anh nói: “Tôi không hề biết Bát tuý thần ma có chút thiện lương, nếu biết đã không giết ông ta”. Lữ Tứ Nương nói: “Còn có một việc mà ông vẫn chưa biết!” Độc Long Tôn Giả nói: “Việc gì?” Lữ Tứ Nương trả lời: “Nửa cây chi thảo cứu mạng ông vốn là Ngư Xác tặng cho tiểu cô nương này. Tiểu cô nương dùng để cứu người thân của nàng. Người thân của nàng bị Hoàng đế lừa uống phải rượu độc, chẳng còn thuốc trị, chỉ còn trông mong vào cây chi thảo này. Người này chính là y”. Rồi chỉ Đường Hiểu Lan, nói: “Y chấp nhận cho ông, tiểu cô nương biết cũng không hề oán trách”. Độc Long Tôn Giả nghe thế ngẩng người, bất giác bưng mặt rơi nước mắt.


Trong hơn mười ngày này, Ngư Xác đốc thúc mọi người đóng thuyền, sau khi Độc Long Tôn Giả đã khỏe hẳn lại, bọn Lữ Tứ Nương mới từ biệt y. Độc Long Tôn Giả quyến luyến không nỡ rời, chợt quỳ xuống hành đại lễ với bọn bốn người Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì, Đường Hiểu Lan, Phùng Anh, mọi người vội vàng đỡ y đứng dậy. Độc Long Tôn Giả chỉ lên trời thề rằng: “Ta đã sống quen ở đây, không thể ra ngoài được nữa, nhưng ta thề rằng mỗi năm sẽ cứu mười người bị bệnh hủi, mỗi năm ra ngoài ba tháng đưa những người bị bệnh hủi về đảo. Sau khi trị xong sẽ đưa trở về đất liền. Các người đừng nghĩ rắn độc của ta là hung dữ, bọn chúng là thánh dược chữa bệnh hủi”. Lữ Tứ Nương chấp tay nói: “Lành thay, lành thay! Tôn giả có ý nghĩ này thật là tốt, nhưng cũng không cần hạn trong mười người, cứ cố gắng làm là được”.


Mọi người rời khỏi Xà đảo, dông buồm trở về đất liền, khi nhắc đến chuyện Độc Long Tôn Giả, ai nấy đều khâm phục Lữ Tứ Nương nhìn xa trông rộng.


Thuyền đi hai ngày, vòng qua hòn đảo mà hai người Đường Phùng ở trước kia, trên đảo trọc lóc cây cối, chỉ có mảng cỏ xanh mới mọc. Đường Hiểu Lan tựa mạng thuyền trông xa, nhìn cảnh nhớ lại chuyện lúc trước, chàng nhận thấy đó là những ngày tháng vui nhất, nay trở về đất liền, nỗi lo lại trở về, bất giác trong lòng rối bời. Lữ Tứ Nương bước tới cười nói: “Thế ngoại đào viên dẫu sao cũng là ảo mộng. Cõi trần thế huyên náo mới là quê hương. Đường huynh đệ cần gì phải quyến luyến không rời?” Đường Hiểu Lan cố gượng cười, nhưng mặt vẫn rầu rĩ. Chỉ có Phùng Anh là vô tư, cảm thấy bên cạnh thúc thúc là đã thỏa lòng, mặc cho là cõi đào nguyên thế ngoại hay trần thế ồn ào!


Đi mấy ngày nữa, đã đến biển Hoàng Hải, Ngư Xác đứng nhìn những hòn đảo ẩn hiện ở phía xa, đó đều là cơ nghiệp của mình truớc kia, thế mà nay chỉ có thể đứng nhìn từ xa. Nhớ lại trước kia mình xưng vương tựa như một cơn ác mộng, nước mắt không khỏi tuôn trào. Bạch Thái Quan bước đến an ủi, Ngư Xác chỉ đáp rằng: “Ta lúc tuổi già mà được con gái và con rể hầu hạ bên cạnh, còn hơn cả xưng vương ngoài biển! Ta còn lo gì nữa? Lúc nãy chỉ là đứng từ xa nhìn các thủy trại, đau lòng vì các huynh đệ tử nạn, cũng hối hận vì tỉnh ngộ quá muộn”.


Qua khỏi Hoàng Hải, suốt quãng đường thuận buồm xuôi gió, sau khi lên bờ, mọi người lại cải trang vào kinh đô. Đến kinh đô đã sau tiết Đoan Dương, Cam Phụng Trì đưa mọi người đến ở trọ tại nhà một người quen, hỏi đến những chuyện gần đây mới biết Niên Canh Nghiêu từ sau khi đánh Ngư Xác trở về đã đến Thanh Hải. Các bối lạc lớp thì bị giết, lớp thì bị đày đi nơi xa hoặc bị cắt hết vây cánh, chẳng còn sức lực chống chọi. Ung Chính chiêu tập võ sĩ, xây dựng cung điện, chọn tú nữ để điểm tô cho cái không khí gọi là “thăng bình”.


Ngày hôm sau Lữ Tứ Nương đến bái phảm một danh y, danh y này họ Diệp, là bằng hữu của Lữ Lưu Lương, y thuật tinh thông trên đời có một không hai, chỉ là tính tình quái dị, bình thường lấy việc đọc sách làm vui, không dễ dàng trị bệnh cho người ta, không ngờ đến nơi mới biết ông ta vì không chịu trị bệnh cho kẻ quyền quý nên suýt nữa đã bị tống giam vào ngục, may mà được người ta báo tin nên đã bỏ trốn.


Phùng Anh nghe thế rầu rĩ. Lữ Tứ Nương khảng khái nói: “Để ta vào cung xem thế nào?” Đường Hiểu Lan khuyên mãi không được, Lữ Tứ Nương nói: “Tên Ung Chính này là kẻ thù của nhà ta, lần này ta vào cung cũng là một công đôi chuyện. Nếu có cơ hội ta sẽ giết chết y”. Cam Phụng Trì khuyên nàng cẩn thận, Lữ Tứ Nương vẫn kiên quyết ra đi. Phùng Anh cũng muốn đi theo, Lữ Tứ Nương biết nàng khinh công cao xiêu nên cũng gật đầu chấp nhận. Cam Phụng Trì hẹn với hai người nếu canh năm không trở về thì chàng sẽ cùng mọi người đại náo hoàng cung.


Đêm đến, bọn Cam Phụng Trì ngồi đợi ở nhà, đến canh bốn, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã nhẹ nhàng hạ xuống sân, dưới ánh trăng mờ sau thưa, chỉ thấy hai người trên mình toàn là máu. Cam Phụng Trì hỏi đến, Lữ Tứ Nương thở dài: “Tên cẩu hoàng đế này phòng bị rất nghiêm ngặt, võ sĩ ở khắp nơi. Chúng tôi vào cung không bao lâu thì đã bị phát hiện nếu không nhờ tuyệt kỹ của sư môn, suýt nữa đã không thoát!” Phùng Anh mừng rỡ nói: “Lữ tỉ tỉ đúng là lớn gan, chúng tôi đã bị bao vây, cũng nhờ tỉ tỉ mở đường chúng tôi mới thoát được”. Cam Phụng Trì nói: “Các người có gặp Ung Chính không?” Phùng Anh nói: “Có gặp! Y đứng từ xa bảo Đường thúc thúc chỉ còn bảy ngày nữa, nếu không vào cung sẽ chết chắc”. Cam Phụng Trì lẩm bẩm: “Bảy ngày, chỉ còn bảy ngày?” Phùng Anh nghẹn ngào nói: “Đúng thế, chỉ còn bày ngày, làm thế nào đây?” Đường Hiểu Lan chợt từ phòng trong bước ra, cười thảm nói: “Mọi người đừng nhọc lòng vì tôi nữa. Cam đại hiệp, cầu xin huynh làm cho tôi một chuyện”.


Chính là:


Thù chung tình riêng đôi đường khó, chả lẽ hoàng thổ chôn anh hùng.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 37

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 37 Gửi lời đưa di thư tình sầu miên man Xả thân toan cứu nạn tâm lực uổng phí


Cam Phụng Trì nói: “Đường huynh đệ cứ nói”. Đường Hiểu Lan trả lời: “Tôi có một bức di thư nhờ Cam đại hiệp gửi cho ân sư Dương Trọng Anh”. Cam Phụng Trì nói: “Còn bảy ngày nữa, có lẽ sẽ còn cách, Đường huynh yên tâm đừng nghĩ ngợi nhiều”. Đường Hiểu Lan cười khổ nói: “Sống chết đã có số, sức người chẳng thể nào cứu vãn được. Chi bằng cứ sắp xếp chuyện hậu sự trước để khỏi làm lỡ chuyện của người ta”. Cam Phụng Trì không biết chuyện giữa Đường Hiểu Lan và Dương Liễu Thanh đã đến mức chẳng thể nào cứu vãn nổi, nói: “Chỉ e thời gian bảy ngày quá ít, không thể mời Dương lão tiền bối đến kinh sư”. Cam Phụng Trì còn tưởng rằng Đường Hiểu Lan muốn gặp mặt cha con Dương Trọng Anh trước khi chết. Đường Hiểu Lan nói: “Ân sư đã bị trúng ám khí của Đường Gia Tứ Xuyên, nay đã tàn phế, không thể mời người đến được. Tôi chỉ muốn trước khi chết, xóa bỏ hôn ước để khỏi làm lỡ dở tuổi thanh xuân của Liễu Thanh”.


Cam Phụng Trì còn đang định an ủi. Lữ Tứ Nương nói: “Cứ để y viết. Nếu y đã có ý này, không để y làm trái lại khiến y càng thêm lo”. Cam Phụng Trì nghe thế cũng đành thôi.


Đường Hiểu Lan về phòng viết di thư, Phùng Anh đứng nhìn theo mà nước mắt tuôn trào.


Lữ Tứ Nương nắm tay nàng, dắt ra giữa sân, Phùng Anh chợt nói: “Vì trả ơn lớn mà liều thân theo kẻ thù có phải là thất tiết hay không?” Lữ Tứ Nương chưng hửng, nói: “Không, nhưng cần gì phải làm thế?” Phùng Anh nói: “Giờ đã là lúc sơn cùng thủy tận...” Lữ Tứ Nương nói: “Nhưng không chừng sẽ liễu rậm hoa thưa... Ồ, ai thế?” Lữ Tứ Nương chưa nói xong, chợt trên mái nhà của tiếng cười ha hả, Cáp Bố Đà và một Lạt ma mặc tăng bào màu đỏ đột nhiên xuất hiện, cao giọng nói: “Ngự chỉ của Hoàng thượng đến, mời Đường đại hiệp và Lâm quý nhân mau vào cung!” nói xong thì nhảy xuống sân, đưa mắt nhìn xung quanh.


Lạt ma mặc áo đỏ này tên gọi là Ngạch Âm Hòa Bố, là đại Lạt ma của Hồng giáo, Ung Chính tôn Lạt ma là quốc giáo, từ sau khi Liễu Ân chết đi, Ung Chính cần phải tìm người khác bù vào, Ngạch Âm Hòa Bố có võ công cao nhất trong Lạt ma Hồng giáo, võ công và khinh công chẳng kém gì Liễu Ân. Ung Chính phong y làm đại quốc sư, ban cung Ung Hòa cho y.


Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đại náo hoàng cung, khi Ngạch Âm Hòa Bố đến, bọn họ đã chạy ra khỏi cung, y và Cáp Bố Đà đuổi theo, tuy không kịp nhưng khoảng cách không quá xa, bọn chúng bám theo nên đã phát hiện nơi ở của họ.


Đường Hiểu Lan ngồi trong phòng viết di thư, chợt nghe Cáp Bố Đà kêu lớn “tuyên chiếu” thì chợt cả giận, nhảy ra mắng: “Ta thà chết chứ không chịu nhục, ngươi muốn ta vào cung cầu khẩn, đừng hòng, cút đi cho ta!” Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thế thì quá lợi cho y! Hiếm có dịp Cáp tổng quản đến đây, chúng ta hãy mời y ở lại!” Cam Phụng Trì nghe thế, biết dụng ý của Lữ Tứ Nương là muốn bắt Cáp Bố Đà để đổi thuốc giải. Rồi vung tay vỗ ra hai chưởng, Cáp Bố Đà tiếp một chiêu, mỗi bên thoái lui ba bước. Ngạch Âm Hòa Bố cười lạnh: “Tiểu tử không biết trời cao đất dày, các ngươi dựa vào cái gì mà giữ người?” Lữ Tứ Nương lách người, đâm soạt ra một kiếm như điện chớp vào yết hầu của y, quát: “Dựa vào thanh kiếm này!”


Nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố chợt lướt qua, quét cây phất trần trong tay một cái, cuộn vào thanh kiếm của Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương hơi thất kinh, chợt lắc người thừa thế vặn một cái, liên tục chém ra ba nhát kiếm, Ngạch Âm Hòa Bố vẫn đứng yên, cây phất trần quét trái múa phải, tiếp liên tục ba chiêu. Hai người đều dùng võ công thượng thừa lao vào nhau, chẳng ai nhường ai. Ngạch Âm Hòa Bố muốn đoạt thanh kiếm của Lữ Tứ Nương, đương nhiên không thể; Lữ Tứ Nương muốn giết chết y cũng không được!


Cáp Bố Đà và Cam Phụng Trì công lực đều như nhau, chẳng ai kém ai, lúc này đã đọ nhau hơn hai mươi chiêu. Đường Hiểu Lan rút cây Du Long kiếm xông lên trợ chiến. Cáp Bố Đà cười ha hả: “Chất độc trong người của ngươi đã bắt đầu phát tác, ngươi muốn chết sớm hơn ư?” Phùng Anh kéo Đường Hiểu Lan nói: “Thúc thúc hãy lui xuống, Anh nhi có chủ ý”. Đường Hiểu Lan thở dài, bụng chợt thấy đau nhói, chỉ đành lui vào bên trong. Ngạch Âm Hòa Bố và Lữ Tứ Nương đọ nhau bảy mươi chiêu mà chẳng phân thắng bại, Phùng Anh rút phắt thanh đoản kiếm định xông đến tương trợ, chợt nghe Ngạch Âm Hòa Bố hú dài một tiếng, trên tường đã xuất hiện bốn Lạt ma Hồng giáo, tất cả đều mặc tăng bào màu đỏ, đầu đội mũ sừng trâu màu đen, trông rất chói mắt. Cáp Bố Đà lại quát: “Rượu mời không uống mà muốn uống rượu phạt? Lâm quý nhân, ngươi có nghe Hoàng thượng tuyên chiếu hay không?”


Phùng Anh cầm kiếm phóng lên, bốn Lạt ma đều nhảy xuống, Phùng Anh kêu: “Các người đừng hòng vô lễ, ta sẽ cùng các người vào cung!” Cam Phụng Trì nghe thế cả kinh, kêu lên: “Cái gì? Sao Phùng cô nương lại làm thế?” Cáp Bố Đà nói: “Còn Đường Hiểu Lan? Hoàng thượng muốn cả hai người”. Phùng Anh đã chạy về phía bọn Lạt ma, lớn giọng đáp: “Ta sẽ nói rõ với Hoàng thượng. Ngươi là cái thá gì mà dám lên tiếng?” Cáp Bố Đà vội nói: “Vâng, vâng, nô tài sẽ cùng quý nhân vào cung”. Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương định đến chặn lại nhưng vì kẻ địch quá mạnh, Phùng Anh đã cùng bốn Lạt ma phóng qua vách tường.


Đường Hiểu Lan nghe rất rõ ràng, trong lòng đau đớn chạy ra, kêu lớn: “Anh muội! Anh muội!” Phùng Anh từ bên ngoài nói vọng vào: “Đường thúc thúc, hãy quay vào. Anh nhi sẽ lấy thuốc giải cho người!” giọng nói và bước chân dần xa, Đường Hiểu Lan cố nén cơn đau nhảy lên tường, Ngạch Âm Hòa Bố quát: “Ngươi đến thật đúng lúc! Hãy đi theo ta!” rồi y phóng vọt lên, cây phất trần từ trên không trung cuốn xuống, Đường Hiểu Lan chém xéo thanh kiếm, chợt cảm thấy một luồng kình phong quét tới, suýt nữa thanh bảo kiếm đã vuột khỏi tay, Ngạch Âm Hòa Bố vung tay trái, năm ngón chụp xuống, Đường Hiểu Lan không chống đỡ nổi té xấp xuống vách tường. Ngạch Âm Hòa Bố lao theo, Lữ Tứ Nương vung kiếm chặn lại, chỉ trong chớp mắt, đôi bên lại đổi nhau mười chiêu. Cáp Bố Đà nói: “Lâm quý nhân đã vào cung, cần chi phải dằn co với bọn chúng?” rồi rút đôi chùy Lưu Tinh phóng ra khỏi vách tường, Ngạch Âm Hòa Bố thầm nhủ: “Nếu cứ đánh nữa cũng chưa chắc chiếm được phần hơn”, cao thủ trong cung vẫn chưa đến, lúc nãy chỉ là bốn tên đồ đệ của y, bản lĩnh cũng có hạn cho nên thấy thế y phóng vọt ra ngoài.


Cam Phụng Trì tức tối nói: “Sao Phùng cô nương lại trẻ con đến thế? Tôi không tin Hoàng đế sẽ trao thuốc giải!” Lữ Tứ Nương thở dài: “Phùng Anh vốn là trẻ con, đó gọi là có bệnh vái trăm nơi, nàng không còn cách nào nữa chỉ đành làm thế”. Cam Phụng Trì nói: “Tuy là thế, nhưng lần này chỉ e nàng đã tự đưa thân vào miệng hùm, chẳng được ích gì!” Đường Hiểu Lan lo lắng trong lòng, nói: “Dù sao tôi cũng sẽ chết, chi bằng cứ để tôi vào cung”. Cam Phụng Trì nói: “Một người nộp mạng vẫn chưa đủ sao?” Đường Hiểu Lan trả lời: “Nàng đã liều mạng vì đệ, đệ còn mặt mũi nào sống trên cõi đời này?” Cam Phụng Trì nghe thế, bất giác ngạc nhiên, lúc này mới nhận ra điều khác lạ. Lữ Tứ Nương mỉm cười: “Hiểu Lan, đệ đừng suy nghĩ gì nữa. Thất ca, chúng ta phải tìm cách khác. Nơi này không thể ở lâu!”


Lại nói Cáp Bố Đà và Ngạch Âm Hòa Bố dắt Phùng Anh về cung, lúc đó trời mới hửng sáng, Hoàng đế lên triều chưa quay về. Cáp Bố Đà giao Phùng Anh cho bọn cung nha trang điểm, còn mình ở bên ngoài canh giữ. Phùng Anh cố nén cơn giận, cứ để mặc cho bọn cung nha tô son điểm phấn cho nàng. Phùng Anh chẳng nói một lời, chỉ có điều không cho bọn cung nha lấy thanh đoản kiếm của mình mà vẫn giấu trong lòng.


Hôm nay chính sự rất nhiều, Ung Chính xử lý xong xuôi đã đến gần trưa. Nghe Ngạch Âm Hòa Bố và Cáp Bố Đà vào bẩm rằng Lâm quý nhân tự động về cung, trong lòng cả mừng, lập tức cho gọi.


Một chốc sau, bốn ả cung nha dắt Phùng Anh vào. Ung Chính vừa gặp đã cười ha hả: “Một năm không gặp mà nàng lại xinh đẹp đến thế!” Phùng Anh nổi giận nhưng chưa vội phát tác. Ung Chính lại cười nói: “Mỹ nhân, sao nàng lại không lên tiếng?” rồi bảo với bọn cung nha: “Cuộn tay áo của nàng lên, để trẫm xem thử dấu thủ cung sa của nàng có còn hay không?” Hai ả cung nha định ra tay, Phùng Anh đã vung tay, hai ả kêu ối cha một tiếng văng ra hơn một trượng. Phùng Anh tức giận nói: “Ngươi làm gì thế?” Ung Chính trả lời: “Sau khi tra xét, trẫm mới có thể phong nàng làm quý phi!” Phùng Anh nói: “Ngươi không chịu trao thuốc giải trước cho ta, đừng hòng ta nghe theo!” “Đúng thế. Đường thúc thúc của nàng đâu? Tại sao y không đến cầu xin ta?” “Người là trang hán tử, sao có thể cầu xin ngươi! Ngươi không muốn trao thì thôi”. “Nếu trao thì thế nào?” “Nếu trao ta sẽ ở lại cung làm nô tì cho ngươi”. Ung Chính vui mừng nói: “Đâu cần nàng chịu thiệt thòi làm nô tì, nàng sẽ là quý phi”. Rồi đổi sắc hỏi: “Nếu không cho thì sao?” “Thì ta sẽ liều với ngươi, quyết không để ngươi làm nhục!”


Ung Chính đảo mắt, cười ha hả: “Được, nể mặt nàng, ta sẽ trao thuốc giải. Cáp Bố Đà...” Cáp Bố Đà và Ngạch Âm Hòa Bố đang đứng chờ bên ngoài, nghe Hoàng đế kêu mới vâng một tiếng, Ung Chính nói lớn: “Ngươi không cần vào. Ngươi hãy mau chóng đem thuốc giải đến cho Đường Hiểu Lan. Bảo y mau mau ra khỏi kinh, không được làm khó y”. Cáp Bố Đà trả lời: “Nô tài tuân lệnh!” rồi bước ra khỏi cung, bước chân cố ý dặm mạnh như để Phùng Anh nghe thấy.


Ung Chính mỉm cười nói: “Thế nào? Vua không nói chơi, nàng cũng phải giữ lời!” rồi đưa tay kéo Phùng Anh, Phùng Anh trừng mắt phất ống tay áo đánh bốp một tiếng vào ngực Ung Chính, Ung Chính dù võ công cao cường cũng cảm thấy đau nhói nên vội vàng tránh sang, quát: “Thế nào? Ngươi muốn nuốt lời? Cáp Bố Đà vẫn chưa ra khỏi cung, ngươi nuốt lời e rằng đã quá sớm, ta lập tức sai người gọi y trở về”.


Phùng Anh nói: “Chúng ta nói câu nào tính câu ấy, nhưng ngươi không được giở trò!” Ung Chính nói: “Sao lại có lẽ này, cả trẫm mà ngươi cũng không tin?” “Không phải là không tin. Ai biết ngươi có phải đem thuốc giải đến cho Đường thúc thúc hay không? Ta phải chờ tin của Đường thúc thúc, biết người đã hoàn toàn khỏe ta mới chịu theo ngươi. Giờ ngươi muốn gạt ta là không được! Ngươi tưởng ta là trẻ con?”


Ung Chính thấy nàng quả thật lợi hại nên không dám liều tiến tới, chỉ nhíu mày rồi nảy ra một kế, cười rằng: “Nếu ngươi cứ đòi biết tin tức của Đường Hiểu Lan, trẫm sẽ đem về cho ngươi”. Phùng Anh nói: “Ngươi còn ở đây làm gì? Có tin của người, ngươi hãy đến gặp ta”. Ung Chính nói: “Hừ, phách lối thật!” Ung Chính mặt lạnh như sương, lui ra khỏi cung.


Phùng Anh tuy không nhiều kinh nghiệm, nhưng từ lâu đã có lòng đề phòng Hoàng đế, bọn cung nha đưa thức ăn xuống, nàng đều đòi chúng thử trước rồi mới nếm sau, Ung Chính có mưu đồ khác cho nên không hề bỏ thuốc mê vào cơm canh.


Bất giác lại đến tối, trong cung đèn đuốc sáng trưng, Ung Chính lại bước vào. Phùng Anh, nghiêm mặt hỏi: “Ngươi có đưa thuốc giải hay chưa? Đường thúc thúc của ta có tin tức gì không?” Ung Chính nói: “Có!” Phùng Anh vừa mừng vừa lo, nói: “Thế nào?” Ung Chính nói: “Người đâu!” bên ngoài kêu vâng một tiếng, Ngạch Âm Hòa Bố đẩy cửa bước vào, trong tay cầm một bức thư.


Phùng Anh giật mình, thầm nhủ: “Sau khi xong thư, mình sẽ liều mạng!” nàng đã sớm có ý xem xong thư sẽ rút kiếm tự sát.


Ung Chính nói: “Đưa bức thư cho Lâm quý nhân đọc!”. Ngạch Âm Hòa Bố từ từ bước đến gần, Phùng Anh run bần bật, đưa tay định nhận thư, chợt nghe Ung Chính quát lớn: “Phế võ công của ả!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Ngạch Âm Hòa Bố lật tay, trong bức thư có dấu một cây ngân châm, lúc này cây ngân châm lấp lánh đã đâm về phía Phùng Anh. Biến cố ấy quá bất ngờ khiến Phùng Anh không thể đề phòng, nàng đành liều mạng vỗ nhanh hai chưởng kêu lên vù vù vào người của Ngạch Âm Hòa Bố, nhưng trên người cũng đã trúng mấy cây ngân châm của y.


Đó là cạm bẫy của Ung Chính, số là Ngạch Âm Hòa Bố có một loại võ công độc môn, có thể dùng ngân châm đâm vào huyệt cách một lớp áo, hóa giải khí chân nguyên của kẻ địch, dù có võ công cao cường đến mức nào cũng bó tay. Khi bị trúng châm phải luyện vài ba năm mới hồi phục. Nhưng loại võ công này rất khó vận dụng khi đánh nhau với cao thủ, chưởng thể dùng để ám trán hoặc dùng để tra tấn tù binh. Ung Chính biết Phùng Anh không chịu nghe theo bởi vậy phải dùng độc châm này!


Ngạch Âm Hòa Bố đột kích tuy thành công nhưng cũng trúng hai chưởng của Phùng Anh, Thiên Sơn chửơng pháp lợi hại phi phàm, khoảng cách lại quá gần, hai chưởng đánh trúng vào chỗ yếu hại, dù Ngạch Âm Hòa Bố võ công cao cường đến thế nhưng cũng không chống cự nổi, y chỉ cảm thấy ngực đau nhói, vội vàng vận khí cho máu lưu thông lại. Ung Chính nói: “Được, không có việc của ngươi nữa, cho ngươi nghỉ ngơi ba ngày!”


Phùng Anh bị đâm mấy cây châm, cảm thấy như kiến cắn vào người. Chỉ nghe Ung Chính cười ha hả: “Lâm nha đầu, từ rày về sau nàng hãy ở trong cung hưởng vinh hoa phú quý, không cần dùng võ công nữa. Nào, chúng ta hãy gần gũi với nhau!”


Phùng Anh trợn mắt, Ung Chính cười gằn nói: “Ngươi đã mất hết võ công, còn làm hung cho ai coi? Nào, xem thử thủ cung sa của ngươi có còn hay không?” rồi sờ vào cánh tay của Phùng Anh.


Phùng Anh chợt thất kinh, thầm nhủ: “Chả lẽ y đâm bừa mấy cây châm mà võ công của mình hoàn toàn chẳng còn?” nàng vốn đã muốn liều chết, mặc cho võ công có còn hay không, nàng đỡ tay đánh bốp một tiếng, Ung Chính kêu ối chao một tiếng, hai cái răng rớt ra, nửa bên mặt sưng vù lên.


Ung Chính thất kinh, thế này đâu có giống đã mất võ vông? Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, Phùng Anh rút soạt thanh kiếm đâm tới, Ung Chính phất tay áo đánh soạt một tiếng, ống tay áo đã bị cất mất một đoạn, Ung Chính rút thanh kiếm đánh keng một tiếng, hai kiếm chạm nhau, mỗi bên thoái lui mấy bước, hai thanh bảo kiếm đều mẻ một miếng. Võ công của Phùng Anh chẳng hề mất, Ung Chính thầm mắng trong bụng: “Ngạch Âm Hòa Bố khốn kiếp, sao lại thế này?” Phùng Anh đâm soạt soạt mấy kiếm, Thiên Sơn kiếm pháp tinh diệu tuyệt luân, Ung Chính bị nàng đánh đến tay chân luống cuống, vội kêu lớn: “Người đâu!”


Té ra không phải thủ pháp của Ngạch Âm Hòa Bố mà chính xác mà bởi Phùng Anh có mặt bộ nhuyễn giáp, bộ nhuyễn giáp này đao thương còn chẳng đâm vào được huống chi là ngân châm. Phùng Anh lại học nội công của chính phái, hễ nàng bị đánh lén, cơ bắp sẽ tự lõm vào trong, khi đâm Ngạch Âm Hòa Bố lại không dám dùng lực, chỉ đâm sao cho nàng mất võ công mà thôi.


Ung Chính kêu mấy tiếng, hai tên võ sĩ canh gác bên ngoài lên tiếng trả lời. Lúc này Ung Chính mới nhớ Ngạch Âm Hòa Bố đã quay về nghỉ ngơi, Cáp Bố Đà ra ngoài chưa về, bọn vệ sĩ bên ngoài chẳng phải là đối thủ của nàng nên càng lo lắng.


Ung Chính lo lắng, Phùng Anh cũng e ngại. Nàng liên tục đánh mấy chiêu mà vẫn không đắc thủ, thầm nhủ: “Nếu Đường thúc thúc chưa nhận được thuốc giải, mình liều chết cũng chẳng có ý nghĩa gì, trước khi chết mình phải gặp người một lần”. Bên ngoài tiếng bước chân càng gần hơn, chợt nàng đánh một chiêu kinh lôi thiển điện, đã lôi Ung Chính rồi phóng vọt ra cửu sổ!


Hai tên võ sĩ vừa đuổi tới, Phùng Anh tiện tay đâm ra hai nhát kiếm, giết chết được một tên rồi phóng ra ngoài, Ung Chính kêu lớn: “Mau thổi cảnh hiệu, bắt ả nha đầu lại!” Phùng Anh chạy ra ngự hoa viên, nghe tiếng tiêu nổi lên xung quanh, bóng đen từ bốn phía chạy tới, nàng lại không thông thuộc đường lối trong cung, chỉ đành chạy bừa trong những nơi tối tăm.


Rồi nàng chạy đến một hồ sen, bên hồ có vách tường cao đến mấy trượng, gần vách tường có một căn phòng cửa sắc, ở cửa có một cửa sổ nhỏ, một tên thái giám đang đúc thức ăn vào cửa, y nói vọng vào: “A Kỳ Na, mau tọng cho no bụng, lão tử không rảnh hầu ngươi!” Phùng Anh thầm nhủ: “Người bị nhốt bên trong chắc là phạm nhân. A Kỳ Na có nghĩa là gì? Có phải là tên của phạm nhân không?” tiếng bước chân sau lưng càng lúc càng gần. Một ý nghĩ chợt nảy lên trong đầu Phùng Anh, nàng cầm kiếm đâm chết tên thái giám ấy, kéo xác y ném xuống hồ sen rồi chặt đứt dây xích bên ngoài cửa, đẩy cửa bước vào.


Trong bóng tối chợt nghe có người gằn giọng: “Đến đây! Ngươi là cung nữ của cung nào?” người này ở lâu trong hắc lao, mắt đã nhìn quen bóng tối, cho nên đã thấy được mặt của Phùng Anh; Phùng Anh lại không thấy y. Nàng thầm nhủ: “Y đã bị Hoàng đế nhốt ở đây, chắc chắn là người tốt”. Lớn giọng nói: “Ngươi đừng lo, ta đến cứu ngươi!” trong bóng tối chợt vang lên tiếng cười quái dị, một luồng kình phong quét tới, Phùng Anh đau nhói ở vai, té ra đã bị người ấy chụp trúng, nàng chợt trầm vai xuống thoái lui mấy bước, người ấy kêu ồ một tiếng: “Ngươi không phải là cung nữ ư?” tiếp theo lại nghe tiếng gông cùm va vào nhau, té ra người này đã bị khóa vào gốc tường, không thể di chuyển.


Phùng Anh thầm nhủ: “Sao người này lại hung hăng như thế” người ấy lại quát: “Ngươi đã nói đến cứu ta, tại sao không đến đây?” Phùng Anh liên thanh đoản kiếm, vừa ngắm hàng quang nheo mắt nhìn, chỉ thấy đầu bù tóc rối, đôi mắt lộ ra, nếu nàng là người tầm thường đã bị y dọa chết. Người ấy lại kêu: “Trong tay ngươi có phải cầm thanh bảo kiếm không? Mau, hãy chặt gãy gông cùm!” Phùng Anh hơi chần chừ, chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân, người ấy lại tức giận nói: “Ngươi có đến đây hay không? Không đến ta đánh chết ngươi, ngươi đừng tưởng ta không thể di chuyển, xem đây!” khi đang nói, ngón tay của y đã móc được hai hòn sỏi dưới đất, rồi y búng một cái đánh keng lên cánh cửa sắc, ánh ra một tia lửa, rồi cười khằng khặc nói: “Ngươi có dám chạy hay không?”


Phùng Anh cảm thấy bực mình, lớn giọng nói: “Ta không phải sợ ngươi mà đến cứu ngươi, ta thấy ngươi bị cẩu hoàng đế giam giữ nên muốn cứu ngươi thế thôi!” người ấy lại kêu ồ một tiếng, nói: “Được, hãy cứu ta!” Phùng Anh nhảy vọt tới, liên thanh bảo kiếm lên, chỉ trong chớp mắt gông cùm trên tay chân người ấy đều bị chặt gãy cả. Người ấy khen: “Đúng là bảo kiếm!” tiếng bước chân đã đến trước cửa căn nhà lao. Người ấy chợt nói: “Này, Ngạch Âm Hòa Bố có ở trong cung không?” Phùng Anh trả lời: “Có!” người ấy nói: “Trông ngươi võ công không kém, ngươi nhớ đấy, mệnh môn của Ngạch Âm Hòa Bố là huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy, ngươi dùng bảo kiếm đâm y!” Phùng Anh định hỏi huyệt Khảm Hỏa Ly vị Thủy trên cơ thể con người là chỗ nào, chợt nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo: “Ai đã mở cửa nhà lao?” lại có người kêu: “Xem kìa, trong hồ sen có cái xác nổi lên, ôi chao... đó chính là tên thái giám đưa cơm!” người ấy hoàn toàn chẳng hề để ý đến tiếng ồn ào bên ngoài, y vươn vai người kêu lên răng rắc, Phùng Anh nghe thế đã biết nội công của y đến mức đăng phong tạo cực, trong lòng tuy ghét y nhưng cũng lấy làm vui mừng vì có được cao thủ tương trợ. Đang định lên tiếng, người ấy trầm giọng nói: “Ngươi dùng bảo kiếm mở đường cho ta, ngươi có nghe hay không?” rồi y đưa tay đẩy nàng. Phùng Anh định lên tiếng trách y, chợt nghe bên ngoài có người kêu: “Bát bối lạc, Bát bối lạc? Thế nào, chả lẽ đã chạy rồi sao?” Phùng Anh thất kinh, người lách qua một bên. Chỉ nghe người ấy trầm giọng nói: “Ngươi đã biết thân phận của ta, ngươi giúp ta thoát nạn, ngày sau nếu lên ngôi báu, ta phong ngươi làm chính cung nương nương!”


Té ra người này là em trai của Ung Chính, tức là Bát bối lạc Dận Tự. Tuy y không nắm binh quyền trong tay như Dận Đề nhưng từ nhỏ y đã học võ công của Hồng giáo Lạt ma, lại có thần lực bẩm sinh, cho nên Ung Chính cũng rất e ngại. Ung Chính lên ngôi được một năm, cơ nghiệp đã vững mới dám ra tay đối với y. Y và Lạt ma Hồng giáo vốn có tình đồng môn, khi y còn là bối lạc, Ngạch Âm Hòa Bố là tâm phúc của y. Sau khi Ung Chính đoạt ngôi, đã âm thầm mua chuộc Ngạch Âm Hòa Bố, rồi lại dùng sức của Ngạch Âm Hòa Bố bất ngờ bắt giữ y. Lúc đó Ung Chính vẫn chưa hoàn toàn triệt bỏ vây đảng của các bối lác, sợ rằng giết y sẽ gây ra biến loạn cho nên chỉ tước vương hiệu của y, nhốt trong nhà đá, đổi tên y là A Kỳ Na, trong tiếng Mãn có nghĩa là “chó”. Mỗi ngày Ung Chính sai lấy thức ăn của chó đem đến cho y.


Phùng Anh bị Dận Tự uy hiếp dụ dỗ, cả giận hừ một tiếng: “Các người chó cắn chó, cốt nhục tương tàn chẳng liên quan gì đến ta. Ngươi đi đường ngươi, ta đi đường ta!” Dận Tự mắng: “Hay cho ả tiểu tiện nhân!” người bên ngoài cửa lao sợ Dận Tự sức mạnh thần dũng, không dám liều tiến vào, chỉ nghe bước chân càng lúc càng nhiều. Dận Tự chợt nói: “Được, chúng ta cùng giúp đỡ nhau xông ra, sau khi thoát nạn ai đi đường nấy!” Phùng Anh nói: “Được”.


Bên ngoài ánh lửa bừng sáng, tựa như đã có cao thủ tới, bọn họ đã bắt đầu vào hắc lao. Dận Tự mắt lộ hung quang, chợt nhảy bổ về phía trước, quát: “Cho ta mượn thanh bảo kiếm của ngươi!” Phùng Anh khinh công trác tuyệt, vốn đã có chuẩn bị trước nào để cho y ám toán, nàng lướt qua đỉnh đầu của y, Dận Tự xoay người lao bổ tới nhanh như kình phong, Phùng Anh lách người, đẩy Dận Tự bay ra ngoài cửa! Dận Tự tuy võ công cao cường nhưng không ngờ một tiểu cô nương lại có công phu nội gia thượng thừa, lập tức ngã chõng vó ở bên ngoài!


Phùng Anh thầm nhủ: “Mình vốn có ý tương trợ mà y lại ích kỷ đến thế”. Rồi rút thanh đoản kiếm nấp vào gốc tường. Chỉ nghe bên ngoài vang lên tiếng kêu cha gọi mẹ, té ra Dận Tự có công phu kim cương thủ thiết bố sam, bọn võ sĩ định hợp lực bắt giữ y, bị y vùng một cái, tiện tay tóm được hai tên ném xuống hồ sen! Lại nghe Cáp Bố Đà quát lớn: “A Kỳ Na, ngươi thật lớn gan, Hoàng thượng đã tha chết cho ngươi thế mà ngươi còn muốn bỏ chạy?” Dận Tự mắng lại: “Ngươi mới là A Kỳ Na, nếm một chưởng của ta!” bên ngoài có tiếng đánh nhau bốp bốp, tiếng chân đuổi theo tựa như Dận Tự đã xông ra khỏi vòng vây, Cáp Bố Đà xua quân đuổi theo!


Một hồi sau, tiếng người dần xa, Phùng Anh mới thở phào, thầm nhủ: “Bọn chúng cấu xé lẫn nhau, mình mới có cơ hội thoát hiểm”. Rồi nàng men theo vách tường lần dò ra ngoài xem thử. Bên ngoài có bóng người thấp thoáng, chợt có một người xông vào lao, Phùng Anh cúi người đâm một kiếm về phía người ấy, nhát kiếm này của Phùng Anh vừa nhanh vừa dữ, không ngờ đã hụt, thêm một kiếm, mũi kiếm đâm vào vách đá, trong nhất thời chẳng rút ra nổi!


Phùng Anh kinh hoảng, chợt nghe có người kêu nhỏ: “Phùng cô nương, đừng lo, hãy mau theo tôi”. Phùng Anh vận lực vào ngón tay rút thanh kiếm ra, nhìn lại thì ra đó là một ông già tóc bạc phơ, tay cầm gậy, trên người mặc quần áo của thị vệ. Phùng Anh giơ ngang kiếm phòng thủ, quát hỏi: “Ngươi đã lớn tuổi như thế này mà còn muốn bán mạng cho cẩu hoàng đế?” Phùng Anh tưởng rằng tên thị vệ già này sẽ bắt nàng đến gặp Ung Chính, ông già mỉm cười nói: “Khá lắm, cô nương tuổi còn nhỏ mà thật thông minh. Nhưng ai nói ta bán mạng cho cẩu hoàng đế?” Phùng Anh thấy y nói thế, ngạc nhiên hỏi: “Ông là ai?” ông già nói: “Tôi vâng lệnh Cam đại hiệp đến đón cô nương ra ngoài!” Phùng Anh không dám tin, nhưng vẫn nắm kiếm quyết. Ông già lại nói: “Cô nương có nghe tên của Hầu Tam Biến chưa? Đó chính là tôi!” Phùng Anh đã nghe Đường Hiểu Lan kể chuyện Hầu Tam Biến cứu mình, sau đó ra khỏi cung, đi theo Lãnh Thiền ẩn cư, nàng không khỏi vừa kinh vừa mừng, nói: “Ồ, té ra ông là Hầu bá bá”. Rồi nàng đút kiếm vào bao, bước lên thi lễ, chợt ông già lại vỗ một chưởng lên mặt nàng, thuận tay vuốt một cái, Phùng Anh chỉ cảm thấy nhớt nhúa, có mùi hôi thối, mắt hầu như chẳng mở ra nổi.


Nhưng chưởng này rất nhẹ nhàng, Phùng Anh chẳng hề thấy đau đớn, chỉ là Phùng Anh giật mình, chưa kịp rút kiếm ra khỏi bao, ông già đã nói: “Phùng cô nương đừng lo. Nếu không bôi một lớp bùn lên mặt, cô nương làm sao có thể thoát ra?” Phùng Anh thầm nhủ, võ công của ông già này rất cao cường, nếu đúng là áp toán, chưởng ấy có thể đánh vỡ cả đầu mình. Nàng tin rằng ông ta không có ác ý, ông già lại lau sạch tay, ném một cái tay nải nhỏ cho Phùng Anh, nói: “Thay bộ quần áo này vào”. Nói xong quay người đi.


Phùng Anh mở ra nhìn, thấy trong đó là một bộ quần áo thái giám, cười rằng: “Ông suy nghĩ thật chu đáo”.


Số là sau khi Phùng Anh vào cung, Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương đều rất lo lắng, suy đi nghĩ lại mới nhớ đến Hầu Tam Biến và Lãnh Thiền còn ẩn cư ở Tây Sơn, hai người này quen thân với một số thị vệ trong cung bởi vậy Lữ Tứ Nương với Cam Phụng Trì đã đến Tây Sơn nhờ giúp đỡ.


Phùng Anh đã thay xong quần áo, định theo Hầu Tam Biến ra ngoài, chợt nghe ở ngoài cửa lao lại có tiếng người, Phùng Anh định xông ra ngoài nhưng Hầu Tam Biến đã giữ nàng lại.


Người bên ngoài cửa kêu: “Lão Hầu, ngươi thật lớn gan!” Phùng Anh toát mồ hôi lạnh, chỉ nghe Hầu Tam Biến cười nói: “Lôi lão nhị, vào đây, bên ngoài thế nào rồi?” một lát sau, lại có một thị vệ già bước vào, trong tay cầm cây đuốc, vừa thấy Phùng Anh đã kinh hãi. Hầu Tam Biến nói: “Ta phải hộ tống vị tiểu ca này ra ngoài, ngươi có cách nào không?” người họ Lôi chính là kẻ đã giúp đỡ Hầu Tam Biến vào cung, y nói: “Té ra ngươi mạo hiểm vào cung là vì y hay sao?” trong lòng lấy làm lạ tại sao Hầu Tam Biến liều mạng vì một thái giám nhỏ. Y bước tới kéo Phùng Anh, Phùng Anh chợt rụt tay lại, thị vệ này thấy trên mặt nàng bùn đất lấm lem, cười rằng: “Té ra là một ả nha đầu. Này, lão Hầu, ả là ai thế?” Hầu Tam Biến nói: “Là quý phi Hoàng thượng mới phong!” thị vệ ấy kêu ối chao một tiếng, lúng túng nói: “Ngươi... ngươi đã gây ra chuyện lớn!” Hầu Tam Biến nói: “Đó không chỉ là quý phi Hoàng thượng mới phong mà là truyền nhân duy nhất của phái Thiên Sơn, là đệ tử cuối cùng của Dịch lão tiền bối!” người họ Lôi chưng hửng, bàng hoàng nói: “Ôi chao! Chả trách gì ngươi liều mạng đến thế. Té ra là vì cứu đệ tử của Dịch lão tiền bối”.


Hầu Tam Biến cười nói: “Lôi lão nhị, ngươi có muốn đi theo bọn ta không?” người họ Lôi nói: “Ở trong cung ăn cơm chờ chết, cũng chẳng có ý nghĩa gì, chi bằng đi theo ngươi cho xong”. Hầu Tam Biến nói: “Dận Tự thế nào rồi?” người họ Lôi trả lời: “Đang áp chiến loạn Cáp Bố Đà bên ngoài. Tây Hoa môn có ít binh lính, làm sao ngươi biết nàng trốn trong nhà lao?” Hầu Tam Biến nói: “Dận Tự luyện võ công của Hồng giáo, cái xác trong hồ sen có dấu tay, sau lưng lại không gãy, rõ ràng là không phải do y giết chết. Ngoại trừ nàng thì còn ai?” thế rồi ba người chạy ra khỏi nhà lao.


Hoàng cung rất rộng, binh lính trong cung đều chạy theo truy bắt Dận Tự bởi vậy việc lục soát Phùng Anh mới lơi lỏng, Hầu Tam Biến dắt Phùng Anh chạy ra cửa tây, đêm ấy trăng mờ sau thưa, họ lại mặc quần áo của thị vệ và thái giám, lại thêm có người họ Lôi dẫn đường cho nên dễ dàng chạy đến tây hoa môn.


Người canh Tây Hoa môn là Lôi Hải Âm, y vốn là đại đầu mục của Huyết Trích Tử, từ xa thấy Hầu Tam Biến chạy đến, tưởng là thị vệ trong cung, hỏi: “Này, nghe nói Dận Tự đã bị Cáp Bố Đà bắt sống, bên trong trời long đất lỡ, sao các ngươi lại không ở trong đó mà xem?” Hầu Tam Biến nói: “Bọn ta vâng lệnh đi bắt bè đảng của y, mau mở cửa ra”. Lôi Hải Âm nói: “Có văn thư không?” Hầu Tam Biến nói: “Đưa cho y!” Phùng Anh nhảy vọt tới trước, đột nhiên đâm ra một kiếm, Lôi Hải Âm là người năm xưa bắt Châu Thanh, võ công rất giỏi, Phùng Anh đâm tới một kiếm, y vội vàng lách qua, lớn giọng nói: “Mau bắt phản tặc!” Phùng Anh liên tục đâm ra ba nhát kiếm, Lôi Hải Âm dốc hết bản lĩnh mới tránh được hai hiêu.


Chiêu thứ ba là Minh Đà Thiên Lý, một tuyệt chiêu trong Thiên Sơn kiếm pháp, mũi kiếm xoáy một vòng, đâm ngược trở xuống, Lôi Hải Âm nhảy vọt lên trên, rút chân đã bị mũi kiếm đâm trúng thế là ngã chỏng vó xuống đất, Hầu Tam Biến lập tức chạy đến mở khóa, bất ngờ trên tường thành lại có hai người vọt xuống, người chưa đến, kiếm đã đâm tới, cả hai kiếm đều đâm vào cổ của Hầu Tam Biến, hai người này chính là Hải Vân hòa thượng và đồ đệ của y Long Mộc Công.


Nhát kiếm này của Hải Vân hòa thượng tụ hết công lực bình sinh của y, hiểm hốc lạ thường, y tưởng rằng nhát kiếm này có thể kết liễu kẻ địch. Nào ngờ Hầu Tam Biến cũng có công lực tinh thuần, thấy kiếm thế của y vừa dữ vừa mạnh, lập tức hạ người xuống, quyền phải đấm thẳng vào bụng của kẻ địch, quyền trái đá hất vào yếu huyệt thận môn của y. Hải Vân hòa thượng buộc phải lách người, lưỡi kiếm đi chệch qua một bên, đâm lướt qua cổ của Hầu Tam Biến.


Kiếm thế của Long Mộc Công thì hơi chậm hơn, y đâm xuống một kiếm đã hụt, đã định đổi chiêu đâm tiếp, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, kiếm của Phùng Anh đã đâm tới từ mặt bên, kiếm quang lóe lên, chỉ trong chớp mắt đã đánh mấy đòn sát thủ, Long Mộc Công tuy chẳng phải hạng tầm thường nhưng nào có thể chặn nổi Thiên Sơn kiếm pháp tuyệt diệu, không đầy năm chiêu, cổ tay đã bị thương, cây trường kiếm rơi keng xuống đất! Lúc này Hầu Tam Biến và Hải Vân hòa thượng đang đánh đến bất phân thắng bại. Phùng Anh múa kiếm như gió đâm tới, Hải Vân hòa thượng thấy thế vượt tường bỏ chạy. Hầu Tam Biến và Phùng Anh vội vàng mở cửa thành, chạy về phía cảnh sơn ở sau hoàng cung. Khi bọn lính đuổi tới, họ đã vượt qua cảnh sơn.


Bọn Cam Phụng Trì, Đường Hiểu Lan đang nóng lòng đợi ở Tây Sơn, đến sáng sớm hôm sau mới thấy Hầu Tam Biến và Phùng Anh trở về. Khi hỏi ra, Đường Hiểu Lan không khỏi toát mồ hôi lạnh. Lữ Tứ Nương mỉm cười: “Từ rày về sau muội muội không được làm càn nữa, muốn làm chuyện gì cũng phải bàn bạc với mọi người!” Phùng Anh rất xấu hổ, cúi đầu nói: “Đã khiến mọi người lo lắng”.


Phùng Anh ở trong cung một ngày một đêm, nay có thể thoát hiểm, nói ra thật may mắn. Nhưng như thế Đường Hiểu Lan chỉ có thể sống được năm ngày nữa. Phùng Anh nhớ đến điều này không khỏi lo lắng, hỏi Đường Hiểu Lan: “Huynh cảm thấy thế nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Cũng không sao cả, có điều sức ngày càng yếu”. Phùng Anh tuôn trào nước mắt, Đường Hiểu Lan cười nói: “Thật ra được chết như thế cũng là chuyện tốt. Trong thiên hạ có mấy người biết được ngày chết của mình”. Đường Hiểu Lan giả vờ tỉnh như không, Phùng Anh nghe xong càng đau lòng. Lữ Tứ Nương nói: “Anh muội, chưa đến mức phải tuyệt vọng, muội đi theo tỉ một chuyến”. Phùng Anh nói: “Dù nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, muội cũng đi theo”.


Chính là:


Đồi núi chập chùng tưởng hết lối, liễu rậm hoa thưa lại một thôn.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 38

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 38 Phí hết tâm cơ danh y giải kỳ chứng Dốc hết tinh lực diệu dược chảy về đông


Lữ Tứ Nương cười nói: “Không cần căng thẳng, tỉ chỉ muốn muội cùng đi mời danh y mà thôi”. Phùng Anh ngạc nhiên hỏi: “Mời danh y? Có phải là danh y họ Diệp không? Chẳng phải ông ta đã đi xa rồi sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Ông ta chỉ đến nhà Trần Khang ở huyện Hoài Nhu mà thôi”. “Huyện Hòai Nhu cách đây có xa không?”


“Cách đây khoảng hai trăm dặm, chúng ta có thể đi một ngày là tới nơi, hôm sau sẽ trở về”. Phùng Anh cả mừng, yên tâm ngủ một giấc, ăn xong cơm trưa thì cùng Lữ Tứ Nương lên đường.


Khi trời sụp tối họ đến Sương Bình, lúc này đã cách Hòai Nhu sáu mươi dặm. Họ dừng chân ở đây một đêm, hôm sau trời vừa tản sáng Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã thi triển khinh công chạy một mạch hơn ba mươi dặm, vào đến ranh giới huyện Hòai Nhu. Phùng Anh hít gió buổi sáng, người thấy thoải mái. Lữ Tứ Nương chỉ cánh đồng ở phía trước, nói: “Ở cuối cánh đồng kia có thôn Hoàng Trúc, nơi ông ta ẩn cư. Có lẽ đi thêm ba mươi dặm nữa”. Phùng Anh lo lắng nói: “Nghe nói danh y họ Diệp tánh tình rất quái dị, nếu ông ta không chịu chữa thì thế nào?” Lữ Tứ Nương trả lời: “Muội yên tâm, ông ta là bằng hữu của tổ phụ tỷ. Chúng ta cứ nói ra lai lịch, lẽ nào ông ta không thèm để ý đến”. Khi họ đang nói chuyện, chợt thấy phía trước có người rượt đuổi nhau, từ xa đã nghe tiếng quát tháo chém giết. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên, chợt kêu lên: “Anh muội, xem kìa!”


Phùng Anh nhìn theo hướng chỉ của Lữ Tứ Nương, thấy trong đám người dưới chân núi có một thiếu nữ, tuy nàng nhìn không rõ nhưng bóng dáng rất quen thuộc. Phùng Anh giật mình, đứng sững sờ. Lữ Tứ Nương nói: “Muội nhìn xem nàng ta hình như rất giống muội đấy!” Phùng Anh nói: “Ồ, đó chắc chắn là tỷ muội song sinh của muội! Chúng ta mau đuổi theo!” té ra cánh đồng ở dưới chân núi cách họ đến hai mươi dặm, đám người chợt tản vào sơn cốc, Phùng Anh định thần thầm nhủ: “Cứu Đường thúc thúc rất quan trọng, không thể phân thân đuổi theo nàng thiếu nữ ấy”. Rồi nàng chỉ đành thở dài, lẩm bẩm: “Lại bỏ qua một cơ hội”. Lữ Tứ Nương an ủi: “Đã biết nàng xuất hiện ở đây, chúng ta cứ mời danh y trước chữa cho Hiểu Lan rồi sẽ đi tìm cũng không muộn”.


Hai người lại xuống núi, băng ngang qua cánh đồng, khi đến thôn Hoàng Trúc, quả nhiên vẫn chưa đến trưa. Họ dò hỏi nhà của Trần Khang, nơi danh y họ Diệp ở nhờ. Nhà họ Trần ở phía Tây của thôn Hoàng Trúc, phía sau nhà có một vạt rừng trúc, trông rất uông nhã. Hai người đến trước cửa, thấy cửa lớn mở hé, bên trong có tiếng người ồn ào.


Lữ Tứ Nương gõ cửa mấy lượt mà không có người bước ra, bên trong tựa như đang cãi nhau, có người nói: “Bọn ta có ý tốt mời mọc, ông có đi hay không?” có người nói: “Y không chịu thì cứ trói lại!” Lữ Tứ Nương nói: “Không xong, chắc chắn có người buộc ông ta phải chữa bệnh!” Phùng Anh nói: “Chúng ta vào đuổi bọn người này đi”. Bên ngoài lại có tiếng người vọng ra: “Bọn ta đã biết ngươi nấp ở đây!” có người bảo: “Ngươi nhẫn tâm để cho huynh đệ của ta tàn phế hay sao?” Phùng Anh lòng lo như lửa đốt, kêu: “Bọn hung đồ chớ có cưỡng ép người!” rồi rút phắt thanh đoản kiếm lao vào bên trong.


Trong khách sảnh có bốn người đang bao vây một ông già. Phùng Anh vừa tới nơi, bốn người này chợt buông ông già chạy ra. Trong bốn người có ba đại hán cao lớn. Có một người là ông già trông rất hiền từ, không giống như hạng hung đồ. Ba đại hán cao lớn đồng thanh quát: “Ngươi đã đả thương huynh đệ của bọn ta lại còn muốn đuổi tận giết tuyệt?” Phùng Anh ngạc nhiên, ba người ấy đã rút binh khí hè nhau xông lên. Ông già kêu: “Khoan đã, ngươi là người thế nào của Niên Canh Nghiêu?” ba đại hán rất hung hăng, Phùng Anh đang nổi nóng, làm sao có thể dừng lại được, chỉ nghe tiếng binh khí gãy rổn rảng, cây Đoạn Ngọc kiếm của Phùng Anh múa trái quét phải, chặt gãy toàn bộ binh khí của ba người ấy, một người trong số đó còn bị đâm trúng xương sườn. Ông già chợt nổi giận: “Nha đầu, ngươi ra tay thật ác độc!” rồi cầm tẩu thuốc bổ xuống đầu Phùng Anh, đồng thời điểm vào huyệt Kiên Tỉnh của nàng, Phùng Anh thầm nhủ: “Ông già này trông diện mạo hiền từ thế mà cùng một giuộc với bọn này!” rồi nàng xoay thanh kiếm, lập tức đâm vào huyệt Hồn Môn của ông ta.


Ông già xoay người lướt bước, tiếp tục vung cái tẩu thuốc đánh ra chiêu Vân Ma Tam Vũ, đây là một chiêu gồm ba thức, công lực phi phàm. Phùng Anh không dám khinh địch, thi triển tuyệt chiêu Lưu Tinh Phi Xử và Dã Mã Thao Điền trong Truy Phong kiếm pháp, hai chiêu này tấn công ở bên trên và bên dưới, bên trên đâm vào hai mắt, bên dưới đâm vào đan điền, kiếm thế rất hiểm hóc. Ông già gạt ngang cái tẩu thuốc đổi công làm thủ, cây kiếm của Phùng Anh bị ông ta giằng xuống, nàng chỉ cảm thấy cánh tay tê rần. Còn ông già trong sảnh tức giận nói: “Sao lại có lẽ này, đây đâu phải là chiến trường mà các ngươi đánh nhau!”


Phùng Anh không hề biết rằng, ông già đang đối địch với nàng chính là Quảng Liên. Số là trong đêm nàng một tuổi, Quảng Liên đến uống rượu, gặp lúc bọn Huyết Trích Tử truy bắt Châu Thanh nên bị vạ lây, Chung Vạn Đường bế Phùng Lâm cùng Quảng Liên chạy thoát, Chung Vạn Đường đến nhà họ Niên dạy học tránh thù, không tiện ở cùng Quảng Liên, bởi vậy giới thiệu ông ta đến chỗ Trại chủ Trương Linh Phong ở núi Thiên Đài. Trương Linh Phong cao hơn Chung Vạn Đường một bậc, là một đại đạo nổi danh trong chốn lục lâm, Quảng Liên chỉ là một võ sư nhà quê chất phác, vốn chẳng muốn làm nghề cướp bóc, nhưng việc đã đến nước đấy chỉ đành chấp nhận.


Trương Linh Phong tính tình hào sảng, rất thích sự chất phác của Quảng Liên, hai người rất hợp nhau. Khi rảnh rổi Trương Linh Phong chỉ điểm võ công cho ông ta, sau đó còn để ông ta làm Phó trại chủ. Quảng Liên và Trương Linh Phong chỉ hơn kém nhau sáu bảy tuổi, Trương Linh Phong ngại không nhận ông ta làm học trò, nhưng Quảng Liên cảm ơn tri ngộ, cứ kiên quyết đòi hành lễ bái sư.


Trương Linh Phong chết đi, con trai của ông ta là Trương Thiên Trì làm Trại chủ, Quảng Liên vẫn ở núi Thiên Đài giúp đỡ cho y. Trương Thiên Trì không tài bằng cha mình, nhiều lần bị quan binh tấn công, thế lực ngày một suy yếu. Chung Vạn Đường đã chết, tin ấy truyền đến, Quảng Liên lấy làm đau lòng. Sai người đi dò hỏi mới biết Phùng Anh đã sớm mất tích. Một ngày nọ Quảng Liên trò chuyện với Trương Thiên Trì, bảo rằng sau khi Chung Vạn Đường chết đi, võ công của phái Vô Cực thất truyền, kiếm phổ y thư của Phó Thanh Chủ không biết đã rơi vào tay ai. Trương Thiên Trì nổi lòng tham, sai hai đồ đệ lén đến nhà họ Niên tìm di thư, không ngờ bị Phùng Lâm giết chết, sau đó Trương Thiên Trì mới không dám sai người đi nữa.


Lại mấy năm trôi qua, Trương Thiên Trì bị quan binh tấn công, sơn trại bị đốt, chỉ dắt được hơn mười thủ hạ cùng Quảng Liên chạy thoát. Từ đó lưu lạc trên giang hồ, tình cảnh ngày càng tệ hơn. May mà y tuy mất sơn trại nhưng cũng là Chưởng môn của phái Thiên Đài, người trong võ lâm coi như cũng tôn trọng y. Khi quan binh truy bắt, thường có người báo tin cho y vì thế mới sống qua ngày trên giang hồ.


Trương Thiên Trì lại nhớ đến y thư của Phó Thanh Chủ, đến huyện Trần Lưu lục soát, gặp lúc Lý Trị và Phùng Lâm chạy ra khỏi nhà họ Niên, Trương Thiên Trì đã tra xét diện mạo của Phùng Lâm, biết nàng là kẻ thù giết đồ đệ của mình, liền sai người đuổi theo cho đến gần Bắc Kinh. Ngày hôm ấy Quảng Liên và vài đồ đệ của Trương Thiên Trì đi ở phía trước, gặp Lý Trị và Phùng Lâm ở cánh đồng tại huyện Hòai Nhu, mấy tên đồ đệ của Trương Thiên Trì đến khiêu chiến, bị Phùng Lâm dùng đao độc đả thương, may có Quảng Liên yểm hộ nên mới thoát. Phùng Lâm và Lý Trị không biết lai lịch của họ, vả lại cũng sợ gây chuyện sẽ khiến quan binh chú ý nên sau khi ra tay đã nấp lên núi.


Phùng Lâm ra tay rất hiểm độc, ba người bị thương không những trúng độc hôn mê mà xương cốt gãy lìa, có khả năng bị tàn phế. Trương Thiên Trì từ sau đuổi tới, thấy thế cả giận. Nhưng cứu người quan trọng hơn nên chẳng rảnh truy tìm kẻ địch. Trương Thiên Trì lưu lạc các nơi, theo thói quen của chốn lục lâm, cần phải tra xét những người có tiếng trong vùng. Thuốc kim sang của Trương Thiên Trì mang theo không trị nổi, y nhớ đến danh y Diệp Thọ Thường đang ẩn cư ở nhà họ Trần tại thôn Hoàng Trúc liền bảo Quảng Liên dắt người đến mời ông ta chữa trị. Trương Thiên Trì biết Diệp Thọ Thường có liên quan đến phái Vô Cực, mà Quảng Liên lại là bằng hữu của Chung Vạn Đường, bởi vậy mới phái Quảng Liên đi. Không ngờ Quảng Liên đã gặp phải Phùng Anh ở đây.


Quảng Liên học được võ công của phái Thiên Đài, lại thêm mười tám năm rèn luyện, võ nghệ hơn hẳn trước kia. Phùng Anh liên tục đánh đến hai mươi chiêu mà vẫn không đắc thủ, nàng chợt thay đổi kiếm pháp, vận dụng những chiêu số tinh diệu trong Truy Phong kiếm pháp, phối hợp với khinh công, tìm sơ hở tấn công, thanh kiếm chỉ Đông đánh Tây, chỉ Nam đánh Bắc như điện chớp lửa xẹt. Quảng Liên đã già, thân pháp không lanh lẹ như Phùng Anh, bị nàng tấn công đến luống cuống chân tay. Phùng Anh đánh gấp tới, xem ra sắp đâm trúng Quảng Liên. Lữ Tứ Nương đang đứng xem chợt nhảy vọt tới giữa hai người, tay trái kéo Phùng Anh ra, tay phải chụp được cái tẩu thuốc của Quảng Liên rồi trả trở lại nói: “Ông hãy nghỉ ngơi một lát”.


Quảng Liên chưa từng thấy ai có võ công cao cường như Lữ Tứ Nương, không dám đánh tiếp nữa nên xoay người bỏ đi. Những kẻ đi cùng đành cõng đồng bọn chạy đi.


Lữ Tứ Nương bước tới thi lễ, ông già trong sảnh tức giận nói: “Các ngươi đã quấy rối đủ chưa?” Lữ Tứ Nương nói: “Diệp công công...” đang định nói ra thân phận nhờ ông ta chữa trị. Nào ngờ ông già trợn mắt, vỗ bàn nói: “Ta đã bảo ta không biết trị bệnh, ta cũng chẳng phải là Diệp công công gì cả, các người còn lôi thôi ở đây làm gì?” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Ông không phải là Diệp công công?” ông già trả lời: “Đã bảo không phải là không phải, ta không đổi tên ngồi không đổi họ, Trần Khang chính là ta, bình sinh chỉ biết gãy đàn nhưng ta cũng không gãy cho các ngươi nghe!” rồi phất tay áo tức giận lui vào bên trong.


Lữ Tứ Nương và Phùng Anh không khỏi nhụt chí, Phùng Anh nhảy đến cửa, chặn lại hỏi: “Vậy xin hỏi Diệp lão tiên sinh ở đâu?” Trần Khang trợn mắt nói: “Không biết. Có biết cũng không nói cho ngươi nghe! Ta đã quá phiền phức, các người thấy chưa đủ hay sao?” Lữ Tứ Nương vội nói: “Cháu gái của Triết Đông Lữ Lưu Lương xin thỉnh an người!” Trần Khang giật mình, quay lại hỏi: “Cái gì, cô nương là cháu gái của Lữ Lưu Lương?” Lữ Tứ Nương nói: “Khi tiên tổ còn sống, thường nhắc đến hai vị tiền bối, bảo rằng nếu tiểu điệt nữ có đến kinh đô phải đến chào hỏi”. Trần Khang lập tức đổi sắc mặt, hỏi: “Cái gì? Tổ phụ của cô nương cũng biết tôi sao?”


Lữ Tứ Nương nói: “Lão trượng có tài đánh đàn nổi danh thiên hạ ai mà không biết!” Trần Khang chợt nói: “Ý nghĩa thật sự của mấy chữ ‘cao sơn lưu thủy’ là thế nào?” Lữ Tứ Nương trả lời: “Ngoài là lời ngâm vịnh, còn thể hiện ý của Chung Tử Kỳ khuyên Bá Nha”. Trần Khang nói: “Khuyên cái gì?” Lữ Tứ Nương nói: “Khuyên ông ta vứt bỏ công danh vui cùng sông núi. Chỉ có sông núi quê hương mới có thể gợi lên tiếng đàn”. Trần Khang ồ một tiếng, lấy ra một cây cổ cầm đặt trên bàn: “Cô nương có thể nghe tôi gãy đàn”. Rồi nhắm mắt đàn một hồi, hỏi: “Cô nương có nghe được gì không?” Lữ Tứ Nương rơi nước mắt nói: “Đa tạ lời chia buồn của lão trượng, cũng đa tạ lời khích lệ của người”. Té ra Trần Khang đã đàn bài “Hoàng điểu chi ca”, bài này có ý nghĩa tiếc thương cho hiền nhân. Đây là một bài trong “Tần phong” của Kinh thi, trong đó có câu “Như khả độc thề, nhân bách kỳ thân” (có nghĩa có thể chuộc lại mạng của người ấy, ta chấp nhận lấy một trăm đổi cho một) bài thứ hai là “Vu điền chi ca”, là một bài tán ca, ca tụng võ sĩ trong “Trịnh phong” của Kinh thi, dụng ý là khích lệ tinh thần tiến thủ của Lữ Tứ Nương. Xem ra ông ta đã nghe hiệp danh của nàng.


Lữ Tứ Nương vừa nói đã trúng, Trần Khang nói: “Cô nương đã không gạt ta, cô nương đúng là cháu gái của Lữ Lưu Lương!” Lữ Tứ Nương nói: “Tôi có một người bằng hữu đang gặp nguy. Mong người chữa trị”. Trần Khang nói: “Nửa năm trước, ông ta đã rời khỏi nơi này”. Lữ Tứ Nương nói: “Đi đâu? Lão trượng có thể cho biết không?” Trần Khang cười nói: “Nể mặt tổ phụ của cô nương, tôi chỉ đành để các người đi làm phiền Diệp lão đầu. Diệp lão đầu còn có một người bằng hữu là Trần họa sư ở Khang trang thuộc phía Đông Bát Đạt lĩnh, một đồ đệ họ Dương ở Nam Khẩu thuộc phía Tây Bát Đạt lĩnh. Hai người này mời ông ta đến ở. Tôi cũng không biết hiện giờ ông ta đang ở nhà ai. Khang trang và Nam Khẩu cách đây hơn một trăm dặm, các người hãy nghỉ ngơi một đêm, sáng mai đi tiếp”. Lữ Tứ Nương nói: “Không cần, để chúng tôi đến thăm Diệp công công rồi sẽ quay lại nghe người gãy đàn”. Trần Khang nói: “Cũng được!” rồi thở dài: “Bây giờ chẳng mấy ai hiểu được tiếng đàn của ta!”


Lữ Tứ Nương từ biệt ra khỏi nhà họ Trần, lúc này trời đã trưa, nàng bàn bạc với Phùng Anh rằng: “Không ngờ sự việc lại trắc trở thế này. Chúng ta hãy chia nhau lên đường. Tỷ đến Khang trang tìm họa sư họ Trần. Muội đến Nam Khẩu tìm người họ Dương. Nhớ lấy, muội phải tôn kính đối với các bậc tiền bối, nếu nóng nảy sẽ hỏng việc”. Phùng Anh đỏ mặt, nói: “Đương nhiên”. Thế rồi hai người chia nhau lên đường.


Phùng Anh thầm tình, giả sử đến Nam Khẩu, tìm được, lập tức sẽ thuê xe mời ông ta về, bốn ngày sẽ đến nơi. Nào ngờ nàng lại đi nhầm đường, may mà vừa phát giác đã lập tức hỏi người ta, đến nửa đêm mới lần dò đến Nam Khẩu. Phùng Anh dò đường đến nhà họ Dương, nàng nhảy lên mái nhà, chợt thấy bên trong đèn đuốc vẫn còn thắp sáng, Phùng Anh định nhảy xuống bái kiến, nhưng nàng lại ngại làm bọn họ giật mình nên nằm phục trên mái ngói nhìn xuống bên dưới.


Chỉ thấy trong căn phòng có một cái bàn đặt một lư hương, khói hương vờn quanh. Một ông già ngồi trên cái ghế thái sư, bên cạnh có một ông già đang đứng. Phùng Anh thầm nhủ: “Người đang ngồi chắc là Diệp Thọ Thường đây”.


Diệp Thọ Thường khép hờ hai mắt, miệng thì giảng giải y đạo cho người đứng bên cạnh mình. Giảng giải xong Diệp Thọ Thường lại nói: “Thời gian không còn nhiều nữa, nay ta sẽ truyền tâm pháp”. Rồi cầm cây bút lông sói vừa viết vừa giảng, Phùng Anh đang định bỏ đi, Diệp Thọ Thường chợt ngẩng đầu nói: “Này, ngươi nghe lén đã lâu, sao vẫn còn chưa xuống?” Phùng Anh thất kinh, thầm nhủ: “Hỏng bét, lần này chắc chắn ông ta sẽ trách”. Nàng chỉ đành lướt người xuống, bước tới thi lễ, nói: “Xin tiền bối thứ lỗi, tôi vốn định ngày mai đến, nhưng...” nàng đang định tìm lời, ông già chợt nói: “Đưa tay tới, ta sẽ bắt mạch cho ngươi”. Phùng Anh ngạc nhiên, Diệp Thọ Thường cầm tay nàng, một hồi sau chợt buông tay nói: “Lạ thật, lạ thật. Bệnh người thân ngươi không có một năm cũng nửa năm, tại sao ngươi không đi chữa trị?” Phùng Anh ngạc nhiên nói: “Diệp công công, làm sao người biết?” Diệp Thọ Thường trả lời: “Căn cơ nội công của ngươi rất vững chắc, sư phụ của ngươi là ai?” Phùng Anh không dám giấu giếm, đáp rằng: “Sư phụ của vãn bối là Thiên Sơn Dịch Lan Châu”. Diệp Thọ Thường nói: “Ồ, thật kỳ lạ, té ra ngươi là đồ đệ của Dịch Lan Châu”. Ông ta nhắm mắt một hồi, nói: “Trong người của ngươi có một luồng uất khí, mà can hỏa lại nóng, chắc chắn có việc gì rất đáng nghi ngờ mà không giải thích được. Nửa đêm ngươi đến gặp ta, chắc là muốn mời ta chữa trị. Nếu không phải người thân, ngươi sẽ không lo lắng như thế. Nếu không phải bệnh lạ, ngươi không thể lo lắng lâu như thế. Ngươi nói thử xem, người thân của ngươi bị bệnh gì?” Phùng Anh mừng rỡ nói: “Diệp công công, người đúng là y đạo thông huyền, liệu việc như thần. Vãn bối muốn mời người trị bệnh, người thân của vãn bối...” nói chưa xong, ông già đứng bên cạnh vội lên tiếng: “Sư phụ, sao người lại lo lắng đến thế?” Phùng Anh vội vàng nói: “Lữ tỷ tỷ đã kêu vãn bối đến đây. Tỷ ấy bảo vãn bối thăm hỏi người cho tổ phụ của tỷ ấy”. Diệp Thọ Thường chợt thấy nàng nói mấy câu thừa thải, bất giác hỏi: “Tỷ tỷ nào của ngươi? Tổ phụ của ả là ai?” Phùng Anh nói: “Tỷ tỷ của vãn bối là Lữ Tứ Nương, còn tổ phụ của tỷ ấy là Lữ Lưu Lương”. Diệp Thọ Thường cười ha hả, chợt mặt lộ vẻ không vui nói: “Cháu gái của Lữ Lưu Lương sao lại tầm thường thế? Lẽ nào không biết người làm nghề y gặp bệnh lạ, trừ phi vạn bất đắc dĩ chắc chắn sẽ chữa trị, cần gì phải lôi cả tổ phụ ra?” Phùng Anh mừng rỡ nói: “Vâng vâng!” không ngờ Diệp Thọ Thường trợn mắt, nói: “Đáng tiếc ta không thể đi!”


Phùng Anh vội kêu: “Người chẳng phải nếu không vạn bất đắc dĩ mới không đi hay sao?” Diệp Thọ Thường nói: “Ta chính là đang vạn bất đắc dĩ đây!” Phùng Anh lo đến nỗi ứa nước mắt: “Y chỉ còn có ba ngày rưỡi nửa, nếu người không cứu, chẳng ai có thể cứu y”. Diệp Thọ Thường hơi ngạc nhiên, cười khổ nói: “Y làm sao biết ngày chết?” Phùng Anh trả lời: “Không phải là y có thể tự biết mà người ta buộc y biết”. Diệp Thọ Thường càng lấy làm lạ hơn, nói: “Có chuyện này nữa ư, ta chưa từng nghe, người ép y chết là ai?” Phùng Anh nói: “Là đương kim Hoàng đế”. Diệp Thọ Thường trả lời: “Ồ, thế thì ta phải chữa trị”. “Vậy tiểu nữ sẽ cõng người đi, đến khi trời sáng chúng ta lại sẽ thuê xe ngựa”. Diệp Thọ Thường lại lắc đầu: “Không, ta không thể đi! Nhưng ngươi cứ kể chịu trứng cho ta nghe thử”. Ông già đứng bên cạnh lại bảo: “Sư phụ, sáu mươi năm qua người ngày nào cũng hành y, hôm nay đừng lo lắng nữa”. Ông già nổi giận nói: “Nói càn, ta đã nghe thấy bệnh lạ, nếu không tìm cách chữa trị, có chết cũng không yên lòng”. Ông già ấy chỉ đành cười khổ nói: “Thôi được, đệ tử sẽ ghi lại y án cho ngài”.


Phùng Anh kể lại việc Đường Hiểu Lan bị Ung Chính lừa uống rượu độc và những triệu chứng gần đây. Diệp Thọ Thường nói: “Có rượu độc như thế sao? Y án xưa nay đều không ghi. Đấy là rượu độc gì?” rồi lại nhắm mắt suy nghĩ một chốc, tựa như không nghĩ ra, ông ta mở mắt thở dài nói: “Đáng tiếc ta không thể đến xem tận nơi”. Phùng Anh lo lắng, run giọng nói: “Vậy có còn cách nào không?” Diệp Thọ Thường nói: “Đừng lo, để ta suy nghĩ tiếp”. Rồi nhắm mắt tịnh tọa, chẳng hề nhúc nhích. Phùng Anh và ông già đứng bên cạnh cũng rất lo lắng, tiếng gà gáy vang lên từng hồi, ông ta vẫn ngồi suốt một canh giờ, mới ho một tiếng, mở mắt ra nói: “Dương lão đệ, ngươi hãy bốc thuốc cho y. Hãy dùng lục hợp ninh thần hoàn nghiền nát phối hợp với bảy vị thuốc khác. Dùng lá ngô đồng mùa thu và một đôi dế trống mái làm chất dẫn”. Ông già đứng bên cạnh là đệ tử của ông ta, trong nhà có rất nhiều loại thuốc quý, bởi vậy lập tức chuẩn bị. Diệp Thọ Thường nói: “Thuốc này chỉ có thể dùng thử một lần”. Rồi cầm bút viết một bài thuốc, nói tiếp: “Uống xem thuốc vừa rồi, nếu thấy có hiệu quả, lại uống thêm ba lần theo bài thuốc này. Đây chỉ là loại thuốc giúp an thần ngủ ngon, rất dễ tìm”.


Phùng Anh cả mừng, nhận lấy gói thuốc và bài thuốc, đang định cáo từ, Diệp Thọ Thường chợt nói: “Này, ngươi không trả tiền chữa bệnh sao?” Phùng Anh không ngờ ông ta lại nói thế, đỏ mặt trả lời: “Trên người tiểu nữ không mang theo tiền, tiểu nữ... tiểu nữ đưa cho người xâu chân trâu này vậy”. Diệp Thọ Thường nói: “Ta đã lớn tuổi, còn cần những thứ đó làm gì? Ngươi hãy làm cho ta một việc, coi như là trả tiền thuốc”. Phùng Anh nói: “Xin công công cứ căn dặn”. Diệp Thọ Thường nói: “Y thuật của ta là do Phó Thanh Chủ chỉ điểm, mấy mươi năm qua, coi như ta không phụ lòng kỳ vọng của người, đã trị được không ít người bệnh, tích lũy được không ít y án, đáng tiếc người không xem qua được. Hỡi ơi!” ông già đứng bên cạnh nói: “Sư phụ đừng đau lòng, tổ sư biết chúng ta có thể kế thừa y bát của người, nếu có linh thiêng chắc chắn cũng thấy an ủi”.


Diệp Thọ Thường chợt cười lạnh nói: “Cái gì, ngươi dám nói chúng ta có thể kế thừa y bát của tổ sư?” ông già đứng bên cạnh lo lắng nói: “Đệ tử ngu muội, y đạo còn thấp kém, thua xa các bậc tiền bối. Nhưng sư phụ dốc hết cả đời nghiên cứu y đạo, coi như cũng có thể sánh được với Phó sư tổ năm xưa”. Diệp Thọ Thường lắc đầu nói: “Còn kém lắm! Ta vẫn còn nhiều điều chưa biết, cũng như căn bệnh lúc nãy. Mỗi khi ta nghĩ không thông, hận không thể tìm sư tổ để hỏi. Song, ta tự tin y án của ta có thể hơn hẳn người khác”. Ông ta ngập ngừng rồi nói: “Ngươi có biết võ công và y thuật của Phó Thanh Chủ truyền cho ai không?” Phùng Anh nói: “Nghe nói là đồ tôn của ông ta tên Chung Vạn Đường, Chung Vạn Đường lại truyền võ công cho Niên Canh Nghiêu, nhưng không biết có truyền y thuật cho y hay không”. Diệp Thọ Thường thở dài: “Không có!” rồi ngập ngừng nói: “Dịch Lan Châu có thể thay phái Vô Cực tìm truyền nhân y bát”. Phùng Anh nói: “Vãn bối cũng nghe sư phụ nói đến điều này”.


Phùng Anh rất lấy làm lạ, Diệp Thọ Thường bảo có chuyện muốn nhờ nàng, tại sao lại cứ nhắc đến những chuyện xưa. Ông ta lại thở dài, trầm giọng nói: “Phó sư tổ có một quyển y thư gọi là Kim châm độ kiếp. Sau này nếu sư phụ của ngươi thay phái Vô Cực lập truyền nhân, có lẽ có người đã lấy được cuốn di thư này, nếu hành vi thuộc chính phái, ngươi hãy dắt y đến đây, bảo y kế thừa y án của ta. Phó tôn sư năm xưa bôn ba vì việc nước, y án không còn nhiều. Được di thư của ông ta, lại xem y án của ta mới có thể phát dương quang đại y học. Đời ta đã dứt, mong có người hơn được người trước. Chuyện này rất quan trọng, ngươi có biết không?” Phùng Anh khom người nói: “Thưa biết!” Diệp Thọ Thường lại nói: “Vì ngươi là hiệp nữ trong chốn võ lâm, cho nên ta mới nhờ ngươi làm việc này”.


Phùng Anh hơi ngạc nhiên, nói: “Vãn bối nhất định sẽ làm được”. Diệp Thọ Thường đột nhiên nhắm mắt ngồi yên, từ từ gục đầu xuống. Ông già đứng bên cạnh bước tới bắt mạch, chợt quỳ xuống đất, cung kính dập đầu ba cái rõ to, nói: “Đệ tử nhất định kế thừa di chiếu của tiên sư. Đệ tử sẽ bảo quản y án của người, đợi người tài đến đến lấy, người hãy yên tâm mà ra đi!”


Phùng Anh ngạc nhiên nói: “Diệp công công thế nào rồi?” ông già nói: “Người đã chết”. Phùng Anh rơi nước mắt, nói: “Có phải tôi đã khiến lao tâm quá độ không?” ông già đáp: “Không liên quan đến cô nương. Tiên sư tinh thông Thái tố kinh, người đã sớm đoán được ngày ra đi của mình. Cho nên đã tranh thủ truyền tâm pháp cho tôi. Song phải khi chết mà còn có thể trị bệnh giúp người thân của cô nương thật là điều không ngờ”. Phùng Anh cảm kích vô cùng, cũng quỳ xuống dập đầu ba cái rõ to.


Ông già đưa Phùng Anh ra khỏi cửa, trịnh trọng nói: “Cô nương đừng đánh mất đơn thuốc này. Mong người thân của cô nương có thể khỏi bệnh”. Phùng Anh bái tạ, thấy sắc trời đã sáng nên vội vàng cáo từ. Lại nói Quảng Liên bị Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đuổi khỏi nhà họ Trần, trong lòng rất bực tức, vài tên đầu mục nói: “Ả nha đầu ra tay thật lợi hại, chúng ta mời Trại chủ đến, không thể buông tha cho ả”. Quảng Liên trầm ngâm không nói, chợt nghĩ bụng: “Khi ả nha đầu đụng độ với mình ở ngoài cánh đồng, ra tay còn độc địa hơn, chẳng thèm lên tiếng đã dùng phi đao đả thương ba người. Sau đó gặp ở nhà họ Lục, ra tay tuy lợi hại, nhưng chỉ chặt gãy binh khí, đánh một người bị thương nhẹ, so với lúc đầu hình như đã nương tay, không biết là vì nguyên cớ gì”.


Bọn Trương Thiên Trì đợi ông ta ở một hòn núi gần Bát Đạt lĩnh, Quảng Liên không mời được danh y, lại có một người bị thương nên rất hổ thẹn, vừa đi vừa nghĩ cách để Trương Thiên Trì không đi trả thù. Trương Thiên Trì võ công còn cao hơn cả Quảng Liên, nhưng Quảng Liên cẩn thận hơn y. Quảng Liên biết Trương Thiên Trì rất nóng tính, lần này có đến bốn thủ hạ bị thương, chắc chắn sẽ tìm ả nha đầu liều mạng. Nhưng ả này bản lĩnh rất cao, vả lại thiếu nữ đi cùng ả võ công còn thần kỳ hơn. Quảng Liên nghĩ bụng: “Giờ đây đã đuối thế, sao có thể chuốc thêm phiền toái? Mình nhận ơn lớn của Trương Linh Phong, sao để con trai của ông ta đi nạp mạng được”. Trên lòng thầm tính nhưng vẫn chưa nghĩ ra cách nào ngăn cản y. Đến chiều, Bát Đạt lĩnh đã ở trước mặt, đang đi, ở góc núi chợt một người nhảy ra quát: “Các ngươi là ai, đứng lại cho ta!”


Quảng Liên nhìn lại, người ấy mũi ưng miệng sư tử, mặt mũi nanh ác, té ra đó chính là Long Mộc Công. Long Mộc Công là tù trưởng tộc Lê, tướng mạo kỳ dị, Quảng Liên vừa nhìn đã nổi giận, ngẩng mặt cười ha hả: “Đi mòn gót sắt tìm chẳng có, nay thấy được chẳng mất công phu! Long thị vệ, thật may mắn!”


Té ra sau khi Hầu Tam Biến dắt Phùng Anh chạy ra khỏi cung, bọn người trong cung sợ Hầu Tam Biến quen thuộc đường lối lại sẽ dẫn kẻ địch vào, vì thế một mặt chỉnh đốn thị vệ, mặt khác Cáp Bố Đà lại sai thị vệ tâm phúc đi khắp nơi tìm Hầu Tam Biến và Phùng Anh. Hải Vân hòa thượng và đồ đệ của lão là Long Mộc Công lục soát ở các huyện gần kinh đô. Hôm nay bọn chúng băng qua Bát Đạt lĩnh, Hải Vân hòa thượng lên cao nhìn xa, để Long Mộc Công tiếp ứng bên dưới.


Lúc đầu Long Mộc Công còn tưởng bọn Quảng Liên là hạng vô danh tiểu tốt trong hắc đạo, muốn tiện tay bắt sống để lập công nhỏ. Không ngờ Quảng Liên nói ra lai lịch của y, bất giác ngạc nhiên, y nhìn lại thì thấy ngờ ngợ quen, Quảng Liên quát: “Ngươi đã nhìn rõ chưa? Món nợ ở nhà Phùng Quảng Triều tại Nhữ Châu Hà Nam, ngươi có còn nhớ không?” Long Mộc Công trợn mắt, quát: “Hừ, ta tưởng là ai, té ra là lão thất phu lọt lưới nhà ngươi. Lão tử bình sinh giết người không đếm xuể, làm sao nhớ được! Ngươi có tài cán gì mà báo thù cho Phùng Quảng Triều?” rồi rút kiếm ra tay.


Mười bảy năm trước, Quảng Liên bị Long Mộc Công đánh chạy chối chết, võ công của hai người hơn kém nhau rất xa. Long Mộc Công nào coi ông ta ra gì, vừa động thủ chân đã bước vào trung cung, lúc thì đâm kiếm. Nào ngờ trong vòng mười bảy năm sự việc thay đổi quá nhiều, Quảng Liên ngày nay đã khác lúc trước, cái tẩu thuốc đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, lập tức gạt trường kiếm của Long Mộc Công ra ngoài. Long Mộc Công thất kinh, Quảng Liên gạt cái tẩu thuốc xuống, điểm vào huyệt Thiên Khu của y, Long Mộc Công buộc phải thối lui ba bước, cao giọng kêu: “Sư phụ đến đây!”


Quảng Liên cười lớn: “Sao không bảo sư nương ra cứu mạng?” rồi vội vàng đuổi theo, cái tẩu thuốc đâm vào hậu tâm của y. Long Mộc Công trở tay đánh lại một kiếm, người xoay nửa vòng rồi đâm xéo tới. Quảng Liên đè tẩu thuốc xuống cây trường kiếm của Long Mộc Công, quát: “Đi!” rồi vùng tay một cái, Long Mộc Công bị đẩy ra hơn một trượng. Long Mộc Công đúng là bản lĩnh cũng không kém, y không hề ngã xuống đất, lại kêu lớn: “Sư phụ!”


Quảng Liên đổi chiêu đánh tiếp, Long Mộc Công tránh mấy chiêu chỉ có thể chống đỡ chứ chẳng thể trả đòn. Quảng Liên càng đánh càng dữ, khoảng được năm mươi chiêu, người bên cạnh kêu: “Phó trại chủ, có một hòa thượng đến!” Quảng Liên nói: “Hay lắm, để cho sư phụ của y nạp mạng thay!” Long Mộc Công phấn chấn tinh thần, gắng gượng đánh một kiếm, đâm ngược vào be sườn của Quảng Liên. Quảng Liên đã sớm đoán được y sẽ đánh chiêu này nên rút tẩu thuốc trở lại, Long Mộc Công đánh hụt, trọng tâm không vững, chồm người về phía trước, Quảng Liên cười lớn, cái tẩu thuốc sắp đánh ra một chiêu Đảo Đả Kim Chung kêu bốp một tiếng, xương cổ của Long Mộc Công vỡ nát, ông ta cười lớn nói: “Ông tân gia, hôm nay tôi đã trả được thù cho ông!”


Chỉ trong chớp mắt, Hải Vân hòa thượng đã đuổi tới nhanh như bay, lớn giọng quát: “Ai dám đả thương đồ đệ của ta?” bốn thủ hạ của Quảng Liên nào biết lợi hại, vội vàng xông lên. Quảng Liên vừa giải quyết xong Long Mộc Công, lập tức đã nghe tiếng kêu thảm vang lên, chỉ thấy hòa thượng vung kiếm lên, lập tức tia máu tuôn ra, chỉ trong chớp mắt bốn đại hán đã chết dưới kiếm của y. Quảng Liên cả giận, điểm cái tẩu thuốc về phía trước, Hải Vân hòa thượng cũng tiến về phía trước, kiếm quang mở rộng, quét vào cổ tay của ông ta, Quảng Liên gạt ra ngoài, thân pháp của Hải Vân hòa thượng di chuyển rất nhanh, kiếm chiêu lại như điện, chợt chém ngang xuống, Quảng Liên rụt vai, đấm ngược vào huyệt Bối Lương của y, Hải Vân hòa thượng lách người, kiếm thế hơi lệch qua, vù một tiếng, kiếm phong lướt qua vai, Quảng Liên thầm kêu: “Nguy hiểm!” rồi nhảy vọt ba bước, sau đó xoay lại tiếp tục tấn công.


Quảng Liên tuy khổ luyện mười tám năm, nhưng so với Hải Vân hòa thượng vẫn còn kém một bậc. May mà võ công của phái Thiên Đài có nhiều chiêu số kỳ lạ, cái tẩu thuốc có thể sử dụng như ngũ hành kiếm, cũng có thể dùng để điểm huyệt, bởi vậy ông ta mới có thể đánh được hơn trăm chiêu.


Lúc này trời vừa sụp tối, màn đêm đã bao trùm, tiếng chim kêu táo tác, Quảng Liên không cầm cự nổi nữa, đã cảm thấy lạnh mình. Ông ta liều mạng chợt phản kích. Hải Vân hòa thượng đang xử đến chiêu Tiên Nhân Hoán Ảnh, chiêu này gồm hai thức, một hư một thực, hư đâm vào mặt, thực đâm vào be sườn, y tưởng rằng Quảng Liên không gạt trên cũng chặn dưới, lúc đó hư thực sẽ đổi cho nhau, Quảng Liên chẳng thể thoát nổi. Nào ngờ Quảng Liên liều mạng, đột nhiên nhảy bổ đến đánh vào trung bàn của y, chỉ nghe soạt một tiếng, xương ngực của Quảng Liên đã bị mũi kiếm của y chặt gãy, trước ngực Hải Vân hòa thượng đã bị cái tẩu thuốc của ông ta đánh một cú rất mạnh!


Hải Vân hòa thượng có nội công thâm hậu, trúng cú đánh này mà vẫn còn cầm cự được, nhưng ngực đã đau như dao cắt, bất giác cả giận, co giò đá một cước khiến Quảng Liên lộn nhào, Quảng Liên vốn đã bị thương, lại trúng cú đá này nên ngất ngay tại chỗ.


Hải Vân hòa thượng cười gằn, đưa tay ôm ngực, đang định đến cắt thủ cấp của kẻ địch, chợt nghe trên núi có người quát: “Lão giặc trọc Hải Vân, chạy đi đâu cho thoát?” Hải Vân vừa nghe đã sợ đến nỗi hồn bay phách tán, thầm nhủ: “Tên này chắc không sống nổi, mình phải chạy thôi”. Rồi y cố nén cơn đau, vội tìm đường bỏ chạy.


Người vừa mới lên tiếng chính là Lý Trị.


Từ lúc Lý Trị cùng Phùng Lâm chạy ra khỏi nhà họ Niên, chàng đã biết nàng không phải là Phùng Anh, nhưng vì gần gũi đã lâu, tình yêu đã sớm nảy nở, tuy biết nàng không phải Phùng Anh nhưng cũng không nỡ xa rời.


Khi Phùng Lâm chạy ra khỏi nhà họ Niên chính là lúc Phùng Anh chạy vào, tuy chỉ nhìn lướt qua nhưng đã khó quên! Lúc này Phùng Lâm mới biết trên đời còn có một người rất giống mình! Nhưng nàng vẫn chưa biết người đó chính là tỷ tỷ của mình!


Phùng Lâm đã quên hết chuyện lúc nhỏ. Lý Trị ba lần bốn lượt gợi lại cho nàng mà vẫn chẳng ích gì. Nhưng Phùng Lâm lại nhớ chuyện từ sau khi đến phủ Tứ bối lạc. Lý Trị tuy không biết Phùng Anh là tỷ tỷ của nàng nhưng lúc nhỏ đã nghe mẹ nói rằng, Phùng Anh được Dịch Lan Châu cứu ra từ phủ Tứ bối lạc, bất giác lại nghĩ: “Trên đời sao có chuyện vừa khéo đến thế? Hai người có tướng mạo giống nhau, vả lại đã từng sống ở phủ Tứ bối lạc?”


Lý Trị vốn là người chất phác, trọng tình cảm. Chàng Phùng Anh là đôi thanh mai trúc mã, nhưng lúc nhỏ lại không biết chuyện nam nữ, trong lòng chỉ coi đối phương là bằng hữu tốt nhất. Lúc này Lý Trị tuy đã yêu Phùng Lâm nhưng rốt cuộc vẫn không quên Phùng Anh. Chàng ta thầm nhủ: “Anh muội đã xuống núi, dẫu thế nào mình cũng phải tìm cho ra nàng”. Phùng Lâm cũng nghĩ như thế. Nhưng Phùng Lâm là người Hoàng đế muốn bắt, cả hai người đều không dám lộ mặt ở đường lớn, chỉ chọn đi ở những đường vắng vẻ, hơn một năm mới đến huyện Hòai Nhu ở ngoại ô Bắc Kinh.


Trong một năm này, hễ rảnh là Lý Trị lại xem y thư của Phó Thanh Chủ, đọc nhuyễn như cháo chảy, chàng lại nghiên cứu căn bệnh ly hồn. Chỉ là khi chàng chưa nắm rõ, không dám thử nghiệm ở Phùng Lâm.


Trong một năm này, Phùng Lâm cũng nghiên cứu kỹ càng quyền kinh kiếm phổ của Phó Thanh Chủ, Phùng Lâm tinh thông nhiều loại võ công, nay có được chân truyền của nội gia, võ công càng cao hơn ngày trước!


Hôm nay họ đang đi ở cánh đồng dưới chân Bát Đạt lĩnh. Chợt bọn người Quảng Liên đời di thư. Phùng Lâm ra tay đả thương ba người, cùng Lý Trị chạy lên núi. Lý Trị chợt nghĩ ra một chuyện, nói: “Không xong!”


Phùng Lâm cười nói: “Ca ca ngốc, đã đánh thắng trận, còn có gì không xong?” Lý Trị chau mày nói: “Ta đã nhớ lại. Vốn là muội không phải truyền nhân của phái Vô Cực”. Phùng Lâm nói: “Muội vốn chỉ lừa huynh mà thôi. Lẽ ra huynh không nên biết điều này, tại sao giờ mới nhớ ra”. Lý Trị cười khổ nói: “Ta chỉ mãi đọc di thư nên quên bẵng hết mọi chuyện. Y thư của Phó Thanh Chủ ngoại trừ truyền nhân y bát của phái Vô Cực, người khác không được lấy”. Phùng Lâm chưng hửng, cười nói: “Chả lẽ phải trả lại cho Niên Canh Nghiêu sao?” “Đương nhiên không thể, nhưng chúng ta cũng không nên chiếm làm của riêng” “Dù sao cũng là vật vô chủ, chúng ta giữ lấy có hề gì?” “Nhưng người quân tử chẳng làm như thế”. Phùng Lâm giận dỗi nói: “Huynh đã đọc thuộc y thư, muội cũng đã tập quyền kinh kiếm quyết, làm sao lấy ra bây giờ?” Lý Trị rất khổ não, nói: “Sớm biết như thế, huynh đã không nên đọc”. “Huynh chẳng phải nói Dịch bá mẫu của huynh có thể lập truyền nhân cho phái Vô Cực sao? Bảo người lập muội là được rồi”. Lý Trị nói: “Muội và phái Vô Cực có quan hệ gì, muội đâu phải là đệ tử của Chung Vạn Đường”. Phùng Lâm chợt nói: “Lần đầu tiên muội nghe tên Chung Vạn Đường đã cảm thấy rất quen, không biết là vì nguyên cớ gì? Có lẽ không chừng muội cũng có liên quan đến phái Vô Cực”. Lý Trị cười nói: “Muội lại gạt huynh!”


Phùng Lâm tuy thắc mắc, Lý Trị trong lòng cứ không yên, sau đó Phùng Lâm chẳng hề để ý đến chàng nữa. Đến chiều, hai người đã tới Bát Đạt lĩnh, chợt nghe trong rừng vọng ra tiếng chuông chùa. Lý Trị nói: “Chúng ta đến đấy ở nhờ một đêm”. Hai người tìm đến một ngôi chùa hoang vắng, tiếng chuông vọng ra từ ngôi chùa này. Lý Trị đến gõ cửa, tiếng đọc kinh bên trong ngừng lại, ở nơi cửa có một ni cô trung niên tay cầm tràng hạt nói: “Dưới chân núi không xa có nhà nông, tôi chỉ là một ni cô, không tiện cho khách ở nhờ”.


Phùng Lâm ngẩng đầu nhìn, chợt thấy ni cô này tựa như rất quen, ni cô cũng thấy Phùng Lâm, chợt đổi sắc mặt, người hơi rung nói: “Ồ, té ra cũng có một nữ cư sĩ, xin mời vào, mời vào!”


Lý Trị không biết tại sao bà ta lại thay đổi nhanh như thế, chỉ thấy Phùng Lâm đã theo bà ta vào trong liền nói tiếng đáp tạ. Ngôi chùa cổ tuy hoang vắng nhưng bên trong rất sạch sẽ, ni cô chợt thở phào, quay đầu lại hỏi: “Xin hai vị cho biết tên?” Lý Trị và Phùng Lâm đều dùng tên giả trên đường, ni cô vừa hỏi, Lý Trị đã nói tên giả của hai người ra, trên mặt ni cô lộ vẻ thất vọng.


Lý Trị rất lấy làm lạ, Phùng Lâm thì thấy ngẩn ngơ, tựa như cảm thấy có một việc gì đó liên quan rất mật thiết với mình. Ni cô trung niên mời hai người ngồi rồi nói: “Xin hỏi nữ cư sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?” Phùng Lâm nói: “Mười tám tuổi!” Lý Trị thầm nhủ: “Ni cô này thật vô lễ, sao vừa gặp mặt đã hỏi tuổi tác của người ta?”


Thật kỳ lạ, Phùng Lâm vốn rất nghịch ngợm, thế mà lại tỏ ra ngoan ngoãn trước ni cô này, bà ta hỏi gì thì nàng đáp nấy, chẳng hề giận dỗi, cũng chẳng hề cười đùa. Lý Trị sợ nàng để lộ thân phận, chốc chốc lại cắt lời họ. Một hồi sau, ni cô vẫn ngồi gợi chuyện với Phùng Lâm. Lý Trị hỏi thẳng: “Chúng ta đã đi một ngày, trong bụng đã đói, không biết có thể cho một ít cơm chay không?” ni cô chợt nhớ ra, nói: “Xin lỗi cư sĩ, tôi đã chậm trễ”. Rồi bước vào nhà bếp.


Lý Trị vội vàng nói bên tai Phùng Lâm: “Muội không thể nói bừa được, hãy nhớ lấy, đừng nói chuyện muội đã từng ở phủ Tứ bối lạc. Chuyện này rất bí mật, đâu biết ni cô này là người thế nào?” Phùng Lâm lại tỏ vẻ khó chịu, nói: “Ni cô này rất thân thiện lại hiền lành, tựa như người thân của muội vậy”. Nhưng thấy Lý Trị không vui, chỉ đành cười bảo: “Huynh hãy yên tâm, muội sẽ không nói bừa”. Ni cô ấy lại bước ra, tay cầm nửa bát cơm chay, nói: “Thật không may, chỉ còn thừa một ít. Cơm và thức ăn đều đã hết, lúc này trời vẫn chưa tối, cư sĩ có thể xuống núi xin cho tôi một ít gạo không?” Lý Trị không tiện từ chối, Phùng Lâm nói: “Huynh hãy mau đi đi, huynh chẳng phải hòa thượng, không cần hóa duyên, dùng tiền là mua được”. Lý Trị nói: “Chi bằng chúng ta xuống núi ở trọ để khỏi quấy rầy sư thái”. Ni cô nói: “Không sao, tôi thích hai người nghỉ đêm tại đây”. Phùng Lâm nói: “Đúng thế, muội cũng thích ở đây. Huynh đi mau!”


Lý Trị hết cách, chỉ đành bưng cái bát ra cửa, khi chạy xuống núi trời đã tối. Lý Trị thầm trách: “Trong thiên hạ sao lại có một ni cô chẳng hiểu lý lẽ như thế”. Chàng không biết xin gạo ở đâu, chợt nghe bên dưới có tiếng quát tháo, té ra đó là tiếng của Hải Vân hòa thượng. Lý Trị quát một tiếng lập tức phóng xuống.


Xuống đến chân núi, Hải Vân hòa thượng đã bỏ chạy, chỉ thấy hai người nằm la liệt, chỉ có một người vẫn còn cử động được. Lý Trị vội vàng đến lật người ấy lại, người ấy mặt đầy máu, mở to mắt kêu: “Té ra là ngươi! Ngươi cứ đâm một đao để ta chết cho rồi!”


Lý Trị ngạc nhiên, nhưng chợt nhớ lại đây là người mới đòi sách của mình, trong lòng lấy làm áy náy: “Tôi với ông chẳng thù chẳng oán, giết ông làm gì?” Quảng Liên nói: “Ngươi không giết ta cũng chẳng sống nổi, chi bằng cứ cho ta một nhát đao, ta sẽ biết ơn ngươi”. Lý Trị nhẹ nhàng bắt mạch cho ông ta rồi nói: “Đừng lo, tôi có thể trị cho ông”. Quảng Liên tựa như đã đỡ hơn, lại nói: “Sư đệ của ta muốn cướp sách của các người, các người đừng đối chọi với y, hãy tránh mặt y!”


Lý Trị đang lấy làm lo lắng vì chuyện di thư của Phó Thanh Chủ, hỏi: “Sư đệ của ông là ai?” Quảng Liên nói: “Là Chưởng môn Trương Thiên Trì của phái Thiên Đài”. Vì ông ta nói quá nhiều nên đã đuối sức, hơi dần dần yếu đi. Lý Trị lại xem qua vết thương của ông ta, thấy ông ta bị thương tuy nặng nhưng mình vẫn còn cứu nổi, liền nói: “Ông không cần nói nhiều, tôi sẽ cõng ông đến ngôi chùa gần đây để trị cho ông. Lẽ ra chúng tôi không nên lấy quyển sách ấy, chúng ta hãy hòa giải với nhau”. Quảng Liên hít sâu một hơi, nói: “Ngươi không cần an ủi ta, xương ngực ta đã gãy, lại bị nội thương, dù có danh y cũng khó trị. Ngươi lấy đức báo oán đúng là một trang quân tử. Trước khi chết ta nhờ ngươi hai việc”. Lý Trị nói: “Ông không chết được đâu!” Quảng Liên vẫn một mực nói: “Ngươi không hứa, ta chết không nhắm mắt”. Lý Trị nghe thế liền bảo: “Ông cứ nói đi”. “Sau khi ta chết, ngươi hãy đem di thể của ta trao cho Trương Thiên Trì. Hôm nay y không thấy ta trở về, ngày mai chắc chắn sẽ đi ngang qua đây, ngươi gặp y, bảo y mau chóng giải tán mọi người rồi ẩn cư đi thôi”. “Nhưng ông vừa mới bảo tôi phải tránh mặt y kia mà”. “Đúng thế, ta sẽ để lại thư”. Rồi cắn ngón tay, xé toạc áo viết một bức huyết thư, viết xong sức đã tận, chỉ nói được một câu: “Ta còn có hai đứa cháu ngoại...” đến đây thì bất tỉnh nhân sự.


Lý Trị vội vàng bắt mạch cho ông ta, chỉ thấy mạch tuy yếu nhưng vẫn chưa đứt, liền bẻ gai tùng đâm vào huyệt để huyết khí lưu thông, lại lấy thuốc kim sang mang theo bôi vào vết thương cầm máu, thầm nhủ: “Giờ đây ông ta bị thương quá nặng, không thể cử động. Bị nội thương tốt nhất là phải tịnh dưỡng”. Thế rồi ngồi xuống xoa bóp cho Quảng Liên. Một hồi sau, Lý Trị thở phào, cảm thấy đã đói, may mà bọn Quảng Liên có mang theo lương khô. Lý Trị lấy lương khô nhai lót dạ rồi dựa vào gốc cây, bất giác cũng ngủ thiếp đi.


Không biết bao lâu, Lý Trị đột nhiên bị người ta lay tỉnh, chàng mở mắt ra nhìn, chỉ nghe Phùng Lâm trách cứ: “Sao huynh lại ngủ cùng người chết thế này?” Lý Trị nhảy bật dậy, nói: “Bây giờ là lúc nào?” “Là lúc nào nữa? Trời đã sắp sáng! Muội tưởng huynh đã xảy ra chuyện gì. Vị sư thái ấy cũng không yên lòng, đòi đi theo muội tìm huynh, nhưng muội thấy bà ta không biết võ công, cho nên một mình xuống núi tìm”. “Sau khi huynh đi, bà ta lại nói gì?” “Bà ta hỏi chuyện lúc nhỏ của muội, muội chẳng nhớ được, có thể nói được gì? Nhưng muội bảo biết võ công, bà rất vui mừng”. “Sau muội lại cho bà ta biết những điều này?” Phùng Lâm dẫu môi nói: “Điều này cũng không được nói điều kia cũng không được nói, thật là vô lý, ni cô ấy đâu phải người xấu”.


Lý Trị không cãi với nàng, ngồi dậy bắt mạch cho Quảng Liên, thấy mạch tượng của ông ta rất tốt, chàng chần chừ một hồi rồi nói với Phùng Lâm: “Muội hãy ở đây làm cho huynh một chuyện”. Phùng Lâm hỏi: “Đây là ai thế?” “Đây là người chặn đường chúng ta lúc sáng”. “Vậy huynh nhọc lòng chữa trị cho ông ta làm gì?” “Từ từ huynh sẽ nói cho muội nghe. Bây giờ muội hãy nghe lời huynh”. Phùng Lâm giận dỗi nói: “Được rồi, nói đi!” “Muội không được làm càn, phải làm theo lời huynh dặn!” “Được rồi, muội sẽ nghe lời huynh”. “Huynh muốn muội ở đây đợi một tên cường đạo”. Rồi trao bức huyết thư cho Phùng Lâm, nói: “Cường đạo tên Trương Thiên Trì, là sư đệ của người này, muội gặp y, dắt y lên chùa cho huynh. Còn nữa, nếu y động thủ với muội, muội không được đả thương y”. “Được thôi, muội sẽ giúp huynh”. Lý Trị mỉm cười, cõng Quảng Liên lên núi. Lúc này trời đã sáng tinh mơ.


Lại nói Phùng Anh lấy được gói thuốc, trên đường hết sức lo lắng, cứ cầm chắc trong tay sợ đánh rơi. Khi trời sáng, nàng đi ngang qua Bát Đạt lĩnh, phía trước chợt có mười thớt ngựa xông ra, có người kêu: “Chính là ả nha đầu này đả thương huynh đệ chúng ta!”


Tốp người này chính là bọn Trương Thiên Trì. Trương Thiên Trì không thấy Quảng Liên trở về, biết có chuyện xảy ra, ba người bị thương lại đã chết vì chất độc phát tác, chỉ đành đỡ những người bị thương lên lưng ngựa đi tìm kiếm. Bọn họ vừa ra khỏi cửa núi thì gặp Phùng Anh. Trương Thiên Trì nghe nói nàng là hung thủ, bất giác lửa giận bốc lên, thế là rút đôi Phán Quan bút xông tới ra đòn sát thủ!


Lần này khiến Phùng Anh bất ngờ, nàng không kịp lên tiếng kẻ địch đã lao tới phía trước, Phùng Anh lia thanh kiếm, Trương Thiên Trì võ công rất cao cường, hai cây bút đâm xéo ra, bút trái đâm vào huyệt Khúc Trì của nàng, bút phải đâm vào huyệt Huyền Cơ, Phùng Anh buộc phải tiếp chiêu. Trong lúc vội vàng nàng quên bẵng mình đang cầm thuốc trong tay trái, tay phải cầm đoản kiếm hất lên, chặn binh khí kẻ địch, tay trái vươn ra điểm vào huyệt đạo của kẻ địch. Ngay lúc này Phùng Anh kêu lên một tiếng kinh hãi, gói thuốc đã rơi xuống đất, nàng vội vàng nhặt lên, Trương Thiên Trì đang lo lắng, chợt nghe Phùng Anh kêu kinh hoảng, tưởng rằng nàng đã trúng ám khí của đồng bọn nên lập tức vung bút điểm vào sau lưng Phùng Anh.


Phùng Anh trở tay đánh ra một kiếm đâm vào vai phải của y, vội vàng kêu: “Ta không thù không oán với các ngươi, các ngươi để ta lấy thuốc, ta sẽ tha cho các ngươi!” Trương Thiên Trì nói: “Hừ, ngươi còn muốn chạy?” rồi hai cây bút điểm nhanh tới khiến Phùng Anh chẳng thể thoát thân. Thủ hạ của y thấy Phùng Anh kêu lên, lập tức có người nhặt thuốc, cười nói: “Đây là thuốc gì quý báu thế?” Vừa nói vừa xé bao thuốc, lại bảo: “Hừ, cả lá cây và dế mà cũng lấy làm thuốc, chắc chắn đây là một tên nữ yêu!” rồi tiện tay ném xuống dòng suối, bị nước suối cuốn mất dạng!


Phùng Anh đau đớn vô cùng, Đường Hiểu Lan chỉ còn sống không quá ba ngày, thuốc chẳng còn nữa, Diệp Thọ Thường đã chết, dù ông ta còn sống cũng hết cách, đúng là nàng đã rơi vào tâm trạng tuyệt vọng! Chỉ thấy trước mắt hoa lên, suýt nữa đã bị đôi bút của Trương Thiên Trì đâm trúng.


Phùng Anh đau đớn quá nổi điên lên, kêu: “Hôm nay ta không giết ngươi, thề không làm người!” kiếm pháp chợt thay đổi lợi hại hơn trước, võ công của Trương Thiên Trì tuy cao nhưng làm sao đỡ nổi Thiên Sơn kiếm pháp. Huống chi Phùng Anh đã liều mạng cho nên toàn đà đánh những đòn sát thủ. Năm mươi chiêu trôi qua, Trương Thiên Trì rơi vào nguy hiểm. Bè đảng của Trương Thiên Trì thấy kiếm quang bay bổng, khí lạnh tỏa ra xung quanh, chẳng phân biệt được bóng người nữa, chẳng dám bước lên giúp tay.


Trương Thiên Trì không ngờ rằng Phùng Anh lợi hại đến thế, bị nàng đánh đến luống cuống chân tay, cõi lòng lạnh lẽo, chợt nghe thuộc hạ kêu: “Lại có một ả yêu nữ. Trời ơi, ban ngày gặp ma, chạy mau, chạy mau!” Trương Thiên Trì phải dốc hết sức chống đỡ, chẳng dám nhìn ra ngoài, chỉ nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Ngươi có phải là Trương Thiên Trì không?” Trương Thiên Trì nói: “Đúng thế! Nữ anh hùng nào đấy?”


Giọng nói ấy lại trả lời: “Đừng lo, ta giúp ngươi”. Người đến thì kiếm đến, một luồng thanh quang lướt đến trước mặt. Phùng Anh cả kinh, xoay mũi kiếm đâm xuống một nhát, xuyên vào xương tì bà của Trương Thiên Trì, rồi nàng rút kiếm chặn lại, bất giác ngẩn người, hai kiếm chạm nhau, cả hai người đồng thời quát lên: “Ngươi là ai?” Trương Thiên Trì đau đến tận tim phổi, tay phải rũ xuống chẳng giở lên nổi, y ngước mắt lên nhìn, chỉ thấy hai thiếu nữ diện mại y hệt nhau, hai kiếm giao nhau, hai bên đều sững sờ. Y sợ đến nỗi hồn bay phách tán, lạc giọng kêu: “Ma, đúng là gặp ma!”


Té ra người đến sau là Phùng Lâm, nàng không ngờ lúc này đã gặp lại người mà mình muốn tìm.


Chính là:


Đi rách giày sắt chẳng thấy đâu, gặp nhau cứ ngỡ là trong mộng.


Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 39

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 39 Trải qua biết bao gian nan lại đoàn viên Mong gặp mặt một lần ngọc nữ kinh tâm


Trương Thiên Trì chạy thục mạng, Phùng Anh đã mất thuốc giải cho Đường Hiểu Lan, lửa giận bốc lên đầu, thấy y bỏ chạy chẳng màng đến việc nhận tỷ muội nữa, nàng lướt người lao bổ xuống như chim ưng bắt thỏ, vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm vào sau lưng của Trương Thiên Trì.


Chợt nghe Phùng Lâm kêu: “Nương tay!” Phùng Anh chưng hửng, chỉ thấy Phùng Lâm cũng lướt đến, từ trên không bổ xuống. Mũi kiếm của Phùng Anh vừa mới nhả ra, đã bị nàng từ trên gạt xuống đánh keng một tiếng, hai kiếm đều bật ra. Hai tỷ muội vọt ngang ba bước, Trương Thiên Trì lại chạy về phía trước. Phùng Lâm thấy thân pháp của Phùng Anh quá nhanh, nhất thời nôn nóng cho nên thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích học được từ Bát Tý Thần Ma, tuy đã cứu được Trương Thiên Trì nhưng khiến Phùng Anh nổi lòng nghi ngờ.


Phùng Anh từng cùng Bát Tý Thần Ma đấu mấy lần ở ngoài hải đảo, có ấn tượng rất sâu đối với thuật Miêu Ưng Phốc Kích của y. Vừa thấy thân pháp của Phùng Lâm là chiêu số của lão ma đầu này thì bất giác ngẩn ra, thầm nhủ: “Nó ra tay cứu ác tặc, dùng chiêu số của Bát Tý Thần Ma, chả lẽ nó cùng một giuộc với kẻ xấu?” bất giác lòng đau như cắt, nàng mở mắt nhìn trừng trừng Phùng Lâm. Từ nhỏ Phùng Anh được Dịch Lan Châu dạy dỗ, rất coi trọng chuyện chính tà, lúc này phát giác muội muội của mình là kẻ xấu, trong nhất thời tâm trạng sợ hãi đau đớn, lo buồn đan xen nhau, nàng không biết làm thế nào mới phải!


Còn Phùng Lâm thấy Phùng Anh cứ trừng mắt nhìn mình, bất giác bật cười, thầm nhủ: “Nàng có dung mạo giống mình, không biết võ công như thế nào?” bởi vậy mới có ý thử chiêu, cười rằng: “Trừng mắt nhìn ta làm gì?” rồi trở tay đâm một nhát kiếm vào huyệt đạo của Phùng Anh, đồng thời chân giở lên đá vào khớp gối của nàng. Hai chiêu này, một chiêu là Thiên Nam kiếm pháp của Hải Vân hòa thượng, một chiêu là gia số của Đổng Cự Xuyên phái Linh Sơn. Phùng Anh nào biết nàng thử chiêu, buộc phải lấy công làm thủ, thế là xoay người, đâm soạt soạt hai kiếm, phá giải chiêu số của Phùng Lâm.


Phùng Lâm cười rằng: “Kiếm pháp hay!” rồi tay trái đánh ra một chiêu Thái Phụng Toàn Ổ, tay phải đánh ra một chiêu Vân Long Điếu Đầu lướt người tới trước. Phùng Anh quát: “Sao ngươi không biết tự kiểm, giúp cho kẻ gian, không sợ làm ô nhục cha mẹ hay sao?” chiêu số của Phùng Lâm rất lanh lẹ, nàng chặn được mấy chiêu, Trương Thiên Trì đã chạy hơn nửa dặm.


Phùng Anh nổi giận, quát: “Ngươi còn cản nữa, ta sẽ trừng phạt ngươi!” Phùng Lâm cười nói: “Ngươi có bản lĩnh cứ thử xem!” Phùng Anh lướt người vẫy mũi kiếm, chỉ thấy ngân quang tỏa ra, Phùng Lâm kêu không xong, trong ánh kiếm bóng người, Phùng Anh giở tay tát bốp tới, thấy Phùng Lâm rụt đầu kêu hoảng, trong lòng không nỡ, cho nên tay chỉ lướt qua mặt nàng, Phùng Lâm xoay người đánh ra, cười nói: “Ta đã bảo ngươi đánh không trúng kia mà!” Phùng Anh mặt lạnh như sương, hừ một tiếng, phóng vọt người lên đuổi theo Trương Thiên Trì.


Phùng Lâm kêu: “Y đã bị thương, tại sao ngươi còn bức hiếp người ta? Ngươi không hiểu quy củ giang hồ sao?” rồi lại thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích từ trên không bổ xuống, chặn Phùng Anh lại, kêu: “Trương trại chủ, ngươi chạy lên núi, trên núi có một miếu nhỏ, trong miếu có người cứu ngươi”. Trương Thiên Trì kinh hãi, quay đầu lại kêu đa tạ rồi cố nén đau chạy lên núi.


Phùng Anh nổi giận mắng: “Nha đầu, ta phải dạy cho ngươi một bài học!” rồi nàng thi triển Thiên Sơn kiếm pháp liên tục tấn công, đâm vào cổ tay của Phùng Lâm, muốn buộc nàng buông kiếm, Phùng Lâm nhảy nhót né tránh, vận dụng mấy loại võ công mà vẫn chỉ có thể chống đỡ.


Trong lúc kịch đấu Phùng Anh kêu: “Buông kiếm!” Mũi kiếm hất tới, vừa nhanh vừa chuẩn, Phùng Lâm chợt kêu: “Chưa chắc!” rồi cây kiếm gạt từ trong ra ngoài, kiếm thế trông rất chậm, Phùng Anh chỉ cảm thấy một luồng kình lực đẩy về, bất giác kêu ồ một tiếng, chỉ thấy kiếm pháp của Phùng Lâm lại thay đổi, kiếm thế trong nhu có cương, đúng là kiếm pháp thượng thừa của nội gia.


Té ra Phùng Lâm đã nghiên cứu Vô Cực kiếm pháp của Phó Thanh Chủ, đây là lần đầu tiên sử dụng, Vô Cực kiếm pháp tuy không tinh diệu bằng Thiên Sơn kiếm pháp nhưng có sở trường lấy nhu khắc cương, trong nhất thời Phùng Anh chẳng làm gì được nàng. Được khoảng năm mươi chiêu, Phùng Anh nổi giận, triển khai Đại Tu Di kiếm pháp, chỉ thấy một luồng kiếm quang đè lên đầu của Phùng Lâm tựa như núi Thái, khiến nàng rất khó chịu. Công lực của Phùng Lâm dẫu sao cũng kém hơn Phùng Anh, dần dần không triển khai được kiếm thế.


Phùng Anh ngầm vận kình, lại quát: “Còn chưa buông kiếm?” rồi từ trên đè xuống, Phùng Anh lướt người ra phía sau, kiếm dẫn ra sau, hai kiếm chạm vào nhau kêu keng một tiếng, Phùng Lâm chợt thối lui ra sau, kêu: “Nguy thật!” rồi vụt chạy lên núi!


Chiêu này của Phùng Lâm là tinh hoa trong Vô Cực kiếm pháp, trước tiên dùng nhu lực hóa giải các kình của kẻ địch, sau đó phản công, nhưng Phùng Lâm thấy kiếm pháp của Phùng Anh ảo diệu vô cùng, biết nếu cứ đánh tiếp chắc chắn sẽ thất bại cho nên không cần phản công đã thối lui ra sau.


Phùng Anh dùng Đại Tu Di kiếm thức mà cũng không thể đoạt binh khí trong tay nàng, bất giác thất kinh, thầm nhủ: “Võ công của nó ghê gớm thế này, mình càng không thể để cho nó đi vào nẻo tà, nối giáo cho giặc”. Thế là cầm kiếm đuổi theo.


Khinh công của Phùng Lâm tuy không bằng Phùng Anh, nhưng khi bị đuổi đến quá gần, nàng trở tay đánh lại một kiếm, dùng những chiêu số phòng thân tinh diệu trong Vô Cực kiếm pháp chống trả, trong vòng mấy chiêu Phùng Anh chẳng thể nào đánh bại nàng, chỉ đành đuổi sát theo sau. Chạy một hồi, nàng thấy phía trước có một cái am nhỏ, tiếng chuông bên trong vọng ra, Phùng Lâm chúm môi huýt một tiếng sáo, có ý dụ Lý Trị ra để cho chàng bất ngờ, Phùng Anh tưởng rằng nàng gọi đồng đảng cho nên càng đuổi sát theo sau.


Khi Lý Trị đưa Quảng Liên lên núi, trời đã sáng, chỉ thấy ni cô trung niên ngồi xếp bằng trên bồ đoàn ở đại điện. Lý Trị rất không vui vì chuyện đêm qua, nói: “Cứu người một mạng còn hơn xây bảy bậc phù đồ, sư thái, xin thứ tôi đã quấy nhiễu bà”. Ni cô đứng dậy nói: “Cứu người là chuyện đương nhiên. Tiểu cô nương đâu?” Lý Trị nói: “Nàng đợi một người bằng hữu, lát nữa sẽ trở về”.


Lúc này Quảng Liên đã tỉnh dậy, vẫn còn nằm trên lưng Lý Trị, ông ta hỏi: “Ai đang nói thế? Có phải là Luyện Hà không?” tiếng nói tuy rất yếu nhưng ni cô nghe tựa như sấm nổ giữa trời xanh, vội vàng chạy tới đỡ Quảng Liên, nước mắt lưng tròng, một lát sau mới thốt lên: “Trời, cha, có phải là cha không?” Lý Trị ngạc nhiên, đặt Quảng Liên xuống, định hỏi han, chỉ thấy hai người đã ôm nhau, Quảng Liên run lên bần bật, chợt kêu lên một tiếng rồi ngất xỉu.


Ni cô trung niên khóc: “Cha, cha đừng đi!” Lý Trị bắt mạch cho Quảng Liên, nói: “Ông ta vì mừng quá độ, nhất thời kích động cho nên ngất đi, không hề gì”. Ni cô thấy Quảng Liên dình đầy máu, mặt vàng ệt thì rất lo lắng, Lý Trị nói: “Ông ta bị thương tuy nặng nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đảm bảo sau ba ngày ông ta có thể ngồi dậy, sau một tháng có thể hồi phục bình thường!” ni cô ngừng khóc, giúp Lý Trị đưa Quảng Liên vào tịnh thất, Lý Trị nói: “Tôi sẽ thôi cung quá huyệt cho ông ta”.


Ni cô trung niên đứng một bên khóc thút thít, một hồi sau, Quảng Liên đã ngủ thiếp đi, Lý Trị nói: “Chúng ta ra ngoài”. Ni cô trung niên lau nước mắt, bước ra đại điện, thắp nhan đèn rồi quỳ xuống trước tượng Bồ Tát lầm rầm khấn vái. Lý Trị đứng một bên, nghe bà ta nói văng vẳng: “Tín nữ Quảng Luyện Hà đa tạ Bồ Tát phù hộ, ban cho cha con chúng con đoàn viên. Cầu xin Bồ Tát lại thi triển Phật lực, phù hộ cho Anh nhi và Lâm nhi bình an vô sự, sớm ngày trở về bên con”. Lý Trị giật mình, vội hỏi: “Bà còn có hai người con gái?” lúc này bên ngoài vọng vào tiếng đánh nhau, ni cô chậm rãi đứng dậy, gõ mấy tiếng chuông rồi bước ra cửa chùa, trong khoảnh khắc, Lý Trị chợt thấy ánh mắt bà tựa như chan chứa tình yêu vô hạn, tựa như mẹ của mình vậy.


Lý Trị cũng lặng lẽ bước ra, tiếng rượt đuổi nhau từ bên ngoài vọng vào, Lý Trị nghĩ: “Chả lẽ Lâm muội đã gặp cường địch?” rồi chàng nhìn xuống, chợt thấy có một hán tử thân hình cao lớn, vai dính đầy máu loạng choạng chạy lên. Lý Trị hỏi: “Ngươi là ai?” người ấy nói: “Chưởng môn của phái Thiên Đài Trương Thiên Trì”. Lý Trị nói: “Bằng hữu của ngươi đang đợi phía trong”. Rồi đưa tấm huyết thư của Quảng Liên, Trương Thiên Trì xem xong mặt biến sắc, hỏi: “Chả lẽ Quảng Liên đã gặp nạn? Ngươi là ai? Làm sao có được tấm huyết thư này?” Lý Trị nói: “Quảng tiên sinh đã bị thương nhẹ, không hề gì. Ông ta nhờ tôi cứu huynh. Huynh có thấy một tiểu cô nương không?” Trương Thiên Trì nói: “Tôi thấy hai người, một người cứu tôi, một người giết tôi, cả hai đều giống hệt nhau!” y nói xong thì té nhào xuống.


Ni cô trung niên lúc này mới lẩm bẩm: “Giống hệt nhau, trên đời lại có chuyện trùng hợp đến thế?” Lý Trị giật mình, ni cô lại nói: “Xương tì bà của y đã bị đâm thủng, tiểu huynh đệ biết y thuật, hãy mau cứu y, y là bằng hữu của cha tôi, chắc không phải người xấu”. Lý Trị lại thất kinh: “Lẽ nào ni cô này cũng biết võ công?” rồi nói: “Vậy xin sư thái đứng ở đây đợi bằng hữu của tôi”. Ni cô vẫn đứng nhìn ra xa, không quay đầu lại, lẩm bẩm: “Ta biết rồi, ta sẽ đội, ta đã đợi mười bảy năm qua!” giọng nói tràn trề nỗi niềm u oán, Lý Trị giật mình, cõng Trương Thiên Trì vào tịnh thất, trong lòng kỳ lạ, bàng hoàng, liệu rằng chắc sẽ có chuyện bất ngờ xảy ra.


Lại nói Phùng Anh đuổi theo Phùng Lâm, bất giác đã lên đến ngôi chùa, chợt nghe một giọng nói nghiêm nghị mà đầy từ ái kêu lên: “Ngừng tay!”


Giọng nói ấy tựa như có sức mạnh không thể kháng cự nổi, hai người không hẹn mà đều ngừng lại, ngẩn người ra nhìn, chỉ thấy trước cửa chùa có một ni cô trung niên, mắt chan chứa lệ nhòa, thở dài rồi lắc đầu: “Cốt nhục gặp nhau mà cũng không biết, tự tàn sát lẫn nhau, thật là đáng thương!”


Ni cô trung niên này chính là Quảng Luyện Hà, khi bà gặp Phùng Lâm, đã nghi nàng là con của mình, nhưng vì tên họ khác nhau, không dám nhận nhau, nay thấy họ y hệt nhau, nghĩ bụng trên đời ngoại trừ hai đứa con song sinh của mình, chẳng có người nào giống nhau như thế.


Phùng Anh và Phùng Lâm đều cảm thấy cõi lòng chao đảo, Phùng Anh ngẩng đầu hỏi: “Bà ta ai? Bà làm sao biết chúng tôi là tỷ muội?” Phùng Lâm cũng kêu: “Sư thái, bà có biết lai lịch của tôi không? Đêm qua tại sao bà không nói? Nàng có phải là tỷ tỷ của tôi không?” Quảng Luyện Hà vừa mừang vừa đau xót, đột nhiên chạy tới, tay trái nắm Phùng Anh, tay phải nắm Phùng Lâm, một lúc sau mới mỉm cười: “Các con hãy cười cho ta xem, ta sẽ biết ai là tỷ tỷ, ai là muội muội”.


Phùng Anh ngẩn ra nhìn mẹ, trong nhất thời chẳng cười được, Phùng Lâm lại bật cười một tiếng, đột nhiên đưa tay cù vào nách Phùng Anh, nói: “Sư thái bảo tỷ cười, tại sao tỷ không cười?” Phùng Anh nhột nhạt, bất giác bật cười khanh khách. Chỉ nghe ni cô trung niên kêu: “Lâm nhi, đừng nghịch, con là muội muội, từ rày về sau hãy nghe lời tỷ tỷ của con!” Phùng Anh, Phùng Lâm thấy thế đều không hẹn mà kêu lên: “Mẹ!” rồi ba người ôm nhau, sáu dòng nước mắt chan hòa rơi xuống.


Mẹ con gặp nhau tựa như cách thế, Quảng Luyện Hà vừa khóc vừa cười, ôm hai đứa con vào lòng, cũng không biết trải qua bao lâu, chợt nghe một tiếng: “Anh muội!” Lý Trị từ am ni cô chạy ra, thấy thế vừa mừng vừa kinh ngạc. Quảng Luyện Hà cười nói: “Lý huynh đệ hãy đến gặp hai đứa con gái của tôi, đa tạ đã cứu cha tôi, lại đưa Lâm nhi đến, giúp cho cả nhà chúng tôi đoàn viên”.


Phùng Lâm và Phùng Anh lau nước mắt, kêu lên: “Lý ca ca!” rồi chạy tới, nhưng không hẹn mà đều đứng lại. Lý Trị thấy mắt hoa lên, trong nhất thời chẳng nhận ra đâu là tỷ tỷ, đâu là muội muội, đang cố nhớ lại sáng nay Phùng Lâm mặc quần áo thế nào. Quảng Luyện Hà nói: “Anh nhi Lâm nhi, các con lại cười lên xem nào”. Lần này Phùng Anh và Phùng Lâm đều cười, Quảng Luyện Hà chỉ họ nói: “Tiểu huynh đệ xem, chúng thật giống nhau, lúc nhỏ cả ta cũng không nhận ra. nhưng khi bọn chúng cười lại có một lún đồng tiền, đồng tiền của tỷ tỷ nằm ở bên má trái, đồng tiền của muội muội nằm bên má phải, tiểu huynh đệ hãy nhìn cho kỹ, sau này đừng nhận lầm nữa”.


Phùng Lâm cười khanh khách, bước tới nắm tay Lý Trị, nói: “Mẹ, lát nữa y sẽ phân biệt được. Con nghịch ngợm hơn tỷ tỷ nhiều!”


Chợt Phùng Anh nhớ lại số thuốc mình vất vả lắm mới có được đã trôi theo dòng nước, Đường Hiểu Lan sắp mất mạng tới nơi, trong lòng đau đớn, bất giác nước mắt rơi như mưa. Lý Trị thấy thế, giật mình thầm nhủ: “Anh muội và mình là đôi thanh mai trúc mã, tuy không thề ước trước nhưng tâm sự của nữ nhi thật khó liệu. Mình xuống núi không đầy ba năm đã yêu người khác. Chả lẽ vì thế mà nàng hận mình hay sao?” rồi chàng cứ đứng ngẩn ra nhìn Phùng Anh.


Quảng Luyện Hà và Phùng Lâm cũng ngạc nhiên, Phùng Lâm thầm nhủ: “Tỷ tỷ, nếu tỷ muốn y thì cứ nói rõ, khóc để mà làm gì?” trong lòng nàng thầm tính, nếu hai người họ quả thực có tình cảm với nhau thì sẽ nhường Lý Trị cho tỷ tỷ, tuy là nghĩ thế nhưng trong lòng cũng thầm thấy bẽ bàng.


Phùng Anh lau nước mắt nói: “Lý ca ca, Trương Thiên Trì là người thế nào? Tại sao Lý ca ca lại bao che cho y? Hãy kêu y ra đây, muội phải chặt hai tay của y mới giải được nỗi hận trong lòng!”


Lý Trị ngạc nhiên nói: “Muội và Trương Thiên Trì có thù hận gì? Y là Chưởng môn của phái Thiên Đài, tuy không phải là người hiệp nghĩa nhưng cũng chẳng phải kẻ đại ác, vả lại y còn là bằng hữu của ngoại tổ phụ muội!”


Phùng Anh nghe thế, lại khóc như mưa, Quảng Luyện Hà nói: “Anh nhi, con có việc gì thế?” Phùng Anh nói: “Y chẳng phải người tốt, đã làm mất thuốc giải của con”. Quảng Luyện Hà nói: “Thuốc giải gì?” Phùng Anh thút thít nói: “Con phải cứu một người bằng hữu, thế mà tên Trương Thiên Trì này lại vô cớ động thủ với con, ném thuốc giải của con xuống khe suối, khiến con chẳng tìm lại được”. Phùng Lâm chợt hỏi: “Bằng hữu của tỷ là nam hay nữ?” Phùng Anh đỏ mặt nói: “Lý ca ca, người này cũng rất quen với huynh. Huynh còn nhớ Đường thúc thúc của muội không? Y đã ở Thiên Sơn ba năm”. Lý Trị nói: “Ồ, té ra là Đường Hiểu Lan!” chàng ta thấy vẻ lo lắng của Phùng Anh, biết không chỉ là tình cảm của một tiểu điệt nữ giành cho thúc thúc, trong lòng cả mừng, lại thầm trách mình đã suy đoán bừa bãi.


Phùng Lâm bất giác bật cười, nói: “Tỷ tỷ, muội đã liên lụy đến tỷ. Trương Thiên Trì vốn là tìm muội, bởi vì thủ hạ của y cướp một quyển sách của chúng tôi, bị muội dùng phi đao đả thương ba người”. Phùng Anh ngạc nhiên: “Vậy tại sao các người lại cứu y?” Lý Trị trả lời: “Oan gia nên giải không nên kết, thực ra quyển sách ấy không phải của chúng tôi, vật vô chủ chả trách nào bọn chúng dòm ngó”.


Lúc này Phùng Anh mới bớt giận, chợt nghĩ Đường Hiểu Lan sắp mất mạng, càng thêm đau lòng. Lý Trị nói: “Đường đại ca bị bệnh gì, có phải trúng ám khí có độc hay không? Muội nói cho huynh nghe thử không chừng huynh có thể trị”.


Phùng Lâm chen vào: “Quyển sách lúc nãy mà muội nói chính là di thư của Phó Thanh Chủ”. Phùng Anh nghe thế, trong lòng lại nảy lên một tia hy vọng, nói: “Vậy huynh hãy mau đến xem thử. Nhưng biết tìm lá ngô đồng mùa thu và dế trống mái ở đâu?” Lý Trị nói: “Tại sao cần phải có loại thuốc này?” Phùng Anh nói: “Là bài thuốc của Diệp Thọ Thường, ông ta là đồ đệ của Phó Thanh Chủ”.


Lý Trị nói: “Ồ, té ra là Diệp Thọ Thường. Trong sách của Phó Thanh Chủ từng nhắc đến tên ông ta, Anh muội, hãy cho huynh biết triệu chứng của Đường đại ca”.


Phùng Anh kể lại kỹ càng mọi chuyện, Lý Trị nhíu mày, tự thấy không nắm được phần thắng.


Bởi vì chàng ta chỉ là đọc kỹ y thư, tinh thông y lý chứ không có kinh nghiệm lâm sàn, hơn nữa triệu chứng Đường Hiểu Lan, trong sách không những không ghi mà về mặt y lý cũng không thông. Nhưng vì để an ủi Phùng Anh, vẫn gượng cười nói: “Ngày mai huynh sẽ cùng muội đến thăm bệnh cho y”. Phùng Anh nói: “Có thể đi ngay bây giờ được không?” Lý Trị nói: “Cần gì phải gấp như thế?” Phùng Anh chảy nước mắt nói: “Huynh không biết đó thôi, nếu trưa ngày mai không kịp cứu thì chắc chắn sẽ chết”. Lý Trị nói: “Vậy các người ở cách đây bao xa?” Phùng Anh nói: “Khoảng hai trăm dặm!” Lý Trị nói: “Vậy canh ba hôm nay chúng ta sẽ lên đường, chắc là trưa ngày mai đến nơi. Xương tì bà của Trương Thiên Trì đã bị gãy, nếu không kịp thời cứu, y sẽ bị phế võ công. Tốt xấu gì y cũng là Chưởng môn của một phái, chúng ta không thể để cho võ công của phái Thiên Đài bị đứt đoạn!” Phùng Anh suy nghĩ, xương tì bà của Trương Thiên Trì là do mình đâm thủng, lại nhớ chuyện Lữ Tứ Nương cứu Độc Long Tôn Giả, nghĩ mình mới gặp lại mẹ, vẫn còn có nhiều điều muốn nói, lại còn có ngoại tổ phụ nên khẳng khái nói: “Được, chỉ đành như thế. Đường thúc thúc nói sống chết có số, chúng ta đành phải dốc hết sức”.


Khi đang nói, chợt có mười người trèo lên núi, Lý Trị vừa nhìn thì cười: “Lâm muội, khách của muội đã đến thăm. Những kẻ bị đao độc của muội đả thương, muội hãy trị cho họ”. Phùng Lâm bước lên, những người ấy quát tháo lại định bỏ chạy, Phùng Lâm nói: “Trại chủ của các ngươi ở đây, nào, ta sẽ cho các ngươi thuốc giải”. Thủ hạ của Trương Thiên Trì đã cứu Trại chủ của mình, lại không nhận ra nàng là tỷ tỷ hay muội muội, là bằng hữu hay địch thủ, nhưng cũng kêu những người bị thương lên núi. Thế rồi trong đêm hôm ấy, cha con ông cháu nhận nhau, cả nhà lại được đoàn viên, ai nấy đều mừng mừng tủi. Lý Trị lại giúp Phùng Lâm nhớ lại những chuyện trước kia.


Trời chưa đến canh ba, Lý Trị đã cùng Phùng Anh lên đường quay về cứu Đường Hiểu Lan.


Phùng Lâm ở lại am ni cô giúp mẹ chăm sóc cho Quảng Liên. Họ đưa Phùng Anh xuống lưng chừng núi, Quảng Luyện Hà dặn đi dặn lại: “Sau khi Hiểu Lan khỏe, con hãy dắt hắn lên gặp mẹ”.


Phùng Anh vội vàng cùng Lý Trị xuống núi, nhân lúc trăng mờ sao thưa, cả hai thi triển khinh công phóng đi, trời chưa sáng họ đã ra ngoài Cư Dung quan.


Lý Trị chợt chậm bước, hỏi kỹ Diệp Thọ Thường đã đoán bệnh của Đường Hiểu Lan như thế nào, Phùng Anh kể rõ lại mọi việc. Rồi lại đưa bài thuốc của Diệp Thọ Thường cho chàng xem. Lý Trị thầm nhủ: “Gió thu hiu hắt, ngô đồng rơi lá. Dùng lá ngô đồng làm thuốc dẫn, chắc là muốn táo khí của người bệnh trầm xuống, qui thần ninh tịnh. Những vị thuốc này đều là thuốc ninh thần, không phải là thuốc giải độc, không biết là lý lẽ gì?”


Lý Trị cứ mải suy nghĩ, chân càng chậm lại, Phùng Anh đang nóng lòng, biết chàng đang dốc hết tâm trí, lại ngại thúc giục. Một lúc lâu trôi qua mà Lý Trị nghĩ chẳng ra. Chàng ngẩng đầu lên, thấy mặt trời đã lên đỉnh núi. Phùng Anh nói: “Đã nghĩ được chưa? Đi mau, kẻo trễ!”


Ở góc núi chợt có người kêu: “Ồ, Lâm quý nhân, đừng vội! Hoàng thượng đang đợi đấy!” Lại có người cười: “Hảo tiểu tử, ngươi dắt quý phi bỏ đi, lại còn dám đâm Phật gia, may thay lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, hôm nay lại gặp ngươi! Hảo tiểu tử, sao còn chưa rút kiếm?” Phùng Anh và Lý Trị thất kinh, khi nhìn lại chỉ thấy hai người, đó là Hàn Trọng Sơn và Hải Vân hòa thượng.


Phùng Anh đang lòng lo như lửa đốt, Hải Vân hòa thượng chưa nói hết câu nàng đã rút soạt thanh kiếm phóng tới, một luồng kiếm quang đâm thẳng vào cổ họng của Hải Vân!


Hải Vân tưởng nàng là Phùng Lâm, nào ngờ kiếm pháp của nàng quá lợi hại, Hải Vân hòa thượng trở cây trường kiếm gạt xuống, khi lách người vai đã trúng một nhát kiếm, tức đến nỗi kêu lên oai oái. Phía bên kia Lý Trị và Hàn Trọng Sơn cũng rút binh khí.


Hải Vân hòa thượng tức muốn điên lên, nhưng Phùng Anh vì đang nôn nóng cứu người nên càng liều mạng hơn với y, nàng cứ lấy công đối công chẳng hề thối lui!


Nội lực của Phùng Anh tuy kém Hải Vân hòa thượng nhưng kiếm pháp lại tinh diệu hơn y, nàng múa tít thanh kiếm đến mức gió mưa không lọt. Hải Vân hòa thượng chưa bao giờ xảy ra tình cảnh chỉ trong hai ngày mà bị thương hai lần, tuy không đến nỗi mất mạng nhưng nguyên khí cũng tổn thương. Lúc đầu còn có thể lấy công đối công nhưng dần dần chỉ có thể chống đỡ.


Phía bên kia Lý Trị không phải là đối thủ của Hàn Trọng Sơn. Công lực của Hàn Trọng Sơn tương đương Liễu Ân, tay tị vân trợ của y múa ngang bổ dọc tựa như cây búa nặng ngàn cân đè xuống. Lý Trị liên tục đánh ra những chiêu nguy hiểm nhưng chẳng thể nào lướt tới gần, Hàn Trọng Sơn cảm thấy kiếm pháp của chàng quỷ dị, cũng không dám khinh địch, vì y cẩn thận nên nắm được phần thắng nhiều hơn, y không nôn tấn công, chỉ muốn khiến Lý Trị khí cùng lực kiệt sau đó ra đòn sát thủ.


Đang lúc kịch đấu Hải Vân hòa thượng lại trúng thêm một nhát kiếm, lần này bị thương nặng hơn, ở ngực đã bị mũi kiếm vạch đứt một đường, Hải Vân hòa thượng vội vàng lướt tới gần Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn tức tối: “Quay về trước đi!” Rồi múa cây tị vân trợ địch với đôi kiếm của Phùng Anh với Lý Trị. Hải Vân hòa thượng cố nén đau bỏ chạy thục mạng.


Thế là tình thế lại thay đổi, Phùng Anh và Lý Trị liên tiếp tấn công, thế không gì cản nổi, Hàn Trọng Sơn công lực tuy cao nhưng đã mấy lần suýt nữa gặp nguy hiểm, bất giác thầm lo. Phùng Anh quát: “Ngươi có nhường đường hay không?” Hàn Trọng Sơn lách người gạt ngang cây trợ, đánh ra một chiêu Hoành Vân Đoạn Phong, không ngờ Lý Trị vẫy mũi kiếm, tựa hư tựa thực, Hàn Trọng Sơn suýt nữa đã trúng kiếm, khi thoái lui từ tay áo đã bị chém mất một mảng. Phùng Anh và Lý Trị múa kiếm tấn công tới, Hàn Trọng Sơn cố gắng chống đỡ một đòn, đột nhiên nhảy vút ra khỏi vòng kiếm, vung tay, hai món ám khí kỳ dị xé gió bay về phía địch thủ.


Té ra đó chính là cái Hồi hoàn câu của y, Lý Trị đã nghe nói đến loại ám khí này, không dám dùng kiếm chặn lại, liên tục vận dụng mấy loại thân pháp né tránh, Phùng Anh thấy Hàn Trọng Sơn võ công cao cường, ám khí lợi hại, thầm nhủ: “Sức hai người mà không thể đánh thắng được y, nhưng chắc chắn y đã hao tổn không ít sức lực, chi bằng cứ dọa y một hồi”. Cái Hồi hoàn câu phát lên tiếng kêu u u, bay xéo tới, Phùng Anh dùng kiếm gạt một cái, cái Hồi hoàn câu đột nhiên hạ xuống, rồi lại bật lên bắn vào ngực của Phùng Anh, Hàn Trọng Sơn kêu lớn: “Không xong!” y vốn chỉ muốn khiến Phùng Anh bị thương để bắt sống, nào ngờ Phùng Anh hất một cái khiến cái Hồi hoàn câu bắn vào ngực của nàng. Hàn Trọng Sơn tưởng nàng là Phùng Lâm, mà Phùng Lâm là người Hoàng đế cần bắt, Hàn Trọng Sơn vào lúc bất đắc dĩ mới dùng loại ám khí này.


Cái ám khí bay nhanh, Hàn Trọng Sơn muốn thu lại cũng không kịp nữa, chỉ nghe bốp một tiếng, cái Hồi hoàn câu cắm vào ngực của Phùng Anh, móc câu móc trước ngực của Phùng Anh. Phùng Anh kẹp tay rút cái Hồi hoàn câu ra, thần sắc vẫn tự nhiên, cười lạnh nói: “Ám khí này có thể làm gì được ta!” rồi thuận tay ném một cái, cái Hồi hoàn câu bay xuống chân của Hàn Trọng Sơn.


Hàn Trọng Sơn nào biết nàng mặc áo giáp, bất giác cả kinh thất sắc. Lý Trị và Phùng Anh lại vung kiếm xông lên.


Hàn Trọng Sơn nghĩ bụng dùng ám khí đả thương họ không được, có đấu nữa cũng địch không nổi đôi kiếm của họ, mà nếu bại trong tay hai kẻ tiểu bối thì thật không đáng. Y chỉ đỡ hờ một trợ rồi vội vàng chạy đi.


Phùng Anh lau mồ hôi trên trán kêu: “Nguy hiểm thật!” Lý Trị nhìn theo Hàn Trọng Sơn, thấy y chạy vào con đường về phía kinh thành, nói với Phùng Anh: “Chúng ta không thể đi đường lớn, nếu đuổi theo y, e rằng lại phải đấu một trận. Cứ vòng đường lớn mà đi thôi”.


Phùng Anh nhìn bóng mặt trời, nhíu mày nói: “Đi đường nhỏ gần hay xa hơn?” Lý Trị nói: “Có lẽ cũng không hơn kém nhau bao nhiêu, song hơi khó đi. Nhưng còn hơn là phải dằn co với y”. Phùng Anh thầm nghĩ, quả thật chỉ có cách đó cho nên chẳng nói một lời chạy theo Lý Trị.


Với khinh công của hai người, nếu bình an thì có lẽ về trước khi mặt trời đứng bóng nửa canh giờ, nhưng bị Hàn Trọng Sơn chặn lại, mặt trời đã lên đến ba cây sào, Phùng Anh trong lòng đã gấp, cũng không màng đường lối gập ghềnh, cứ lao băng băng về phía trước. Lý Trị cũng chẳng thể nào đuổi kịp nàng.


Chạy được hơn một canh giờ, mặt trời đã dần dần lên đến đỉnh đầu! Phùng Anh nói: “Còn bao xa nữa?” Lý Trị thở gấp nói: “Bốn mươi dặm!” Phùng Anh trong lòng lo như lửa đốt, thấy mặt trời đã sắp đứng bóng, mà bốn mươi dặm ít nhất phải chạy thêm nửa canh giờ. Trong lòng hiện lên cảnh tượng Đường Hiểu Lan sắp chết nên đau như dao cắt, chợt nghĩ: “Chàng không thấy mình, e rằng chết không nhắm mắt!” lúc này nàng không còn dám hy vọng cứu sống chàng nữa, chỉ muốn trước khi chết có thể kịp gặp mặt lần cuối.


Phùng Anh dốc sức chạy nhanh như một cái bóng trắng, Lý Trị chạy sát theo sau nàng, vừa chỉ đường cho nàng vừa vận khí cầm cự, bốn mươi dặm trong chớp mắt đã vượt qua, hai người đã đến Tây Sơn, ngôi chùa Đường Hiểu Lan đang ở đã ở trước mặt.


Phùng Anh chợt kêu lên một tiếng, Lý Trị ngẩng đầu lên nhìn, mặt trời đã treo trên đỉnh đầu, tiếp theo lại nghe một tiếng ầm vang lên, đó là tiếng ngọ pháo hằng ngày được bắn ra từ Trường lăng vào lúc giữa trưa, tiếng pháo vọng đến Tây Sơn.


Lý Trị nói: “Đến rồi, đến rồi!” Phùng Anh mặt tái nhợt, càng chạy nhanh hơn, lòng thầm nhủ: “Đến rồi có ích gì? Muộn mất rồi!” tim nàng đập thình thình, trong chớp mắt đã đến trước cửa chùa, chỉ thấy Lãnh Thiền hòa thượng đang đứng chờ phía trước.


Phùng Anh vội hỏi: “Đường thúc thúc của tôi thế nào?” Lãnh Thiền mắt đầy lệ, khẽ nói: “Ở bên trong”. Phùng Anh nhìn sắc mặt ông ta, trong lòng thấy lạnh lẽo, mồ hôi tuôn xuống như mưa, người cứ run lên bần bật.


Lý Trị nói: “Anh muội, đừng lo, vẫn chưa đứt hơi là còn cứu kịp”. Phùng Anh chẳng nói một lời, kéo Lý Trị vào trong, chỉ thấy Cam Phụng Trì chạy ra nói: “Muội đến trễ quá rồi, không cần vào nữa!”


Chính là:


Sấm nổ một tiếng truyền tin xấu, chỉ lo nát lòng nữ nhi thôi.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 40

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 40 Mỉm cười lộ kỳ năng phi đao cắt tóc Lâm nguy trổ diệu thủ liên kiếm trị hung


Phùng Anh chợt nghe câu ấy tựa như sấm nổ trên đầu, khóc chẳng thành tiếng, người cứ run bần bật lao vào cửa, Cam Phụng Trì sợ nàng đau lòng, định cản lại nhưng thấy nàng như thế chỉ đành thở dài nhường đường.


Phùng Anh lao vào bên trong, thấy bọn Ngư Xác, Bạch Thái Quan, Ngư Nương, Lộ Dân Đảm đứng vây quanh bên giường bệnh, họ vừa thấy Phùng Anh thì đều lách ra. Lúc này Phùng Anh mới bật khóc, kêu lên: “Đường thúc thúc, Anh nhi đây, thúc thúc có nghe không?” Đường Hiểu Lan hé mắt, người khẽ động đậy nhưng chẳng nói nên lời. Lý Trị bước vào, chỉ nghe Bạch Thái Quan nói: “Các người đã về muộn, y vừa mới thở dốc!”


Lý Trị lúc này cũng cả kinh, kêu: “Không thể như thế!” rồi vẹt mọi người ra, chỉ thấy Phùng Anh đang khóc rất thảm thương, Ngư Nương và Lý Minh Châu đang đỡ nàng, không để nàng bổ nhào vào người Đường Hiểu Lan.


Lý Trị bắt mạch, chỉ thấy mạch tượng yếu tựa như sợi tơ, lại ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, trên ngực vẫn còn ấm, tim vẫn còn đập nhè nhẹ. Xem kỹ lại mạch, mạch tựa như chẳng hề có triệu chứng của người bệnh, chỉ là rất yếu ớt, hơi thở hầu như cũng không thể phân biệt được, đúng là không thể hiểu nỗi, trong khoảnh khắc chợt nhớ lại cách đoán bệnh của Diệp Thọ Thường và lý do tại sao ông ta dùng lá ngô đồng mùa thu, một cặp dế trống mái và thuốc ninh thần, chàng đang ngồi bật dậy, nói với Phùng Anh: “Hãy nín khóc, nếu không y chẳng sống nỗi!”


Phùng Anh nói: “Có cứu được không?” Lý Trị gật đầu, Phùng Anh vội lau nước mắt. Mọi người đều ngạc nhiên, rõ ràng đã đứt hơi tại sao bảo còn có thể cứu? Vả lại trong lúc này biết tìm thuốc ở đâu?


Lý Trị kéo Phùng Anh qua một bên, khẽ nói: “Muội dùng ngón tay đâm vào nhân trung của y, kêu bên tai y rằng đã tìm được linh đơn!”


Phùng Anh nghi hoặc, nói: “Linh đơn ở đâu?” Lý Trị nói: “Hôm nay muội phải nghe lời huynh, đảm bảo sẽ có công hiệu”.


Phùng Anh nửa tin nửa ngờ, làm theo lời Lý Trị, chỉ thấy Lý Trị đổ một ly nước nóng, tiện tay bốc một ít tro nhang trong lư nhang búng vào ly nước, nói: “Cho y uống vào!”


Phùng Anh mặt biến sắc, Lý Trị đã trừng mắt nói: “Mau cho y uống, đó chính là linh đơn!” vẻ mặt của chàng rất nghiêm túc. Phùng Anh bưng ly nước, Lý Trị lại nói: “Đổ vào, bảo là linh đơn!”


Phùng Anh nói nên tai Đường Hiểu Lan: “Linh đơn đây!” Đường Hiểu Lan lại nhúc nhích người, Lý Trị nói tiếp: “Uống vào sẽ khỏe!” Phùng Anh đổ Lý Trị nước vào miệng Đường Hiểu Lan, một lúc sau, chỉ thấy hơi thở của Đường Hiểu Lan bắt đầu nặng nề, sắc mặt dần dần hồng hào, từ từ mở mắt nói: “Ồ, có phải tôi nằm mơ đây không? Rõ ràng tôi thấy đã bị bắt đi, sao lại trở về?”


Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Chỉ thấy Lý Trị mỉm cười, nói: “Đường huynh, có nhận ra tiểu đệ không?” Đường Hiểu Lan nhìn một hồi rồi nói: “Ồ, hiền đệ, té ra đệ cũng đến đây!” Giọng nói vẫn còn yếu ớt, Lý Trị chợt nói: “Các vị hãy nghe tôi kể một câu chuyện”.


Mọi người càng lạ hơn, Phùng Anh vừa mừng vừa ngạc nhiên, không hiểu lúc này chàng còn lòng dạ nào kể chuyện!


Lý Trị chậm rãi nói: “Ngày xưa có một đại tướng nhiều lần lập được công lớn cho nước nhà, trở thành trụ cột của triều đình, Hoàng đế coi ông ta như thủ túc. Vị tướng này sức mạnh có thể địch vạn người, võ công trùm đời nhưng lại sợ vợ!”


Lộ Dân Đảm và Bạch Thái Quan đều bật cười, chỉ nghe Lý Trị tiếp tục nói: “Vị tướng này đã sắp năm mươi tuổi mà chẳng có con cái, Hoàng đế khuyên ông ta lập thiếp, ông ta sợ vợ nên chẳng dám có ý nghĩ này. Có một ngày, Hoàng đế cho gọi vợ của viên tướng vào cung, đặt một ly rượu trước mặt bà ta, nói rằng: ‘Đây là một ly rượu độc, uống xong trong vòng mười hai canh giờ thất hiếu sẽ chảy máu mà chết, chẳng thuốc nào cứu nỗi! Nếu khanh hứa cho chồng lập thiếp, trẫm sẽ ban một cung nữ cho y, rồi khanh đích thân đưa cung nữ này về nhà. Nếu khanh không chịu, trẫm sẽ ban chén rượu độc này cho ngươi!’


Vợ của viên tướng này cười nói: ‘Thần thà chết chứ không cho chồng lập thiếp!’ Nói xong thì bưng chén uống cạn. Tuy như thế, trong lòng vẫn lo, lúc đó dám uống rượu độc là vì nhất thời nổi giận, sau khi về nhà, nghĩ lại nếu chết thì thật là uổng mạng, bởi vậy rất lo lắng. Vì thế mới nằm trên giường chờ chết, nào ngờ sau mười hai canh giờ mà chẳng có việc gì xảy ra. Hôm sau viên tướng lên triều, Hoàng đế cười nói: ‘Phu nhân của khanh đã như thế, trẫm cũng chẳng còn cách nào. Chuyện lập thiếp đành thôi vậy’. Viên tướng vẫn lo lắng, hỏi: ‘Chẳng phải Hoàng thượng đã ban rượu độc rồi sao?’ Hoàng đế cười rằng: ‘Trẫm tuy vô đạo nhưng làm sao có thể tự tiện giết thê tử của văn thần? Đó chỉ là chén giấm mà thôi!’”


Lý Trị kể xong, mọi người đều cưởi ha hả. Đường Hiểu Lan chợt ngồi dậy, hỏi: “Chả lẽ ngày ấy Ung Chính không phải cho tôi uống rượu độc?”


Lý Trị cười nói: “Trước đây đệ không dám đoán, nhưng giờ đã có thể quả quyết đó không phải là rượu độc! Thứ đệ cho huynh uống lúc nãy cũng không phải là linh đơn”.


Phùng Anh ngạc nhiên nói: “Làm sao huynh có thể đoán ra?”


Lý Trị nói: “Tên cẩu hoàng đế Ung Chính thật là một tên tiểu nhân nham hiểm, ngày ấy y sợ Hiểu Lan tiết lộ chuyện y đoạt ngôi cho nên mới dùng quỹ kế”


Đường Hiểu Lan hỏi: “Vậy tại sao mấy ngày nay tôi lại bệnh nặng?”


Lý Trị nói: “Thử nghĩ xem thê tử của vị tướng ấy bị dọa chỉ có một ngày mà về nhà thấp thỏm không yên. Huống chi trong vòng một năm, huynh lúc nào cũng nghĩ tới việc đã bị uống thuốc độc, trong lòng không dám hoài nghi thứ mình uống không phải là rượu độc, đương nhiên tin vào lời hù dọa của y. Huynh tuy không sợ chết nhưng trong lòng đã có ý nghĩ sẽ chết, bởi vậy đến thời hạn này, tinh thần đã bị y khống chế, sinh cơ ngừng lại, làm sao không lâm trọng bệnh? May mà huynh không giống như người thường, chứ nếu không e rằng chưa đến kỳ hạn đã bị y dọa chết”.


Đường Hiểu Lan thầm hổ thẹn! Cam Phụng Trì mới bước vào, nghe Lý Trị nói mới bảo: “Thực ra tham sống sợ chết là chuyện thường tình của con người. Chúng ta là những người không sợ chết, vì nhân nghĩa mà nguyện liều thân. Trong lòng tự có mục đích. Thê tử của vị tướng ấy vì ghen mà không sợ chết, tuy không thể bì với chúng ta nhưng cũng có cùng một mục đích, nếu chết mà không có nguyên nhân sẽ rất oan khuất. Nếu thản nhiên chấp nhận thì đó không phải là chuyện thường tình của con người”.


Lý Trị lại nói: “Lúc đầu tôi không nghĩ ra, sau đó mới suy đoán cách dùng thuốc của Diệp Thọ Thường, đó chỉ là thuốc ninh thần tịnh khí, không phải là thuốc giải độc, tôi mới lớn gan nghi ngờ, sau đó cẩn thận cầu chứng. Vì Diệp Thọ Thường không đích thân bắt mạch cho nên không dám suy đoán, chỉ nghĩ đến việc ninh thần giải táo; còn tôi thì nghĩ đến nỗi lo về mặt tinh thần của Đường huynh. Đó có nghĩa là bệnh tâm phải trị bằng thuốc tâm. Anh muội là người gần gũi với y, Anh muội bảo tro nhang là linh đơn, y đương nhiên sẽ tin là linh đơn!”


Bạch Thái Quan cười ha hả: “Chả trách nào một số lang băm dùng tro nhang gạt người. Chắc chắn là có những người bệnh vốn không cần dùng thuốc có thể khỏe, uống tro nhang của họ, vì tin họ có thể chữa bệnh nên càng dễ khỏe hơn”. Mọi người đều bật cười.


Đường Hiểu Lan lại suy nghĩ, đợi mọi người cười xong mới ngẩng đầu nói: “Tên cẩu hoàng đế Ung Chính thật độc ác, tôi đã đoán được dụng ý của y. Y cho tôi thời hạn một năm, trong thời gian này y đã gạt bỏ các phe đảng khác. Nếu lúc đó ngai vàng của y đã vững, y không sợ tôi tiết lộ bí mật, đã có thể giết chết tôi. Nếu chưa vững, lại sẽ cho tôi uống bừa “thuốc giải”, dùng tiếp cách này để kéo thời hạn ra thêm một năm, như thế tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của y. Vả lại y còn mượn cách này lừa Anh muội vào cung, đúng là một viên đá có thể bắn trúng hai con chim”. Phùng Anh nghĩ lại mấy ngày trước mình mạo hiểm vào cung, định rằng sẽ hy sinh mình để cứu Đường Hiểu Lan đúng là ấu trĩ mạo muội, trong lòng thầm kêu nguy hiểm.


Đường Hiểu Lan tuy không gặp nguy nhưng trong bảy ngày ăn ngủ không yên, sức khỏe đã hư nhược. Lý Trị căn cứ vào bài thuốc ninh thần của Diệp Thọ Thường, bảo mọi người nấu cho chàng uống. Chỉ mấy ngày sau, Đường Hiểu Lan đã khỏe lại như thường.


Đến khi Đường Hiểu Lan khỏe lại, Phùng Anh mới cảm thấy mình đầu váng mắt hoa, đã định đi ngủ, chợt nhớ lại một chuyện, té ra trong phòng đã thiếu một người.


Bốn ngày trước, nàng và Lữ Tứ Nương chia nhau tìm danh y, lúc đó đã từng hẹn dù có tìm được hay không cũng phải về Tây Sơn gặp nhau, lẽ ra Lữ Tứ Nương đã về nhưng giờ sao lại không thấy, chả lẽ đã xảy ra chuyện gì? Nàng buộc miệng hỏi: “Lữ tỉ tỉ đâu?” Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Ta cũng đang muốn hỏi muội đấy!” Phùng Anh nói: “Tỉ tỉ vẫn chưa về sao?” Cam Phụng Trì nói: “Ta rất lấy làm lạ, tại sao muội đi cùng Tứ Nương mà lại quay về với vị đại ca này”.


Lúc này Lý Trị mới chào hỏi mọi người, Phùng Anh cũng kể chuyện nàng và Lữ Tứ Nương chia nhau tìm thầy thuốc, Cam Phụng Trì rất lấy làm lạ.


Phùng Anh nghỉ ngơi một đêm, sáng hôm sau kể chuyện cả nhà đã đoàn viên cho Đường Hiểu Lan nghe, Đường Hiểu Lan mừng rỡ nói: “Đúng là đi mòn gót sắt tìm chẳng có, thấy được chẳng phí chút công phu. Tâm sự mười mấy năm qua của huynh coi như đã giải quyết xong”. Phùng Anh nói: “Mẹ rất muốn gặp huynh”. Nói xong thì cúi đầu mỉm cười.


Đường Hiểu Lan nói: “Nơi Lữ tỉ tỉ đi cách Bát Đạt lĩnh có xa không?” Phùng Anh nói: “Nơi đó là Khang trang ở phía đông của Bát Đạt lĩnh. Ngôi chùa của mẹ muội thì ở phía bắc”. Đường Hiểu Lan nói: “Vậy huynh và Cam đại hiệp tìm Lữ Tứ Nương xong sẽ đến thăm mọi người”. Chợt nhớ lại năm xưa sư tẩu coi chàng là tiểu đệ, bất giác đỏ mặt. Phùng Anh đã đoán được tâm sự ấy, lại mỉm cười nói: “Để muội và Lý ca ca đến gặp mẹ trước để cho mẹ đón huynh”.


Lại nói sau khi Phùng Lâm hồi phục lại trí nhớ, tâm hồn cởi mở, hoạt bát hơn cả lúc trước. Nàng tin chắc Lý Trị có thể chữa bệnh cho Đường Hiểu Lan. Nhưng Quảng Liên và Trương Thiên Trì thì lại lo lắng, mười mấy họ ở trong một am ni cô, trong đó có quá nửa vừa bị thương mới khỏi, rất sợ quan binh đuổi tới cho nên kêu Phùng Lâm chốc chốc ra cửa núi nhìn.


Hai ngày trôi qua chẳng có chuyện gì. Đến bữa cơm sáng ngày thứ ba, mọi người đang thổi cơm, Trương Thiên Trì đã có thể đi lại được. Khi ăn cơm, chợt ném bát đũa phụp xuống đất, Phùng Lâm ngạc nhiên nói: “Làm gì thế?”


Một lúc sau Trương Thiên Trì mới đứng dậy nói: “Có mấy nhóm người ngựa tựa như chia nhau chạy qua phía đông, may mà bọn chúng không lên núi nhưng cũng phải đề phòng. Lâm cô nương, chỉ đành làm phiền cô một lần, cô hãy đến cửa núi phía đông xem có chuyện gì?”


Trương Thiên Trì là đại đạo trên giang hồ, phục địa thính thanh chưa bao giờ thất bại. Phùng Lâm ra đứng cửa núi nhìn, quả nhiên thấy ở dưới chân núi có vài thớt ngựa phóng lướt qua, xem ra hình như là bọn công sai. Một lúc sau, bọn công sai đã vượt qua, Phùng Lâm định trở về lại thấy mấy thớt ngựa chạy đến như bay, nhìn rõ lại thì thấy có một nữ tử cưỡi ngựa trắng mặc đồ đỏ trông rất bắt mắt. Phía sau có ba tên công sai cưỡi ngựa đuổi theo, kỹ thuật cưỡi ngựa của nữ tử này rất tinh diệu, nhưng ba người phía sau cũng không kém, đuổi đến chân núi, nữ tử mặc đồ đỏ phóng ngựa vào sơn cốc, chợt thớt ngựa hí lên thảm thiết, bốn vó tung lên, nữ tử áo đỏ lộn người xuống ngựa, kéo dây cung bắn về phía bọn truy binh. Nào ngờ ba tên công sai cũng nhảy xuống ngựa, rút binh khí gạt đạn ra, chỉ trong chớp mắt đã bao vây nàng ta.


Thiếu nữ đánh nhau với ba công sai đã dần dần núng thế, quát lớn: “Các ngươi thật lớn gan, có từng nghe tên của Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh chưa? Ta chính là con gái của ông ta!” nào ngờ bọn người kia vừa nghe đã cười ha hả, một người nói: “Dương lão đầu đấy à, bọn ta muốn kết thông gia với lão. Nào, tiểu nương tử, ta thấy nàng cứ khóc ngắn khóc dài, chắc là phu quân đã chết, chưa tìm được người mới. Nàng hãy chọn đi, ba huynh đệ bọn ta nàng thích ai?” Dương Liễu Thanh cả giận, thanh kiếm trong tay múa tiếp, ba tên kia càng thắt chặt vòng vây hơn.


Té ra mười mấy ngày trước, Cam Phụng Trì được Đường Hiểu Lan nhờ nên sai khoái mã đem thư đến báo tin xấu cho Dương Trọng Anh, trong di thư của Đường Hiểu Lan đã nói trước mình nhận được đại ơn, không thể nào đáp đền, kế đến nói rằng giờ đang gặp tai họa, sống chết vẫn chưa biết, sau đó lại xin lỗi cha con họ, xin được giải trừ hôn ước để khỏi làm lở tuổi thanh xuân của Dương Liễu Thanh.


Dương Trọng Anh đọc thư ấy mới cả kinh thất sắc, nhưng mình đã tàn phế không thể đi lại được, chỉ đành bảo Dương Liễu Thanh một mình vào kinh dò thám tin tức, đồng thời dặn nàng rằng: “Nếu hắn chưa chết, con phải tìm danh y trị cho hắn; nếu đã chết phải đem hài cốt về đây”.


Dương Liễu Thanh ngựa không ngừng vó chạy vào kinh đô, nhưng vì nhận tin quá muộn, đến Hòai Nhu đã quá thời hạn ba ngày, Dương Liễu Thanh nghĩ khi mình đến nơi, có lẽ Đường Hiểu Lan đã được hâm liệng, từ rày không thể gặp mặt chàng, lòng càng đau đớn hơn bởi vậy vừa thúc ngựa vừa rơi nước mắt.


Thiếu nữ phóng ngựa chạy một mình đã gây chú ý, huống chi nàng vừa phóng ngựa vừa khóc, bởi vậy càng khiến cho người ta dòm ngó.


Hôm nay, vừa khéo có một đám Huyết Trích Tử và cấm vệ quân đến Nam Khẩu bắt một khâm phạm quan trọng, vốn là chẳng thể nghĩ đến chuyện khác. Nhưng trong đó có ba tên xuất thân là thái hoa đại đạo, thấy Dương Liễu Thanh xinh đẹp, lại cưỡi ngựa quý cho nên nảy lòng đoạt tài cướp sắc, vì thế mới đuổi theo nàng, đầu tiên dùng ám khí giết chết con ngựa của nàng rồi bao vây nàng.


Dương Liễu Thanh đang vất vả, chợt nghe tiếng cười khanh khách vang lên, Phùng Lâm từ trên cây vọt xuống, nàng vừa vung tay ba mũi Đoạt Mệnh thần đao đã xé gió bay tới, ba tên Huyết Trích Tử tuy không phải kẻ tầm thường nhưng làm sao có thể chống nỗi lại ám khí này, một người có võ công hơi kém lách người qua, bị phi đao xuyên thủng cổ họng chết ngay lập tức! Một người dùng đao gạt ra, mũi phi đao bay lướt qua bên cạnh, vạch đứt bã vai của y; một tên nữa võ công hơi cao hơn, sau khi gạt đao đã lộn người xuống đất, dù tránh kịp phi đao nhưng cũng hồn bay phát tán, vội vàng chạy thục mạng.


Dương Liễu Thanh rất kinh ngạc, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Phùng Lâm cười hì hì đứng trước mặt nàng, vẻ mặt lộ nét coi thường.


Dương Liễu Thanh chỉ tưởng nàng là Phùng Anh, năm ngoái nàng đã bị Phùng Anh đánh cho một bạt tay, đến nay vẫn còn chưa hết giận, nay tuy được nàng cứu mạng nhưng lại bị nàng coi thường bởi vậy tức càng thêm tức. Nhưng dầu thế nào đi nữa, Dương Liễu Thanh cũng không dám phát tác.


Phùng Lâm liếc nhìn Dương Liễu Thanh một hồi, cười hỏi: “Cô cô, sao cô cô đi gấp thế? Công công đã khỏe chưa? Cô cô, tuyệt kỹ thần đạn của cô cô đã cao minh hơn trước”. Phùng Lâm đã nghe Phùng Anh kể lại chuyện lúc trước, không đợi nàng lên tiếng đã giả mạo thân phận của Phùng Anh mà nói chuyện với nàng.


Dương Liễu Thanh cười một tiếng, nói: “Ngươi biết rõ mà còn hỏi. Một năm qua, ngươi chẳng phải ở cùng thúc thúc của ngươi sao?” Phùng Lâm nói: “Đúng thế! Chúng tôi sớm tối bên nhau, thật là vui vẻ!” Dương Liễu Thanh nghe thế nổi ghen lồng lộn, bất giác cười lạnh mấy tiếng, Phùng Lâm trừng mắt nhìn nàng, Dương Liễu Thanh sợ không dám phát tác, lại nôn biết tin của Đường Hiểu Lan, chỉ đành nén giận hỏi: “Hiểu Lan thế nào rồi? Ngươi thân với chàng như thế, sao lúc chàng bệnh sắp chết mà vẫn còn rong chơi thế này?”


Phùng Lâm cười khanh khác, hỏi: “Ngươi nghe ai nói thế? Đường thúc thúc chẳng hề bị bệnh!” Dương Liễu Thanh kinh hãi, hỏi: “Cái gì, Hiểu Lan không hề bị bệnh?” Phùng Lâm trả lời: “Đúng thế!” Dương Liễu Thanh nói: “Chàng lại viết thư bảo đã sắp chết đến nơi, ta tưởng chàng đã chết!” Phùng Lâm cố làm vẻ kinh ngạc, hỏi: “Cái gì? Đêm qua ta còn lấy mứt anh đào cho Đường thúc thúc ăn nữa, sao lại phải viết một bức thư như thế cho ngươi?” rồi nàng giả vờ ngạc nhiên suy nghĩ, một hồi sau mới vỗ tay nói: “Ồ, ta biết rồi, Hiểu Lan thật là hư, chẳng chịu nói với ta một tiếng”.


Dương Liễu Thanh nghe nàng gọi thân mật như thế, bất giác sắc mặt thay đổi. Nhưng vì muốn biết tại sao Đường Hiểu Lan lại viết thư như thế, chỉ đành nghiến răng, cố nuốt cục giận, trầm giọng hỏi: “Ngươi biết được điều gì?”


Phùng Lâm hỏi: “Trong thư chẳng phải chàng kêu ngươi xóa bỏ hôn ước hay sao? Chàng đã nói với ta, bảo ta giúp chàng suy nghĩ, xem thử có cớ gì tránh thành hôn với ngươi hay không!”


Nói chưa dứt lời, Dương Liễu Thanh đã tức giận kêu lên một tiếng, mắng rằng: “Thật là một tên tiểu súc sinh vong ơn phụ nghĩa!” Phùng Lâm nói: “Này, ngươi mắng thúc thúc của ta, ta không khách sáo với ngươi nữa đâu!” Dương Liễu Thanh lúc này đã quên hết mọi thứ, nàng vung tay tát vào mặt Phùng Lâm. Phùng Lâm nhảy bật ra, kêu lên: “Ngươi là cô cô, ta nhường cho ngươi một chưởng!” Dương Liễu Thanh kêu lên: “Ta liều với ngươi, ngươi có bản lĩnh hãy đánh chết ta!” rồi nàng cứ lao đầu tới, Phùng Lâm lại nhảy ra, nói: “Ta với ngươi chẳng oán chẳng thù, tại sao phải đánh chết ngươi?” Dương Liễu Thanh lao vào khoảng không, suýt nữa đã ngã chõng vó, nàng kéo đạn cung mắng: “Ngươi đúng là con tiểu tiện nhân vô sĩ, thiên hạ có biết bao nhiêu đàn ông, ngươi lại cứ đòi thúc thúc của ngươi?” rồi đạn bắn ra như mưa, Phùng Lâm cười nói: “Đạn cung của ngươi cũng đả thương được người sao?” rồi nàng vừa nhảy nhót né tránh, vừa thi triển thủ pháp chụp ám khí mà Hàn Trọng Sơn đã dạy, hất toàn bộ đạn của Dương Liễu Thanh ném qua một bên, một hồi sau Dương Liễu Thanh chẳng còn viên đạn nào nữa.


Phùng Lâm lại trợn mắt, mắng trở lại: “Ta bảo ngươi mới chính là tiểu tiện nhân vô sĩ, trong thiên hạ biết bào nhiêu là người đàn ông, ngươi lại cứ bám lấy Hiểu Lan! Chàng đã không thích ngươi, ngươi cứ đeo bám mãi mới đúng là vô sĩ!” Dương Liễu Thanh mặt tái nhợt, căm giận vô cùng, rút kiếm đâm bừa tới, kêu: “Được, hôm nay ngươi không chết thì ta vong!” nàng liệu rằng Phùng Anh không dám giết mình bởi vậy mới làm liều đâm tới.


Phùng Lâm cười ha hả, đột nhiên vọt người lên, thi triển tuyệt kỹ Miêu Ưng Phốc Kích đoạt thanh kiếm trong tay Dương Liễu Thanh, rồi bẻ gãy làm đôi ném xuống sơn cốc, cao giọng nói: “Này, ngươi nghe đây. Với bản lĩnh của ngươi, làm sao có thể giết ta. Ta cũng không muốn giết ngươi, nhưng nếu ngươi cứ ngang tàng như thế, ta sẽ dùng phi đao rạch mặt ngươi, đâm mù hai mắt của ngươi để ngươi mãi mãi làm một kẻ xấu xí. Ta nói được là làm được, ngươi hãy xem đây! Đao thứ nhất, ta đánh gãy đạn cung của ngươi!” rồi nàng vung đao, cây đạn cung của Dương Liễu Thanh gãy làm đôi, Phùng Lâm lại mắng: “Đao thứ hai, ta hớt đứt tóc của ngươi!” Dương Liễu Thanh vội vàng né tránh, chỉ cảm thấy một luồng gió lạnh lướt tới, đao quang lóe lên, chợt thấy trên đầu mát rượi, sờ đầu thì mái tóc trên đỉnh đã bị hớt một mảng, Phùng Lâm lại quát: “Nếu ngươi không đi nữa, đao thứ ba ta sẽ rạch mặt ngươi!” Dương Liễu Thanh nhất thời nổi giận, tuy không sợ chết nhưng sợ Phùng Lâm ra tay hủy dung nhan, khiến nàng chẳng thể nào gặp được ai nữa, bất giác kêu khổ một tiếng quay đầu tháo chạy.


Phùng Lâm trên Dương Liễu Thanh xong, đắc ý cười lớn rồi xuống suối rửa ráy mặt mày, chợt nghe có người nói bên tai: “Hừ, ta tưởng là ai? Té ra là ngươi!” Phùng Lâm giật mình, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một Lạt ma mặc áo đỏ nhe răng cười với mình. Lúc này võ công của Phùng Lâm đã đến mức bất phàm, thế mà Lạt ma này có thể đến bên cạnh nàng một cách im ắng, nếu chẳng có bản lĩnh kinh người, sao có thể làm được điều đó.


Phùng Lâm rất lanh lẹ, nàng biết đã gặp kình địch nên bình tĩnh cười rằng: “Ngươi có phải là đại pháp sư trong hoàng cung không?” Lạt ma trợn mắt, cười nói: “Đúng là quý nhân dễ quên, may mà ta còn nhẫn nại chứ nếu không đã phế Thiên Sơn chưởng lực của ngươi!”


Phùng Lâm thầm nhủ: “Mình thường đem lại phiền phức cho tỉ tỉ, nhưng lần này tỉ tỉ đã đem phiền phức cho mình!” Lạt ma ấy định vung tay tóm nàng, Phùng Lâm chợt nhảy ra, nói: “Ta đang muốn trở về hoàng cung gặp Hoàng thượng, không cần ngươi đến đây khuyên, ngươi dám bắt ta? Ta sẽ nói với Hoàng thượng trách phạt ngươi”. Lạt ma ấy rụt tay về, nói: “Hay thật, Lâm quý nhân, ngươi chưa được sủng ái mà đã muốn cắn ta hay sao? Lần này dù ngươi có xảo quyệt như hồ ly cũng không thể thoát khỏi lòng bàn tay của ta. Nếu ngươi đã muốn gặp Hoàng thượng, vậy hãy đi mau”. Phùng Lâm nói: “Ngươi không thấy ta đang sửa san tóc tai hay sao?” rồi nàng ngồi xuống vóc nước gội đầu, Lạt ma áo đỏ đứng sau lưng nàng, đang nghĩ cách có nên dùng biện pháp mạnh với nàng không.


Phùng Lâm gội đầu xong, lại sửa san quần áo, nói: “Được thôi, ta đi theo ngươi”. Rồi nàng trở tay phóng ba mũi Đoạt Mệnh thần đao, khoảng cách lại gần, ra tay lại bất ngờ, Lạt ma áo đỏ cũng chỉ có thể né tránh được một mũi, còn hai mũi thì bắn trúng vào ngực của y.


Phùng Lâm vỗ tay cười nói: “Ngã này, ngã này!” nào ngờ hai mũi phi đao chạm vào người y lại phát ra keng một tiếng tựa như trúng phải sắt thép, rồi lại rơi xuống đất. Phùng Lâm cả kinh, hai tay vung ra, sáu mũi phi đao bay tới, Lạt ma áo đỏ chỉ che mắt, hớt được hai mũi bay vào mặt, còn bốn mũi chạm vào người y rơi xuống đất. Lạt ma cười lớn: “Phật gia có thân kim cương bất hoại, cần gì phải sợ mấy mũi phi đao của ngươi!” rồi bốc người lên, từ trên không bổ xuống, vung bàn tay to bề chụp vào đỉnh đầu của Phùng Lâm.


Lạt ma này chính là Ngạch Âm Hòa Bố, y cũng vâng lệnh bắt một khâm phạm rất quan trọng, nửa đường lại gặp bọn Huyết Trích Tử, bởi vậy y mới biết trong sơn cốc có một tiểu cô nương rất lợi hại, khi nghe thấy liền nghĩ, nếu có thể bắt Phùng Lâm sẽ khiến cho Hoàng đế càng vui lòng hơn.


Phùng Lâm dùng thuật Miêu Ưng Phốc Kích tránh hai trảo của y, Ngạch Âm Hòa Bố lại chụp tiếp trảo thứ ba, Phùng Lâm xoay người trên không trung, vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm vào mắt của y!


Ngạch Âm Hòa Bố cúi đầu, hai chưởng chém xéo ra, chụp cổ tay của nàng, Phùng Lâm chém ngang thanh kiếm, quát: “Đi!” một năm qua nàng đã tu luyện nội công thượng thừa của phái Vô Cực, kình đạo của nhát kiếm này rất lớn, Ngạch Âm Hòa Bố tuy có công phu Kim chung tráo và Thiết bố sam, cũng không dám để nàng chém vào mạch môn, thế là hai chưởng thay đổi, lướt xéo ra hai bước, trở tay đánh ra một chưởng, quát: “Buông kiếm!” chưởng này quét ra kình phong nổi lên, Phùng Lâm thấy hổ khẩu đau nhói, thanh kiếm suýt nữa rơi xuống đất, thế là nàng vội vàng phóng người tháo chạy.


Ngạch Âm Hòa Bố thấy chưởng này không đánh rơi được binh khí của nàng, cũng rất lấy làm lạ, cười lạnh nói: “Ả nha đầu nhà ngươi cũng có chút bản lĩnh, nhưng muốn thoát khỏi bàn tay của Phật gia còn khó hơn cả lên trời!” rồi phóng vọt người lên, hai chưởng đẩy ngang ra, lần này kình đạo càng lớn hơn, chưởng phong mạnh hơn, Phùng Lâm bị một luồng lực dồn tới, vội vàng chòm người về phía trước, thuận theo chưởng thế của y, lướt ra thêm mấy trượng rồi ngã xuống!


Ngạch Âm Hòa Bố cười ha hả: “Mỹ nhân có bị thương không, để ta trị cho ngươi!” Phùng Lâm bật người dậy, vung hai mũi phi đao bắn vào hai mắt của y, Ngạch Âm Hòa Bố cả giận, giơ tay đánh rơi hai mũi phi đao, đang định đẩy ra chưởng thứ ba, chợt nghe có người quát: “Ai dám bức hiếp muội muội của ta!”


Ngạch Âm Hòa Bố nhìn lại, chỉ thấy trên sườn núi có một bóng trắng lướt đi như gió, trong chớp mắt một thiếu nữ đã đuổi tới, người đó chính là Phùng Anh, Ngạch Âm Hòa Bố thấy họ giống hệt nhau, bất giác sửng cả người.


Phùng Anh lướt tới đâm sào một kiếm vào cổ họng của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố lách người trở tay chụp vào mạch môn của nàng, Phùng Anh xoay mũi kiếm, đâm vào huyệt Tam Nguyên ở sươn hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố cả giận, tự phụ là thân kim cương bất hoại, không sợ đao kiếm, thế là hai chưởng hợp lại chụp vào vai của Phùng Anh. Y không ngờ thanh đoản kiếm trong tay Phùng Anh là bảo kiếm, thanh kiếm đâm thấu vào da thịt của y đến mấy tấc, Ngạch Âm Hòa Bố chỉ cảm thấy đau nhói, vội vàng vận công làm cho da thịt lõm vào, buộc mũi kiếm phải chùi ra, y vận kình trên chân, lực đạo của hai chưởng đương nhiên giảm xuống, Phùng Anh cũng thừa cơ thoát ra, chỉ cảm thấy vai đau nhói. May mà Ngạch Âm Hòa Bố không biết nàng có phải là người Hoàng đế muốn bắt hay không, không dám dùng hết mười phần lực, chứ nếu không xương tỳ bà đã bị y bóp nát.


Huyệt Tam Nguyên là một trong những tử huyệt của con người, Ngạch Âm Hòa Bố bị kiếm đâm trúng mà vẫn có thể nhảy nhót như bay, Phùng Anh cũng kinh hãi! Ngạch Âm Hòa Bố vận khí bế huyệt, nhưng vẫn không hết đau, y nổi giận, nói: “Dù ngươi là quý nhân hay tiện nhân, Phật gia cũng đưa ngươi về tây thiên”. Rồi y đứng yên chợt quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra, Phùng Lâm nói: “Tỉ tỉ cẩn thận!” Ngạch Âm Hòa Bố đã dùng hết mười thành lực trong chưởng này, chưởng phong tựa như sấm sét bổ tới. Phùng Anh quát: “Hay lắm!” rồi nàng lướt lên ba trượng, kình phong quét qua chân nàng mà nàng chẳng hề bị thương. Phùng Anh trên không trung thi chuyển tuyệt chiêu của Thiên Sơn kiếm pháp, đánh ra một chiêu Băng Hà Đảo Quải, luồng ngân quang túa ra chụp xuống.


Ngạch Âm Hòa Bố thất kinh, không dám dùng tay không đối địch, rút cây phất trần quét lên không trung chặn lại. Nhát kiếm này của Phùng Anh hiểm hóc lạ thường, nhưng không ngờ bị phất trần cuộn vào, chẳng thể nhả được lực ra, chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố lại cười ha hả, ngón tay điểm vào huyệt Thiên Tĩnh của nàng.


Phùng Lâm thấy tỉ tỉ nguy cấp, đã sớm xông tới trước, đâm sào một kiếm vào lưng của y, Ngạch Âm Hòa Bố trở tay đánh lại một đòn, Phùng Anh thu vai lại, né tránh hai chỉ của y, tay trái quét vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố thất kinh, vội vàng lách người né tránh để Phùng Anh rút kiếm ra.


Phùng Anh và Phùng Lâm tấn công liên tục. Chưởng lực của Ngạch Âm Hòa Bố tuy lợi hại nhưng phải vận khí mới phát chưởng được, mà hai kiếm lại tấn công liên tục khiến y không rãnh vận khí để phát chưởng. Nhưng cây phất trần của y là loại binh khí hiếm thấy trên võ lâm, có thể mềm có thể cứng, có thể đoạt đao kiếm, có thể phất vào huyệt đạo, Phùng Anh và Phùng Lâm đều không dám để cho y cuộn vào binh khí. Ngạch Âm Hòa Bố lướt người đánh sáp lá cà, hai tỉ muội truy hô ứng lẫn nhau nhưng cũng gặp nguy hiểm. May mà đánh một hồi, thân pháp của hai nàng đều xoay nhanh. Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nhận ra ai là Phùng Lâm, ai là Phùng Anh, đương nhiên không phân biệt được ai đang cầm bảo kiếm, bởi vậy càng kiêng dè không dám tấn công mạnh. Y dùng cây phất trần chặn hai kiếm của hai người, thừa cơ tìm cách ra đòn sát thủ.


Đánh một hồi sau, trên núi lại có thêm một người, người đó chính là Lý Trị, chàng vốn tưởng Phùng Anh ra tay, cả hai tỉ muội liên thủ thì cường địch nào cũng chặn nỗi, không ngờ đánh một hồi mà chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần lợi hại vô cùng, cả hai nàng chỉ có thể chống đỡ.


Ngạch Âm Hòa Bố cười gằn nói: “Lại có thêm một tên, Phật gia chẳng thèm sợ ngươi”. Rồi cây phất trần quét ngang, đẩy đôi kiếm ra, cán phất trần chỉ thẳng về phía trước. Nhân lúc Lý Trị vừa mới đến, y đột nhiên điểm vào huyền cơ trước ngực của chàng, nào ngờ kiếm pháp của Lý Trị quái dị lạ thường, rõ ràng là chàng đâm kiếm về phía bên trái, trung lộ mở rộng, không ngờ đột nhiên thay đổi, kiếm lại xỉa về phía bên phải, kiếm thế thay đổi, bộ pháp cũng thay đổi, hư biến thành thực, thực biến thành hư, Ngạch Âm Hòa Bố không những chẳng điểm trúng huyệt đạo của chàng mà suýt nữa đã bị chàng đâm cho một kiếm. May mà y võ công cao cường, một chiêu bị đánh hụt, phương vị lập tức thay đổi mới có thể né tránh được tuyệt chiêu của Lý Trị.


Lúc này tình thế lại thay đổi, Lý Trị cùng Phùng Anh và Phùng Lâm với ba loại kiếm pháp thượng thừa trên đời, Ngạch Âm Hòa Bố đã bắt đầu kiêng dè. Hai bên có công có thủ, lại đấu nhau hơn một trăm chiêu nữa.


Nhưng sau khi Lý Trị nhảy vào vòng chiến, có lợi cũng có hại, lợi là vì ba kiếm liên thủ, hô ứng lẫn nhau, không lâu sau đã chiếm được thượng phong. Hại là vì sau một hồi quần thảo, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của Lý Trị không phải bảo kiếm, cho nên dùng kim cương chỉ lực chịu nỗi đau nhất thời, cướp binh khí của chàng. Tay phải y dùng phất trần, chặn hai thanh kiếm của hai tỉ muội, tay trái lại dùng thủ pháp Cầm Nã đánh sáp lá cà với Lý Trị.


Cả hai bên liên tục đánh ra những hiểm chiêu, thế nhưng vẫn khó phân thắng bại. Phùng Anh nôn nóng, chợt nhớ lại hôm đó mình gặp Dận Tự ở trong hắc lao, Dận Tự bảo mệnh môn của Ngạch Âm Hòa Bố là huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy, nhưng nàng không biết huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy là bộ phận nào trên cơ thể con người. Chợt nhớ võ công của muội muội rất phức tạp, đã học qua võ nghệ của các phái chính tà, vì thế đang lúc kịch đấu, chợt hỏi: “Muội muội, có biết huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy không?”


Phùng Lâm trả lời: “Huyệt Khảm Hỏa nằm dưới sươn cùng ba tấc, huyệt Ly Thủy là mệnh căn của y!” số là huyệt Ly Thủy là bộ phận của thận nan người đàn ông.


Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, không biết tại sao hai tỉ muội có thể đọc tên các huyệt đạo bằng thuật ngữ của Lạt ma Hồng giáo; càng không hiểu tại sao họ biết yếu huyệt Mệnh Môn của mình. Lúc này Phùng Anh vẫn chưa biết là bộ phận nào nhưng giả vờ đã hiểu, kêu lên: “Được lắm, chúng ta đâm vào huyệt Mệnh Môn củay!”


Ngạch Âm Hòa Bố lạnh mình, với võ công của y, nếu lấy một địch một, dù gặp phải hảo thủ thuộc hàng nhất đẳng, mà đối phương lại biết được yếu huyệt Mệnh Môn của y, y vẫn có thể phòng vệ chu toàn, chẳng hề lo lắng. Nhưng giờ đây y lấy một địch ba, kiếm pháp của ba người lại thần diệu vô cùng, chỉ e nếu phòng ngự không kỹ càng, mạng sẽ ô hô.


Phùng Anh múa kiếm đâm tới, chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố dốc sức đỡ hai chiêu, giả vờ tấn công tới nhưng người có ý muốn lui ra. Phùng Anh cố ý để y chạy, nàng vừa lách người, Ngạch Âm Hòa Bố đã bỏ chạy. Phùng Anh thở phào, vẫn không đuổi theo.


Phùng Lâm cười nói: “Tỉ tỉ, tỉ làm sao biết võ công của tà phái?” Phùng Anh mới kể lại lời của Dận Tự. Sau một hồi kịch chiến, ba người ngồi xuống nghỉ ngơi, Phùng Lâm hỏi: “Đường thúc thúc của tỉ đâu?” Phùng Anh nói: “May mà đã được Lý ca ca của muội chữa khỏi”. Phùng Lâm lại kể cho Phùng Anh nghe chuyện mình đã chơi khâm Dương Liễu Thanh. Phùng Anh nghe xong mặt biến sắc, Phùng Lâm thất kinh hỏi: “Chả lẽ muội đã làm sai chuyện gì?” Phùng Anh thở dài: “Muội muội, muội quá nghịch ngợm, thế là đã hỏng mọi chuyện!”


Chính là:


Thiếu nữ thật chẳng hiểu việc đời, phi đao cấp tốc chuốc phiền to.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 41

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 41 Tin xấu truyền về treo dầu dụ hiệp nữ Kỳ nhân xuất hiện thiết chưởng hạ yêu tăng




Phùng Lâm ngạc nhiên không biết điều gì đã xảy ra, Lý Trị nói: “Lâm muội, muội chỉ nghĩ đến cái vui tức thời, không biết rằng cha của Dương Liễu Thanh là ân sư của Đường đại ca. Tục ngữ có nói, không nể mặt tăng cũng phải nể mặt Phật, sao muội có thể ra tay hớt tóc của người ta. Mọi chuyện chẳng phải sẽ phiền hơn sao?” Phùng Lâm giận dỗi nói: “Phiền cái gì, chính là muội đã gây xích mích, muội sẽ tự chịu”. Phùng Anh vội nói: “Muội muội, đừng gây sự nữa”. Phùng Lâm chẳng nói chẳng rằng, trong lòng lại thầm tính toán.


Phùng Anh thở dài nói: “Chúng ta quay về rồi tính tiếp”. Khi nàng đang nói, chợt thấy ở góc trời tây nam có ánh lửa bốc lên, Phùng Lâm nói: “Ồ, đó là hỏa diệm tiễn của Hàn Trọng Sơn, y lại giao thủ với ai thế?” nói chưa dứt lời chợt nghe mấy tiếng hưởng tiễn theo gió vọng tới, một tiếng dài hai tiếng ngắn, vang lên hai lần. Lý Trị ngưng thần lắng nghe, nói: “Không xong, đó là tín hiệu của Cam đại hiệp, tôi đã từng nghe ở Hàng Châu”. Phùng Lâm nhìn ánh lửa bốc lên, nói: “Chính là ngọn núi ở bên ngoài cốc, xem ra không xa”. Lý Trị sống ở Thiên Sơn, rất quen thuộc đường núi, nhìn một hồi cười nói: “Xem không xa nhưng đi cũng phải mất nửa ngày”. Phùng Anh nói: “Nếu đã là tín hiệu gọi cứu viện của Cam đại hiệp, chúng ta phải đi xem thử”.


Lại nói hôm ấy Phùng Anh cùng Lữ Tứ Nương chia nhau tìm danh y, nàng đến Khang Trang ở phía đông Bát Đạt lĩnh, xin gặp Trần họa sư, bằng hữu của Diệp Thọ Thường. Lữ Tứ Nương gõ cửa một hồi, nhưng thấy ông ta ngồi trong rừng trúc uống rượu vẽ tranh, rất tập trung tinh thần, tựa như không biết có người ở ngoài cửa. Lữ Tứ Nương nhè nhẹ đẩy cửa bước vào, ngẩng đầu nhìn lên, bất giác ngẩng người ra. Té ra Trần họa sư đang vẽ tranh của Lữ Lưu Lương, trong tranh Lữ Lưu Lương ngồi cầm quyển sách “xuân thu”, hai mắt trừng trừng có thần, hai bên có hai người đứng hầu, một người là Nghiêm Hồng Quỳ, một người là Thẩm Tại Khoan. Tuy ông ta chưa vẽ xong Thẩm Tại Khoan nhưng nàng có thể nhận ra từ đường nét bề ngoài.


Lữ Tứ Nương khẽ ho một tiếng, Họa Sư ấy vẫn tập trung tinh thần tiếp tục vẽ. Lữ Tứ Nương nhíu mày, lớn giọng nói: “Này, ông vẽ không giống!”


Họa sư ấy giật bắn người, trừng mắt nói: “Ngươi là ai? Ta vẽ có gì không giống?”


Lữ Tứ Nương mỉm cười nói: “Ông cho tôi biết trước, Diệp Thọ Thường đang ở đâu? Tôi sẽ cho ông biết chỗ nào không giống”. Họa sư lại trừng mắt nhìn nàng, nói: “Ta cũng muốn tìm Diệp Thọ Thường đây, ngươi tìm ông ta làm gì?” Lữ Tứ Nương cười rằng: “Đương nhiên là nhờ ông ta trị bệnh!”


Trần họa sư nói: “Trị bệnh cho một người có gì gấp đâu? Vả lại ông ta cũng không chịu tùy tiện chữa trị cho người khác”. Lữ Tứ Nương nói: “Ông ta là một bậc danh y, nếu gặp phải bệnh lạ quái chứng, cũng giống như ông đến nơi sơn thủy tuyệt đẹp, sao có thể không chịu ra tay?” Họa sư cười ha hả: “Ngươi nói có lý lắm. Nếu Diệp Thọ Thường gặp bệnh lạ, đúng là ngươi không mời ông ta cũng trị. Nhưng bệnh lạ gì thế, có phải bệnh hủi không?”


Lữ Tứ Nương ngạc nhiên, hỏi: “Bệnh hủi là gì?” “Lâu nay ông ta vẫn đang nghĩ cách trị bệnh hủi, ông ta thường nói người trên đời đều coi bệnh hủi là truyệt chứng, nhưng ông ta phải tìm ra cách chữa truyệt chứng này”. Lữ Tứ Nương nói: “Ông ta đã nghĩ ra chưa?” Họa sư trả lời: “Chưa! Cho nên hôm qua ta mới sai người đi mời ông ta”.


Lữ Tứ Nương nghe nói thế, lòng tò mò nổi lên, không khỏi hỏi: “Chả lẽ ông đã nghĩ ra?” “Ta đối với y đạo một khiếu cũng chẳng thông, nhưng ta lại biết bệnh hủi không phải là truyệt chứng”.


Y như đã có hứng nói chuyện, buông bút xuống, tiếp tục nói: “Mấy hôm trước có một quái nhân đến đây, bắt vài con bệnh hủi đi, có người đuổi theo, nào ngờ y sức mạnh vô cùng, vung chưởng đánh gãy mấy cây lớn khiến những người ấy phải hoảng sợ quay về”.


Lữ Tứ Nương giật mình, nghĩ: “Chắc chắn đó là Độc Long Tôn Giả”. Họa Sư tiếp tục nói: “Ngươi có đoán được quái nhân ấy cướp những con bệnh hủi làm gì không?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Y sẽ trị những con bệnh hủi này, cần gì phải đoán?” Họa sư vỗ tay nói: “Đúng thế! Ngươi đã đoán đúng, lúc đầu ta không đoán ra. Y đưa những con bệnh hủi vào ở trong một sơn động, chính là sơn động lớn ở núi Tích Thạch phía Tây nam Bát Đạt lĩnh, ngươi có từng đến đấy chưa?” Lữ Tứ Nương lắc đầu, thầm nhủ: “Độc Long Tôn Giả đến nơi này, mình phải đến gặp y”. Họa sư tiếp tục nói: “Quái nhân này tướng mạo trông rất hung ác, nhưng tâm địa lại tốt. Không đầy hai ngày, đã thả ba người bệnh nhẹ trở về, trông họ lành lặn như người bình thường. Còn một người hơi nặng thì vẫn còn ở trong động với y”. Ông ta ngập ngừng rồi nói tiếp: “Diệp Thọ Thường vốn ở đây, nhưng đồ đệ họ Dương đã mời ông ta đi đến Nam Khẩu. Nếu ông ta không mau trở về, cơ hội chẳng còn nữa”. Họa sư nào biết, lúc này Diệp Thọ Thường đã qua đời.


Họa sư nói xong, thấy Lữ Tứ Nương mỉm cười, vỗ đùi hỏi: “Ngươi muốn ông ta trị bệnh gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Không cần nữa, quấy rối đã lâu, xin cáo từ!” Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Diệp Thọ Thường đã đến nhà họ Dương ở Nam Khẩu, chắc chắn Phùng Anh đã tới tìm ông ta”.


Lữ Tứ Nương vừa nói lời cáo từ, không ngờ Họa sư đã kéo nàng lại, nổi giận nói: “Này, ngươi không giữ lời! Nói mau, chỗ nào đã vẽ không giống?”


Lữ Tứ Nương nâng bút lên nói: “Bức họa của ông có một điểm sơ hở rất lớn. Nghiêm Hồng Quỳ là đệ tử đắc ý của Lữ Lưu Lương tiên sinh, ông vẽ Nghiêm Hồng Quỳ đứng hầu bên cạnh ông ta, đương nhiên có thể, nhưng Thẩm Tại Khoan là học trò của Lữ Bảo Trung, Lữ Bảo Trung là con của Lữ Lưu Lương, Thẩm Tại Khoan chưa bao giờ thấy Lữ Lưu Lương tiên sinh, làm sao có thể đứng hầu bên cạnh ông ta!” Họa sư ấy cười ha hả: “Ngươi hiểu cái gì? Đúng là ý nghĩ của đàn bà!” Lữ Tứ Nương bình sinh rất ghét người khác coi khinh mình là đàn bà con gái, cười lạnh nói: “Không chỉ có sơ hở này!”


Trần họa sư nổi danh thiên hạ, nghe Lữ Tứ Nương nói mình vẽ không giống, rất lấy làm tức giận, cười lạnh nói: “Ngươi bao nhiêu tuổi? Ngươi cũng chưa bao giờ gặp Lữ Lưu Lương tiên sinh, làm sao biết ta vẽ không giống?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Ông vẽ Lữ Lưu Lương tiên sinh, hình thì rất giống, nhưng thần lại không giống, ông vẽ ông ta đạo mạo nghiêm trang, nhưng thực sự ông ta là người bình dị dễ gần, mặt luôn luôn mỉm cười. Tôi biết ông muốn lột tả chính khí của ông ta nhưng lại không vẽ được nét mặt hiền từ”. Trần họa sư lúc nhỏ đã từng theo cha đến nghe Lữ Lưu Lương dạy học, thất kinh, thầm nhủ quả là như thế. Lữ Tứ Nương tiếp tục nói: “Lữ lão tiên sinh vẫn còn giống được bề ngoài, nhưng Thẩm Tại Khoan đứng bên cạnh thì cả hình lẫn thần đều không giống”. Họa sư nói: “Lẽ nào hình cũng không giống?” Lữ Tứ Nương nói: “Khuôn mặt Thẩm Tại Khoan không phải như thế, ông vẽ chỉ giống hai ba phần, tôi sẽ vẽ hộ ông”. Rồi cầm bút quẹt mấy nét.


Trần họa sư cười ha hả, nói: “Ngươi vẽ ai thế?” “Thẩm Tại Khoan” “Người là ai?” “Lữ Lưu Lương là tổ phụ của tôi, Thẩm Tại Khoan lớn lên trong nhà tôi”. “Ngươi dám gạt ta? Ngươi chẳng phải vẽ Thẩm Tại Khoan!”


Lữ Tứ Nương cười nói: “Tôi đã vẽ mà không giống, trên thiên hạ cũng không có người thứ hai vẽ giống!” Họa sư cười lạnh: “Nếu ngươi đúng là cháu gái của Lữ Lưu Lương, bằng hữu của Thẩm Tại Khoan, hôm nay đã không rãnh luận họa với ta!” đột nhiên lấy ra một cuộn giấy tuyên, sầm mặt nói: “Ngươi xem, đây là gì?”


Té ra đó là bản sao của dụ chỉ, dụ chỉ viết rằng: “Từ xưa đến nay thiên hạ thuộc về đế vương, đế vương luôn luôn yêu thương vạn dân, gia ân bốn biển, làm cho muôn dân ấm no là trách nhiệm của đế vương. Bởi vậy, chỉ có người có đức mới có thể làm vua của thiên hạ... nay triều ta vâng lệnh trời, làm chủ của vạn dân, lấy yêu thương rải khắp thiên hạ, làm sao có thể phân biệt Hoa với Di... thế nhưng nghịch tặc Lữ Lưu Lương thích gây loạn làm họa, viết trước thuật truyền bá xàm ngôn. Còn bọn nghịch tặc Nghiêm Hồng Quỳ lại phụ họa đề xướng...” phần tiếp theo là những lời mắng nhiếc Lữ Lưu Lương, Lữ Tứ Nương chẳng còn lòng dạ nào đọc kỹ, đoạn cuối viết rằng: “Nay triều ta phanh thây Lữ Lưu Lương và Lữ Bá Trung thị chúng, Nghiêm Hồng Quỳ Thẩm Tại Khoan cũng bị trảm quyết, người trong tộc đều bị tru diệt, hàng con cháu đưa đến tháp Ninh Cổ làm nô bộc. Nay báo cho thiên hạ muôn dân, lấy đó làm răn”.


Lữ Tứ Nương xem xong, tựa như sấm nổ giữa trời, run giọng nói: “Thẩm Tại Khoan đã bị giết rồi sao?” Họa sư nói: “Mấy ngày trước khi hai vị nghĩa sĩ Nghiêm Thẩm bị trảm, tôi đang ở Bắc Kinh, theo mọi người đến pháp trường chiêm ngưỡng di dung, mới được gặp mặt lần đầu tiên. Hừ, cô nương còn có lòng dạ bảo tôi vẽ không giống!”


Sắc mặt Lữ Tứ Nương tái nhợt, nàng lảo đảo như muốn ngã xuống, Họa sư ấy tiếp tục nói: “Tôi nào biết Thẩm Tại Khoan là học trò của Lữ Bảo Trung, không phải do Lữ tiên sinh đích thân dạy dỗ?” Lữ Tứ Nương chợt kéo tay ông ta, hỏi: “Ông có nhìn rõ không? Thẩm Tại Khoan có giống người này không?” Họa sư lắc đầu: “Lão phu không dám nói khoát, vẽ truyền chân chỉ là chuyện vặt, chả lẽ không giống? Đầu của hai nghĩa sĩ vẫn còn treo trên cửa thành, nếu cô nương không tin có thể đi xem!” nói chưa xong, Lữ Tứ Nương chợt đẩy hông ông ta một cái, tung người vọt ra cửa, Họa sư lồm cồm bò dậy, nói: “Sao lại thế được, mạo nhận là cháu gái của Vãn Thôn tiên sinh lại còn dám chê bai ta, đúng là miệng lưỡi đàn bà!”


Lữ Tứ Nương xưa nay ứng phó việc lớn không bao giờ hoảng hốt. Nhưng đây là lần đầu tiên nàng nghe tin dữ. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương dần dần bình tĩnh, nghĩ thầm Thẩm Tại Khoan đang ẩn cư ở Tiên Hà lĩnh, bảy tám năm qua không bước ra khỏi cửa, người ngoài làm sao biết? Nàng nghĩ Họa sư ấy chỉ vẽ giống ba phần, trong lòng thấy nghi ngờ, thầm nhủ: “Sao mình không vào kinh thành xem thử? Phùng Anh chắc chắc đã mời được Diệp Thọ Thường, chuyện của Hiểu Lan, mình tạm thời không cần lo”.


Lữ Tứ Nương gia tăng cước lực, đến chập tối đã vào kinh thành. Thành Bắc Kinh có chín cửa, những trọng phạm sau khi bị triều đình chém đầu sẽ treo thủ cấp ở các cửa thành. Lữ Tứ Nương đảo qua mấy cửa thành, đi đến bên ngoài tây hoa môn, quả nhiên thấy trên cửa thành có cắm hai cây sào cao, ở mỗi cây sào có treo một cái đầu người. Trong bóng tối không nhìn thấy rõ ràng, Lữ Tứ Nương thấy tim đập thình thình, nhìn một hồi thì thấy có bốn tên lính bình thường đứng canh, lòng càng hoài nghi hơn.


Lữ Tứ Nương điểm mũi chân, một tay vỗ lên tường thành, lướt lên như chim ưng, bốn tên lính kêu hoảng, chưa kịp nhìn rõ đã bị nàng điểm huyệt đạo từng tên.


Một chốc sau, Lữ Tứ Nương đã phóng lên cây sào phía bên phải, lấy cái đầu xuống nhìn, tuy cái đầu đã bị cắt mấy ngày nhưng nàng vẫn còn nhận ra đó là Nghiêm Hồng Quỳ! Trong khoảng sát na, Lữ Tứ Nương như bị sét đánh, đau đớn đến tận con tim, suýt nữa đã ngã xuống, nàng vội vàng trấn tĩnh, thi chuyển tuyệt kỹ khinh công, từ cây sào bên phải phóng lên cây sào bên trái, đưa tay toan lấy cái đầu. Nhưng nào ngờ trong chớp mắt, cây sào đột nhiên gãy làm đôi, Lữ Tứ Nương ngã chúc đầu xuống, trong cây sào lại giấu cơ quan, khi gãy làm đôi ở giữa bắn ra vô số mũi tên!


Lữ Tứ Nương đang cầm hai cái đầu không thể chống cự, khi cây sào ngã xuống, chân đã mốc vào mũi sào, rồi mượn lực lướt xéo ra, chỉ nghe tu tu mấy tiếng vang lên, một món ám khí kỳ quái từ phía dưới bay lướt lên, Lữ Tứ Nương vừa nghe đã biết là ám khí độc môn Hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn, trong khoảng khắc này nàng xoay người, một tay cầm hai cái đầu, tay kia rút cây Sương Hoa kiếm đâm vào cái Hồi hoàn câu!


Hồi hoàn câu bay hình chữ chi, Lữ Tứ Nương xông tới, mũi kiếm hất nhẹ lên, cái Hồi hoàn câu bay lướt ra rồi lại bay ngược trở về, nhưng Lữ Tứ Nương đã hạ xuống tường thành, cái Hồi hoàn câu không đuổi kịp theo nàng.


Hôm nay là trăng đầu tháng, sao trời mờ mịt, Lữ Tứ Nương nhìn lại cái đầu trên tay, chỉ thấy có vài phần giống với Thẩm Tại Khoan, nhưng vì đã chặt xuống lâu ngày, xương đầu đã khô rút lại, nét mặt cũng thay đổi, trong nhất thời chẳng nhìn rõ. Lữ Tứ Nương đang định nhìn kỹ, chợt nghe bên dưới có tiếng cười ha hả, ba người đột nhiên xuất hiện chia nhau đứng ở ba gốc, ba người này chính là Thiên Diệp Tản Nhân, Hàn Trọng Sơn và Cáp Bố Đà.


Bản lĩnh của Lữ Tứ Nương nay đã nhỉnh hơn ba người này, nhưng dầu thế nào cũng không thể lấy một địch ba. Nhưng vẫn thật lạ lùng, cả ba đều chiếm mỗi phương vị chứ không bao vây hợp kích. Lữ Tứ Nương không kịp nghĩ nhiều, chạy về phía cửa nam, nàng chưa kịp nhảy xuống đã có một luồng lực lớn dồn tới, Lữ Tứ Nương lộn người một vòng trên không trung, cái Hồi hoàn câu bay gấp vào lưng nàng, đồng thời có một cái bóng đỏ cũng từ trên đầu chụp xuống nhanh như điện chớp, Lữ Tứ Nương xoay người, né tránh thế công của địch, lại cản ám khí, chợt thấy luồng kình phong dồn vào ngực, tay buông ra, hai cái đầu đã bị chưởng phong của người ấy quét xuống tường thành, cái Hồi hoàn câu cũng đã ngừng lại. Lữ Tứ Nương điểm chân xuống đất, xoay người lại, chỉ nghe có người nói: “Ả nha đầu rất xinh đẹp, dùng ám khí giết ngươi thật đáng tiếc, để Phật gia bắt sống ngươi lập công cho Hoàng thượng”.


Lữ Tứ Nương cả giận, nhìn lại thì thấy một Lạt ma áo đỏ nhìn mình cười hằn hệt, nhưng đó không phải là Ngạch Âm Hòa Bố. Lữ Tứ Nương nói: “Trả đầu lại cho ta!” rồi đâm xoạt tới một kiếm. Lạt ma vươn hai tay toan chụp lấy tay nàng, Lữ Tứ Nương vốn xuất kiếm nhanh như điện, tựa như bị y húc tới, kiếm thế lệch sang một bên, Lữ Tứ Nương cả kinh. Công lực nội gia của Lạt ma này còn hơn cả Ngạch Âm Hòa Bố. Lạt ma cười nói: “Phật gia không rãnh niệm kinh siêu độ cho người chết, ta đã đấm vỡ cái đầu của tên phản nghịch, coi như đó cũng là một ơn trạch. Ngươi còn chưa đa tạ ta?”


Lữ Tứ Nương trợn mắt, nàng vận nội lực lại đâm tới một kiếm! Lạt ma lách người né tránh, Lữ Tứ Nương đâm hụt, lại đâm thêm một nhát nữa! Lạt ma vẫn xoay người, Lữ Tứ Nương không đâm kiếm tới được, nhưng cũng không giống bị y dẫn ra ngoài như lúc trước, thế là cả hai thành ra thế cuộc giằng co. Lạt ma cười lên một tiếng quái dị, hai chưởng buông ra, Lữ Tứ Nương mất trọng tâm vỗ về phía trước, Lạt ma chợt vỗ một chưởng vào huyệt chí đường của nàng.


Đòn ấy vốn lợi hại lạ thường, lại thêm Lữ Tứ Nương chòm người về phía trước, Lạt ma tưởng rằng chắc chắn nàng sẽ trúng đòn; nào ngờ y vừa nhả kình lực ra, Lữ Tứ Nương đột nhiên thay đổi phương vị, trở tay đâm một kiếm vào huyệt toàn cơ của y, Lạt ma thất kinh, toan vận chưởng lực dẫn kiếm của nàng ra, nhưng đã không kịp nữa, y vội vàng hót ngực thâu bụng, người ngửa ra phía sau mấy tấc, Lữ Tứ Nương đâm hụt một kiếm, lập tức nhảy xuống. Chỉ nghe Cáp Bố Đà kêu lớn: “Lại để ả chạy rồi!” lại nghe Lạt ma cưởi ha hả: “Ả chạy là tốt nhất!” Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Ngươi không để ta chạy cũng không được, làm sao đuổi kịp ta!” chợt nghe phía sau kêu vù một tiếng, Lạt ma đã nhảy xuống tựa như một ánh mây đỏ từ trên trời giáng xuống, người chưa đến đất đã phát chưởng lực, Lữ Tứ Nương điểm mũi chân xuống đất lướt ra mấy trượng, nếu không phải nội công của nàng cao thâm, suýt nữa đã bị chưởng phong đánh ngã. Trong khoảnh khắc này, Cáp Bố Đà, Thiên Diệp Tản Nhân và Hàn Trọng Sơn cũng đã nhảy xuống. Lữ Tứ Nương thất kinh, thầm nhủ: “Sao lại có nhiều cường địch như thế này?”


Lữ Tứ Nương không biết rằng kẻ này là Côn Điện Thượng Nhân, sư huynh của Ngạch Âm Hòa Bố, đệ nhất cao thủ trong Lạt ma Hồng giáo, công phu nội ngoại của y đã đến mức lưu hỏa thuần thanh. Sau lần bị bọn Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đại náo hoàng cung, Ung Chính sợ Lữ Tứ Nương lại đến nên mời y ra, dùng đầu của Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan bày cạm bẫy để dụ nàng tới, nếu không phải vì Côn Điện Thượng Nhân phách lối, không cho bọn Cáp Bố Đà tương trợ hợp công, Lữ Tứ Nương đã bị bọn chúng bắt sống.


Côn Điện Thượng Nhân dắt bọn Cáp Bố Đà đuổi theo, Lữ Tứ Nương chợt nảy ra một ý, thầm nhủ: “Võ công của người này hơn hẳn mình, nếu lúc nãy y dùng chưởng lực vây mình, chỉ e mình đã chạy không thoát. Nay y bảo mình chạy thật là đúng lúc, chả lẽ y có ý nhường? Nếu đã nói thế tại sao còn dắt mọi người đuổi theo?” trong nhất thời Lữ Tứ Nương không nghĩ ra, Côn Điện Thượng Nhân muốn nhân cơ hội này theo dõi Lữ Tứ Nương đến sào huyệt của nàng.


Nhưhg võ công của Côn Điện Thượng Nhân tuy đến mứa đăng phong tạo cực nhưng khinh công lại chỉ tương đương với bọn Thiên Diệp Tản Nhân và Hàn Trọng Sơn, đuổi một hồi, cả bọn cách xa Lữ Tứ Nương đến bảy tám trượng. Côn Điện Thượng Nhân nhíu mày, Hàn Trọng Sơn nói: “Xem ta đây!” rồi vung tay, một luồng ánh lửa xanh bay lên trời, Lữ Tứ Nương rụt vai lại, luồng ánh lửa xanh ấy lướt qua đầu nàng, Lữ Tứ Nương rất lấy làm lạ, tại sao ám khí của Hàn Trọng Sơn lại không trúng mình, chợt thấy luồng lửa xanh quay đầu bay trở lại, nổ bùng một tiếng, vô số thiết sa rơi xuống như mưa. Lữ Tứ Nương vội vàng né tránh chính diện, lướt ra ba bốn trượng, khi nàng né tránh thì bọn Côn Điện Thượng Nhân đã đuổi tới sau lưng.


Té ra sau khi Hàn Trọng Sơn thất bại trong tay Lữ Tứ Nương, y khổ tâm nghiên cứu, căn cứ vào nguyên lý của Hồi hoàn câu, chế tạo một loại xà diệm tiễn có chứa vô số thiết sa để nó có thể bay ngược lại. Lữ Tứ Nương khinh công tuy cao nhưng vì phải chạy đường xéo né tránh ám khí của kẻ địch, mà Côn Điện Thượng Nhân lại đuổi tới bằng đường thẳng, thế là tình thế lập tức thay đổi.


Lữ Tứ Nương bị ám khí chặn lại, khinh công giảm xuống. Hàn Trọng Sơn đã nhiều lần dùng cách này, mỗi lần đuổi theo không kịp lại lấy xà diệm tiễn buộc nàng chạy xéo. Xà diệm tiễn này cũng là tín hiệu để gọi bọn thị vệ trong cung đuổi theo.


Lữ Tứ Nương thông minh tuyệt đỉnh, chạy một hồi đã đoán được độc kế của y, thầm nhủ: “Nếu mình chạy về Tây Sơn, bọn chúng sẽ bám theo, bốn người này võ công chẳng phải tầm thường, Lạt ma Hồng giáo kia càng là kẻ không ai địch nỗi, huống chi bọn chúng chắc chắn lại còn có viện binh. Tây Sơn tuy có cao thủ như Cam Phụng Trì và Lãnh Thiền, nhưng chỉ e chống không nỗi, biết làm thế nào đây?” chợt nhớ lại quái nhân mà Trần họa sư đã nói, thầm nhủ: “Chi bằng mình dụ bọn chúng đến chỗ Độc Long Tôn Giả, võ công của Độc Long Tôn Giả dẫu sao cũng có thể chống lại Lạt ma áo đỏ!”


Lữ Tứ Nương chạy ở phía trước, bọn Côn Điện Thượng Nhân đuổi phía sau, một bên chạy một bên đuổi đều nhanh như điện chớp lửa sẹt, trước khi trời hửng sáng, chạy được hơn hai trăm dặm, đến núi Tích Thạch phía tây nam Bát Đạt lĩnh. Lúc này xà diệm tiễn của Hàn Trọng Sơn đã dùng hết, nhưng Lữ Tứ Nương cũng đã mệt đến nỗi mồ hôi toát đầm đìa.


Côn Điện Thượng Nhân thấy Lữ Tứ Nương chạy vào rừng, nói: “Sào huyệt của phản tặc ở đây”. Rồi cùng bọn Cáp Bố Đà chia làm bốn hướng tấn công vào rừng, chỉ thấy Lữ Tứ Nương phóng vọt người lên một cây cao hơn mười trượng, ngồi trên cành cây nhai lương khô. Hàn Trọng Sơn phóng mấy mảnh tiền tiêu đều bị Lữ Tứ Nương búng rơi xuống đất, Côn Điện Thượng Nhân cả giận, cũng thi viễn khinh công phóng lên cây, Cáp Bố Đà kêu lớn: “Thượng nhân cẩn thận!” Lữ Tứ Nương bẻ hai cành cây đâm vào hai mắt của Côn Điện Thượng Nhân. Côn Điện Thượng Nhân tuy có luyện công phu kim chung tráo nhưng hai mắt lại rất yếu, thế là y vội vàng nhắm mắt cúi đầu, hai cành cây đâm soạt vào hai mang tai của Côn Điện Thượng Nhân. Côn Điện Thượng Nhân kêu lớn buông tay rơi xuống, khi ngửa đầu nhìn lên thì thấy Lữ Tứ Nương ngồi xếp bằng trên cây, vẫn nhai lương khô. Côn Điện Thượng Nhân võ công tuy cao nhưng Lữ Tứ Nương từ trên cao đánh xuống, đã chiếm được tiện nghi. Côn Điện Thượng Nhân khinh công lại không bằng nàng, một lần đã thất bại, không dám liều phóng lên cây nữa.


Lữ Tứ Nương ăn xong, chợt hú dài một tiếng, thanh âm tuy không lớn nhưng nghe trong trẻo cao vút, Côn Điện Thượng Nhân cười lạnh nói: “Ta đang tìm vây đảng của ngươi, hãy gọi tiếp đi!” Lữ Tứ Nương hú mấy tiếng, một hồi sau trong rừng im ắng, chẳng có bóng người. Lữ Tứ Nương kêu: “Độc Long Tôn Giả, Độc Long Tôn Giả!” Côn Điện Thượng Nhân cười lớn: “Tôn giả cái gì? Dù một con Độc Long đến đây, bổn Thượng Nhân cũng có thủ đoạn đồ long”. Lữ Tứ Nương kêu mấy tiếng mà chẳng thấy ai trả lời, trong lòng bất giác lo lắng, nghĩ bụng: “Chả lẽ Độc Long Tôn Giả đã bỏ đi?”


Côn Điện Thượng Nhân vẫn đủ tinh thần, không thấy đồng đảng của Lữ Tứ Nương kéo tới, bất giác cười lớn: “Té ra là kế không thành của ngươi”. Lữ Tứ Nương chẳng thèm để ý, vẫn ngồi xếp bằng trên cây, nhắm mắt dưỡng thần. Côn Điện Thượng Nhân cười rặng: “Ngươi tưởng làm thế, Phật gia không làm gì được ngươi sao?” rồi cởi áo cà sa màu đỏ, vung tay quát lớn một tiếng, chém ngang hai chưởng vào thân cây, thân cây to bằng hai người ôm lập tức tựa như bị búa chém vào! Lữ Tứ Nương ngồi bên trên, tựa như một con thuyền nhỏ bị sóng lớn đánh vào, nàng vội vàng nắm chặt cành cây. Côn Điện Thượng Nhân đánh liền mấy chưởng, cành cây rung rinh rồi đột nhiên y dùng hai tay đẩy một cái, quát: “Ngã!” thân cây tựa như bị búa lơn giáng vào, ầm một tiếng ngã oằng xuống. Chỉ thấy bụi đất tung lên, lá rơi tơi tả, một bóng người phóng vọt lên cây cao hơn, buông giọng cười lớn: “Lừa trọc ngu ngốc, ngươi có bao nhiêu sức có thể chặt đổ hết cây rừng?”


Côn Điện Thượng Nhân đánh ngã cây, chẳng qua chỉ là muốn trút giận, nào ngờ chưa hết giận mà lại bị người ta mỉa mai, giận càng thêm giận nhưng chẳng biết làm cách nào. Lúc này sắc trời đã sáng, cao thủ trong cung dần dần kéo tới, mấy mươi người lấp tên bắn lên, nhưng cái cây ấy cao đến hơn mười trượng, những gã sức yếu chẳng bắn tới, còn hễ bắn tới là bị Lữ Tứ Nương phất rơi xuống. Côn Điện Thượng Nhân tức tối nói: “Thôi được, xem ngươi có thể đợi được bao lâu?” một lúc sau Ngạch Âm Hòa Bố cũng chạy tới, năm đại cao thủ cùng mấy chục tên thị vệ chỉ đành đứng ở dưới ngóng lên.


Côn Điện Thượng Nhân kêu bọn thị vệ bao vây kín vạc rừng đề phòng kẻ địch bên ngoài đánh vào còn mình thì vẫn canh ở dưới gốc cây, nướng thức ăn chờ đợi. Số lương khô Lữ Tứ Nương đem theo đã hết, thấy bọn chúng nướng thức ăn thơm phức, cơn đói dần dần trỗi dậy. Nàng lại hú mấy tiếng gọi Độc Long Tôn Giả.


Bất giác mặt trời đã quá ngọ, chợt nghe ngoài rừng có một tiếng quát thật lớn, tiếp theo là mấy tiếng hưởng tiễn vang lên, có hai người xông vào, người đầu tiên là một hán tử nhỏ thó, lực tay kinh người, chỉ thấy y vung tay lên là chụp được một người, đã có hai tên thị vệ bị ném gãy xương. Hàn Trọng Sơn kêu: “Là Cam Phụng Trì và Đường Hiểu Lan, hai tên này là khâm phạm quan trọng!” Côn Điện Thượng Nhân nói: “Cứ đứng yên đấy, để ta xem hai người này có bản lĩnh thế nào!”


Côn Điện Thượng Nhân nghênh ngang bước ra, Cam Phụng Trì quát lớn, vung tay chụp vào cổ của y, nào ngờ đã chụp hụt, chợt thấy một luồng lực lớn dồn tới, Cam Phụng Trì vội vàng biến chiêu, vận chưởng chặn lại, bớt một tiếng, chàng ta bị thoái lui mấy bước, hổ khẩu chảy máu, Côn Điện Thượng Nhân cũng bị chưởng lực của Cam Phụng Trì khiến lảo đảo. Cam Phụng Trì bất giác thất kinh, chỉ nghe Côn Điện Thượng Nhân kêu lên: “Ngươi có thể chặn nỗi một chưởng của ta, không hổ là Giang Nam đại hiệp!” rồi định bổ ngang chưởng tới, chợt một đường hàng quang lướt tới nhanh nhạy tuyệt luân, Ngạch Âm Hòa Bố kêu lên: “Sư huynh cẩn thận, đó là Du Long bảo kiếm!”


Côn Điện Thượng Nhân vốn muốn cướp kiếm của Đường Hiểu Lan, nghe thế thất kinh, phân biệt ngầm nội lực dẫn dắt, phải vội vàng né tránh. Đường Hiểu Lan sử dụng Truy Phong kiếm pháp, chui kiếm xoay lại, ánh quang trên mũi kiếm mở ra mấy tấc, Côn Điện Thượng Nhân thấy trên đỉnh đầu mát rượi, cái mũ sừng trâu đã bị hớt mất hai mảnh. Cam Phụng Trì thừa thế nhảy vọt tới, hai quyền quét ra. Côn Điện Thượng Nhân cả giận, phất ống tay áo, cuộn thanh kiếm của Đường Hiểu Lan, tay trái đấm ra ngoài, đánh lui Cam Phụng Trì. Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan tuy tinh diệu nhưng công lực lại kém Côn Điện Thượng Nhân rất xa, bị ống tay áo của y cuốn vào, chẳng thể tiến lui. Côn Điện Thượng Nhân cười lạnh một tiếng, ống tay áo càng cuộn chặt hơn, tay trái vươn ra, hai ngón hơi co, đánh ra một chiêu Du Long Thám Trảo, móc vào cổ tay của Đường Hiểu Lan, toan đoạt Du Long bảo kiếm.


Cam Phụng Trì thấy thế cả kinh, vội dốc thực lực, hai quyền đấm tới trước, Côn Điện Thượng Nhân buộc phải vươn ngón tay ra, dùng bình chưởng để đối địch, nội kình của Cam Phụng Trì hùng hậu, lực của hai quyền đấm ra đâu chỉ ngàn cân, Côn Điện Thượng Nhân tuy lợi hại vô cùng nhưng một chưởng chẳng thể chống nỗi hai quyền của chàng, chưởng và quyền chạm nhau, Côn Điện Thượng Nhân lắc lư hai cái, thoái lui một bước, Đường Hiểu Lan chợt thấy áp lực giảm xuống, mũi kiếm vẫy nhẹ kêu lên xoạt xoạt, đã cắt đứt ống tay áo của Côn Điện Thượng Nhân. Côn Điện Thượng Nhân cả giận, hợp chưởng vận kình đẩy ra ngoài, Cam Phụng Trì giao thủ ba hiệp đã biết người biết ta, chàng hiểu nếu tỉ thí nội công, mình chẳng phải là đối thủ của y, đã sớm đoán y có chiêu này, Côn Điện Thượng Nhân vừa biến chiêu hợp chưởng, chàng ta đã lách người tránh ra. Côn Điện Thượng Nhân đẩy hai chưởng ra, cát chạy đá bay ù ù, thanh thế mãnh liệt lạ thường, nhưng cũng chẳng làm gì được chàng ta.


Chưởng phong vừa ngừng, kiếm ảnh bay xéo tới, Đường Hiểu Lan nhân lúc y vừa định đánh ra một chiêu, chưa kịp vận nội gia công lực đã đột nhiên quét ngang một kiếm, mũi kiếm hất xéo tới, Cam Phụng Trì cũng mau chóng tấn công hạ uy thế của y. Người Côn Điện Thượng Nhân xoay hai vòng trong kiếm ảnh chưởng phong, chợt nghe quát lớn một tiếng, hai chưởng phân ra hai bên trái phải tấn công hai người Cam Đường, tiềm lực vừa phát tựa như dời núi lấp bể! Cam Phụng Trì vận chưởng chậm lại, tung người thoái lui, Đường Hiểu Lan suýt nữa đã bị y đánh ngã. Côn Điện Thượng Nhân không hề nương tay, sau khi phá vỡ đòn tấn công của hai người thì lập tức liên tục phản kích!


Cam Phụng Trì hít một hơi, thầm nhủ: “Công lực của người này chẳng kém gì Độc Long Tôn Giả”. Rồi cả hai lại tiến tới hợp kích. Cam Phụng Trì chặn một chưởng của y, Đường Hiểu Lan dùng kiếm pháp nhanh nhạy du đấu kiềm chế. Thế là y không thể dốc hết toàn lực áp chế Cam Phụng Trì, cũng không thể cướp bảo kiếm của Đường Hiểu Lan, lại còn phải phòng bị bảo kiếm, chỉ có thể dùng kim cương thủ mê công chưởng nửa công nửa thủ, đôi bên quần thảo được hơn trăm chiêu mà vẫn chưa phân thắng bại.


Nhưng dẫu sao Côn Điện Thượng Nhân vẫn có nội công thâm hậu, nội kình kéo dài, đấu hơn trăm chiêu mà vẫn nhàn nhã như thường. Đường Hiểu Lan đã thấy nóng người, may mà trong một năm qua chàng luyện nội công chính tông Thiên Sơn đã có tiến bộ nên mới cầm cự nỗi.


Lại đánh mấy mươi chiêu nữa, Côn Điện Thượng Nhân chợt hú lên một tiếng quái dị, chưởng trái vung lên đánh chấn động bảo kiếm của Đường Hiểu Lan, chưởng phải xỉa vào ba mươi sáu đại huyệt trên người Cam Phụng Trì.


Phép điểm huyệt bình thường là vận kình lực dồn vào đầu ngón tay rồi đột nhiên đâm ra. Chỉ kình có hạn, nếu gặp phải những cao thủ như Cam Phụng Trì, vận khí chặn lại dù bị điểm trúng cũng không bị thương. Vả lại Cam Phụng Trì chưởng lực trầm hùng, đối phương xỉa chỉ tới, nếu chạm phải thiết chưởng của chàng, ngón tay sẽ bị gãy, cho nên Cam Phụng Trì bình sinh đối địch chưa bao giờ sợ điểm huyệt. Nhưng không ngờ Côn Điện Thượng Nhân lại dùng phép phách huyệt, y có thể dùng chưởng lực đánh chấn động huyệt đạo, Cam Phụng Trì xuất chưởng chặn lại, song coi như đã tỉ thí nội kình, nếu hơi sơ suất thì y sẽ thừa cơ tấn công hoặc vỗ hoặc đâm, khiến người ta khó phòng. Lại thêm thủ pháp phách huyệt của Côn Điện Thượng Nhân quái dị lạ thường, Cam Phụng Trì chưa từng thấy, cho nên nhất thời không biết ứng phó thế nào.


Đường Hiểu Lan đang định đến giúp Cam Phụng Trì, bọn Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà cũng xông ra, Thiên Diệp Tản Nhân thân pháp rất nhanh, y lướt tới trước, xem ra sắp chặn Đường Hiểu Lan, chợt dừng bước, cười ha hả: “Lâm quý nhân, nàng cũng tới đấy sao?”


Đường Hiểu Lan liếc mắt nhìn ra ngoài rừng, thấy Phùng Anh chạy lướt đi như gió, kiếm quang loang loáng, Thiên Diệp Tản Nhân cười chưa dứt, nàng đã xông vào. Đường Hiểu Lan kêu: “Anh muội, Lữ tỉ tỉ đang ở trong rừng!”


Côn Điện Thượng Nhân múa chưởng thành nửa vòng tròn, dẫn về phía Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan lập tức ngã chõng vó.


Côn Điện Thượng Nhân cười ha hả, vung tay toan chụp tới, chợt kiếm quang lóe lên, lại một thiếu niên nữa xông vào, Côn Điện Thượng Nhân chẳng thèm để ý, tay phải vẫn tiếp tục chụp về phía trước, chưởng trái phất ra đón lấy cái đánh của người ấy, chụp vào cổ tay của chàng. Nào ngờ người này là Lý Trị, chàng ta xoáy mũi kiếm chém vào cổ tay phải của Côn Điện Thượng Nhân, Côn Điện Thượng Nhân cả kinh, vội vàng rụt tay. Đường Hiểu Lan bật người dậy, cùng Lý Trị múa kiếm đánh tới.


Phía bên kia Thiên Diệp Tản Nhân đã đánh với Phùng Anh mấy chiêu, y cả kinh, thầm nhủ: “Không ngờ kiếm pháp của ả nha đầu này lại tiến bộ nhanh như thế!” Y tưởng Phùng Anh là Phùng Lâm, Cáp Bố Đà nhảy tới hai bước, đang định giúp Thiên Diệp Tản Nhân bắt sống Phùng Anh, chợt trong rừng có một thiếu nữ nữa chạy ra, Cáp Bố Đà thất kinh, nàng thiếu nữ này giống hệt như người lúc nãy! Thiên Diệp Tản Nhân cũng phát giác, hai người nhìn nhau, bất giác không biết ai mới là Lâm quý nhân!


Té ra Phùng Anh Phùng Lâm Lý Trị nghe hưởng tiễn của Cam Phụng Trì cho nên vội vàng đuổi tới, Phùng Anh khinh công giỏi nhất, tới nơi thì vừa vặn giải nguy cho Đường Hiểu Lan, Phùng Lâm chạy đến sau cùng, nhưng nàng lanh lẹ lạ thường, vừa liếc nhìn thấy Cam Phụng Trì đã kêu: “Tỉ tỉ, tỉ cầm cự một lúc, muội và Cam đại hiệp đến giúp tỉ”. Phùng Lâm thông hiểu phép phách huyệt của Hồng giáo Tây Tạng, chạy đến bên cạnh Cam Phụng Trì, vỗ bốp bốp hai chưởng vào huyệt phục thố và ngọc sơn, Cam Phụng Trì thấy khí huyết lưu thông, tinh thần phấn chấn, phất chưởng tiếp tục tấn công Côn Điện Thượng Nhân, Lý Trị và Đường Hiểu Lan đang mệt nhọc, Lý Trị nhảy vào vòng chiến, lấy ba địch một, lập tức chiếm được thượng phong.


Cáp Bố Đà vừa thấy đã cười ha hả: “Té ra ngươi là Lâm quý nhân”. Rồi tung mình nhảy tới bắt Phùng Lâm, Thiên Diệp Tản Nhân lúc này cũng nhận ra ai là Phùng Lâm, ai là Phùng Anh, cho nên lập tức phản kích mạnh mẽ, đánh đến khó phân thắng bại với Phùng Anh.


Cáp Bố Đà múa tiếp đôi chùy Lưu Tinh đánh tới, buộc Phùng Lâm phải bỏ chạy. Lúc này tiếng hú của Lữ Tứ Nương trong rừng lại vang lên, Cam Phụng Trì hú lên trả lời. Phùng Lâm nghe tiếng hú của Lữ Tứ Nương, lập tức trổ khinh công nhảy vào trong rừng.


Lữ Tứ Nương nghe tiếng hú của Cam Phụng Trì, lập tức nhảy xuống tấn công về phía Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn giơ cây tị vân trợ quét ngang, Lữ Tứ Nương đâm hụt, kiếm chiêu đã thay đổi, lưỡi kiếm đánh xéo qua đâm vào cổ tay của y. Hàn Trọng Sơn vội vàng rụt tay, vai chợt cảm thấy đau nhói, té ra đã bị Lữ Tứ Nương đá trúng, Lữ Tứ Nương mượn lực của cú đá này lướt ra xa hơn mười trượng.


Ngạch Âm Hòa Bố kêu lên: “Bên ngoài lại có kẻ địch đến, ngươi hãy ra đây xem để ta đối phó với ả nữ tặc ấy!” rồi y mở rộng phất trần đánh ra ba chiêu. Võ công của Ngạch Âm Hòa Bố hơi kém hơn Côn Điện Thượng Nhân, nhưng tương đương với Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương bị y chặn lại, trong lúc gấp gáp không thể xông ra.


Phùng Lâm chạy vào rừng, chợt thấy Hàn Trọng Sơn chạy ra thì thất kinh, nàng lướt xéo người né tránh, Cáp Bố Đà đuổi sát theo sau kêu lớn: “Ả nha đầu còn muốn chạy?” Hàn Trọng Sơn phất ra ba mũi phi tiễn, dồn Phùng Lâm đến chỗ rộng rãi, ý đồ khiến cho nàng không thể chơi trò trốn tìm. Cáp Bố Đà múa chùy phóng lên, Phùng Lâm vừa xoay người đã phóng ra ba mũi đoạt mệnh phi đao, Cáp Bố Đà cười lớn: “Ngươi chỉ có chút trò vặt mà dám thi triển trước mặt ta sao?” rồi tay trái hất một cái, chụp được ba mũi phi đao, nào ngờ một năm qua Phùng Lâm đã luyện nội công thượng thừa của phái Vô Cực, võ công của nàng đã không còn như trước, tuy vẫn còn hơi kém hơn bọn Cáp Bố Đà và Hàn Trọng Sơn nhưng cũng không quá xa. Cáp Bố Đà vừa vươn tay ra đã nghe phi đao xé gió lướt tới, y thất kinh vội vàng rụt tay né tránh, ba mũi phi đao, một mũi lướt qua đầu y, hai mũi lướt qua hai mang tai, đao phong quét vào mang tai, tuy không bị thương nhưng đã cảm thấy đau nhói. Phùng Lâm cười khanh khách, tiếp tục chạy về phía trước. Cáp Bố Đà cả giận, cái chùy Lưu Tinh đột nhiên đánh ra, bay đến trước mặt Phùng Lâm, bổ xuống tảng đá lớn bên cạnh!


Dụng ý của Cáp Bố Đà là đánh vỡ tảng đá để buộc Phùng Lâm không dám lao về phía trước để nàng quay lại rồi mình sẽ bắt sống. Nào ngờ tảng đá vỡ ra, phía sau tảng đá có một hang động rất sâu, bên trong tựa như có tiếng rên rĩ.


Phùng Lâm bị Cáp Bố Đà truy đuổi, nếu quay lại phía sau sẽ bị bắt, khi đá vụn bay lên, nàng thi triển một chiêu Bát phương phong vũ, kiếm thế mở ra bốn bên, rồi nàng chui tọt vào trong động.


Trong động có khí lạnh căm căm, đưa tay ra chẳng thấy năm ngón, Phùng Lâm rùng mình, nghe tiếng Cáp Bố Đà quát tháo, một hồi sau lại nghe Cáp Bố Đà kêu: “Dù ngươi chạy vào hang hùm ổ rắn, ta cũng sẽ lôi ngươi ra!” Phùng Lâm vốn sợ rắn, nghe y nói hai chữ “ổ rắn” lại thất kinh, nhưng Cáp Bố Đà đã lò dò tiến vào, nàng không thể chần chừ nữa, chỉ đành dùng kiếm hộ thân, vẫn tiếp tục đi về phía trước.


Động này rất sâu, đi một hồi lại nghe tiếng rên rĩ rất rõ ràng, lại còn có cả tiếng kêu xì xì quái dị, Phùng Lâm dựng tóc gáy, rồi nàng đâm xoạt ra một kiếm, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy trong bóng tối có hai chấm sáng màu xanh lấp lánh, tiếng kêu xì xì phát ra từ chấm sáng ấy, rõ ràng là đôi mắt của một con độc xà!


Phùng Lâm kêu lớn, tiếp tục chém thẳng về phía trước, chợt thấy cổ tay đau nhói, thanh bảo kiếm rơi keng xuống đất, chỉ nghe có người khẽ quát: “Tại sao ngươi dám chém con rắn ta dùng để cứu người?” Phùng Lâm vận kình vùng vẫy, nào ngờ toàn thân đã mềm nhũng, nàng chợt cảm thấy có một vật vừa mềm vừa trơn bò trên người mình, nàng sợ đến nỗi hồn bay phách tán.


Người ấy chợt kêu ồ một tiếng rồi nói: “Ta tưởng là ai, té ra là ân nhân, ân nhân đừng lo. Con rắn này không biết cắn người. Kim Nhi, trở về!” con rắn trườn khỏi người Phùng Lâm, người ấy lại hỏi: “Phùng cô nương, sao biết tôi ở đây?” Phùng Lâm từ bên ngoài sáng chạy vào bóng tối, mắt vẫn chưa nhìn rõ, không biết người phía trước là ai, vẫn còn kinh hoảng, người ấy lại nói: “Lại có thêm một người, Phùng cô nương, y có phải là đồng bạn của cô nuơng không?” Phùng Lâm hơi bình tĩnh, thầm nhủ: “Ngươi này đã gọi mình ân nhân, lại có bản lĩnh cao như thế, chi bằng mình cứ nhờ y cứu”. Tiếng bước chân của Cáp Bố Đà càng lúc càng gần, y lên tiếng dọa dẫm: “Nha đầu, ngươi mau ra đây, nếu không ta dùng chùy Lưu Tinh đánh vỡ đầu ngươi!” người ấy kêu ồ một tiếng nói: “Té ra là kẻ địch của cô nương!” Phùng Lâm vội nói: “Y là kẻ thù của tôi, y rất ác độc!” người ấy cười lạnh nói: “Ân nhân đừng lo, tôi chuyên thu phục người ác!” Cáp Bố Đà bước vào trong động, nghe tiếng xì xì, trong lòng cũng thấy kinh hãi. Nhưng y cậy tài cao gan lớn, múa cây chùy Lưu Tinh một vòng tròn, hộ trước thân, thầm nhủ: “Nếu có rắn độc đột nhiên lao bổ tới, chúng sẽ bị chùy phong của mìnnh đánh chết!” y vừa múa chùy vừa lần dò tiến về phía trước, vào sâu trong động chợt nghe Phùng Lâm và người ấy nói chuyện, bất giác lấy làm ngạc nhiên.


Cáp Bố Đà múa tiếp cây chùy Lưu Tinh trên đầu, quát lớn: “Quái vật gì nấp trong đó dọa dẫm?” trong động vang ra một tràn cười lạnh lẽo, người ấy nói: “Ta ở đây còn tốt hơn bầy ác tặc các người ở giữa ban ngày mà làm chuyện ác ôn!” Cáp Bố Đà quát: “Ngươi là ai?” rồi vung chùy Lưu Tinh về phía trước, chỉ nghe người ấy lại nói: “Hừ, cũng có chút trò vặt, chả trách nào dám cậy mạnh bức hiếp ân nhân của ta, chỉ đáng tiếc ngươi vẫn chưa học hết chùy pháp!” Cáp Bố Đà thất kinh, thầm nhủ: “Trong bóng tối mà có thể nhìn rõ chiêu số của mình, không thể khinh địch được”. Thế là vận đủ nội nình, đột nhiên quét cây chùy Lưu Tinh về phía trước, chỉ nghe người ấy quát lớn: “Ngươi dám đả thương bệnh nhân của ta!” công lực của Cáp Bố Đà rất thâm hậu, nhát chùy này không chỉ nặng ngàn cân, không ngờ sau khi quét xong thì bị chụp đầu chùy, không thể nào giật lại được, Cáp Bố Đà kinh hoảng, hai tay buông ra quay đầu bỏ chạy, người ấy cười lạnh lướt tới thộp cổ Cáp Bố Đà, giở lên rồi quát: “Đi!” Cáp Bố Đà võ công cao như thế mà không thể nào vùng vẫy, bị y ném ra ngoài động.


Phùng Lâm vừa kinh vừa mừng, hỏi: “Ông là ai?” người ấy cười nói: “Cô nương vẫn chưa nhìn ra sao? Cô nương không thấy mặt tôi cũng phải nhận ra tiếng nói của tôi. Hẳn cô nương không ngờ tôi đến đây?” Phùng Lâm ngạc nhiên, chỉ nghe người ấy lại hỏi: “Lữ tỉ tỉ của cô nương đâu?” Phùng Lâm vội nói: “Ở bên ngoài, bị người xấu vây chặt. Ông hãy ra cứu tỉ tỉ!” người ấy nói: “Ồ, chả trách nào hình như tôi nghe tiếng hú của nàng. Ai mà có bản lĩnh vây được nàng, ta sẽ ra xem thử!” bên cạnh lại có người rên hai tiếng, người ấy đưa ta sờ xuống rồi nói: “Các người đã khỏe, nằm nửa ngày nữa ta sẽ đưa các người về nhà!”


Người này chính là Độc Long Tôn Giả, một năm qua y đến khắp nơi chữa trị cho người bệnh hủi, mười ngày trước đây vừa khéo đến nơi này. Y ngại người ta hoàng sợ cho nên đưa những người bệnh nấp vào trong một căn động rồi dùng đá lớn lấp kín cửa động. Hai người bệnh nhẹ nhất đã được y đưa về nhà, chỉ còn hai người tương đối nặng vẫn ở trong động. Hai người này sức khỏe hư nhược, Độc Long Tôn Giả chích máu rắn dùng thuốc chữa trị cho họ, bệnh hủi dần dần khỏi, nhưng vì ở không quen trong hang động ẩm ướt nên phát chứng hư tổn, hai ngày qua đã bất tỉnh nhân sự. Độc Long Tôn Giả ngoài biết chữa bệnh hủi, đối với y đạo một khiếu chẳng thông, vả lại cũng không thể tìm thuốc. Chỉ đành dùng khí chân nguyên của mình đưa vào cơ thể người bệnh giúp họ chống chọi. Trong một ngày một đêm, Độc Long Tôn Giả ngưng thần tịnh khí chữa trị cho người bệnh cho nên không nghe tiếng hú của Lữ Tứ Nương. Đến khi Phùng Lâm tới, hai người bệnh phát ra tiếng rên rĩ, thoát khỏi nguy hiểm, Độc Long Tôn Giả không còn lo nữa nên cùng Phùng Lâm ra khỏi động.


Cáp Bố Đà bị Độc Long Tôn Giả ném ra ngoài động, Hàn Trọng Sơn đứng ở bên ngoài cửa động chờ đợi, thấy trên cổ của y còn dấu tay, mặt thì tái nhợt, trông thê thảm vô cùng, cả chùy Lưu Tinh cũng mất, ngạc nhiên hỏi: “Ai ở trong động thế?” Cáp Bố Đà sờ vào cổ của mình, tức giận nói: “Quái vật, quái vật! Mau mời Côn Điện Thượng Nhân đến!” Hàn Trọng Sơn biết y vừa mới thua to, cho nên chúm môi huýt một tiếng sáo gọi Côn Điện Thượng Nhân. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chợt một người từ trong động nhảy tọt ra, đầu tóc rối bời, tướng mạo rất quái dị, Hàn Trọng Sơn canh ở cửa động, thấy bóng người lập tức bổ một trợ tới!


Chính là:


Dị sĩ từ hoang đảo, hai chưởng đấu quần hung.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 42

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 42 Gửi con cho gian nho tướng quân nghĩ xa Mượn đao giết gian tặc hiệp sĩ thấy cơ


Hàn Trọng Sơn bổ xuống một trợ, Độc Long Tôn Giả phất ống tay áo, quát: “Thật vô sĩ!” cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn bị y phất một cái lệch qua một bên, thất kinh, thầm nhủ: “Công lực của kẻ này quả nhiên hơn hẳn ta”. Độc Long Tôn Giả phất ống tay áo mà không đánh bay được cây tị vân trợ của y, cũng hơi thất kinh thầm nhủ: “Té ra Lữ Tứ Nương gặp nhiều cường địch thế này, chả trách nào đã bị vây”.


Công lực giữa Hàn Trọng Sơn và Cáp Bố Đà tương đương nhau, tại sao Cáp Bố Đà vừa chạm mặt lại thất thủ mà Hàn Trọng Sơn tuy bị trúng đòn nhưng vẫn không ngã xuống? Đó là bởi vì Cáp Bố Đà từ bên ngoài sáng vào bóng tối, có nghĩa là Độc Long Tôn Giả ở nơi sáng còn y ở nơi tối, mà Cáp Bố Đà lại chưa biết bản lĩnh của Độc Long Tôn Giả, phòng bị không chu toàn cho nên bất ngờ trúng một đòn cầm nã của Độc Long Tôn Giả. Còn Hàn Trọng Sơn nấp ở ngoài cửa động ám toán, có nghĩa là y ở ngoài sáng còn Độc Long Tôn Giả ở trong bóng tối, y biết kẻ địch bản lĩnh cao cường, chưa liệu thắng đã nghĩ thất bại, bổ xuống một trợ, người lập tức thoái lui cho nên không thua liểng xiểng như Cáp Bố Đà.


Nhưng vừa mới giao thủ, mạnh yếu đã rõ, Hàn Trọng Sơn không dám chống địch, vội vàng rút trợ thoái lui. Độc Long Tôn Giả cười ha hả, nói: “Lữ nữ hiệp, Lữ nữ hiệp!” Lữ Tứ Nương đang giằng co với Ngạch Âm Hòa Bố trong rừng, nghe tiếng gọi của Độc Long Tôn Giả thì phấn chấn tinh thần, đâm xoạt xoạt mấy kiếm vào những chỗ yếu hại của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố tách qua một bên, Lữ Tứ Nương lập tức phóng ra, Ngạch Âm Hòa Bố vội vàng đuổi theo ra đến bên ngoài, đã thấy Côn Điện Thượng Nhân và Độc Long Tôn Giả sắp động thủ với nhau.


Té ra Côn Điện Thượng Nhân một mình đánh ba người Cam Phụng Trì, Đường Hiểu Lan và Lý Trị mãi mà không hạ được, Cáp Bố Đà và Hàn Trọng Sơn lại chạy đến, kéo y đi đối phó cường địch. Côn Điện Thượng Nhân lập tức rút lui quay đầu chặn địch, chỉ thấy Độc Long Tôn Giả đầu tóc rối bời tựa như dã nhân, Côn Điện Thượng Nhân rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Ở đâu lại chui ra một tên dã nhân thế này?”


Độc Long Tôn Giả thấy Lữ Tứ Nương chạy ra, kêu lên một tiếng mừng rỡ, Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương cũng kêu: “Độc Long Tôn Giả!” lúc này Phùng Lâm mới hiểu ra, nàng đã nghe Phùng Anh kể chuyện ở Xà đảo, rõ ràng Độc Long Tôn Giả tưởng nàng là Phùng Anh! Ngạch Âm Hòa Bố chạy ra, nghe tên Độc Long Tôn Giả, bất giác ngạc nhiên. Y vào cung trước sư huynh, ngày nọ nghe Ung Chính bảo Song ma đi mời Độc Long Tôn Giả, bởi vậy mới biết tên ông ta, bất giác kêu: “Hoàng thượng cho mời ngươi, ngươi không đến thì thôi, tại sao lại giúp bọn phản tặc phạm thượng?”


Y vừa nói xong, Độc Long Tôn Giả đã nổi giận, một năm nay y trở lại trung thổ, nghe rất nhiều chuyện bạo ngược của Ung Chính, cả giận quát: “Hừ, té ra ngươi là ưng khuyển cho Hoàng đế!” rồi y bẻ một cành cây phóng về phía Ngạch Âm Hòa Bố, Côn Điện Thượng Nhân nhảy vọt qua, vung tay hớt cành cây, buông giọng cười lớn nói: “Té ra ngươi là Độc Long Tôn Giả, công phu của ngươi đúng là bất phàm, nào, chúng ta tỉ thí với nhau!” thế rồi hai chưởng ôm lại, dùng thế thái sơn áp đỉnh đẩy về phía Độc Long Tôn Giả.


Độc Long Tôn Giả bung hai chưởng chặn lại, hai bên đều cảm thấy một luồng lực đạo mạnh mẽ vô cùng đẩy về phía mình, không ai dám biến chiêu rút tay. Bốn chưởng chạm nhau dính sát ngay tại trận, bốn mắt nhìn nhau tựa như hai con gà trống, chẳng ai hơn ai.


Bọn Cam Phụng Trì cũng nhảy ra khỏi vòng chiến, nhìn Độc Long Tôn Giả và Côn Điện Thượng Nhân ác đấu. Đường Hiểu Lan chạy đến bên cạnh Lữ Tứ Nương, khẽ nói lời đáp tạ. Lữ Tứ Nương thấy chàng bình an, rất mừng rỡ nói: “Đệ đã khỏe, ta rất yên tâm”. Phùng Anh cũng chạy đến, đứng sát bên Đường Hiểu Lan khẽ nói lời đáp tạ Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương thấy hai người thân mật như thế, nghĩ đến Thẩm Tại Khoan không biết sống chết thế nào, trong lòng bẽ bàng, khẽ nói: “Cần gì phải đáp tạ? Hãy xem Độc Long tiền bối đấu với tên kia thế nào đã!”


Lúc này bọn lính bao vây khu vườn cũng đã quay trở lại, đứng phía sau Côn Điện Thượng Nhân. Độc Long Tôn Giả và Côn Điện Thượng Nhân vẫn giằng co nhau, hai bên đổ mồ hôi như mưa, nhưng chẳng ai nhúc nhích. Các cao thủ đứng ở đấy đều không khỏi kinh tâm động phách, biết cuộc tỉ thí chân lực nội gia này không phải tầm thường, nếu chỉ hơi sơ suất thì không chết cũng bị thương, so với đấu đao đấu kiếm còn nguy hiểm hơn nhiều.


Hai người cầm cự được nửa canh giờ, Côn Điện Thượng Nhân dần dần cảm thấy áp lực của đối phương gia tăng, người ngoài vẫn nhìn không ra, nhưng y biết nếu cứ tiếp tục đấu bằng chân lực, chắc chắn sẽ gặp bất hạnh. Y biết không thể đổi chiêu rút chưởng, trong lòng nảy ra một kế, đột nhiên cho một vẫy nước bọt vào mắt của Độc Long Tôn Giả. Độc Long Tôn Giả không biết y có chiêu này, bất giác cúi đầu né tránh, Côn Điện Thượng Nhân thừa lúc ông ta phân tâm đẩy hai chuởng về phía trước, đấm bình một quyền vào vai của Độc Long Tôn Giả. Độc Long Tôn Giả cả giận, trở tay quét một chưởng vào bụng dưới của Côn Điện Thượng Nhân, hai người đều kêu lớn nhảy vọt ra sau hơn một trượng, chỉ thấy một cái cây to đổ ầm xuống, bọn lính ở phía sau vội vàng né tránh. Té ra Côn Điện Thượng Nhân dùng xảo kế kém nội gia chân lực của Độc Long Tôn Giả, luồng lực ấy đã đánh gãy cái cây này.


Hai người đều đã luyện đến mức như mình đồng da sắt, mỗi bên trúng một đòn của đối phương, tuy đau nhưng chẳng hề chi. Độc Long Tôn Giả phẫn nộ vô cùng, nhảy vọt tới trước chụp xuống đầu Côn Điện Thượng Nhân. Côn Điện Thượng Nhân không dám tỉ thí chân lực nữa, y cúi đầu né tránh, đột nhiên cứ chạy vòng vòng xung quanh Độc Long Tôn Giả. Trong chớp mắt, khắp rừng chỉ thấy toàn là bóng của Côn Điện Thượng Nhân.


Độc Long Tôn Giả chưa từng thấy lối đánh thế này, mắt cứ hoa lên. Đó là Mê Tông chưởng pháp của Hồng giáo Tây Tạng, nếu gặp phải những người khinh công tuyệt đỉnh như Lữ Tứ Nương, loại võ công này chẳng làm gì được họ. Nhưng Độc Long Tôn Giả lại không có sở trường về khinh công, thêm nữa sống ở ngoài hải đảo, kinh nghiệm đối địch không phong phú, chỉ có nội công thâm hậu. Thế là đã mắc lừa Côn Điện Thượng Nhân, Độc Long Tôn Giả cũng xoay theo y, chợt thấy có cảm giác hoa mắt, lại trúng thêm hai chưởng của Côn Điện Thượng Nhân, tuy có thể chống đỡ nỗi nhưng đau đến nỗi kêu lên oai oái.


Bọn Ngạch Âm Hòa Bố reo hò trợ oai. Lữ Tứ Nương nhíu mày, nhìn một hồi chợt kêu: “Lấy tĩnh chế động, triển chủ thành khách!”


Độc Long Tôn Giả đang bị Côn Điện Thượng Nhân đánh đến choáng váng, nghe Lữ Tứ Nương nhắc nhở rồi thầm nhủ: “Đúng thế, mình cần gì phải xoay vòng vòng theo y?” thế rồi thay đổi lối đánh, cứ đứng vững như núi chẳng hề nhúc nhích, một chưởng phía trước rồi một chưởng phía sau, Côn Điện Thượng Nhân lướt tới gần, Độc Long Tôn Giả liền vận nội lực vỗ vào y một chưởng. Võ công của Độc Long Tôn Giả đã đến hóa cảnh, ngưng thần đối địch lập tức đầu sáng mắt tỏ, mặc cho Mê Tông chưởng pháp của Côn Điện Thượng Nhân lợi hại đến mức nào, ông ta đều có thể nhìn vào thân hình của đối phương để tuỳ thời cơ mà ra đòn.


Nội lực của Côn Điện Thượng Nhân vốn không bằng Độc Long Tôn Giả, Mê Tông chưởng pháp không có hiệu quả, lập tức bản thân cảm thấy vất vả. Độc Long Tôn Giả đánh hết chưởng này đến chưởng khác, mỗi chưởng đều có uy lực mạnh mẽ, Côn Điện Thượng Nhân không dám áp tới gần, bị chưởng lực của ông ta chèn ép, hơi thở gấp gáp, thầm kêu lên không xong, nếu cứ tiếp tục như thế, địch chưa bại mà mình đã thua, tuyệt đối chẳng chiếm được tiện nghi.


Côn Điện Thượng Nhân nhíu mày, chưởng pháp lại thay đổi, chưởng trái cầm nã, chưởng phải phách huyệt, người vẫn xoay vòng vòng nhưng khi thấy có sơ hở thì dùng cầm nã thủ hóa giải thế công của kẻ địch, dùng thủ pháp phách huyệt uy hiếp kẻ địch. Côn Điện Thượng Nhân có mấy loại võ công độc môn, Độc Long Tôn Giả tuy công phu nội ngoại đã đến mức đăng phong tạo cực nhưng công phu bàng môn tả đạo lại kém xa Côn Điện Thượng Nhân, ông ta thấy Côn Điện Thượng Nhân toàn đánh vào những yếu huyệt của mình, cũng thất kinh, một mặt vận khí bế huyệt, một mặt thủ kỹ cự địch, bởi vậy uy thế của chưởng lực dần dần yếu hẳn. Côn Điện Thượng Nhân vừa công vừa thủ, thế là cả hai bên lại đánh ngang tay.


Đường Hiểu Lan thấy thế lo lắng, bàn với Lữ Tứ Nương: “Công phu thực sự của Độc Long Tôn Giả hơn hẳn tên yêu tăng này, nhưng trái lại bị yêu tăng chế ngự, thật là kỳ lạ”. Phùng Lâm chen vào nói: “Tên yêu tăng ấy dùng công phu phách huyệt, cũng rất lợi hại. Độc Long Tôn Giả không biết ứng phó, cũng chỉ có thể đánh ngang tay với y”. Đường Hiểu Lan lắc đầu, nói: “Muội không thấy chưởng lực của ông ta dần dần yếu đi hay sao? Cứ đánh mãi chỉ e hỏng mất”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Chưa chắc. Độc Long Tôn Giả tuy phân tâm, chưởng lực dần yếu; nhưng tên yêu tăng vì đồng thời thi triển ba loại võ công, Mê Tông chưởng pháp của y cũng không còn lợi hại như trước. Tính ra Độc Long Tôn Giả chắc sẽ không thua”.


Bọn Lữ Tứ Nương trò chuyện tuy không lớn, nhưng Độc Long Tôn Giả lại nghe rõ ràng, ông ta ngầm để ý, cho nên trong lòng chợt hiểu ra. Chưởng thất thay đổi, chân bước vào phương vị Ngũ hành Bát quái, đột nhiên tấn công gấp tới. Côn Điện Thượng Nhân vốn dùng Cầm Nã thủ, phách huyệt pháp phối hợp với thân pháp phiêu hốt của Mê Tông chưởng để khắc chế Độc Long Tôn Giả, nhưng Độc Long Tôn Giả có nội công vốn cao hơn y, thủ pháp phách huyệt chỉ có thể uy hiếp chứ không dồn kẻ địch vào chỗ chết; cầm nã thủ chỉ ứng phó với phi long chưởng của Độc Long Tôn Giả chứ không thể thủ thắng. Còn thân pháp Mê Tông chưởng lại bị Độc Long Tôn Giả phá vỡ, Độc Long Tôn Giả không kiên trì phòng thủ, cũng không tấn công bừa bãi, bước vào phương vị ngũ hành bát quái, tinh thần đương nhiên không mê loạn. Thế là uy lực của Độc Long Tôn Giả tăng lên, đòn nào cũng có uy lực. Chỉ thấy ông ta bước vào vị Khảm, qua phương Ly, quét vù một chưởng, Côn Điện Thượng Nhân lắc lư người, xoay nửa vòng, trở tay vỗ vào huyệt Kỳ Môn của kẻ địch, Độc Long Tôn Giả từ phương ly nhảy vọt qua vị tấn, hai chưởng hợp lại rồi phân ra, quát: “Trúng!” chiêu này được gọi là Song Long Nhập Hải, đó chính là tuyệt chiêu sát thủ của Độc Long Tôn Giả.


Trong quyền phong chưởng ảnh, Côn Điện Thượng Nhân kêu lớn một tiếng, Đường Hiểu Lan đang định reo lên, không ngờ trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt, lại nghe thêm bình một tiếng, Độc Long Tôn Giả ôm bụng gập người, lảo đảo tựa như muốn ngã xuống. Lữ Tứ Nương kêu: “Không xong!” Phùng Lâm kêu hoảng: “Rắn, rắn!” chỉ trong chớp mắt, Côn Điện Thượng Nhân kêu lớn, Độc Long Tôn Giả chợt vươn eo lao bổ về phía trước đánh ra một quyền khiến y ngã sầm xuống!


Té ra Côn Điện Thượng Nhân biết không thể nào né tránh đòn tấn công song chưởng của kẻ địch, thế là đánh liều xoay người đưa lưng tiếp hai chưởng, trở tay vỗ một cái trúng vào huyệt Đương Môn trước ngực của Độc Long Tôn Giả. Huyệt Đương Môn là một trong những tử huyệt của con người, Côn Điện Thượng Nhân liệu rằng ông ta không chết cũng bị trọng thương.


Nào ngờ Độc Long Tôn Giả giấu trong người một ống sắt, trong ống sắt có nuôi hai con rắn độc nhất, hai con rắn này Độc Long Tôn Giả dùng để chữa bệnh hủi. Côn Điện Thượng Nhân vỗ một chưởng, cái ống sắt vỡ ra, hai con rắn bay ra cắn vào hai chân mày của Côn Điện Thượng Nhân. Côn Điện Thượng Nhân tuy lập tức bóp chết hai con rắn độc nhưng sau khi bị chấn thương bởi nội lực, lại bị rắn cắn, dẫu mình đồng da sắt cũng chẳng cầm cự nỗi, trong khoảnh khắc mắt tóe đom đóm. Độc Long Tôn Giả đã sớm vận khí bế huyệt, lại nhờ có ống sắt cản lại nên ông ta không bị thương nặng. Ông ta huýt một hơi, vung tay đấm ra một quyền, khiến Côn Điện Thượng Nhân vỡ xương quai hàm ngã xuống đất chết tốt.


Độc Long Tôn Giả cúi người nhìn, thấy hai con rắn độc đã chết, đùng đùng cả giận, thuận tay giở một gốc cây lớn, quét về phía bọn Hàn Trọng Sơn. Bọn Hàn Trọng Sơn thấy Côn Điện Thượng Nhân bị ông ta đánh chế, sợ đến nỗi hồn bay phách tán, hè nhau tháo chạy. Chỉ khổ là bọn lính bản lĩnh thấp kém, bị Độc Long Tôn Giả hét một tiếng lăn cù cù xuống sườn núi, Lữ Tứ Nương kêu: “Tôn giả, hãy tha cho bọn chúng!”


Độc Long Tôn Giả nghe thế, lập tức ngừng tay, ném cái cây xuống, khom người chào nàng.


Lữ Tứ Nương khom người nói: “Tôn giả không cần nhiều lễ”. Độc Long Tôn Giả chảy nước mắt nói: “Trước đây tôi một mình sống ở Xà đảo, thù hận người đời, nếu không nhờ cô nương và Cam đại hiệp chỉ điểm, không biết đã tạo ra bao nhiêu oan nghiệt. Người sinh tôi ra là cha mẹ, người hiểu tôi là bằng hữu. Tôi thật không thể nào báo đáp ân tình của các vị”. Phùng Anh nói: “Ông giúp chúng tôi đánh chết tên yêu tăng, chúng tôi đã cảm kích không nguôi”. Phùng Lâm và Phùng Anh đứng song song nhau, Độc Long Tôn Giả phát hiện họ y hệt nhau thì rất ngạc nhiên. Phùng Anh cười nói: “Đây là muội muội của tôi”. Phùng Lâm ngạc nhiên hỏi: “Tôn giả, hai con rắn độc của ông lợi hại đến thế, tại sao không thả nó ra từ sớm, chẳng phải đỡ mất sức hơn hay không?”


Độc Long Tôn Giả mặt chợt biến sắc, rồi thở dài nói: “Tôi nghe lời dạy của Lữ nữ hiệp, thề không dùng rắn độc hại người, chỉ dùng để cứu người, tên này đáng vỡ ống sắt, chọc giận bọn chúng là tự tìm đường chết, tên này chết cũng không tiếc, nhưng tôi mất hai trợ thủ đắc lực”. Phùng Lâm ngạc nhiên hỏi: “Sao chúng có thể là trợ thủ đắc lực của ông?” Độc Long Tôn Giả tiếp tục nói: “Một năm qua tôi cứu được không ít người bệnh hủi. Lúc đầu tôi muốn đưa người bệnh về Xà đảo, sau đó mới thấy làm thế phí công. Bởi vậy mới mang hai trợ thủ này đến, mỗi khi chữa trị cho người bệnh, tôi chích máu của bọn chúng ra dùng, sau đó cho chúng uống thuốc, trong vòng mấy ngày đã có thể hồi phục”. Phùng Anh nghe thế, bất giác trong lòng dấy lên nỗi cảm thái.


Phùng Anh nhớ lại ngày ấy khi ở Xà đảo, Lữ Tứ Nương dùng thiên niên chi thảo của Ngư Xác cứu Độc Long Tôn Giả, mà thiên niên chi thảo là nàng muốn dùng cứu Đường Hiểu Lan, lúc đó nàng thấy không vui. Nhưng giờ nhìn lại, Lữ Tứ Nương làm thế rất đúng. Họ chỉ cứu một mình ông ta, nhưng cũng cứu nhiều người bệnh hủi. Bởi vậy Phùng Anh càng hiểu sâu hơn hai chữ “hiệp nghĩa”.


Độc Long Tôn Giả lại nói: “Trên đời nay tuy có không ít người bị bệnh hủi, nhưng cũng không nhiều lắm. Đại khái mỗi huyện chỉ có tám người mười người. Tôi mang theo hai trợ thủ này đã đủ dùng. Nhưng đáng tiếc bọn chúng chết oan trong tay tên yêu tăng”. Lý Trị hỏi: “Rắn độc bình thường có dùng được không? Ngoại trừ máu rắn còn dùng thuốc gì nữa, cách dùng thế nào?” Độc Long Tôn Giả nói: “Rắn độc bình thường tuy dùng được, nhưng kém xa hai con rắn độc của tôi, vả lại tôi cũng không rãnh đi khắp nơi tìm rắn độc”. Thế rồi nói bài thuốc và cách dùng của ông ta, Lý Trị nhớ kỹ trong lòng. Ngoại trừ Tị sương hoa chị có ở Xà đảo, những thứ thuốc khác đều không hiếm, vả lại vị thuốc này chắc có thể thay bằng thứ khác. Độc Long Tôn Giả lại nói: “Trợ thủ của tôi đã chết, tôi phải quay về Xà đảo đem theo nhiều trợ thủ và thuốc đến đây”. Lữ Tứ Nương chấp tay nói: “Lành thay, lành thay! Tôn giả đã thay đổi suy nghĩ, thật là có ích cho đời”. Độc Long Tôn Giả nói: “Đó cũng nhờ nữ hiệp chỉ điểm”. Chợt nhớ mình phải đưa hai người bị bệnh hủi trở về nhà, cao từ với Lữ Tứ Nương: “Tôi không biết nói những lời khách sáo, tôi chỉ có thể cố gắng chữa trị cho người bệnh để báo đáp ơn ngày trước của các vị”. Lữ Tứ Nương gật đầu mỉm cưởi: “Thế là rất tốt!” mọi người dõi theo bóng dáng của Độc Long Tôn Giả, ai nấy đều khen.


Cam Phụng Trì hỏi Lữ Tứ Nương tại sao bị vây đánh? Lữ Tứ Nương nói: “Muội có một việc, mong thất ca đoán dùm”. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội thông minh hơn người, ngư huynh kém xa chẳng bằng. Không biết bát muội có chuyện gì không thể quyết đoán?” Lữ Tứ Nương kể lại chuyện mấy ngày hôm nay, nói: “Muội không đoán được đầu của Thẩm Tại Khoan là thật hay giả? Huynh bảo muội có nên quay về Tiên Hà lĩnh xem thử hay không?” Cam Phụng Trì nghĩ ngợi rồi nói: “Bát muội cũng không thể đoán là thật hay giả, huynh càng không thể. Mấy ngày hôm nay chúng tôi bận cứu Hiểu Lan, không ngờ trong kinh lại xảy ra chuyện lớn đến thế. Nhưng chuyện này đã chấn động bốn phương, chắc có manh mối, chi bằng chúng ta trở về Tây Sơn rồi sẽ điều tra. Giờ đây muội trở về Tiên Hà lĩnh cũng vô ích”. Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Nếu Tại Khoan thực đã chết, trở về Tiên Hà lĩnh cũng càng thêm đau lòng; nếu chưa chết, về muộn mấy ngày cũng chẳng hề gì”, thế là mới gật đều chấp nhận.


Cam Phụng Trì lại nói với chị em Phùng Anh: “Sau trận chiến này, triều đình đã chú ý đến Bát Đạt lĩnh, có thể sẽ nghi ngờ chúng ta tụ tập ở nơi này. Chi bằng cứ mời lệnh Đường và lệnh ngoại tổ đến Tây Sơn”. Đường Hiểu Lan cũng muốn gặp sư tẩu, nên đi cùng chị em Phùng Anh. Phùng Anh lại nói: “Chúng ta còn có thể thuận đường đến Nam Khẩu xem y án của Diệp Thọ Thường để lại, nay đã biết muội muội là hậu nhân của Vô Cực phái, vậy y án theo lẽ thuộc về muội muội”. Phùng Lâm nhìn Lý Trị mỉm cười nói: “ca ca ngốc, huynh đã yên lòng rồi chứ! Muội sẽ tặng cho huynh tất cả y án của Diệp Thọ Thường, huynh lấy cái gì đáp tạ muội!” Lý Trị cười hì hì nói: “Trong y án ấy lại thêm một cách chữa bệnh hủi. Huynh cứ bắt chước chư Độc Long Tôn Giả, chữa nhiều người bệnh để đáp tạ muội”. Chàng ta nói chưa xong, chợt thấy Cam Phụng Trì biến sắc.


Lữ Tứ Nương ngưng thần lắng nghe, chợt nhảy lên cao nhìn ra xa. Mọi người đều thất kinh, Cam Phụng Trì nói: “Từ xa có quân mã di chuyển, chả lẽ Ung Chính hưng sư động binh vì chúng ta?”


Mọi người chạy lên đỉnh núi nhìn xa, chỉ thấy trên con đường cái quan ở chân núi, quân mã xếp thành hai hàng dài dằng dặc, cờ bay phấp phới. Cam Phụng Trì nói: “Đây là đại quân, chắc không phải đối phó với chúng ta”. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta hãy đi đường núi trở về để khỏi đụng đầu với đại quân”. Rồi căn dặn bọn Phùng Anh cẩn thận. Cam Phụng Trì nói: “Xem ra nhánh quân này có đến mấy vạn, đi đến đâu sẽ gây chấn động đến đó. Song các quan địa phương chắc chắn sẽ ra nghênh đoán đại quân, các người đi vòng đường núi, trái lại không ai để ý”.


Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đi một đường, Hiểu Lan đi cùng tỉ muội Phùng Anh.


Hai người Cam Lữ trở về ngôi chùa của Lãnh Thiền, chỉ thấy bọn Hầu Tam Biến đang lo lắng chờ đợi. Hầu Tam Biến vừa thấy Cam Phụng Trì trở về, lập tức hỏi: “Các người có thấy đại quân của Niên Canh Nghiêu không?” Ngư Xác cũng hỏi: “Tỉ muội Phùng Anh thế nào? Có bị Niên Canh Nghiêu bắt không?” Lữ Tứ Nương nói: “Họ đi rước thân mẫu của họ”. Cam Phụng Trì nghe nói là đại quân của Niên Canh Nghiêu, ngạc nhiên nói: “Té ra là y, sao y đem nhiều quân đến thế?”


Hầu Tam Biến đáp: “Niên Canh Nghiêu quan vận hanh thông, trong vòng một năm đã dẹp loạn ở Thanh Hải. Hoàng đế phong cho y là nhất đẳng công, ngoại trừ hoàng thất, người khác họ không phong vương, bởi vậy đối với người Hán phong hiệu nhất đẳng công đã là vinh dự to lớn nhất. Hoàng đế lại ban cho y một tòa phủ đệ, bảo y ban sư hồi triều, tiếp nhận phong tước. Nghe nói Niên Canh Nghiêu không chịu trở về, khi làm tổng đốc hai vùng Thiểm Tây và Cam Túc. Tổng đốc Cam Thiểm làm sao bằng tước nhất đẳng công, không biết y có ý gì?” Cam Phụng Trì nói: “Đó là bởi Niên Canh Nghiêu thông minh! Xem ra y không muốn trả lại binh quyền”. Hầu Tam Biến nói: “Cũng chưa nghe Hoàng thượng bảo tước binh quyền của y”. Cam Phụng Trì thầm nhủ: “Uổng cho ông làm thị vệ bao nhiêu năm, vẫn không biết Hoàng đế độc ác, giờ đây Niên Canh Nghiêu đang đắc thế, làm sao có thể đột nhiên tước binh quyền của y”. Hầu Tam Biến lại nói: “Nghe nói Hoàng đế lại chấp nhận cho y làm tổng đốc Cam Thiểm, lại phong cho cha y là Niên Hà Linh làm nhất đẳng công, lại thêm tước thái phó. Bảo y ban sư về kinh, sau đó mới trở về Cam Thiểm. Lão già Niên Hà Linh tự nhiên được phong chức thái phó, đã vào kinh sư trước, ở trong công phủ. Bởi vậy Niên Canh Nghiêu cũng chỉ đánh ban sư hồi triều”.


Lữ Tứ Nương đang lo chuyện Thẩm Tại Khoan, hỏi: “Tên Niên Canh Nghiêu này đầy dã tâm, làm lắm chuyện bất nghĩa sẽ tự chôn mình, chúng ta đừng nói đến y nữa. Hầu tiên sinh có biết chuyện Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan bị hại không?” Hầu Tam Biến nói: “Việc này có liên quan đến Niên Canh Nghiêu”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Niên Canh Nghiêu đang cầm binh ở ngoài, sao có liên quan đến y?”


Hầu Tam Biến trả lời: “Nữ hiệp không biết đó thôi, chuyện này cũng vì Tăng Tịnh mà ra”. Lữ Tứ Nương nói: “Tăng Tịnh? Chả lẽ Tăng lão tiên sinh cũng bị hại ư?” Tăng Tịnh bình sinh không phục nhất là Lữ Lưu Lương, khi Lữ Lưu Lương còn sống y không được gặp, nhưng sau khi Lữ Lưu Lương chết đã đến nhà họ Lữ xin sách, tự nhận là đệ tử của Lữ Lưu Lương, rất thân thiết với bọn Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan. Hầu Tam Biến nói: “Tăng lão tiên sinh đã bị bắt, nhưng không bị hại, giờ đây y ở trong quân của Niên Canh Nghiêu”.


Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại thế?” Hầu Tam Biến nói: “Tăng tiên sinh có diệu kế, sai học trò của mình là Trương Hy đến thuyết phục phó thủ của Niên Canh Nghiêu là Nhạc Chung Kỳ”. Cam Phụng Trì bật cười, Hầu Tam Biến nói: “Vì thế Tăng Tịnh viết một phong mật hàm bảo Trương Hy cầm đi, bảo rằng họ Nhạc là kẻ thù đời đời của người Kim, con em họ Nhạc không nên làm đại tướng cho hồ lỗ, tuy Nhạc Chung Kỳ cùng ông ta mật mưu dấy binh. Nhạc Chung Kỳ giả vờ chấp nhận, dụ Tăng Tịnh đến, buộc phải khai ra những người cùng phe!” Lữ Tứ Nương vội vàng hỏi: “Có khai hay không?” Hầu Tam Biến nói: “Tôi cũng không biết điều này. Chỉ biết rằng sau khi Nhạc Chung Kỳ bắt được Tăng Tịnh, liền lập tức dâng sớ tâu lên, vì thế phong ba nổi dậy, triều đình bắt di đảng của Lữ Lưu Lương khắp nơi. Trước khi Tăng Tịnh bị giải về kinh, Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan đã bị bắt đến kinh thành xử trảm”. Lữ Tứ Nương chấn động trong lòng, hỏi: “Vậy Thẩm Tại Khoan có thật bị xử trảm không?” Hầu Tam Biến nói: “Làm sao không thật, Hoàng đế đã ra chỉ dụ, treo đều của họ lên cửu môn!” Lữ Tứ Nương nghe xong, thấy Hầu Tam Biến cũng chỉ biết như mình, liền bảo: “Tôi đã thấy chỉ dụ này, nhưng trong đó không nhắc đến Tăng Tịnh”. Hầu Tam Biến nói: “Chả lẽ phải đợi Niên Canh Nghiêu áp giải Tăng Tịnh về kinh rồi mới xử lý sau”.


Cam Phụng Trì cúi đầu suy nghĩ, chợt nói: “Để ta đến chỗ Niên Canh Nghiêu xem thử”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca đừng mạo hiểm”. Cam Phụng Trì nói: “Muội nỡ nhẫn tâm nhìn thấy đệ tử của gia gia muội bị hại hết cả sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Tăng lão tiên sinh đạo đức văn chương lừng danh thiên hạ, chắc là ông ta không đến nỗi khuất phục cung khai”. Cam Phụng Trì nói: “Tuy là nói thế nhưng không thể không đề phòng. Muội muốn đi xem thử ông ta có khai ra hay không, nếu có danh sách đã đưa lên cho Ung Chính hay chưa? Nếu thực, huynh không tin Tăng Tịnh lắm. Năm xưa ông ta cực lực chủ trương sách động các tướng lĩnh người Hán trong quân Thanh để mưu đồ phục quốc. Các này tuy không vững chắc, nhưng đã gửi gắm hết tất cả hy vọng vào, làm thế chỉ là liều lĩnh mà thôi”. Lữ Tứ Nương giật mình, nghĩ mình sinh trưởng trong nhà thư hương, đã quá coi trọng người đọc sách, quên đi nhược điểm yếu ớt của họ. Nhưng nàng vẫn không tin Tăng Tịnh sẽ khuất phục trước oai thế của kẻ địch, chỉ nói: “Như thế đi xem thử cũng được. Nhưng làm sao có thể trà trộn vào?” Cam Phụng Trì cười nói: “Huynh tự có cách. Nhưng huynh cần một trợ thủ, đợi Hiểu Lan về rồi tính tiếp”. Nói xong đã tự đi sắp xếp.


Tối đến, Đường Hiểu Lan và tỉ muội Phùng Anh quả nhiên đã rước bọn Quảng Luyện Hà quay về. Lãnh Thiền sắp xếp nơi ăn chốn ở cho họ xong, Lữ Tứ Nương gọi Đường Hiểu Lan đến bàn bạc với Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì nói: “Ta đã điều tra rõ ràng, lần này Niên Canh Nghiêu đã đem hai mươi vạn quân về đây! Mỗi ngày chỉ đi được sáu mươi dặm đường. Bốn ngày nữa bọn chúng mới về kinh, Hiểu Lan, đệ có dám cùng ta đi dò thám hay không?”


Đường Hiểu Lan nói: “Sao lại không dám! Đệ đã từng ở trong quân của Dận Đề nên hiểu rõ tình hình quân doanh”. Cam Phụng Trì nói: “Chính vì thế cho nên ta muốn đệ đi cùng. Ta đoán ngày mai bọn chúng sẽ đến Phòng Sơn, quân địa phương Phòng Sơn sẽ sai dân phu giết dê mổ lợn cho bọn chúng, chúng ta cải trang thành dân phu, lúc đó sẽ tìm cơ hội”.


Đường Hiểu Lan và Cam Phụng Trì cải trang thành dân phu, sáng hôm sau lẻn đến trước doanh trại, quả nhiên đã tìm được một tiểu đầu mục trong bang hội Giang Nam, tên gọi Hàn Thất, y đang làm một chức quản sự của hỏa đầu quan. Đại quân có mấy trăm hỏa đầu quân chuyên phụ trách lo chuyện cơm nước, vừa khéo Hàn Thất chuyên lo chuyện cơm nước cho thân binh của Niên Canh Nghiêu, bởi vậy đang ở trong trại chủ soái. Thế là hai người Cam Đường trở thành hai tên hỏa đầu quân, lẻn vào trong trại.


Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm, Cam Phụng Trì không thể lẻn vào hổ trướng. Sau canh ba, chỉ nghe trong quân doanh đã có tiếng tập trận. Cam Phụng Trì thở dài: “Niên Canh Nghiêu đúng là có tài đại tướng, đáng tiếc cam lòng làm việc cho Ung Chính”. Hàn Thất khẽ nói: “Các người có biết kẻ thổi tù và canh đêm ngoài trại Niên Canh Nghiêu là ai không?” Cam Phụng Trì nói: “Chỉ là người đánh canh mà cũng là cao thủ sao?” Hàn Thất nói: “Người này võ công không cao nhưng lại là một quan lớn”. Đường Hiểu Lan nói: “Quan lớn gì?” Hàn Thất nói: “Y là Quân môn đề đốc Phú Sơn. Lần này Niên Canh Nghiêu đem cả vợ con đến, trên đường đã ra oai làm phúc, khoa trương quyền lực của mình, chúng tôi đều cười y làm thế để cho vợ mình xem. Chẳng hạn người thổi tù và canh đêm, lúc đầu là tì tướng trong quân, sau đó dùng đến phó tướng, đêm nay sắp tới kinh thành, đã dùng đến đề đốc quân môn”. Đường Hiểu Lan thè lưỡi nói: “Đề đốc quân môn ngang hàng với Tuần phủ, Hoàng đế cũng không dám dùng canh đêm. Niên Canh Nghiêu lộng quyền như thế, không sợ Hoàng đế trách tội sao?” Hàn Thất nói: “Giờ đây Niên đại soái công cao hơn chủ, ai dám làm gì y. Đề đốc quân môn này lại là một người Mãn!”


Đường Hiểu Lan hỏi: “Niên Canh Nghiêu lấy vợ từ khi nào?” Hàn Thất trả lời: “Trên đường tây chinh đã lấy vợ. Niên Canh Nghiêu có tính cách xấu, mỗi khi đến một địa phương, không những buộc quan địa phương ra nghênh đón, y còn bắt thê tử tỉ muội con cái người ta ra chào. Tây Đinh có một phiên vương Mông Cổ tên gọi Tạng Cổ Thất Tín, có một người con gái tên là Giai Đặc cách cách, xinh đẹp như hoa. Phiên vương Mông Cỗ dắt con gái ra bái kiến, Niên Canh Nghiêu thích liền giữ nàng lại. Tạng Cổ Thất Tín chẳng làm gì được, chỉ đành tặng cho y làm vợ. Triều đình vốn có lệ không cho phép đại tướng dắt thê tử xuất chinh, y cũng mặc”.


Cam Phụng Trì không rãnh nghe y nói chuyện dong dài, lại bàn với Đường Hiểu Lan giả thành canh phu để dò thám trại của Niên Canh Nghiêu. Hàn Thất nói: “Cam đại ca cẩn thận”. Cam Phụng Trì nói: “Sẽ không liên lụy đến các ngươi”. Bên ngoại hổ trướng của Niên Canh Nghiêu có ba lớp trại phòng hộ, hai người Cam Đường mạo hiểm đến lớp trại thứ nhất.


Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm, việc điều động thủ hạ rất có phép tắc. Bọn canh phu chợt thấy có thêm hai người mới, tuy lấy làm lạ nhưng không muốn gây thêm chuyện cho nên không dám lên tiếng. Đường Hiểu Lan đã biết quy củ trong quân, cố ý bảo rằng đại quân đã về gần kinh đô, cho nên phải tăng thêm người canh đêm. Bọn canh phu bên ngoài bình thường rất nhát gan, lại biết Niên Canh Nghiêu tính tình kỳ quặc, cả đề đốc quân môn cũng dám sai đi đánh canh, nói không chừng hai người này cũng là võ quan nên không dám hỏi nhiều.


Cam Phụng Trì đi hai vòng, chẳng thấy ai cả thì nói với Đường Hiểu Lan: “Đệ đứng ở đây canh chừng, để huynh vào hổ trướng của Niên Canh Nghiêu”. Nói rồi vọt người một cái phóng lên đỉnh trại. Chỉ trong chốc lát Cam Phụng Trì đã đến đỉnh trại của Niên Canh Nghiêu.


Trong trại tĩnh lặng, Cam Phụng Trì đang tìm cách dò chuyện của Tăng Tịnh, chợt nghe bên dưới có giọng nói trong trẽo: “Canh mấy rồi?” Niên Canh Nghiêu trả lời: “canh bốn!” bên ngoài vang lên tiếng tù và, giọng nói trong trẽo ấy lại bảo: “Đêm nay đến lượt ai canh đêm?” Niên Canh Nghiêu nói: “Hảo cách cách của ta ơi, nói ra nàng sẽ sợ chết khiếp, đó chính là Phú Sơn đề đốc! Nàng thấy nàng có phước biết bao! Có đề đốc quân môn canh cửa cho nàng!” Giai Đặc cách cách dẫu môi, nói: “Thiếp không tin, sao lại có đề đốc canh đêm?” Niên Canh Nghiêu nói: “Chính ta đã bảo y canh đêm, y nào dám không nghe!” Giai Đặc cách cách nói: “Thiếp vẫn không tin, chàng làm gì lớn gan đến thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Được, nàng không tin ta gọi y vào cho nàng xem!” rồi y đốt đèn lên, bảo thân binh gọi người đánh canh bên ngoài vào.


Cam Phụng Trì vội vàng nấp vào góc trại, một hồi sau, nghe thân binh dắt một người vào trong trại. Giai Đặc cách cách cười hì hì, chợt nghe Niên Canh Nghiêu quát: “Ngươi là ai?” Cam Phụng Trì thất kinh, thầm nhủ: “Kẻ này chắc chắn không phải là Phú Sơn đề đốc”.


Người ấy run giọng nói: “Tôi là Lưu tham tướng dưới trướng đề đốc quân môn Phú Sơn”. Niên Canh Nghiêu quát: “Phú đề đốc đi đâu rồi?” người ấy biết chuyện không xong, vội vàng quỳ xuống: “Phú đề đốc vì có chuyện gấp, đã quay về trại một lúc, bảo tỳ tướng tạm thời thay thế”. Thực ra Phú Sơn là đề đốc quân môn, nếu để thuộc hạ thấy mình làm những chuyện thấp hèn thật không hay, cho nên ra lệnh cho một tham tướng thay thế, tưởng rằng Niên Canh Nghiêu không đích thân đến tra xét.


Nào ngờ hôm nay Niên Canh Nghiêu lại tra hỏi, nghe tên tham tướng nói thế, cười lạnh một tiếng rồi nói: “Phú Sơn thật lớn gan, y dám không giữ quân lệnh, chém hết tất cả cho ta!” nói vừa xong, đã có đao phủ thủ tiến vào kéo tên tham tướng ấy ra, một hồi sau đem vào hai cái đầu đầy máu, Niên Canh Nghiêu cười nói: “Cách cách, nàng đã thấy rõ rồi đấy, đây có phải là đề đốc Phú Sơn không?” Giai Đặc cách cách che mặt nói: “Trông ghớm chết, thiếp không muốn xem, đem ra ngoài đi!” Niên Canh Nghiêu phẫy tay, bảo tên thân binh đem hai cái đầu ra ngoài.


Cam Phụng Trì thấy Niên Canh Nghiêu tàn nhẫn như thế, rất lấy làm tức giận. Bên ngoài trướng lại có người vào báo: “Lục tướng quân cầu kiến!” Niên Canh Nghiêu nói: “Cho vào!” người này tên gọi Lục Hổ Thần, là đại tướng tâm phúc của Niên Canh Nghiêu, cũng là một đề đốc, sau khi hành lễ liền hỏi: “Phú đề đốc đâu?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đã bị ta giết!” Lục Hổ Thần cả kinh, chạy đến nói: “Xin đại soái lắng nghe, chúng ta tác chiến, toàn nhờ vào lòng quân, lòng quân tan rã, muôn phần nguy hiểm, nay đại soái vô cớ giết chết Phú đề đốc, lưu tham tướng, há chẳng phải đã khiến quân sĩ nhục chí hay sao. Vả lại nếu Hoàng thượng biết cũng không hay lắm”. Lục Hổ Thần chỉ có ý tốt can ngăn, nào ngờ Niên Canh Nghiêu nghe xong thì nổi giận đùng đùng: “Nay ta giúp Hoàng thượng bình định giang sơn, dù Hoàng thượng gặp ta cũng phải nể ba phần, ngươi là cái thá gì mà dám xúi giục thuộc hạ phản đối ta? Đao phủ thủ, đem ra chém cho ta!” Lục Hổ Thần hồn bay phách tán, kêu lớn oan uổng. Cũng chính vì mạng y chưa dứt, Nhạc Chung Kỳ nghe Phú Sơn bị giết nên vội vàng chạy tới, vừa vặn gặp lúc Lục Hổ Thần bị kéo ra ngoài, hỏi nguyên cớ mới bảo đao phủ thủ ngừng tay, vào trướng xin xỏ với Niên Canh Nghiêu, Cam Phụng Trì nằm phục trên trướng, nhưng hai người này nói quá nhỏ nên chẳng nghe rõ. Một hồi sau, chỉ nghe Niên Canh Nghiêu truyền lệnh: “Nể mặt Nhạc tướng quân, tha cho tên ấy một lần. Nhưng tội chết có thể miễn, tội sống khó tha, ra lệnh đánh năm mươi hèo, phạt thay Phú Sơn canh ba đêm!” sau khi truyền lệnh, bên ngoài lại nghe tiếng bốp bốp, Lục Hổ Thần phải cố nén đau nói tạ ơn.


Sau một hồi ồn ào, bên ngoài đã đánh canh năm. Niên Canh Nghiêu kéo Nhạc Chung Kỳ ra khỏi doanh trại, chợt hỏi: “Tăng Tịnh có còn ở trong trại của ngươi không?”“Vâng, đại soái”. Niên Canh Nghiêu cười nói: “Lần này ngươi làm rất tốt, Hoàng thượng sẽ thưởng cho ngươi”. Nhạc Chung Kỳ thấy dựng tóc gáy, vội vàng nói: “Toàn nhờ đại soái nâng đỡ” “Ngày mai ngươi hãy đưa y đến chỗ ta”.: “Vâng, đại soái”. Niên Canh Nghiêu đưa Nhạc Chung Kỳ ra ngoài, trở về trướng ngủ tiếp. Cam Phụng Trì thấy trời sắp sáng nên vội vàng bỏ đi.


Đêm nay Cam Phụng Trì đã biết tung tích của Tăng Tịnh. Nhưng trong quân canh phòng nghiêm ngặt, ban ngày không thể dò thám, hành quân thêm một ngày, tối đến đã tới Lư Câu Kiều ngoài kinh thành Bắc Kinh, hôm sau sẽ vào kinh. Đại quân đóng trại ở gần Lư Câu Kiều. Đến tối Cam Phụng Trì và Đường Hiểu Lan lại dò thám doanh trại của Niên Canh Nghiêu.


Đêm nay khác hẳn đêm trước, chỉ có một mình Lục Hổ Thần bên ngoài thổi tù và canh đêm, chẳng có thêm một tên lính nào. Chỉ có ở nơi liên tiếp giữa trại ngoài với hổ trướng có một số binh lính tuần tra. Trong trại vẫn thắp đèn, Cam Phụng Trì nấp trên trại, có thể thấy bóng Niên Canh Nghiêu đang đi qua đi lại bên dưới. Một hồi sau thân binh dắt vào một người, đó chính là Tăng Tịnh. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi ra ngoài căn dặn, không cho phép ai bước vào hổ trướng”. Tên thân binh vâng một tiếng rồi vội vàng chạy ra.


Niên Canh Nghiêu ngồi trên chiếc ghế bọc da hổ, cười lạnh nói: “Tăng lão đầu, ngươi có biết Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan đã bị xử trảm, đầu treo ở cửu môn không?” Tăng Tịnh im thin thít. Cam Phụng Trì thầm mắng: “Đúng là vô tích sự, kém xa Thẩm Tại Khoan!”


Niên Canh Nghiêu đảo mắt, cười lạnh nói: “Theo lẽ mà nói, tội danh của ngươi cũng bị chém đến cửu tộc!” Tăng Tịnh ấp úng nói: “Toàn nhờ đại soái khai ân”. “Vậy phải coi bản thân ngươi!” “Mong đại soái chỉ thị”. Niên Canh Nghiêu nghiêm mặt, nói: “Hoàng thượng muốn ngươi lấy công chuộc tội!” “Chẳng phải tôi đã khai Nghiêm Hồng Quỳ và Thẩm Tại Khoan rồi sao?” “Hai người này là truyền nhân đắc ý của Lữ Lưu Lương, thiên hạ đều biết, cần gì ngươi phải nói!” Tăng Tịnh biện bạch: “Nhưng Thẩm Tại Khoan ẩn cư trên đỉnh Tiên Hà lĩnh, chẳng ai biết chuyện này”. Cam Phụng Trì nghe thế, vừa kinh vừa giận.


Niên Canh Nghiêu mỉm cười rồi nói: “Coi như đó là một công lao của ngươi, nhưng chỉ có chút công lao này không thể chuộc tội của ngươi. Hoàng thượng muốn ngươi khai những người khác ra nữa”. “Người tin theo học thuyết của Lữ Lưu Lương không tính xuể, tôi cũng chẳng biết hết”. “Chỉ cần ngươi có thể nói những kẻ đầu não ở các nơi là được”. “Hàng Châu có Xa Đỉnh Phong, Ôn Châu có Tôn Thất Dụng, Thanh Châu có Châu Kính Hưng, Tương Thành có Hoàng Bổ Am...” “Còn nữa không?” Tăng Tịnh lại nói mấy cái tên nữa, Niên Canh Nghiêu vừa nghe đã nhớ.


Tăng Tịnh khai xong, Niên Canh Nghiêu cười ha hả: “Tăng lão đầu, ngươi có muốn làm quan không?” Tăng Tịnh mặt tái nhợt, dập đầu nói: “Cầu mong đại soái khai ân, ngàn vạn lần đừng buộc tôi làm quan!” Niên Canh Nghiêu ngạc nhiên nói: “Tại sao?” “Tôi làm quan, người trong thiên hạ đều biết tôi bán bạn cầu vinh. Lúc đó thanh danh mấy mươi năm của tiểu lão đã trôi theo dòng nước”. Cam Phụng Trì phẫn nộ vô cùng, lại thầm mắng mấy tiếng.


Niên Canh Nghiêu nói: “Được, ta sẽ cho Hoàng thượng biết tâm ý của ngươi. Ngươi không làm quan càng tốt!” sau đó Ung Chính quả nhiên không xử phạt Tăng Tịnh và Trương Hy. Vụ án Lữ Lưu Lương là loại án lớn nổi tiếng thời Thanh, rất nhiều người bị liên lụy, cả người in sách cho Lữ Lưu Lương cũng bị giam vào ngục hoặc xử tử, trái lại hai người Tăng Tịnh và Trương Hy phát động mưu loạn mà lại bình an, người đời sau đều lấy làm lạ, không biết trong đó có nguyên cớ.


Tăng Tịnh nói xong, cẩn thận nhìn sắc mặt của Niên Canh Nghiêu. Niên Canh Nghiêu chợt cười ha hả: “Tăng lão tiên sinh đúng là khác hẳn người thường, xin nhận Niên mỗ một lạy!” Tăng Tịnh thất kinh, tránh ra nói: “Làm thế chẳng khác nào giết lão!” Niên Canh Nghiêu đè y xuống ghế, lạy ba lạy rồi nói: “Tăng lão tiên sinh, lạy này là tôi thay tiểu nhi hành lễ bái sư. Hoàng thượng đã thứ tội cho ông, ông có thể sống nốt tuổi già ở chốn núi rừng, nhưng xin hãy dắt con tôi đi theo”. Tăng Tịnh lúng túng, Niên Canh Nghiêu nói: “Đại trượng phu nói chắc một lời, tôi có thể thay thế Hoàng thượng quyết định trước, ngày mai sẽ sai người dắt tiểu nhi đến đi cùng ông. Nhưng ông phải nhớ rằng, không được nói với người khác là con trai của tôi, nếu không dù tôi không truy cứu cũng sẽ tự có người lấy thủ cấp của ông!” Tăng Tịnh sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, nói: “Nhận được ân sâu của đại soái, tôi nào dám tiếc lộ”.


Té ra Niên Canh Nghiêu mưu tính sâu sa, y nào không biết Ung Chính rất giỏi tâm cơ, tuy mình nắm trọng binh, Hoàng đế không dám hại mình nhưng y cũng phải đề phòng. Từ lúc có con, y tìm trăm phương ngàn kế sắp xếp cho con của mình đi ở hậu lộ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn không biết gửi con cho ai. Đêm nay y thấy cách hành sự của Tăng Tịnh, trong lòng thầm mừng, nghĩ bụng: “Gửi con cho y là tốt nhất. Hoàng thượng vừa không nghi mình gửi con cho y, những kẻ phản Thanh trên giang hồ đối với mình đều tưởng Tăng Tịnh là người của bọn chúng, càng không nghi ngờ y che giấu cho con trai của mình. Y lại sợ chết, mình phái tâm phúc đi theo y, y càng không dám bắt lỗi đối với con của mình”.


Cam Phụng Trì lại không đoán được y của Niên Canh Nghiêu, rất lấy làm lạ. Đang suy nghĩ, chợt một bóng người ở ngoài trướng thoáng lên, chàng định thần nhìn lại thì ra đó là Đổng Cự Xuyên. Đổng Cự Xuyên vâng lệnh Ung Chính theo Niên Canh Nghiêu xuất kinh, lại âm thầm giám sát y. Y biết Niên Canh Nghiêu gọi Tăng Tịnh nên cũng nổi lòng nghi ngờ, nhưng không dám đến trại của Niên Canh Nghiêu nghe ngóng như Cam Phụng Trì, chỉ dám đứng từ xa, không ngờ dưới ánh trăng mờ ảo, lại phát hiện trên trướng của Niên Canh Nghiêu có một người, y chợt nảy ra một ý, thầm nhủ: “Dù y có phải là thích khách hay không, mình mượn cớ bắt thích khách đến xem thử”. Thế rồi lập tức thi triển khinh công âm thầm lướt tới.


Nào ngờ Cam Phụng Trì vẫn giả vờ nằm im. Đợi Đổng Cự Xuyên lên đến nóc trại, chợt xé nóc trại, kêu: “Có thích khách!” rồi đột nhiên phóng ra quét ngang một chưởng, Đổng Cự Xuyên bị chưởng phong dồn tới, chân đứng không vững nên rơi xuống đất. Bọn lính canh vội vàng nhảy vào, Niên Canh Nghiêu cũng nghe tiếng chạy ra, Cam Phụng Trì đã lướt ra hai lớp trại, cùng Đường Hiểu Lan âm thầm lẻn về trại hỏa đầu quân.


Niên Canh Nghiêu vừa thấy Đổng Cự Xuyên, lập tức biến sắc. Đổng Cự Xuyên nói: “Tiểu nhân đến bắt thích khách”. Niên Canh Nghiêu nói: “Thích khách đâu?” Đổng Cự Xuyên nói: “Đã chạy rồi!” Niên Canh Nghiêu hỏi: “Tại sao ngươi không la lên?” Đổng Cự Xuyên trả lời: “Là thích khách la lên trước!” Niên Canh Nghiêu cười lạnh, nói: “Trong quân toàn là tâm phúc của ta, sao lại có thích khách? Trong thiên hạ nào có loại thích khách lớn gan, dám la lên trước như thế? Đây rõ ràng là thị vệ của ta đã phát hiện ra ngươi, tưởng là thích khách nên la lên”. Có vài tên lính thích tranh công, vội vàng nói: “Đúng thế, chúng tôi không ngờ là Đổng đại gia”. Đổng Cự Xuyên mặt tái xanh, vội vàng phân trần. Niên Canh Nghiêu cười lạnh nói: “Ta không bảo ngươi canh đêm, tại sao nửa đêm ngươi lại đi ra tuần tra. Quần áo của ngươi chỉnh tề, chả lẽ ngươi đã biết có thích khách?” Lúc này Đổng Cự Xuyên lo lắng, định viện cớ bảo đi điều tra, không nghĩ đến điều này, không thể nào thanh minh được, chỉ đành kêu oan uổng. Niên Canh Nghiêu cười lạnh: “Dù ngươi không phải là thích khách, nhưng vào trại riêng của ta cũng có lòng không tốt. Đao phủ thủ, chém y!” Đổng Cự Xuyên không thể phân trần, cũng không kháng cự, dù y xảo quyệt như hồ ly nhưng rút cuộc vẫn chết bởi đao của Niên Canh Nghiêu.


Cam Phụng Trì biết Đổng Cự Xuyên mất mạng, cùng Đường Hiểu Lan vỗ tay mà cười. Đường Hiểu Lan nói: “Năm xưa Đổng Cự Xuyên ngầm hạ độc thủ, khiến Thẩm Tại Khoan tàn phế, nay bị quả báo như thế, Lữ tỉ tỉ mà biết chắc chắn sẽ rất mừng”.


Sau đêm ấy, Cam Phụng Trì không thể nào ra khỏi quân doanh, chỉ đành theo đại quân tiến vào thành. Đến ngoài thành Bắc Kinh, chợt nghe ba tiếng pháo nổ, có người trong quân báo: “Hoàng thượng đích thân ra thành”.


Chính là:


Tướng quân đánh trận ban sư hồi triều, chính lúc quân vương nổi lòng nghi!


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 43

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 43 Kiên quyết dốc lòng mười năm đợi tri kỷ Đạo danh hiếp thế một lúc hiện nguyên hình


Hôm nay là ngày tam phục, trời nóng nực, Ung Chính dời giá ra thành nghênh đón, ngồi trong xe mà mồ hôi cứ tuôn ra không ngừng, ra khỏi thành Hoàng đế bỏ kiệu ngồi ngựa, ánh nắng chói chan rọi xuống. Ung Chính là người luyện võ công, thể chất mạnh mẽ, trong lúc trời oi bức tuy khó chịu nhưng chẳng hề gì cả, có vài tên tiểu thái giám suýt nữa đã ngất.


May mà ngoài thành Bắc Kinh có một vạc rừng lớn, Ung Chính quay đầu lại nhìn bá quan văn võ đi theo đón Niên Canh Nghiêu, cười ha hả: “Trời nóng bức, các người cũng vất vả, hãy lập trại ở đây đợi Niên đại tướng quân”. Đại thần Trương Đình Ngọc nói: “Hoàng thượng mang tinh thần long mã, bọn vi thần chẳng bì kịp”. Quốc cựu Long Khoa Đa tiếp lời: “Hoàng thượng không ngại nóng bức, ngự giá đóng quân, đúng là đại ơn chưa từng có, các tiến sĩ dầu không vào dầu sôi lửa bỏng cho Hoàng thượng cũng cam lòng”. Ung Chính mỉm cười, y ngự giá đóng quân là để lôi kéo lòng quân, Long Khoa Đa thừa thế bợ đỡ, chính là hợp tâm ý của y.


Một hồi sau, trong rừng đã dựng xong trại, ở giữa là bảo tọa của Hoàng đế, Ung Chính xuống ngựa vào ngồi, các thái giám đứng xung quanh hầu hạ, có kẻ quạt, có kẻ dâng khăn, có kẻ dâng trà mát, một lúc sau, nghe từ xa có tiếng tù và rút lên, tiếp theo là ba tiếng nổ ầm ầm, viên quan đóng ở tiền trạm phi ngựa chạy về báo: “Niên đại tướng quân ban sư hồi triều!”


Ung Chính sửa san áo mão, bước ra khỏi trướng, lá cờ quạt phấp phới, kiếm kích lạnh lẽo, hai mươi vạn đại quân, mỗi người một hàng kéo dài đến hơn mười dặm! Dưới ánh mặt trời chói chang, từng đội bước đi, ngoại trừ bước chân rầm rập, chẳng nghe cả tiếng ho. Mồ hôi trên mặt các binh sĩ lăn xuống như mưa, không ai dám dùng tay lau. Ung Chính thấy thế vừa mừng vừa lo. Niên Canh Nghiêu triệt quân nghiêm ngặt, quả nhiên danh đồn không ngoa!


Từng đội tiền phong dát trụ sáng ngời đi đến trước mặt Hoàng đế, hành quân lễ, rồi sau đó tách ra hai bên trái phải. Trong quân lại vang lên ba tiếng pháo nổ, ở giữa xuất hiện một lá cờ lớn, trên có thêu một chữ “Niên”, chỉ thấy Niên Canh Nghiêu mặc khôi giáp, cưỡi trên con ngựa màu trắng đứng dưới lá cờ, Nhạc Chung Kỳ kiềm ngựa đứng bên phải của Niên Canh Nghiêu, cả hai người thần thái đều bay bỗng, chẳng hề có vẻ mệt mỏi.


Hoàng đế ngự giá ra đón là điều chưa từng có, trong quan văn võ đứng hai bên, bên văn từ thượng thư thị lang trở xuống, bên võ từ cửu môn đề đốc trở xuống, ai nấy đều toát mồ hôi nhưng chẳng dám nhúc nhích. Phía sau lưng Hoàng đế là một đám vương công đại thần cùng với các đại học sĩ, tất cả mặt mày đều nghiêm nghị, không dám thở mạnh.


Niên Canh Nghiêu vừa thấy Ung Chính đã lập tức nhảy xuống ngựa. Ung Chính giơ tay nói: “Khanh gia đã vất vả, miễn lễ, bình thân!” Niên Canh Nghiêu nhảy xuống ngựa, vốn là muốn hành lễ, nghe Ung Chính nói như thế chỉ mỉm cười, hơi khom người rồi nói: “Vi thần lay động đến thánh giá, dầu gan óc này đất cũng không đủ báo!” Nhạc Chung Kỳ tuy cũng được Ung Chính bảo “miễn lễ” nhưng vẫn quỳ xuống đất, cung kính hành đại lễ.


Ung Chính tuy bảo bọn họ miễn lễ nhưng thật ra đó chỉ là lời khách sáo, không ngờ Niên Canh Nghiêu cậy công mà kiêu ngạo, không chịu hành đại lễ. Ung Chính rất bực mình, nhưng bề ngoài không hề tỏ vẻ gì cả, trái lại trách Nhạc Chung Kỳ không nghe y căn dặn, đã quá đa lễ, nói: “Ở đây không phải là chốn triều đình, chỉ hành quân lễ đã đủ, cần gì phải hành lễ quân thần như trong triều! Nhạc tướng quân, khanh đang mặc khôi giáp, hành đại lễ không cảm thấy bất tiện sao?” rồi cười ha hả tựa như rất vui, Nhạc Chung Kỳ tạ tội liền miệng nhưng trong lòng thầm mừng.


Sau khi Nhạc Chung Kỳ hành lễ, Niên Canh Nghiêu lại nhận triều kiến của các võ quan như tổng binh, đề trấn, hiệp trấn, đô trấn, Ung Chính căn dặn ban yến, Niên Canh Nghiêu theo Ung Chính vào trại, cùng ngồi một chỗ. Đám vương công đại thần ngồi ở hai bên trái phải. Nhạc Chung Kỳ và các tướng lĩnh xuất chinh, thì do cửu môn đề đốc binh bộ thượng thư và các võ quan ở kinh sư mời vào trướng. Trong tiệc Ung Chính hỏi tình hình chiến sự, Niên Canh Nghiêu thao thao bất tuyệt, không ngừng khoe công, Ung Chính nghe càng không vui. Niên Canh Nghiêu lại tâu rằng: “Đề đốc Phú Sơn không nghe quân lệnh, thị vệ Đổng Cự Xuyên vô lễ đối với thần, vi thần không kịp bẩm lên đã ban chết trước”. Ung Chính thất kinh, nhưng mỉm cười nói: “Trong quân phải coi trọng nghiêm lễ, đại tướng ở ngoài có thể chuyên quyền, những chuyện nhỏ này không cần phải bẩm cáo”. Niên Canh Nghiêu vội vàng tạ ơn, Ung Chính lại nói: “Thế ra những kẻ trẫm phái đi ngày ấy như Liễu Ân, Tát Thiên Đô, Tát Thiên Thích, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long đều đã chết cả rồi!” Niên Canh Nghiêu nói: “Đúng thế”. Ung Chính mỉm cười: “Cũng tốt, bọn chúng đều là giã tín khó thuần, trừ đi cũng tốt”. Niên Canh Nghiêu chợt nhớ lại ngày xuất chinh, Ung Chính đã từng nói với mình những lời như thế, nhưng đặc biệt nhắc nhở Đổng Cự Xuyên hiểu đại lễ, bảo y phải đối xử phân biệt. Nay nghe Hoàng thượng lại nhắc đến, trong lòng biết không xong, nhưng nhìn mặt lại chẳng hề có vẻ gì khác, trong lòng thầm nói: “Ngươi phái Đổng Cự Xuyên đến giám sát ta, chả lẽ ta không biết? Chỉ cần một ngày ta còn nắm binh quyền trong tay, ngươi không dám giết ta”.


Hoàng đế ra ngoài nghênh đón, ban yến thống soái, chẳng qua là một nghi thức, uống xong ba chén rượu thì liền bãi tiệc. Ung Chính và Niên Canh Nghiêu bước ra, quỹ lạo đại quân. Lúc này đang là chín ngọ, trời nóng càng dữ hơn, ở ngoài rừng hai mươi cánh quân lớn đứng chỉnh tề dưới ánh mặt trời. Ung Chính ngẩng đầu nhìn lên, thấy các binh sĩ ai nấy đều mang áo giáp nặng nề, mặt bị ánh mặt trời chiếu đến bóng nhẫy, nhưng chẳng hề dám nhúc nhích. Ung Chính nói: “Bọn họ trường chinh vạn dặm, đã chịu gió sương, cũng đã quá vất vả”. Rồi bảo một tên nội giám đến, căn dặn rằng: “truyền lệnh xuống, bảo bọn chúng mau cởi áo giáp!” Ung Chính dặn xong tên nội giám, vẫn nói chuyện với Niên Canh Nghiêu. Niên Canh Nghiêu tuy thấy Hoàng đế căn dặn nội giám nhưng không dám bước qua nghe, cho nên không biết y căn dặn gì, vẫn hớn hở nói chuyện tây chinh.


Tên nội giám nhận thánh chỉ, vội vàng chạy ra, leo lên lưng ngựa, đứng trước toàn quân kêu lớn: “Hoàng thượng có chỉ, các binh sĩ cởi áo giáp!” y vừa truyền xong lệnh, cả đoàn quân vẫn như không hề nghe, cứ đứng đờ ra đó, chẳng hề nhúch nhích! Tên nội giám hoảng quá, lại cao giọng kêu: “Vạn tuế thương xót các người, bảo các người cởi giáp!” hai mươi vạn đại quân vẫn đứng im thin thít, chẳng hề có tiếng động, chỉ có tiếng của tên nội giám truyền đi trong không trung.


Đó đúng là chuyện chưa từng xảy ra, Hoàng đế đích thân ra lệnh mà mất hiệu lực, tên nội giám này sợ đến nỗi mất mặt, kêu lên lần thứ ba: “Thánh thượng có chỉ, các binh sĩ cởi giáp!” nào ngờ bọn lính vẫn cứ như người gỗ, không hề để ý đến thánh chỉ.


Lần này Ung Chính cũng để ý tới, dù y làm bạo quân, tâm cơ thâm trằm nhưng lúc này cũng không khỏi phát hoảng, mặt đổi sắc. Tên nội giám cưỡi ngựa trở về, vừa đến trước mặt Hoàng thượng đã lập tức nhảy xuống xin tội. Niên Canh Nghiêu ngồi một bên mỉm cười: “Không liên quan đến ngươi, tội là ở tiểu tướng”. Ung Chính rất thông minh, lập tức biết nguyên nhân các binh sĩ không chịu vâng lệnh cởi giáp, nói với Niên Canh Nghiêu: “Thời tiết quá nóng, đại tướng quân truyền lệnh cho các binh sĩ cởi giáp!”


Niên Canh Nghiêu nghe xong, nói một tiếng “tuân lệnh” rồi chậm rãi bước ra, lấy trong tay áo một là cờ đỏ nho nhỏ, chỉ phất nhẹ một cái, đã nghe tiếng rào rào vang lên như sóng dội, từ trước ra sau, hai mươi vạn đại quân đều nhất tề cởi áo giáp, trên bãi cỏ khôi giáp chất thành núi!


Ung Chính thấy thế bất giác giật mình, thầm nhủ: “Thật ghê ghớm! Nếu Niên Canh Nghiêu đổi lòng, tính mạng của trẫm há chẳng phải trong tay của y hay sao?” Niên Canh Nghiêu rất đắc ý, bước về nói với Ung Chính: “Trong quân chỉ biết quân lệnh, ít biết hoàng lệnh, mong bệ hạ minh xét!” các thân vương bối lạc cùng các thượng thư cửu môn đề đốc đi cùng Hoàng đế đều đổi sắc mặt, Ung Chính lại cười ha hả: “Chỉ huy đại quân như tay sai ngón Niên đại tướng quân, khanh đúng là đệ nhất danh tướng từ xưa đến nay, kỳ tài trời ban, có khanh bảo hộ giang sơn của triều ta, đúng là cái phước của trẫm!” trong tiếng cười ẩn hiện sát cơ, các đại thần vẫn không biết ý thực của Hoàng đế, vội vàng chúc mừng Niên Canh Nghiêu và Ung Chính, cả quốc cựu Long Khoa Đa cũng kéo tay Niên Canh Nghiêu, nói những lời xưng tụng y, Ung Chính đều thấy cả nhưng không lên tiếng.


Cười một hồi, Ung Chính lại bảo Niên Canh Nghiêu truyền lệnh xuống, mỗi binh sĩ thưởng mười lượng bạc, các tướng sĩ tây chinh có công đều thăng một cấp, toàn quân nghỉ ngơi mười ngày. Lần này Niên Canh Nghiêu không dám giở trò, cùng các tướng sĩ kêu vang ba tiếng “vạn tuế”. Thế là nghi thức ngự giá thân chinh quỹ lạo đại quân đã kết thúc.


Cam Phụng Trì và Đường Hiểu Lan đứng lẫn trong đám hỏa đầu quân, nhìn thấy rõ ràng vở tuồng lúc nãy, đại quân được nghỉ phép, bọn họ thừa cơ chạy ra khỏi quân doanh. Hai người vội vàng chạy về Tây Sơn.


Trong ba ngày ấy, ngôi chùa của Lãnh Thiền ở tây sơn có thêm không ít khách khứa, Phùng Anh và Phùng Lâm đã rước Quảng Luyện Hà, Quảng Liên cùng bọn Trương Thiên Trì đến. Bọn Quảng Liên, Trương Thiên Trì được nghỉ ngơi nhiều ngày, đã có thể đi lại, ngôi chùa càng thêm náo nhiệt, mọi người đều nôn nóng đợi tin tức của Cam Phụng Trì. Hai người Cam Đường vừa trở về, ai nấy đều đến hỏi, Cam Phụng Trì nói sơ qua chuyện trong quân doanh của Niên Canh Nghiêu, tiếp theo lại kể chuyện Ung Chính quỹ lạo toàn quân, Ngư Xác lắc đầu: “Niên Canh Nghiêu cũng thật là lớn gan!” Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta có hai kẻ thù, một tên là Ung Chính và một tên là Niên Canh Nghiêu. Ngày sau chỉ còn đối phó với một mình Ung Chính là được. Thế nào Niên Canh Nghiêu cũng bị người ta giết”. Ngư Xác nói: “Y nắm đại quân trong tay, ai có thể giết được y?” Bạch Thái Quan nói: “Công cao khiến chủ lo sợ, tất sẽ mất mạng. Nghĩ lại Hàn Tín thời nhà Hán, giúp Lưu Bang đoạt được thiên hạ, công còn lớn hơn cả Niên Canh Nghiêu, cuối cùng không tránh khỏi cái nạn thỏ chết chó cũng vào nồi, huống chi là Niên Canh Nghiêu?”


Ngư Xác cười nói: “Hiền tế đúng là người đã đọc nhiều sách vở nên có hiểu biết. May mà ta có các vị giúp đỡ, nếu không đã mắc mưu tên tiểu tử Ung Chính”.


Mọi người bàn bạc một hồi, Cam Phụng Trì kéo Lữ Tứ Nương sang một bên, kể lại chuyện của Tăng Tịnh, Lữ Tứ Nương nghe xong, lập tức thấy như muôn mũi tên đâm vào lòng, hoa dung thất sắc. Cam Phụng Trì nói: “E rằng sẽ có nhiều người bị tống giam vào ngực, Tăng Tịnh đã khai những người đầu não ra, chúng ta sẽ thông báo cho họ chạy trốn”. Lữ Tứ Nương im lặng một lúc không nói nên lời, Cam Phụng Trì nói: “Chuyện này huynh sẽ giải quyết. Bát muội, muội đang có quốc thù gia hận, mong hãy bớt đau lòng”. Lữ Tứ Nương cúi đầu im lặng không nói. Cam Phụng Trì lại nói: “Bát muội, muội là nữ trung hào kiệt, còn phải cần ngưu huynh khuyên sao?” Lữ Tứ Nương chợt ngẩng đầu nói: “Nếu muội không tận tay giết tên Hoàng đế này, thề không làm người”. Cam Phụng Trì vỗ tay nói: “Đúng thế, thế mới không hổ là cháu gái của Lữ Lưu Lương. Nhưng trong cung canh phòng nghiêm ngặt, Niên Canh Nghiêu lại đóng quân gần kinh đô, e rằng không dễ hành sự, trả thù không cần sớm hay muộn, cứ xem tình hình, Niên Canh Nghiêu chắc sẽ có một ngày xung đột với Ung Chính, đợi lúc đó chúng ta mới có cơ hội ra tay”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca nói phải”. Cam Phụng Trì thấy lời lẽ của nàng bình tĩnh hơn trước, mới hơi yên lòng. Lữ Tứ Nương thở dài nói: “Không ngờ Tăng lão đầu lại như thế! Nhưng vẫn tin Tại Khoan vẫn chưa chết”. Cam Phụng Trì thấy đau xót, thầm nhủ: “Bát muội cũng quá si tình, Tại Khoan đã bị Tăng Tịnh bán đứng, bắt về kinh xử trảm, công cáo thiên hạ, đầu treo ở cửu môn, chả lẽ vẫn còn chưa chết?” nhưng thấy bộ dạng trịnh trọng của Lữ Tứ Nương, chàng không nỡ khiến nàng đau lòng, chỉ nghĩ đến đấy rồi lại im.


Đường Hiểu Lan thấy Lữ Tứ Nương mặt đổi sắc, bước tới hỏi: “Lữ tỉ tỉ không khỏe sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Không sao”. Rồi cười nói: “Đệ cũng nên về Sơn Đông thăm Dương Trọng Anh”. Đường Hiểu Lan đỏ mặt, Lữ Tứ Nương lại quay sang Cam Phụng Trì nói: “Thất ca, muội còn có vài việc muốn nói”. Đường Hiểu Lan cáo lui, Cam Phụng Trì nói: “Bát muội cứ nói”.


Lữ Tứ Nương nói chuyện hôn nhân của Đường Hiểu Lan, Cam Phụng Trì nói: “Ồ, té ra là thế! Ta cũng không ưa Dương Liễu Thanh, nhưng đã đính hôn lâu như thế, giờ mới rút lui, có vẻ không tốt lắm!” Lữ Tứ Nương nói: “Nếu không rút lui bây giờ, sau này sống cùng với nhau cả đời càng khó hơn”. Cam Phụng Trì xưa nay coi trọng hiệp nghĩa, nghĩ bụng Dương Trọng Anh đối với Đường Hiểu Lan có ơn có nghĩa, lại đính hôn bao nhiêu năm mà đột nhiên một ngày bảo không cần con gái của người ta nữa, thật là không phải đạo. Nhưng lại không nghĩ ra lời phản bác Lữ Tứ Nương, chỉ đành im lặng không nói.


Lữ Tứ Nương nói: “Ngày mai muội sẽ về Tiên Hà lĩnh thăm Tại Khoan. Dù thế nào đi nữa, muội vẫn không tin Tại Khoan đã chết. Vốn là định muốn đến Sơn Đông đích thân gặp Dương Trọng Anh để giải quyết vấn đề khó khăn này cho Đường Hiểu Lan, giờ đây chỉ mong phiền huynh thay muội đi một chuyến”. Cam Phụng Trì xưa nay coi trọng sư muội, Lữ Tứ Nương đã nói thế, chàng chỉ đành chấp nhận, nhưng bảo rằng: “Ta không biết nói chuyện, càng không biết cách thối thân cho người ta, ta chỉ nói thẳng theo sự thực. Bảo rằng Đường Hiểu Lan và con gái của ông ta không hợp tính tình, giờ đây đã có người khác trong lòng. Nếu Dương Trọng Anh nổi giận, ta chỉ đành chịu thôi”. Lữ Tứ Nương mỉm cười nói: “cũng được, huynh cứ nói như thế”.


Cam Phụng Trì hơi trầm ngâm rồi nói: “Trước tiên ta sẽ thông báo cho nhưng người bị Tăng Tịnh cung khai đi tránh họa, sau đó mới lo đến việc của Đường Hiểu Lan”. Lữ Tứ Nương nói: “Điều đó đương nhiên”.


Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì bàn bạc chưa xong, mọi người đã lên tiếng nghị luận, Lãnh Thiền kêu lên: “Cam đại ca, huynh đã hủy thánh địa phật môn của chúng tôi, huynh hãy bồi thường cho tôi chỗ ở!” Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Cái gì? Ngôi chùa hoang này vốn đã sắp sập tới nơi rồi”. Lãnh Thiền cười nói: “Uổng cho huynh lão luyện giang hồ, thế điều này mà cũng không biết? Các người gây náo loạn ở kinh đô, nơi này lại chẳng phải chỗ vắng vẻ, có nhiều người tụ tập ở đây, làm sao thoát khỏi tai mắt của triều đình. Cả chùa Thiếu Lâm Ung Chính cũng dám đốt, huống chi là ngôi chùa rách nát của tôi”.


Cam Phụng Trì cười nói: “Té ra là ý này. Đúng thế, nơi này không phải chỗ ở lâu dài, chúng ta phải tìm một nơi khác”. Lãnh Thiền nói: “Nơi nào có thể chứa được nhiều người như thế này?” Cam Phụng Trì nói: “Tôi đã sắp xếp trước. Mấy ngày nay tôi nhận được tin của Châu Tầm đại ca, nghe nói y và Tào tứ ca đã đến Mang Sơn ẩn cư, canh giữ lăng mộ của sư phụ. Mang Sơn kéo dài mấy trăm dặm, cây rừng rậm rạp, địa thế hiểm trở, đất đai lại phì nhiêu, có thể trồng trọt. Chúng ta đều đến Mang Sơn, thế nào?” Trương Thiên Trì lên tiếng trước: “Nếu đã có nơi tốt như thế, sao không đi? Tôi đã làm cường đạo nửa đời, chẳng thể nào rút lui được, chỉ đành cùng các huynh đệ ẩn cư ở Mang Sơn, trồng trọt sống qua ngày”. Ngư Xác cũng nói: “Trước đây tôi ở ngoài biển xưng vương, quá lắm là sau này sẽ làm đại vương, có những hảo hán võ nghệ cao cường, tôi và Trương trại chủ sẽ chiêu tập cựu bộ, tự xưng vương ở Mang Sơn, triều đình cũng không dám coi thường”. Cam Phụng Trì cười nói: “Sau này hẳn tính. Giờ đây không cần gấp khai sơn lập đà. Như thế chúng ta cứ quyết định ẩn cư ở Mang Sơn”. Lãnh Thiền cười nói: “Được, chúng tôi sẽ đi canh lăng mộ cho Độc tý thần ni”.


Hôm sau, một mình Lữ Tứ Nương trở về Tiên Hà lĩnh, khi chào từ biệt mọi người thì không thấy Phùng Lâm. Phùng Anh nói: “Muội muội thật chẳng hiểu chuyện, rõ ràng biết hôm nay Lữ tỉ tỉ lên đường mà lại bỏ đi đâu mất!” Lữ Tứ Nương giật mình, nói: “Phùng Lâm muội muội không phải không hiểu việc mà là đã quá hiểu. Tôi thấy các người không cần tìm nữa, ắt hẳn Phùng Lâm muội muội đã làm chuyện mình thích làm”. Phùng Anh thất kinh, nói: “Muội muội có chuyện gì muốn làm, tại sao không nói cho muội biết?” Lữ Tứ Nương mỉm cười. Lý Trị nghĩ ngợi rồi nói: “Đêm qua Lâm muội có hỏi tôi có phải mọi người đến Mang Sơn hay không, tôi bảo phải. Lâm muội bảo Mang Sơn rất đẹp, lúc đó tôi cũng không biết Lâm muội có ý gì”. Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau này Lâm muội sẽ đến Mang Sơn tìm các người, đừng lo lắng”. Phùng Anh lại hỏi Lữ Tứ Nương làm sao biết Phùng Lâm muốn làm gì? Lữ Tứ Nương nói: “Tôi cũng chỉ đoán bừa, không thể nói chính xác được. Sau này mọi người sẽ biết, giờ nói trước trái lại không hay”. Phùng Anh nghĩ ngợi một hồi, đã đoán được mấy phần, bất giác đỏ mặt.


Lữ Tứ Nương rời khỏi kinh thành, trở về dãy Tiên Hà, một tháng sau nàng đã từ Hà Bắc đến Sơn Đông, băng qua hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang vào miền bắc Phúc Kiến.


Tiên Hà lĩnh nằm vách ngang giao với hai tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến, vừa vào miền bắc Phúc Kiến, từ xa đã nhìn thấy dãy Tiên Hà. Lữ Tứ Nương tuy tin rằng Thẩm Tại Khoan chưa chết nhưng càng đi gần tới, lòng càng lo lắng không yên, sợ rằng sự thật khác hẳn điều mình nghĩ.


Trưa một ngày nọ, Lữ Tứ Nương đang ngồi nghỉ ngơi trong một căn trà đình ven đường, chợt thấy trên con đường bụi cát tung mù mịt, một thước ngựa chạy tới, người trên ngựa là một đại hán râu xồm, tướng mạo trông rất uy võ, đến trước trà đình dừng ngựa lại nhìn xung quanh, trong trà đình chỉ có vài người khách, Lữ Tứ Nương đã cải dạng thành một cô nương hái trà, người ấy nhìn nàng mà chẳng hề để ý, thế rồi xuống ngựa uống trà. Một hồi sau, lại có hai chiếc kiệu do tám người khiêng dừng trước quán trà. Kiệu mở ra, Lữ Tứ Nương bất đồ thất kinh, người bước ra từ chiếc kiệu đi đầu là Tăng Tịnh, người phía sau trông có vẻ như tuỳ tùng, trên vai cõng một đứa nhỏ. Lữ Tứ Nương cúi đầu uống trà, theo lẽ nếu nàng muốn lấy mạng của Tăng Tịnh thì dễ như trở bàn tay. Chỉ vì nghĩ tình lão đã già, vả lại từng là bằng hữu của cha mình, cho nên tuy nổi giận nhưng vẫn cố kiềm chế.


Một hồi sau, lại có một thước ngựa dừng chân, người trên ngựa là một võ sĩ.


Tăng Tịnh là người Hà Nam, từng dạy học ở vùng Phúc Kiến, tiếng tăm rất lớn, có rất nhiều người biết lão. Ngồi một hồi thì có người khách ăn mặc theo kiểu tú tài cung kính bước tới hành lễ, hỏi: “Đây có phải là Tăng lão tiên sinh đấy không?” Tăng Tịnh khẽ gật đầu, người ấy nói: “Vãn sinh đã từng nghe tiên sinh dạy học”. Tăng Tịnh lại khẽ gật đầu, tỏ vẻ lơ đểnh. Người ấy lại hỏi: “Ngọn gió nào thổi lão tiên sinh đến đây? Có vào huyện thành dạy học mấy ngày không?” Tăng Tịnh nói: “Tôi có một vị bằng hữu ở miền bắc, y chết mà con của y chẳng ai chăm sóc, tôi lần này lên miền bắc nhận nuôi con của người ấy, đi ngang qua đây, lòng nôn nóng trở về nhà nên không dạy học”. Người ấy khen rằng: “Cao nghĩa của tiên sinh có thể sánh với người xưa, vãn bối khâm phục”. Tăng Tịnh mỉm cười. Lữ Tứ Nương nghiêng tai lắng nghe, chợt chạm với ánh mắt của Tăng Tịnh, Tăng Tịnh và Lữ Tứ Nương rất quen thuộc nhau, tuy nàng đã cải dạng, nhưng thần thái vẫn có thể lờ mờ nhận ra. Tăng Tịnh vừa nhìn, nụ cười chợt tắt, buông trà xuống nói: “Tôi đi đây”. Đại hán râu xồm lên ngựa đi trước, Tăng Tịnh lên ngựa đi sau không lâu, võ sĩ kia cũng lên ngựa đi theo. Tăng Tịnh từ đầu đến cuối không nói chuyện với hai người này, giả vờ không quen biết nhau, Lữ Tứ Nương thầm cười, biết hai võ sĩ này chắc chắn là do Niên Canh Nghiêu phái đi theo bảo vệ và giám sát Tăng Tịnh.


Lữ Tứ Nương vũng vội vàng trả tiền trà rồi bước ra khỏi trà đình.


Lữ Tứ Nương đã thấy bọn Tăng Tịnh đi về hướng Phố Thành, tức là ngược với đường đi về Tiên Hà lĩnh, thầm nhủ: “May mà mình không đi cùng hướng với bọn chúng, mình chẳng muốn gặp lão thất phu này”.


Trước khi mặt trời lặng, Lữ Tứ Nương đã đến chân dãy Tiên Hà. Chỉ thấy núi rừng trùng trùng điệp điệp, mây trời sà thấp, cảnh vật huyền ảo vô cùng. Lòng này thấy căng thẳng, nhớ lại ngày trước đã cùng Thẩm Tại Khoan xem biển mây, giờ không biết chàng đang làm gì? Lữ Tứ Nương vừa đi vừa nghĩ, bất giác đã lên đến lưng chừng núi. Ngửa mặt lên trên thấy một tảng đá lớn, màu sắc của tảng đá đỏ như máu, đó là một danh thắng của Tiên Hà lĩnh, tên gọi Đơn Hà Chướng. Trước đây khi còn ở dãy Tiên Hà, Lữ Tứ Nương thích nhất là dạo bộ trên mỏm đá này. Nay bước qua, nàng không khỏi ngẩng đầu nhìn lên, nhưng không ngờ nhìn lên lại một sự việc kinh người.


Tảng đá cao đến bảy tám trượng, vốn là trơn tục, thế mà giờ đây trên tảng đá có người vẽ một đóa hoa lan, chỉ vài nét bút nhưng cũng đã thấy phi phàm. Người vẽ hoa lan không những khinh công tuyệt đỉnh mà tài nghệ phải diệu tuyệt. Lữ Tứ Nương không khỏi thầm khen.


Thấy đóa hoa lan, Lữ Tứ Nương liệu rằng chắc chắn có cao thủ đi ngang qua đây, trong lòng càng lo hơn, chẳng còn bụng dạ nào thưởng thức nữa liền bỏ đi. Dưới Đơn Hà Chướng là một cái động có rèm nước từ trên buông xuống, tia nước bắn tung toé, tạo thành một đầm nước bên dưới. Qua khỏi thác nước này, thiền viện của Nhất Phiêu hòa thượng đã ở truớc mặt. Lữ Tứ Nương hú dài một tiếng nhưng không thấy Nhất Phiêu hòa thượng ra đón, nàng không khỏi thất kinh, chạy nhanh vào thiền viện, chỉ thấy cửa chùa sụp đỗ, vách tường loang lỗ, cảnh vật tiêu điều. Lữ Tứ Nương kêu: “Nhất Phiêu đại sư, Nhất Phiêu đại sư!” nhưng chỉ nghe tiếng của nàng vọng lại, chim chóc bay vụt lên. Lữ Tứ Nương lại kêu: “Tại Khoan ca ca, Tại Khoan ca ca!” cũng chẳng có ai trả lời.


Lữ Tứ Nương bất giác ngẩng người, nàng vốn tin chắc rằng Thẩm Tại Khoan chưa chết, điều đó khiến nàng bất ngờ. Lần trước khi rời Thẩm Tại Khoan, chàng ta đã có thể đi lại được nhưng vẫn chưa vững bước, vả lại chàng đã tránh họa ở đây, theo lý thể nào cũng không xuống núi, chả lẽ... Lữ Tứ Nương bất giác rùng mình, không dám suy nghĩ tiếp.


Trong khoảnh khắc không khí xung quanh đều lạnh đến tựa như ngưng két lại, Lữ Tứ Nương thẩn thờ vịn vách tường bước ra khỏi thiền đường, băng qua hành lang, đi vào căn phòng của Thẩm Tại Khoan. Cửa phòng khép hờ, vừa chạm vào đã bật ra, mùi hôi từ lâu chưa quét dọn xộc vào mũi, giường chiếu sách vở vẫn bày như trước, nhưng có một lớp bụi dày. Vài con chuột nghe tiếng người, vội vàng lẩn trốn.


Lữ Tứ Nương bước về phía cửa sổ hít một hơi, định thần, thầm nhủ đây chả lẽ là một cơn mơ?


Nàng vẫn không muốn tin rằng Thẩm Tại Khoan đã chết, lại thẫn thờ bước đi dòm ngó khắp mọi nơi trong chùa, lúc này nàng mới chợt cảm thấy lạnh lẽo thê lương, chung quanh tĩnh lặng đến ghê người.


Rất lâu sau, Lữ Tứ Nương mới dần tỉnh dậy từ trong cơn ác mộng, không biết lúc nào mà nước mắt nàng đã rơi ướt áo, trong lòng vẫn nghĩ: “Cái đầu ấy rõ ràng không giống chàng, chả lẽ chàng đã thoát nạn?” trong lòng dấy lên một tia hi vọng, rồi nàng lại tỉ mỉ tìm kiếm một hồi nữa, lúc này mới phát hiện vật dụng trong chùa không có một món nào còn nguyên vẹn, rõ ràng đã trải qua một trận ác đấu. Khi nhìn kỹ, trên bậc thềm ở thiền đường còn có vết máu, dưới ánh nắng mặt trời chói chang, vết máu ấy vẫn còn đỏ tươi.


Lúc này Lữ Tứ Nương dù có muôn phần tự tin cũng không khỏi phát hoảng. Bên ngoài chim kêu ríu rít, mặt trời đã hạ xuống núi. Lữ Tứ Nương định thần lại cố an ủi mình: “Làm sao biết đó là máu người? Nhất Phiêu đại sư võ công bất phàm, có lẽ đó là máu của bọn ưng khuyển!” rồi nhân lúc trời chưa tối, Lữ Tứ Nương bước ra khỏi thiền đường, xuống núi từ sau chùa, trên đường vẫn tiếp tục xem xét. Liền phát hiện lại có một đóa hoa lan trên tảng đá lớn, giống hệt như đóa hoa ở Đơn Hà Chướng. Lữ Tứ Nương giật mình, bước tới vách núi, lao xao lại phát hiện hình vẽ hoa sen, Tiên Hà lĩnh trùng trùng điệp điệp, không ở lâu, chắc chắn sẽ bị lạc đường. Xem ra đóa hoa sen này là ám hiệu của khách giang hồ dùng để chỉ đường. Lữ Tứ Nương nổi lòng nghi ngờ, thầm nhủ: “Núi này không có báu vật, người vẽ hoa sen đương nhiên là cao thủ, mình phải xem đóa hoa sen này dẫn về đâu?”


Lữ Tứ Nương gia tăng cước trình, đi ngang qua ba nơi có ám hiệu hoa sen, chỉ thấy thế núi phía trước dần dần bằng phẳng, xuất hiện một cái dốc nghiêng, trên cái dốc nghiêng lại có hai gò đất nổi lên, trông giống như cái bánh bao, Lữ Tứ Nương vừa nhìn, thì thấy tim đập thình thình, xem ra hai cái gò đất này là hai nấm mộ mới đắp.


Lữ Tứ Nương lướt người vọt tới, định thần nhìn kỹ lại thì thấy quả nhiên có hai ngôi mộ, trước mỗi ngôi mộ đều có một cái bia đá bằng bạch thạch. Bia bên trái viết rằng: “Nhất Phiêu đại sư chi mộ”. Lữ Tứ Nương thấy trước mặt tối sầm, không ngờ người có võ công như Nhất Phiêu đại sư mà cũng gặp nạn, bao nhiêu suy đoán trước kia đã thành không. Khi định thần nhìn kỹ lại, tấm bia bên phải viết rằng: “Tiên Hà xử sĩ Thẩm Tại Khoan y quán chi trủng”. Khi Thẩm Tại Khoan dưỡng bệnh ở Tiên Hà lĩnh, tự xưng là Tiên Hà xử sĩ, xem ra ngôi mộ này là do bằng hữu của chàng lập nên. Gọi là y quán trủng là bởi người lập mộ biết chàng đã bị trảm ở kinh sư, không thể nào lấy xác được bởi vậy mới chôn quần áo của chàng để làm kỷ niệm. Chỉ dựa vào mấy chữ này, chắc chắn đã hợp với thân phận của Thẩm Tại Khoan, lại hợp với tình huống chết của chàng, từ đó có thể thấy Thẩm Tại Khoan chắc chắn đã chết.


Trong khoảng sát na, Lữ Tứ Nương thấy toàn thân cứng đờ, muốn khóc nhưng chẳng có nuớc mắt, bao nhiêu chuyện xưa cứ lướt qua trong đầu. Không ngờ Thẩm Tại Khoan lần trước gặp nạn lớn không chết mà nay đã bị đồng đạo bán đứng, chết trong tay kẻ gian, đầu một nơi thân một ngả, trong mộ chỉ có quần áo. Càng không ngờ chàng cố gắng gần mười năm chiến thắng bệnh ma, thoát khỏi tàn phế, thế mà nay lại chết một cách vô cớ! Đúng là đạo trời khó cãi! Lữ Tứ Nương ngẩng mặt hỏi trời, rút kiếm chém đất, trời không trả lời, đất cũng không lên tiếng.


Chim rừng bay về tổ, màn đêm bao trùm, Lữ Tứ Nương đứng trước mộ mà như ngây dại, cũng không biết bao lâu, nàng mới dần dần tỉnh táo, chợt nghĩ: “Đều là do lão tặc Tăng Tịnh, nếu không ai biết chàng ở Tiên Hà lĩnh? Lão tặc đúng là hung thủ hại chàng, tại sao mình còn nương tay?” Lữ Tứ Nương vốn không có ý giết Tăng tịnh, lúc này vì nổi giận mà phát tác, hận không đích thân bắt Tăng tịnh, giết chết y để báo thù cho Thẩm Tại Khoan. Nàng biết đêm nay Tăng Tịnh đang ở Phố Thành, Phố Thành cách Tiên Hà khỏang trăm dặm nhưng đối với Lữ Tứ Nương quãng đường này chẳng xa xôi gì. Lòng báo thù nổi lên, nàng lập tức xuống núi thi triển khinh công tyệt đỉnh chạy đến Phố Thành, đến canh ba mới tới nơi. Phố Thành là một huyện thành nhỏ, sau canh ba tất cả đều chìm vào yên lặng.


Tăng Tịnh vốn không phải kẻ xấu, chỉ vì tham sống sợ chết, nhất thời mềm yếu, không chịu nổi tra khảo nên khuất phục trước kẻ địch, vì thế làm nên chuyện sai lầm. Sự vịêc đã qua, trong lòng ăn năn áy náy chẳng yên. Hôm nay ở trà đình chợt thấy Lữ Tứ Nương, lòng càng thêm lo. May mà sau khi rời khỏi trà đình y chẳng thấy Lữ Tứ Nương đi theo, lòng thấy yên, tự an ủi rằng: “Tứ Nương làm sao biết mình đã cung khai, lúc nãy nó không dám gọi mình, đó là bởi vì có hai người đi bên cạnh, cho nên không muốn lộ thân phận. Rõ ràng không có địch ý đối với mình”. Tuy tự an ủi như thế nhưng nghĩ đến Lữ Tứ Nương võ công trác tuyệt, chợt phát hiện thấy tông tích của mình, chắc chắn phải âm thầm đi theo, vậy khi gặp nhau biết ăn nói thế nào? Nghĩ đến đây bất giác lòng thấp thỏm.


Đêm ấy, đến Phố Thành, một chuyện càng khiến y lo lắng lại xảy ra. Vừa vào cửa thành, đã có hai người chặn kiệu của y lại: “Có phải Tăng lão tiên sinh đấy không?” hai tên kiệu phu cũng là người của Niên Canh Nghiêu, vừa thấy có người chặn kiệu chào hỏi, lập tức dừng lại. Tăng Tịnh vén kiệu, chỉ thấy hai người đưa một tấm bái thiếp, nói: “Tăng lão tiên sinh, xin mời đến tiểu điếm nghỉ ngơi. Phòng ốc đã chuẩn bị xong”. Tăng Tịnh vừa xem tấm thiệp, té ra đó là tấm thiệp đón khách của Trường An khách điếm, phong tục thời đó, nếu khách điếm biết có quan lớn hoặc phú thương đi ngang, thường phái người ra cửa thành nghênh đón, đó cũng là một cách làm ăn, không có gì kỳ lạ. Nhưng Tăng Tịnh là một nhà nho nghèo, tuy nổi tiếng trong chốn nho lâm, nhưng cả đời chưa từng được tiếp đãi như thế, thấy thế rất bất ngờ.


Tăng Tịnh không khỏi hỏi: “Sao các người lại biết hôm nay ta đến đây?” người ấy đáp: “Bằng hữu của Tăng lão tiên sinh đã sớm thông báo cho chúng tôi, phòng ốc đã chuẩn bị xong. Xin mời Tăng lão tiên sinh theo chúng tôi”. Tăng Tịnh ngạc nhiên nói: “Ta có bằng hữu nào?” người ấy cười rằng: “Tăng lão tiên sinh quen biết khắp thiên hạ, gặp rồi đương nhiên sẽ biết”. Tăng Tịnh đang định từ chối, hai võ sĩ âm thầm hộ tống y lúc này đã vào đến cửa thành, hỏi trước: “Khách sạn các ngươi có còn phòng không?” người ấy nói: “còn, còn!” hai võ sĩ nói: “Được, ta cũng ở khách sạn của ngươi”. Câu này rõ ràng là ra lệnh cho Tăng Tịnh phải ở trong căn khách sạn ấy. Tăng Tịnh chỉ đành theo người này.


Trường An khách khách sạn tuy là một khách điếm trong huyện thành nhỏ, nhưng trông cũng phong nhã lắm, trong phòng Tăng Tịnh có đầy đủ bàn ghế bút mực, tên tiểu nhị nói: “Quý hữu nói Tăng lão tiên sinh là một bậc danh nho, bảo chúng tôi sắp xếp căn phòng như phòng sách”. Tăng Tịnh càng thấp thỏm lo âu, hỏi: “Là vị tiên sinh nào thế? Tại sao không lộ mặt?” tên tiểu nhị trả lời: “Chúng tôi cũng không biết, ông ta sai người đến đặt phòng, để tiền lại rồi đi”. Tăng Tịnh nói: “Ai đến đặt phòng?” tiểu nhị trả lời: “Là một người mặt rỗ”. Tăng Tịnh ngạc nhiên, tiểu nhị tiếp tục nói: “Người mặt rỗ này là một tuỳ tùng, y đến đặt phòng mà không để lại tên của chủ nhân y, chắc là ngài nghỉ ngơi một đêm, ngày mai sẽ đến gặp”.


Tăng Tịnh thấy hỏi chẳng ích gì, cũng đành thôi. Hai võ sĩ ấy ở hai căn phòng bên cạnh Tăng Tịnh, ăn cơm xong đến canh hai, giả vờ đến thăm, vào phòng Tăng Tịnh, khẽ nói: “Tăng lão tiên sinh, hôm nay ông phải cẩn thận đấy!” Tăng Tịnh sợ quá nói: “Các người phát hiện chuyện gì không ổn? các người phải cứu mạng ta, hay là đổi khách điếm khác đi vậy!”


Hai người này là võ sĩ tâm phúc của Niên Canh Nghiêu, có võ nghệ cao cường, nghe Tăng Tịnh nói như thế thì mỉm cười: “người đặt phòng cho ông không hỏi cũng biết chắc chắn là bè đảng còn sót lại của Lữ Lưu Lương, chúng tôi phải đợi y đến đây, làm sao thay đổi khách điếm?” Tăng Tịnh không tiện lên tiếng, lòng thầm thất kinh, nhủ rằng: “Hai người này không biết có phải là đối thủ của Lữ Tứ Nương hay không? Hừ, Lữ Tứ Nương giết bọn chúng đương nhiên không tốt, nhưng bọn chúng giết Lữ Tứ Nương càng không tốt hơn. Huynh đệ nhà họ Lữ dẫu sao cũng có tình tri giao với mình, mình làm sao có thể nỡ thấy họ bị trảm thảo từ căn”. Lúc này Tăng Tịnh tưởng rằng người đặt phòng cho mình là Lữ Tứ Nương, nào ngờ y đã sai.


Đêm ấy Tăng Tịnh làm sao có thể ngủ được, y châm đèn đọc sách mà chữ chẳng vào đầu. Nghe bên ngòai trống đã đánh canh ba, Tăng Tịnh đứng ngồi không yên, bước ra mở cửa sổ, gió lạnh bên ngoài thổi vào, trong màn đêm tối tăm mịt mùng, y có thể thấy dãy Tiên Hà ở xa xa. Tăng Tịnh bất đồ nghĩ tới Thẩm Tại Khoan, trong bóng tối mênh mông, y thấy Thẩm Tại Khoan máu me đầy mình, tay cầm một cái đầu, trên đầu hai con mắt trắng dã nhìn y, Tăng Tịnh kêu hoảng, vội vàng đóng cửa, ảo ảnh trước mắt lập tức biến mất.


Tăng Tịnh thở dài, thầm nhủ: “Bình sinh không làm chuyện dối lòng, nửa đêm bị gõ cửa cũng không sợ, lời này thật không sai”. Y lau mồ hôi lạnh, đi qua đi lại trong căn phòng.


Một hồi sau chợt nghe tiếng gõ cửa cộc cộc cộc vang lên, Tăng Tịnh tưởng là hai tên võ sĩ kia, hỏi: “Ai thế?” không có tiếng trả lời, y liền mở then cài cửa, Tăng Tịnh ngẩng đầu lên nhìn, hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, kêu lên: “Ngươi...ngươi là người hay là ma phải không... không ta không hại ngươi, ngươi... ngươi...”


Không chỉ Tăng Tịnh thất kinh, có một người khác càng kinh hãi hơn. Người ấy chính làLữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương đến Phố Thành vào canh ba, ở Phố Thành chẳng có mấy căn khách sạn, nàng vừa tìm đã ra. Nàng phóng lên mái ngói của căn khách sạn này, hạ xuống nhẹ như một tờ giấy, hai tên võ sĩ đang ngưng thần chờ đợi mà cũng chẳng phát hiện. Lữ Tứ Nương định xuống tay, chợt thấy có một thư sinh bước ra từ dãy phòng cuối, mặt bịt khăn xanh, đi đến trước phòng của Tăng Tịnh, khẽ gõ cửa rồi kéo mảnh khăn xuống, dù người ấy cháy thành tro Lữ Tứ Nương cũng nhận ra, bởi đó chính là Thẩm Tại Khoan! Lúc chàng ta bước ra khỏi phòng, Lữ Tứ Nương đã nghi ngờ.


Lần này Lữ Tứ Nương vừa kinh vừa mừng, không ngờ Thẩm Tại Khoan không những chưa chết mà sắc mặt hồng hào, bước đi mạnh mẽ, Lữ Tứ Nương vui mừng, sát cơ chợt tắt, thầm nhủ: “Mình phải xem lão già này còn mặt mũi gì gặp chàng?”


Tăng Tịnh sợ đến nỗi hồn bay phách tán, hỏi chàng là người hay là ma, vẫn còn nói: “Ngươi... ngươi đừng lấy mạng ta!”


Thẩm Tại Khoan mỉm cười: “Tôi không phải là ma! Hôm ấy người bắt trên dãy Tiên Hà chính là đường đệ của tôi, Thẩm Tại Anh”. Rồi chàng sầm mặt, khẽ nói: “Đáng thương thay nó lần đầu tiên lên núi thăm tôi mà đã bị hại! Hỡi ơi, lại còn liên luỵ đến Nhất Phiêu hòa thượng. Ông có quen Tại Anh không?”


Tăng Tịnh vừa nghe thì thấyThẩm Tại Khoan tựa như không biết mình đã bán đứng chàng, y hơi định thần, cũng cúi đầu khẽ than: “Đúng thế, Tại Anh rất giống ngươi? Tuổi xuân đang còn phơi phới, đáng tiếc, đáng tiếc!”


Thẩm Tại Khoan sắc mặt nghiêm trọng, tiếp lời: “Người chết đã xong, người sống càng phải cẩn thận hơn. Tăng lão bá, ông đang gặp nguy hiểm, hãy mau chạy theo tôi!”


Tăng Tịnh vừa yên lòng, nghe câu nói ấy bèn biến sắc mặt. Chỉ nghe Thẩm Tại Khoan tiếp tục nói: “Hai tên võ sĩ ở phòng bên cạnh cứ mãi đi theo ông. Nghe nói triều đình đang bắt những người như chúng ta. Nhưng thúc thúc đã bị hại, ông là nhân vật đầu não, sao có thể đi đứng bừa bãi thế này?”


Số là ngày ấy Niên Canh Nghiêu phái võ sĩ lên núi bắt Thẩm Tại Khoan, vì chàng đã khỏe lại, sáng sớm đã đi dạo, hứng chí đi xa chùa đến hơn mười dặm, khi võ sĩ của Niên Canh Nghiêu đến nơi, chàng chẳng hề haybiết. Đến khi trở về chùa mới phát hiện xác của Nhất Phiêu hòa thượng, vội vàng chạy xuống núi, sau đó biết đường đệ của mình vừa khéo ngày hôm ấy lên núi thăm, đã chết thế cho mình. Thẩm Tại Khoan bi phẫn, nhưng một mình chẳng thể trả thù. Chỉ đành chôn Nhất Phiêu hòa thượng, rồi cố ý lập mộ áo mũ cho mình, bày bố nghi trận để ưng khuyển triều đình không chú ý đến mình nữa.


Sắp xếp mọi việc đâu đó, Thẩm Tại Khoan đến ở nhà một người họ Diệp bằng hữu của Nhất Phiêu hòa thượng. Hôm nay chàng biết Tăng Tịnh đi ngang qua đây nên đã sắp xếp cho y đến ở khách sạn Trường An.


Tăng Tịnh nghe Thẩm Tại Khoan hối thúc mình chạy mau, chỉ biết dở khóc dở cười, lại không thể nói thực mọi chuyện, nên còn ấp úng, bên cạnh chợt có tiếng cười lạnh, hai tên võ sĩ đã xông ra. Đại hán râu xồm đứng chặn trước cửa, cười lớn: “Tên tặc tử lớn gan, lão tử đợi ngươi đã lâu!” rồi vung tay chụp vào xương tỳ bà của Thẩm Tại Khoan!


Tên này giỏi công phu ưng trảo, thấy Thẩm Tại Khoan yếu ớt, tưởng rằng sẽ đắc thủ. Nào ngờ gần mười năm qua Thẩm Tại Khoan ngày đêm lyện tập nội công tâm phát, đã có hỏa hầu, lúc này chàng tuy không biết võ công nhưng nội công cũng tinh thuần.


Hán Tử râu xồm chụp tới, chạm vào vai của Thẩm Tại Khoan, cơ bắp của Thẩm Tại Khoan bị ngoại lực tác động, lõm vào theo bản năng, Đại Hán râu xồm chỉ thấy như tóm phải một con cá chạch, bất giác cả kinh, vội vàng phất ngang một chưởng, Thẩm Tại Khoan vung chưởng chặn lại, Hán tử râu xồm bị chàng đẩy lui tới hai bước, lúc đó tên đồng bọn cũng rút đao chém tới một đao Thiết Ngưu Canh Địa, vào hai chân của chàng, Hán tử râu xồm cũng lao bổ tới chụp vào cổ tay của chàng.


Thẩm Tại Khoan dẫu sao cũng chẳng phải là người biết võ công, bị hai người tấn công đến nỗi luống cuống tay chân, chợt nghe trên mái ngói có tiếng cười lạnh, Hán tử cầm đao ngã xuống đất trước tiên, Thẩm Tại Khoan mừng rỡ nói: “Tứ Nương!” Hán tử râu xồm quay đầu nhìn lại, Lữ Tứ Nương ra tay như điện chớp, một kiếm chém ngang, cái đầu bay lên mái nhà. Lúc này đứa trẻ trong phòng khóc òa lên, Tăng Tịnh sợ đến nỗi mặt mày tái xanh, kêu hai tiếng: “Hiền điệt nữ, hiền điệt nữ!” Lữ Tứ Nương sầm mặt, lạnh lùng nói: “Ai là điệt nữ của ngươi?” Thẩm Tại Khoan ngạc nhiên nói: “Oanh muội, muội sao thế?” Lữ Tứ Nương nói: “Huynh suýt nữa đã chết trong tay của lão mà còn không biết! Tăng Tịnh, ngươi đọc sách thánh hiền có ích gì? Tại sao đến khi lâm nguy đã chịu khuất phục chẳng hề cứng rắn?” Tăng Tịnh mặt đỏ ửng, đột nhiên lao đầu vào vách, Thẩm Tại Khoan kéo y lại. Tăng Tịnh chảy nước mắt, nói: “Ta tuổi tác đã già, chẳng chịu đuợc khổ hình, người không có ai sai lầm? Ngươi cứ cho ta chết để chuộc tội!”.


Lúc này Thẩm Tại Khoan mới hiểu ra, nhưng Tăng Tịnh trông rất thê thảm, không nhẫn tâm, thở dài nói: “Oanh muội, huynh vẫn chưa chết, cứ tha cho lão!” Lữ Tứ Nương vẫn chưa hết giận, nhưng thấy Thẩm Tại Khoan vẫn xin cho y cũng đành thôi, chỉ hừ một tiếng bước vào phòng, vung kiếm đâm chết tên tuỳ tùng, bế đứa con của Niên Canh Nghiêu lên, mắng một tiếng nghiệt chủng rồi cúi đầu xuống nhìn, chỉ thấy đứa trẻ này trán đầy đặn, khí chất bất phàm, Thẩm Tại Khoan hỏi: “Con nhà ai thế?” Lữ Tứ Nương nói: “Là con của Niên Canh Nghiêu”. Lời lẽ không còn tức giận như trước nữa. Thẩm Tại Khoan nói: “Tội của cha mẹ không liên quan đến con cái”. Tăng Tịnh nghe khẩu khí của họ biết mình đã được tha, lúc này cũng không muốn tự sát nữa, run giọng nói: “Là Niên Canh Nghiêu buộc tôi phải nuôi dưỡng con của y. Không, không liên quan đến tôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Quân tử hứa một lời nặng như ngàn vàng. Niên Canh Nghiêu có tội, con trai của y thì không, được, ngươi hãy cẩn thận nuôi dưỡng con y”. Rồi nàng chấm máu viết mấy chữ trên tường: “Chính Lữ Tứ Nương đã giết người!” viết xong lại dắt Thẩm Tại Khoan chạy ra khỏi khách sạn.


Ra khỏi khách sạn, Lữ Tứ Nương nói: “Thẩm Tài Khoan, muội không ngờ đã gặp lại huynh”. Đêm hôm ấy, Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan ở nhà người họ Diệp, trưa hôm sau cả hai quay về dãy Tiên Hà. Trên đường Lữ Tứ Nương vừa đi vừa ngắm cảnh, trò chuyện với Thẩm Tại Khoan, lại khen nội công của Thẩm Tại Khoan tiến bộ mau chóng. Thẩm Tại Khoan mỉm cười nói: “Không ngờ mười năm kiên trì cuối cùng đã được như mong muốn. Oanh muội, chúng ta đều là những người nhà tan cửa nát, trơ trọi trên đời. Khi nào mới thỏa tâm sự của cha mẹ đây?” ý của câu nói này thực sự muốn hỏi Lữ Tứ Nương chừng nào kết hôn. Lữ Tứ Nương đỏ mặt, chợt dịu dàng nói: “Để muội giết tên cẩu hoàng đế Ung Chính xong, chúng ta sẽ ở bên nhau trọn đời. Huynh có đợi được không?” Thẩm Tại Khoan giật mình, nghiêm mặt nói: “Thù lớn chưa trả, thế mà chỉ nghĩ đến việc gia thất, huynh đã sai. Oanh muội, trả thù là việc chính, lẽ nào huynh không đợi được”.


Hai người vưa đi vừa nói, không lâu sau đã đi ngang qua Đơn Hà Chướng, Lữ Tứ Nương ngẩng đầu chỉ đóa hoa sen, nói: “Công lực của người này chẳng kém gì muội, huynh có biết là ai đã để lại không?” Thẩm Tại Khoan nhìn, thấy cũng ngạc nhiên, nói: “Sau khi chuyện xảy ra, huynh liền đến Phố Thành lánh nạn, không biết ai đã tới đây”.


Lữ Tứ Nương nắm tay Thẩm Tại Khoan đi qua mấy dốc núi, men theo dấu hoa sen chỉ, đến chỗ mộ của Nhất Phiêu hòa thượng, chợt nghe tiếng cuốc bổ xuống đất, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy một hán tử khoảng hơn ba mươi tuổi đang đào mộ Nhất Phiêu.


Lữ Tứ Nương cả giận, quát lớn một tiếng rút kiếm, hai chân điểm một cái, người lướt tới, quát: “Đồ ưng khuyển ác độc, giết người mà lại còn muốn đào mộ người ta?” Lữ Tứ Nương cho rằng kẻ này nếu không là thị vệ đại nội thì cũng là võ sĩ của Niên Canh Nghiêu, giờ đây bọn chúng chắc chắn đến lấy thủ cấp của Nhất Phiêu hòa thượng về tâng công.


Vì kiếm pháp của Lữ Tứ Nương tinh diệu lạ thường, nhát kiếm này cũng làtuyệt học bình sinh, nàng phóng vọt người đánh xuống, người ấy vội né tránh, kêu ồ một tiếng, muốn nói gì đấy nhưng lại thôi. Lữ Tứ Nương đánh một đòn không trúng, rất ngạc nhiên, đâm ra soạt soạt ba nhát kiếm, toàn là những sát chiêu lợi hại trong Huyền Nữ kiếm pháp. Người ấy xoay mũi chân, Lữ Tứ Nương đánh một loạt ba kiếm mà đều hụt, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, người ấy cũng rút kiếm tấn công tới từ một phương vị mà Lữ Tứ Nương không ngờ được. Lữ Tứ Nương cả kinh, may mà nàng có khinh công trác tuyệt, người chỉ hơi lách qua đã lập tức phản công, nàng trầm kiếm dẫn tới, trở kiếm hất lên, hai kiếm chính phản tương hành, công thủ bổ trợ lẫn nhau, dù cao thủ cũng khó né tránh. Người ấy cũng thấy lấy làm lạ, đột nhiên ngồi xuống đất, xoay mấy vòng nhanh như điện chớp, kiếm thế như trái châu lăn vào ngộc bàn, suýt nữa Lữ Tứ Nương đã bị y chém hai chân, thế là vội vàng nhảy vọt lên, dùng kiếm thế Bằng bác cửu tiêu, kiếm quang chợt mở rộng mấy trượng, chụp xuống đầu người ấy, chỉ cần kiếm quang vừa hợp, dù cao thủ tuyệt đỉnh cũng khó tránh cái họa bay đầu!


Kiếm quang chụp xuống, người ấy chợt bật lên rồi lao ra khỏi vòng kiếm quang, trở tay đánh ra một kiếm từ một phương vị mà Lữ Tứ Nương không ngờ đến, Lữ Tứ Nương chưa từng thấy loại kiếm pháp quái dị thế này, nàng thất kinh vội vàng né tránh. Lùi được hai bước, nàng thay đổi kiếm pháp, thi triển hết Huyền Nữ kiếm pháp ra, kiếm quang hộ toàn thân, kiếm thế dồn lên cuồn cuộn. Mỗi chiêu nàng đánh ra đều lợi hại lạ thường, kiếm nào cũng xỉa vào chỗ yếu hại của người ấy, người ấy loạng choạng như một tên say rượu, lúc thì tung người lên cao, lúc thì hạ xuống đất, có mấy lần suýt nữa chạm vào một lưỡi kiếm của Lữ Tứ Nương nhưng không biết thế nào mà trong khoảnh khắc đã né tránh ra. Thanh kiếm của y chỉ đâm vạch tay, xem ra rất rối loạn, thực sự là trong chiêu có chiêu, trong thức có thức, biến hóa phức tạp vô cùng. Lữ Tứ Nương từ lúc xuất đạo tới giờ chưa thấy có kình địch nào mạnh thế này.


Kỳ phùng địch thủ, tinh thần phấn chấn, Huyền Nữ kiếm pháp của Lữ Tứ Nương càng lúc càng nhanh, nàng phối hợp với khinh công tuyệt đỉnh thừa cơ tấn công, cả hai quần thảo nhau khoảng hơn trăm chiêu, mỗi bên đều có sở trường, chẳng ai làm gì được đối phương. Nhưng Lữ Tứ Nương có khinh công hơi cao hơn, chiếm được một chút thượng phong. Nhưng dù như thế cũng không thể chế phục được đối phương.


Đấu được hơn trăm chiêu, hai thanh kiếm cứ múa như con rồng bay, lúc tiến lúc thoái, lúc phân lúc hợp, Thẩm Tại Khoan nhìn mà rối cả mắt, Lữ Tứ Nương giật mình, người ấy chợt nhảy ra khỏi vòng, kêu: “Đừng đánh nữa, Huyền Nữ kiếm pháp của cô nương quả nhiên tinh diệu, cô nương có phải là Lữ Tứ Nương không?” Lữ Tứ Nương cũng nói: “Chắc chắn huynh đài đã sử dụng Đạt Ma kiếm pháp, huynh đài có phải là người của phái Võ Đang hay không? Xưng hô thế nào với Quế Trọng Minh lão tiền bối?”


Người ấy trả lời: “Đó chính là gia phụ”. Lữ Tứ Nương thất kinh, nói: “Huynh đài là hậu nhân của bậc hiệp nghĩa lừng danh, sao cam lòng chịu làm ưng khuyển cho triều đình, há chẳng phải đã làm tổn uy danh của Thiên Sơn thất kiếm sao?” người ấy nói: “Nữ hiệp sai rồi, sao bảo tôi là ưng khuyển của triều đình?” Lữ Tứ Nương nói: “Sao huynh đài lại đào mộ của Nhất Phiêu đại sư?” người ấy nói: “Nhất Phiêu đại sư là hảo hữu của Cô Vân đạo trưởng, Chưởng môn sư huynh của tôi, sư huynh tôi biết ông ta gặp nạn, sợ có người làm hại đến pháp thể của ông ta cho nên bảo tôi đưa ông ta về núi Võ Đang an tán”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Sao huynh đài không nói sớm? Suýt nữa tôi đã ra tay lấy mạng huynh đài!” người ấy cũng cười nói: “Chính là vì tôi cũng muốn thấy kiếm pháp của cô nương cho nên mới lãnh giáo vài chiêu, mở rộng tầm mắt”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Té ra huynh đài chỉ muốn thử chiêu! Dám hỏi đại danh của huynh đài là gì?”


Người ấy nói: “tiểu sinh họ Mạo, tên Quảng Sinh”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên, người ấy cười nói: “Tôi theo họ mẹ. Cha tôi sinh ba người con, mỗi người có họ khác nhau”. Lữ Tứ Nương nói: “Tại sao lại thế?” Mạo Quảng Sinh nói: “Cha tôi vốn họ Thạch, lấy họ Quế theo nghĩa phụ. Người sinh ra ba anh em chúng tôi, đại ca lấy lại họ Thạch, tên là Thạch Xuyên Sinh, tôi theo họ mẹ, kế thừa hương hỏa cho ngoại tổ phụ Mạo Tị Cương. Tam đệ mới theo họ cha, tên là Quế Hoa Sinh”.


Lữ Tứ Nương nói một tiếng đắc tội rồi bảo: “Đưa Nhất Phiêu đại sư đi cũng tốt, không cần phải canh mộ cho ông ta”. Mạo Quảng Sing nói: “Ngoại trừ việc dời đi nơi khác, tôi còn có một việc muốn thỉnh giáo nữ hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “không cần khách sáo, xin mời Mạo huynh cứ nói”. Mạo Quảng Sinh nói: “Nữ hiệp có biết đệ tử cuối cùng của Dịch lão tiền bối phái Thiên Sơn không?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Đâu chỉ quen biết, mà là còn rất thân thiết”. Mạo Quảng Sinh nói: “Thật là tốt, nữ hiệp có biết nàng ở đâu không?” Lữ Tứ Nương hỏi: “Huynh đài muốn tìm nàng?” Mạo Quảng Sinh khẽ gật đầu. Lữ Tứ Nương rất lấy làm lạ, nàng chưa bao giờ nghe Phùng Anh bảo quen biết người này, liền hỏi: “Huynh đài tìm nàng làm gì?” Mạo Quảng Sinh nói: “Đệ đệ của tôi tìm nàng trút giận, tôi sợ đệ đệ sẽ ngộ thương nàng, bởi vậy muốn kịp thời đến khuyên giải”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao lệnh đệ có xích mích với nàng?”


Mạo Quảng Sinh lắc đầu nói: “Huynh đệ chúng tôi đều không quen nàng, làm sao có xích mích?” Lữ Tứ Nương càng lạhơn, cười rằng: “Thế ra lệnh đệ chẳng phải gây sự vô cớ sao?”


Mạo Quảng Sing nói: “Nữ hiệp có điều không biết. Ba anh em chúng tôi khi nhỏ ở Thiên Sơn, lúc đó Phùng Anh vẫn chưa tới cho nên đôi bên chẳng quen biết nhau. Sau khi cha chết, ba anh em chúng tôi vâng lệnh cha rời khỏi Thiên Sơn, mỗi người đến một nơi phát dương đại ma kiếm pháp, trùng chỉnh Võ Đang môn hộ. Tôi tiếp nhận chi phái phía Bắc của Võ Đang, thường ở các tỉnh miền thiểm trong; đại ca thì ở núi Võ Đang, tam đệ ở Tứ Xuyên coi sóc nhà cửa. Tam đệ rất thân thiết với Đường gia”. Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, hai năm trước Đường Kim Phong đã đến Sơn Đông, nghe nói là trả thù cho con rể”. Mạo Quảng Sinh nói: “Chính là vì chuyện này”. Lữ Tứ Nương chen vào: “Nhưng con rể của Đường Kim Phong bị Phùng Lâm giết chứ không phải Phùng Anh. Vả lại con rể của Đường Kim Phong làm công sai, công sai giết giặc hoặc giặc giết công sai đều không thể coi như tư thù. Những chuyện như thế này, trong võ lâm rất ít khi báo thù, càng không thể bảo mời người giúp đỡ, chẳng lẽ lệnh đệ không biết quy củ võ lâm sao?”


Mạo Quảng Sinh nói: “Đường nhị tiên sinh cũng không biết ai giết con rể của mình, chỉ biết không phải Phùng Anh thì Phùng Lâm. Lúc đầu ông ta không biết Phùng Anh còn có một muội muội nữa, sau đó mới điều tra được. Đường Kim Phong thương con gái độc nhất của mình, con gái của ông ta nài nỉ, bởi vậy mới đành đi trả thù cho con rể. Nhưng hai năm trước ông ta đến nhà Dương Trọng Anh tìm thù, biết mình không phải là đối thủ của chị em Phùng Anh, cho nên mời đệ đệ của tôi giúp đỡ. Ông ta nói xấu chị em Phùng Anh, đệ đệ của tôi tính tình háo cường, nghe nói có nữ tặc kiếm thuật cao cường, trong bụng cũng muốn đi thử xem sao, hắn không biết Phùng Anh là ái đồ của Dịch lão tiền bối”.


Lữ Tứ Nương hỏi: “Vậy làm sao huynh đài biết?” Mạo Quảng Sinh nói: “Đầu năm nay tôi lên Thiên Sơn tảo mộ cha tôi, nghe Dịch lão tiền bối nói. Người cũng bảo định lập Phùng Anh làm truyền nhân của phái Vô Cực. Thế ra tỉ muội Phùng gia đều là truyền nhân đời sau của Thiên Sơn thất kiếm, làm sao có thể tàn sát lẫn nhau? sau khi tôi từ Thiên Sơn trở về mới biết tam đệ đã đi theo Đường lão nhị, gặp lúc trưởng môn sư huynh nhờ tôi đi dời xác của Nhất Phiêu đại sư cho nên tôi đến trươc nơi này”.


Lữ Tứ Nương nghĩ ngợi một hồi rồi cười nói: “Tại Khoan, chuyện của chúng ta ở núi Tiên Hà đã hết, ngày sau chúng ta còn có dịp quay trở lại. Chúng ta hãy theo Mạo đại ca một chuyến. Có thể đến nhà họ Dương ở Sơn Đông trước, Đường Kim Phong có lẽ là đến tìm thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Mạo Quảng Sinh cả mừng nói: “Có nữ hiệp đi cùng thì thật là tốt!”


Chính là:


Vô cớ nổi cơn sóng ngàn thước, sai lầm thành thù không nỡ xem.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 44

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 44 Nước lũ chợt cuốn sống khó được như nguyện Cõi lòng thay đổi chết chẳng có gì lo


Lại nói hôm ấy Phùng Lâm rời mọi người, một mình đến Sơn Đông tìm Dương Trọng Anh. Nàng tuy đã lớn nhưng lòng dạ cứ như trẻ con.Vì nàng dùng đao hớt tóc của Dương Liễu Thanh, bị tỉ tỉ trách cứ, cho nên nảy ra ý nghĩ trẻ con, thầm nhủ: “Tỉ tỉ uổng là nữ trung hiệp khách, chẳng dám mau mắn đối với chuyện hôn nhân đại sự của bản thân. Chi bằng mình mạo danh tỉ tỉ tìm đến nơi, nói thẳng với Dương lão đầu để khỏi phiền phức”.


Phùng Lâm quyết định như thế, đến huyện Đông Bình ở Sơn Đông. Lúc này là cuối hạ đầu thu, trời mưa nhiều, hôm ấy sau cơn mưa trời sáng tỏ, Phùng Lâm đến sơn trang của Dương Trọng Anh, vừa gõ cửa vừa suy nghĩ: “Lát nữa mình gặp Dương lão đầu, câu đầu tiên phải nói thế nào đây?”


Không ngờ gõ cửa rất lâu mà không ai trả lời. Phùng Lâm liền phóng người vọt tường nhảy vào, chỉ thấy bên trong yên ắng lạ thường, một tiểu nha đầu có lẽ mới nghe tiếng gõ cửa, đang chậm rãi bước ra. Nha đầu ấy thấy Phùng Lâm, chưng hửng kêu lên: “Ồ té ra là cô nương, cô nương còn đến đây làm gì?” Phùng Lâm nói: “Dương lão gia tử đâu? Chân của ông ấy đã khỏe được chút nào chưa?” Nha đầu sầm mặt, chẳng thèm để ý đến. Phùng Lâm thầm nhủ: “Có lẽ đây là nha đầu hầu hạ bên cạnh Dương Liễu Thanh, ả tưởng mình là tỉ tỉ, cho nên mới giận mình”. Cười rằng: “Mái tóc của tiểu thư nhà ngươi đã dài ra chưa? Ngươi dắt ta đến gặp nàng, ta sẽ xin lỗi”. Nha đầu ấy lắc đầu nói: “Ngươi tự mà đi!” nói xong đã chạy vụt đi. Phùng Lâm tức giận, định lấy bùn ném nàng, nhưng chợt nghĩ: “Có liên quan gì đến ả nha đầu!” rồi tự đi vào tìm Dương Liễu Thanh.


Phùng Lâm không quen đường lối, bước vào phòng trong chỉ thấy không khí u ám, đồ đạc trong nhà bề bộn ngổn ngang. Phùng Lâm thầm nhủ: “Dương Trọng Anh uổng là lãnh tụ võ lâm năm tỉnh phía bắc, nhà cửa lộn xộn thế này, để người ta nhìn thấy chẳng phải sẽ là trò cười hay sao?” rồi đứng ở trong nội đường, kêu lớn: “Dương công công, Dương công công!” nàng bắt chước theo lối xưng hô của Phùng Anh, lòng thầm nhủ: “Chắc chắn Dương Trọng Anh sẽ nghe thấy mình gọi”.


Trong phòng vọng ra tiếng khóc, Phùng Lâm dỏng tai lắng nghe, ngạc nhiên nói: “Dương Liễu Thanh nghe mình đến thì khóc, chả lẽ ả đang làm nũng với Dương Trọng Anh, muốn đối phó với mình sao? Hừ, thật không biết ngượng!” rồi lại kêu hai tiếng Dương công công mà vẫn nghe tiếng khóc thút thít của Dương Liễu Thanh chứ không thấy Dương Trọng Anh đáp lời.


Phùng Lâm thầm nhủ: “Được, mình sẽ gặp Dương Liễu Thanh trước”. Nàng nghe tiếng khóc phát ra từ căn phòng ở phía Tây nên vạch rèm chạy vào, chỉ thấy Dương Liễu Thanh ngồi trong phòng, mắt sưng húp, bộ dạng ủ rũ. Dương Liễu Thanh chạy vào, nàng chỉ lạnh lùng liếc nhìn, tiếng khóc thút thít đã ngừng, vẻ mặt càng khiến người ta khó chịu hơn. Phùng Lâm tuy đã đoán nàng không ưa gì mình, nhưng không ngờ nàng có bộ dạng như người đã chết rồi, rồi bất giác đứng sững ngay tại trận, nhìn Dương Liễu Thanh chăm chú.


Dương Liễu Thanh mặc đồ trắng, chỗ tóc bị phi đao cắt đã dài ra, nhưng lại không đều với hai bên, trông càng khó coi. Phùng Lâm nói: “Này, này!” Dương Liễu Thanh chợt ngẩng đầu lên, mặt chẳng sắc máu, nàng trợn mắt rồi đột nhiên cúi đầu, khẽ hỏi: “Hiểu Lan đâu?”


Phùng Lâm cố ý chọc giận nàng: “Đường thúc thúc không muốn gặp ngươi, ngươi có gì muốn nói, hãy nhắn với ta”. Trong lòng định rằng hễ nàng kêu lớn thì lập tức ra tay, nhưng Dương Liễu Thanh chợt thở dài nói: “Hiểu Lan lẽ nào vô tình đến thế? Uổng cho cha của tôi coi trọng chàng”. Lời lẽ thê lương vô cùng, Phùng Lâm bất giác rùng mình, hỏi: “Dương công công đâu, tôi phải thay Đường thúc thúc thỉnh an người”.


Dương Liễu Thanh chợt đứng dậy, gằn giọng nói: “Được, ngươi đến đi, người đến mà thỉnh an”. Rồi dắt Phùng Lâm ra hậu viên, trong vườn có một tòa đình bát giác, trong đình là một cổ quan tài màu đỏ, trên đầu quan tài có dán một tờ giấy trắng, trên giấy viết rằng: “Tiền Minh nghĩa sĩ Sơn Đông hiệp khách Dương Trọng Anh chi linh vị”.


Phùng Lâm kinh hãi! Nàng không ngờ Dương Trọng Anh đã chết, sự cố này đã khiến các kế hoạch của nàng hổng bét, nàng nhìn cổ quan tài, một lúc lâu sau mới lên tiếng: “Dương công công làm sao mà chết?”


Dương Liễu Thanh hỏi: “Hiểu Lan có đến không?” Phùng lâm trong nhất thời không đáp ra lời, Dương Liễu Thanh tức giận nói: “Được, cha ta đã chết, các người đã hài lòng chưa?” Phùng Lâm nói: “Sao lại nói thế?” Rồi khom người xuống bái. Dương Liễu Thanh nói: “Không cần ngươi bái, ngươi đã trêu tức cha ta rồi chưa đủ, mà còn muốn trêu tức ta?” Rồi nàng đưa tay toan đánh Phùng Lâm, Phùng Lâm không né tránh, Dương Liễu Thanh đưa tay ra, chợt rụt về, thở dài nói: “Thôi được, ngươi đi mau! Từ rày về sau các người đừng đến nhà họ Dương này nữa!”


Lời nói đầy phẫn nộ, nhưng đã mềm mỏng hơn rất nhiều. Phùng Lâm ngạc nhiên thầm nhủ: “Ồ, Dương Trọng Anh vừa chết, con gái của ông ta liền thay đổi tính tình”.


Phùng Lâm có điều không biết. Té ra Dương Trọng Anh tuổi tác đã già, trúng ám khí của Đường Kim Phong, tuy có thể khỏi mất mạng nhưng sức khỏe dần dần suy yếu. Nhận được thư của Đường Hiểu Lan, nói lời chết đã sắp tới, không thể nào cứu vãn nỗi, bởi vậy mới sợ hãi. Ông ta vốn đã yếu, trải qua biến cố này, sức khỏe càng suy nhược hơn.


Dương Liễu Thanh chẳng biết cha mình đang ngày một suy sụp. Sau khi nàng bị Phùng Lâm dùng phi đao hớt tóc, chạy về kêu khóc với cha, muốn nhờ cha ra mặt, nào ngờ Dương Trọng Anh biết rõ tính tình của con gái, liền nói rằng nàng đã tự chuốc lấy khổ, trải qua lần ấy, ông ta cảm thấy càng thêm đau đớn, hôm sau thì lập tức phát bệnh hàn nhiệt, vừa bệnh đã không khỏi, khi Phùng Lâm tới nơi, ông ta đã chết gần một tháng.


Dương Trọng Anh là người có chí giúp đời, trước khi chết thần trí rất rõ ràng, nhớ lại mình suốt đời hành sự chẳng có gì sai lầm, chỉ là quá nuông chiều con gái cho nên khiến nàng trở nên ngang ngạnh, đó là điều đáng tiếc nhất. Ông ta suy nghĩ kỹ càng, cảm thấy con gái với Đường Hiểu Lan chẳng hợp tí nào, lại nghĩ: “Phùng Anh truy thư thất lễ, tuổi tuy nhỏ nhưng hành sự đúng đắn, ắt hẳn nàng không vô duyên vô cớ làm nhục con gái mình”. Rồi lại nhớ ngày xưa khi Phùng Anh còn ở nhà mình, Dương Liễu Thanh đã từng bức hiếp nàng, bất giác thở dài: “Buộc chúng lộng giả thành chân, cũng chẳng thể nào trách chúng được!”


Vì thế trước khi chết Dương Trọng Anh khuyên nhủ con gái rằng: “Nữ nhi vốn phải dịu dàng. Con ngang ngạnh thế này, chả trách nào Hiểu Lan không muốn lấy con. Nếu con không thay đổi, cha chết không nhắm mắt”. Dương Trọng Anh nói xong thở dài rồi bảo: “Cha hối hận vì trước đây không dạy dỗ con đàng hoàng, e rằng đây là lần cuối cùng. Dẫu sao cha cũng mong con tốt đẹp, con hãy nhớ bài học hôm nay. Con và Hiểu Lan có đến được với nhau hay không vẫn chưa biết. Nhưng con nên biết rằng, con càng ngang ngạnh, con càng không thể nào khiến nó gần gũi con được. Con hãy mở rộng lòng, dịu dàng với nó, có lẽ sự việc sẽ thay đổi. Nếu cuối cùng các con không lấy được nhau, cũng đành thôi vậy. Song dẫu thế nào, con cũng phải thay đổi tính tình. Thanh nhi, từ rày về sau không ai dạy dỗ con nữa, con có thay đổi hay không?” Dương Liễu Thanh khóc lóc quyết tâm thay đổi, Dương Trọng Anh ra đi trong tiếng khóc của nàng.


Sau khi Dương Trọng Anh qua đời, Dương Liễu Thanh tuân theo lời dặn, đặt quan tài ở hậu viên chờ Đường Hiểu Lan và một người khác về rồi mới an táng. Không ngờ Đường Hiểu Lan chưa trở về, Phùng Lâm đã đến trước.


Dương Liễu Thanh nhớ lời dạy của cha, không dám nổi giận bừa bãi, nhưng rốt cuộc cũng không thay đổi trong một sớm một chiều, thấy Phùng Lâm, suýt nữa đã không kiềm được, đứng truớc quan tài của Dương Trọng Anh, hai người đều ái ngại, chả biết nói thế nào.


Cái chết của Dương Trọng Anh khiến Phùng Lâm không ngờ nổi, nàng thầm nhủ: “Chuyện của tỷ tỷ làm sao nói đây? Há chẳng phải càng làm càng hỏng hay sao?” Dương Liễu Thanh không biết làm thế nào, ả nha đầu lúc nãy chợt hớt hải chạy vào nói: “Tiểu thư, người nhà họ Đường lại đến!”


Dương Liễu Thanh nhíu mày nói: “Cha ta tuy chết, nhưng nhà ta cũng không đến nổi mất hết tiếng tăm. Phùng Anh, ngươi hãy mau chạy ngõ sau. Ta sẽ liều chết gánh vác cho ngươi!” Phùng Lâm nói: “Cái gì, ta có việc gì mà phải nhờ cô nương gánh vác? ngươi còn giả vờ không biết, lẽ nào ngươi không biết đã giết người? Ngươi đừng tưởng lần trước có thể đánh bọn chúng bỏ chạy. Người nhà họ Đường chẳng dễ đối phó tí nào! Nếu lần này y không nắm chắc phần thắng cũng không đến đây. Khi cha ta còn sống, không muốn ngươi bị bọn chúng bắt đi, nay ta là chủ của nhà này, ta cũng không thể để cho cha ta mắng uy danh của nhà họ Dương mất trong tay ta, ngươi còn chưa chạy cho mau?”


Phùng Lâm vừa nghe đã nổi giận, nói: “Việc ta làm một mình ta chịu, ai cần ngươi bao che? Tại sao ta phải chạy?” Rồi chạy ra khỏi đình, chỉ thấy bên ngoài có ba người, một ông già, một thiếu phụ và một hán tử tuổi khoảng ba mươi. Ba người này là Đường Kim Phong, Đường Trại Hoa và Quế Hoa Sinh.


Cha con Đường Kim Phong vốn muốn tìm Dương Trọng Anh đòi người, không ngờ vừa vào cửa vườn đã gặp Phùng Lâm. Đường Kim Phong cười ha hả nói: “Ả tiểu tặc nhà ngươi cũng thật lớn gan, vẫn chưa chạy khỏi nhà họ Dương”. Phùng Lâm nói: “Lão tặc, việc gì ta phải chạy?” Đường Kim Phong nói: “Hay lắm! Nếu ngươi không muốn liên lụy đến Dương lão đầu, ta có hai con đường để ngươi tự chọn!”


Phùng Lâm nói: “Hai con đường nào? Nói ra nghe thử?” Đường Kim Phong nói: “Một là lập tức theo bọn ta, mặc cho bọn ta xử trí. Một là lập tức tự sát để bọn ta khỏi ra tay”. Phùng Lâm mắng một tiếng: “Lẽ nào lại thế!” Đường Trại Hoa kêu lên: “Cha, nói nhiều với ả nữ tặc làm gì? Mau ra tay!” Nàng ỷ có cao thủ ở bên cạnh, vung tay ném một mũi phi đao tới.


Phùng Lâm lách người né qua, kêu: “Ồ, té ra ngươi cũng biết phi đao! Có phải ta đã giết người đàn ông của ngươi không? Ngươi thật là không biết lý lẽ!” Phùng Lâm chưa biết Đường Trại Hoa là thê tử của Vương Ngạo, chính nàng đã giết phu quân của người ta.


Đường Kim Phong vừa nghe đã nổi giận, mắng rằng: “Nữ tặc, ngươi giết chết con rể của ta mà còn nói những lời mỉa mai!” Rồi chợt hỏi: “Có phải ngươi còn một tỷ muội hay không, trong các ngươi ai mới là kẻ giết người?” Phùng Lâm nghe thế thất kinh, nói: “Con rể của ngươi là ai?” Đường Kim Phong nói: “Hà Nam Câu Liêm Thương Vương Ngạo có phải do ngươi giết hay không?” Phùng Lâm hừ một tiếng cuời rằng: “Ta tưởng là ai? Té ra y là ưng khuyển ở chốn công môn, ta đâu chỉ giết một tên ưng khuyển, có lẽ y là một trong những kẻ chết dưới kiếm của ta!”


Đường Kim Phong chợt nổi giận, phất ống tay áo lao tới, chợt thấy Dương Liễu Thanh chạy ra như bay, Đường Kim Phong vội rụt tay lại, nói: “Dương cô nương, gọi Dương lão đầu ra đây, chúng tôi phải bắt ả nữ tặc này”. Dương Liễu Thanh kê lên: “Hay thật, cha ta vừa mới chết, các ngươi đã đến đây bức hiếp ta?” Đường Kim Phong và Dương Trọng Anh lần trước tuy đã từng giao thủ nhưng đôi bên đã quen biết nhau hơn hai mươi năm, thật ra Đường Kim Phong cũng rất khâm phục Dương Trọng Anh, nghe thế thất kinh, kêu lên: “Cái gì, ông ấy đã chết?” Dương Liễu Thanh nói: “Cha ta tuy chết nhưng uy danh nhà họ Dương vẫn còn, trừ phi ngươi muốn giết chết ta, nếu không đừng hòng đòi người!” Đường Trại Hoa kêu lên: “Cha, mặc kệ Dương Trọng Anh có chết hay không, chúng ta phải ra tay. Dương Liễu Thanh, dựa vào một chút võ công của ngươimà muốn ngăn cản, thật là buồn cười!” Rồi tay trái giở lên phóng ra hai mũi hưởng tiễn, toan dọa Dương Liễu Thanh bỏ chạy, nào ngờ Dương Liễu Thanh vẫn bước lên, đưa tay hớt lấy. Công phu ám khí của Đường Trại Hoa rất ghê gớm, hưởng tiễn xé gió bay đến, Phùng Lâm vung tay, một mũi phi đao đã chặt đứt đuôi hai mũi tên, kêu lên: “Dương Liễu Thanh, không cần ngươi giúp!” Rồi tiện tay phóng một mũi phi đao trả về Đường Trại Hoa.


Quế Hoa Sinh thấy phi đao có ánh sáng màu đen, thất kinh rút trường kiếm chặn lại rồi vung tay kẹp thanh phi đao, nhìn rồi nói: “Quả nhiên là nữ tặc độc ác!” Phùng lâm múa kiếm xông lên, Quế Hoa Sinh xoay hai vòng, mà vẫn chưa phát chiêu, y muốn xem thử kiếm pháp của nàng thế nào.


Dương Liễu Thanh nói: “Phùng Anh, hôm nay ta không để cho ai bắt người trong nhà ta, ngươi hãy lui xuống, để ta liều vài chiêu rồi tính tiếp”. Đường Kim Phong vuốt râu nói: “Được, hai người đều rất có chí khí. Dương cô nương, cô nương không hổ là con gái của Thiết Chưởng Thần Đạn!” rồi đột nhiên vung tay đè vào vai Dương Liễu Thanh, nói: “Dương lão đầu có chết thật hay không? Dắt ta đi xem!” Dương Liễu Thanh bị ông ta đè vào vai, chẳng thể nhúc nhích được, tức giận nói: “Ngươi ỷ lớn hiếp nhỏ, có biết xấu hổ hay không?” Đường Kim Phong nói: “Dắt ta đi xem!” Rồi kéo Dương Liễu Thanh vào trong ngôi đình bát giác.


Quế Hoa Sinh xoay hai vòng, Phùng Lâm đâm không trúng, kiếm pháp chợt thay đổi, dùng ngay một chiêu Ngưu công di sơn trong Vô Cực kiếm pháp, kiếm thế rất chậm, nàng chỉ hớt ngang qua, nhưng kình lực dồn vào đầu kiếm, Quế Hoa Sinh kêu: “Hay lắm! Đáng cho ta đánh một trận với ngươi!” Rồi rút soạt thanh kiếm, kiếm quang lóe lên, lướt một vòng trên đỉnh đầu của nàng.


Phùng Lâm cả kinh, vội vàng thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích, phóng lướt người ra. Quế Hoa Sinh kêu: “Hừ, cũng khá lắm!” Rồi lao lên đâm ra một kiếm, Phùng Lâm dùng liền mấy loại kiếm thức, đỡ năm chiêu, Đạt Ma kiếm pháp của Quế Hoa Sinh quái dị tuyệt luân, mỗi chiêu đều khiến người ta bất ngờ, Vô Cực kiếm pháp của Phùng Anh tuy là chính tông nội gia nhưng công lực còn có hạn, nàng đỡ năm chiêu suýt nữa đã gặp nguy hiểm, biết rằng khó chống lại cường địch, chợt nhớ đến lời Dương Liễu Thanh, thầm nhủ: “Được, ta dù chết cũng không chịu nhục trong nhà họ Dương các ngươi!” Rồi nàng vẫy tay phóng ra ba mũi Đoạt Mệnh thần đao, buộc Quế Hoa Sinh lách người rồi lập tức thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích nhảy lướt qua tường.


Quế Hoa Sinh khinh công cao diệu, lập tức đuổi theo, lại chặn phùng Lâm ở lưng chừng núi, cao giọng quát: “Ngươi đã học đánh Vô Cực kiếm pháp ở đâu?” Phùng Lâm nói: “Việc gì đến ngươi!” Quế Hoa Sinh nói: “Ta phải hỏi cho ra lẽ!” rồi bước chân loạng choạng, Phùng Lâm dùng mấy loại thân pháp, chạy đến phương vị ấy, bị y chặn lại! thuật Miêu Ưng Phốc Kích chỉ có thể né tránh được một lúc rốt cụôc cũng bị y bám theo sau.


Quế Hoa Sinh từ nhỏ đã rời khỏi Thiên Sơn, đến ở tại Tứ Xuyên, không biết lai lịch của Phùng Lâm, thấy Phùng Lâm biết các loại võ công tà phái, lại thông hiểu Vô Cực kiếm pháp thì rất lấy làm ngạc nhiên, thầm nhủ: “Xem ra ả không phải là hậu duệ của Phó Thanh Chủ. Phó Thanh Chủ là nội gia chính tông, làm sao để cho đệ tử đời sau học võ nghệ tà phái”. Rồi thi triển Đạt Ma kiếm pháp vây Phùng Lâm, nhưng không lập tức ra đòn sát thủ, xem thử ruốt cuộc nàng biết được bao nhiêu loại võ công.


Sau cơn mưa, đường núi trơn trượt, kinh công của Phùng Lâm tuy không tệ nhưng vừa phải chống lại Đạt Ma kiếm pháp quái dị tuyệt luân của Quế Hoa Sinh, vừa phải để ý dưới chân, bởi vậy chống đỡ rất khó khăn. Đang hoảng hốt chợt có người kêu: “Muội muội đừng lo!” Phùng Lâm cả mừng kêu: “Tỉ tỉ mau đến đây!” té ra Đường Hiểu Lan và Phùng Anh đã tới!


Từ sau khi Lữ Tứ Nương bỏ đi, Phùng Anh đã đoán được Phùng Lâm đến nhà họ Dương ở Sơn Đông, lo rằng nàng sẽ gây chuyện càng thêm phiền nên kể cho Đường Hiểu Lan biết. Đường Hiểu Lan nói: “Dẫu sao chúng ta cũng không thể né tránh ân sư, huynh nay đã vô sự, về lý về tình cũng phải nên về thăm người, để người được yên tâm. Còn hôn sự giữa huynh với Dương Liễu Thanh lại là chuyện khác”. Phùng Anh hồn nhiên vô tư, cười rằng: “Chỉ cần chúng ta mãi không xa rời nhau, dù thúc thúc có kết hôn với Dương Liễu Thanh cũng chẳng hề chi”. Hiểu Lan cười khổ lắc đầu: “Huynh và nàng khó kết hợp, đừng nhắc đến nữa. Nhưng chúng ta vẫn phải đến nhà họ Dương”. Hai người nói lại với Cam Phụng Trì. Cam Phụng Trì sợ nhất là xử lý chuyện nam nữ này cho nên thấy họ tự đi thì mừng rỡ. Thế rồi hẹn họ gặp nhau ở Mang Sơn.


Đường Hiểu Lan và Phùng Anh vừa đến nơi đã gặp Phùng Lâm ác đấu với một người trên lưng chừng núi, lúc này đã gặp nguy hiểm, Phùng Anh đang định rút kiếm tương trợ, Đường Hiểu Lan nói: “Người này dám động thủ trước cửa nhà họ Dương, việc này rất đáng nghi ngờ. Chả lẽ ân sư đã xảy ra chuyện gì? Anh muội hãy gặp Dương công công trước, để huynh giúp Lâm muội”. Phùng Anh thấy kiếm pháp nội công của Đường Hiểu Lan đã tiến bộ nhiều, nay đã không kém gì mình, nói: “Cũng được. Kiếm pháp của người này chẳng phải tầm thường, thúc thúc phải cận thẩn!” rồi đi xuống núi, vào nhà họ Dương. Khi nàng vào nhà họ Dương, Dương Liễu Thanh đang từ hậu viên chạy ra, hai người chạm mặt nhau.


Đường Kim Phong kéo Dương Liễu Thanh, cùng đi vào ngôi đền bát giác, quả nhiên thấy một cỗ quan tài màu đỏ, trên có tấm giấy có viết mấy chữ: “Tiền Minh nghĩa sĩ Sơn Đông hiệp khách Dương Trọng Anh chi linh vị”. Đường Kim Phong chảy nước mắt, nói: “Dương đại ca, huynh đã chết thật rồi sao?” Lúc này y mới buông tay ra, Dương Liễu Thanh tê rần khắp người, tức giận nói: “Quan tài ở đây, chẳng lẽ còn gạt ngươi? uổng cho ngươi xưng huynh gọi đệ với phụ thân ta, đã đả thương ông ấy, hôm nay nhân lúc ông ấy chết đến đây bức hiếp ta!” Đường Kim Phong nghe thế rất áy náy, trợn mắt hỏi: “chẳng phải ta đã đưa thuốc giải cho ông ấy rồi sao?” Dương Liễu Thanh nói: “Thuốc giải của ngươi đến quá muộn, có ích gì? Người tàn phế suốt năm trời, hôm nay mới đến, đúng là mèo giả từ bi khóc chuột”. Đường Kim Phong nhíu mày, nói: “Cha cô nương có thật là chết vì bị thương không?” Dương Liễu Thanh nói: “Chả lẽ cha ta tự tìm cái chết!” Dương Liễu Thanh miệng lưỡi lanh lợi, định chọc cho Đường Kim Phong bỏ đi, không ngờ Đường Kim Phong cười ha hả: “Dương đại ca, tiểu đệ xin hữu lễ!” rồi đẩy Dương Liễu Thanh ra ngoài đình, còn mình lập tức quỳ xuống trước quan tài, hai tay đánh vào quan tài.


Té ra các nhân vật giang hồ, vì muốn tránh kẻ thù cho nên thường giả chết. Đường Kim Phong nghe Dương Liễu thanh nói thế, lòng thầm nhủ: “Chả lẽ Dương Trọng Anh đoán rằng mình sẽ đến đòi người cho nên cố ý giả chết khiến mình áy náy không ra tay?” trong lòng hoài nghi thế là ngầm vận nội lực, vỗ nhẹ lên quan tài, nắp quan tài hé ra một lỗ lớn, mùi hôi thối từ trong xông ra, Đường Kim Phong thấy thế cả kinh, vội vàng đậy nắp quan tài lại, thi thể của Dương Trọng Anh đã được dùng hương liệu tẩm ướp, bỏ trong quan tài một tháng mà sắc mặt vẫn như còn sống, chỉ là không át nổi mùi hôi thối. Khi nhìn lại, trên ngực củacái xác còn đặt một bức thư, viết rằng: “Mời Đường Kim Phong hiền đệ đích thân mở ra”. Đường Kim Phong thất kinh, thầm nhủ: “Té ra Dương Trọng Anh không phải giả chết, nhưng đã sớm liệu rằng mình sẽ đến”. Thế là lấy bức thư, đóng nắp quan tài mở ra xem, chỉ thấy thư viết rằng: “Dương Trọng Anh đến lúc tuổi già sức yếu, sắp vào nằm trong quan tài, không kịp từ biệt lão đệ, thấy tiếc nuối vô cùng. Bằng hữu, nhà họ Phùng chỉ còn lại một đứa con gái, từ nhỏ đã mồ côi mẹ, thân thế đáng thương, Dịch lão tiền bối ở Thiên Sơn nhận làm học trò, ngư huynh cũng coi như con gái, tục ngữ có nói oan gia nên mở không nên kết, vả lại hiền tế cũng không phải do người này giết, mong lão đệ nhớ giao tình năm xưa, đừng truy cứu nữa”. Dương Trọng Anh không giỏi chữ nghĩa, nhưng viết bức thư đọc lên nghe rất chân thành. Đường Kim Phong xem xong, chần chừ chưa quyết, nghĩ bụng: “Khó khăn lắm mới mời được Quế Hoa Sinh giúp đỡ, làm sao có thể dễ dàng ngừng tay? Nhưng nếu không ngừng tay, lại chẳng biết ăn nói thế nào với Dương đại ca, huống chi ả còn là ái đồ của Dịch lão tiền bối, phải giải quyết làm sao đây?” Rồi lại nhớ lúc trước mình đã đả thương Dương Trọng Anh, hôm nay Dương Trọng Anh chết chưa chắc không liên quan đến mình cho nên càng áy náy hơn. Thế rồi quỳ xuống trước quan tài khóc lóc một hồi, ngẩng đầu nhìn lên thì Dương Liễu Thanh đã ra ngoài.


Lại nói Đường Hiểu Lan rút Du Long kiếm chạy đến giúp Phùng Lâm, bảo kiếm múa lên, ánh kiếm quang tỏa ra, Quế Hoa Sinh thất kinh, xoay cổ tay đâm xéo ra, Đường Hiểu Lan thấy kiếm chiêu quái dị, rút kiếm về chặn lại, Quế Hoa Sinh quát: “Nhà ngươi có phải sử dụng Du Long bảo kiếm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi đã biết ta sử dụng Du Long bảo kiếm, vậy còn không mau rút lui?” Quế Hoa Sinh cả giận, phóng vọt người lên múa kiếm tấn công.


Té ra Quế Hoa sinh chỉ biết năm xưa Lăng Vị Phong truyền Du Long kiếm cho Châu Thanh chứ không biết Châu Thanh đã truyền cho Đường Hiểu Lan. Tuy y có biết sơ chuyện Châu Thanh bị hại, Dịch Lan Châu đến Trung Nguyên tìm kiếm, nay thấy Đường Hiểu Lan cầm thanh kiếm này, tưởng rằng chàng cướp trong tay Châu Thanh, thầm nhủ: “Kiếm này là bảo vật trấn sơn của phái Thiên Sơn, sao mình không thay Dịch lão tiền bối lấy về?” thế là giao thủ được năm mươi chiêu, đầu tiên Đường Hiểu Lan dùng Truy Phong kiếm pháp mà chẳng chặn được, sau đó chuyển sang dùng Đại Tu Di kiếm thức, công thủ đều có, lúc này mới có thể tạm thời chế ngự được y.


Quế Hoa Sinh thấy chàng thử dùng Thiên Sơn kiếm pháp, cũng thầm sinh nghi. Đường Hiểu Lan tuy ở Thiên Sơn ba năm, chỉ vì Dịch Lan Châu tryền thụ kiếm pháp bổn môn cho chàng, cho nên chàng cũng biết có một loại tên là Đạt Ma kiếm pháp, nhưng không biết Đạt Ma kiếm pháp rốt cuộc thế nào, vừa gặp cường địch, chiêu nào cũng đánh ra hiểm hóc, lại thêm Phùng Lâm bị Quế Hoa Sinh ép buộc cho nên ra tay càng dữ dội hơn. Quế Hoa Sinh thầm nhủ: “Nếu y là người của phái Thiên Sơn, sao không biết lai lịch kiếm pháp của mình? Nếu nói y là đồ đệ của Châu Thanh, Châu Thanh cũng chỉ hiểu Truy Phong kiếm thức, không thể dạy cho người này”. Đường Hiểu Lan ở Thiên Sơn có ba năm, người ngoài không biết nhiều. Quế Hoa Sinh trong nhất thời không nghĩ đến chàng là đệ tử ký danh của Dịch Lan Châu, lại thêm y là người háo thắng, thấy Đường Hiểu Lan sử dụng Thiên Sơn kiếm pháp, thầm nhủ: “Từ lâu đã nghe ba loại kiếm pháp Thiên Sơn, Huyền Nữ, Đạt Ma vang danh thiên hạ, mỗi loại đều có sở trường. Mình tuy đã thấy Dịch lão tiền bối luyện tập loại kiếm pháp này nhưng chưa có cơ hội thử chiêu, hôm nay sao không thử cho biết loại kiếm pháp nào hay hơn?” Thế là lập tức chyển thủ thành công, liên tục đánh ra quái chiêu. Đường Hiểu Lan sử dụng Đại Tu Di kiếm thức, lập tức có một màng kiếm quang bao bọc lấy thân, Quế Hoa Sinh vẫn có thể luồn qua lách lại trong luồng kiếm quang.


Theo lẽ mà nói Thiên Sơn kiếm pháp bát đại tinh thâm, chẳng kém gì Đạt Ma kiếm pháp. Nhưng Quế Hoa Sinh từ nhỏ được cha truyền thụ, bởi vậy bản lĩnh nhỉnh hơn Đường Hiểu Lan, kiếm pháp thân pháp của y trông rất kỳ dị, Đại Tu Di kiếm thức của Đường Hiểu lan nhiều lần bị y đột phá, may mà Quế Hoa Sinh sợ uy lực của Du Long bảo kiếm cho nên không dám lướt tới gần, bởi vậy Đường Hiểu Lan tuy lọt xuống thế hạ phong nhưng nhất thời vẫn không thất bại. Phùng Lâm tuy giỏi Vô Cực kiếm pháp nhưng công lực chưa cao, Quế Hoa Sinh né yếu đánh mạnh, bám lấy Đường Hiểu Lan không buông, Phùng Lâm múa kiếm liên hoàn, mũi kiếm chẳng chạm được vào tà áo của y.


Dương Liễu Thanh chạy ra, thấy Đường Hiểu Lan và Phùng Lâm sánh vai tác chiến, Đường Hiểu Lan tựa như liều mình bảo vệ cho Phùng Lâm, trong lòng nổi cơn ghen tức. Nhưng nàng thấy Đường Hiểu Lan gặp nguy hiểm, lại không khỏi lo cho chàng. Đường Trại Hoa thấy nàng chạy ra, sợ nàng quấy rối cho nên múa đao chặn lại, võ nghệ cùa hai người hơn kém nhau không xa, Dương Liễu Thanh không xông tới được, Đường Trại hoa cũng không đánh lui nàng được.


Hai người đã đánh nhau kịch liệt, Đường Kim Phong từ trong nhà họ Dương chạy ra, Đường Trại Hoa đang định dùng ám khí, Đường Kim Phong kêu: “Trại Hoa, dừng tay!” Đường Trại Hoa vừa ngừng lại, Dương Liễu Thanh đã xông qua.


Lúc này Đường Hiểu Lan đang rất vất vả, chợt nghe Đường Kim Phong kêu lớn: “Quế hiền đệ tạm thời dừng tay, Dương lão đầu đã chết thật rồi!” Đường Hiểu Lan cả kinh, suýt nữa đã rơi kiếm. Quế Hoa Sinh thâu thế không kịp, một kiếm đâm ra, hất binh khí của Phùng Lâm ra, Dương Liễu Thanh chạy đến như gió, nàng biết mình không phải là đối thủ của kẻ địch, nhưng trong lòng đóan rằng kẻ địch không dám đả thương mình cho nên đã lao vào người Đường Hiểu Lan, dùng thân che cho chàng.


Vốn là Quế Hoa Sinh chỉ có ý thử chiêu, Dương Liễu Thanh chẳng hiểu ất giáp gì cứ lao tới cứu người, kình lực rất lớn. Sau cơn mưa đường núi trơn trượt, Hiểu Lan không kịp đề phòng, bị Dương Liễu Thanh tán một cái, thế là cả hai ngã chõng vó xuống đất, Đường Hiểu Lan lập tức vận dụng Thiên cân trụy kìm lại, còn Dương Liễu Thanh lại lăn xuống sườn núi!


Quế Hoa Sinh kêu lớn: “Không xong!” trên sườn núi chợt có nước đổ xuống như thác, té ra đó là nước lũ trên núi. Quế Hoa Sinh phóng vọt người lên, dùng thủ pháp Ngũ cầm chụp xuống dưới, tóm được tóc của Dương Liễu Thanh, dòng nước lũ xô xuống, lập tức đẩy Dương Liễu Thanh xuống hồ nhỏ dưới chân núi, người dập dềnh mấy cái rồi bị nước lũ cuốn mất.


Quế Hoa Sinh đảo người trở về, Đường Hiểu Lan bật người lên, nghe tiếng Phùng Lâm kêu hoảng, tận mắt chứng kiến Dương Liễu Thanh chìm xuống hồ, lập tức gầm lớn một tiếng, vung kiếm lao tới, Quế Hoa Sinh vốn muốn giải thích, chẳng dè Đường Hiểu Lan tựa như con hổ điên múa kiếm lao tới, Quế hoa Sinh múa kiếm phòng thân, tinh thần đã phân tán. Trong chớp mắt hai người chạm nhau đến ba mươi chiêu. Phùng Lâm múa kiếm liều mạng xông tới. Đường Trại Hoa kêu: “Việc đã đến nước này, cha, người có muốn động thủ nữa không?” Đường Kim Phong đánh liều phất ống tay áo chạy đến chụp Phùng Lâm.


Khi Phùng Anh chạy vào nhà họ Dương chính là lúc Đường Kim Phong chạy ra. Phùng Anh thấy nhà họ Dương bề bộn, đầu tiên thất kinh, rồi đến căn phòng trước kia của Dương Trọng Anh, kêu lên: “Dương công công, con trở về đây!” nàng vén rèm lên nhìn, chẳng thấy bóng người, nhưng trên bàn có một bức thư, viết rằng: “Đường Hiểu Lan đích thân mở ra”. Phùng Anh thất kinh, cất thư vào trong lòng, chạy ra cửa, ả nha hoàng của Dương Liễu Thanh lạnh lùng nói: “Phùng cô nương, cô nương vẫn chưa bái trước linh tiền sao? Còn kêu Dương công công làm gì?” Phùng Anh chụp cổ tay ả, kêu: “Ngươi bảo sao?”Ả nha hoàn đau đớn, vừa kinh vừa giận, nói: “Lão gia đã chết từ lâu, lúc nãy chẳng phải cô nương đã theo tiểu thư ra sau vườn bái tế rồi sao?” Phùng Anh vội vàng chạy ra hậu viên, vừa vặn thấy bóng Đường Kim Phong lướt qua tường, Phùng Anh không đuổi theo mà chạy vào trong đình bát giác, thấy cổ quan tài màu đỏ trong đình, nắp cổ quan tài hé mở, nàng liếc mắt nhìn thì thấy quả nhiên bị người ta dùng chưởng lực đánh vỡ.


Phùng Anh khóc òa lên, chợt nghĩ rằng, bóng dáng lúc nãy có lẽ là Đường Kim Phong, Phùng Anh không biết Dương Trọng Anh đã bệnh chết, tưởng rằng bị nhà họ Đường hãm hại, nên lập tức rút kiếm nhảy ra.


Phùng Lâm vốn không phải là đối thủ của Đường Kim Phong, nhưng Đường Kim Phong thấy cha con Dương Trọng Anh đều chết, trong lòng hổ thẹn, cho nên chẳng còn ý chí chiến đấu, mà Phùng Anh võ công lại phức tạp, hiểm hóc lạ thường, Đường Kim Phong chỉ dùng đôi chưởng chẳng bắt được nàng. Phùng Anh chạy đến như bay, lớn giọng kêu: “Muội muội, để tên lão tặc lại cho tỷ!” Đường Hiểu Lan kêu: “Anh muội, người này mới là hung thủ. Y vừa mới giết Liễu Thanh, muội đến giúp huynh!”


Phùng Anh kêu vâng một tiếng, thấy Phùng Lâm vẫn còn có thể đối phó được với Đường Kim Phong, lập tức múa kiếm xông đến giúp Đường Hiểu Lan, vừa ra tay đã sử dụng những tuyệt chiêu tinh diệu trong Thiên Sơn kiếm pháp đâm vào tử huyệt ở be sườn của Quế Hoa Sinh.


Quế Hoa Sinh lộn người, múa kiếm như gió, trở tay đâm lại, thân pháp của Phùng Anh lanh lẹ vô cùng, nàng né chiêu tiến chiêu, trong chốc lát đã tấn công ở bên phải của Quế Hoa Sinh. Kiếm chiêu của Quế Hoa Sinh tuy quái dị nhưng vẫn bị nàng tấn công mạnh mẽ, có điều Phùng Anh cũng chẳng đâm được y. Trong chớp mắt hai người đã đánh nhau ba chiêu. Phùng Anh đánh hết kiếm này đến kiếm khác, còn lợi hại hơn cả Đường Hiểu Lan.


Vốn là nếu lấy một chọi một, Quế Hoa Sinh nhỉnh hơn hai người Phùng Đường một bậc, nhưng lúc này hai người Phùng Đường liên kiếm tấn công, mà cả hai lại đều sử dụng bảo kiếm. Quế Hoa Sinh dốc hết bản lĩnh cả đời nhưng cũng bị bọn họ dồn đến nghẹt thở.


Kiếm chiêu của Phùng Anh càng lúc càng gấp, Đường Hiểu Lan nói: “Không cần dùng kiếm giết y, đẩy y xuống khe núi!” Phùng Anh vạch cây đoản kiếm, bên trái đâm vào huyệt Linh Đài, bên phải đâm vào huyệt Chương Môn, buộc Quế Hoa Sinh thoái lui hai bước; Đường Hiểu Lan lia kiếm, vạch nửa vòng tròn, bên trên đâm vào cổ họng, bên dưới đâm vào đầu gối, lại đẩy Quế Hoa Sinh thoái lui thêm hai bước, nước lũ cuốn đất đá lăn ào ào, khe suối chảy gấp, chỉ còn vài bước nữa Quế Hoa Sinh sẽ bị đẩy xuống khe núi, hoảng sợ đến nổi hồn bay phách tán!


Đường Hiểu Lan dấn tới một bước, cây Du Long kiếm lại đẩy về phía trước, Quế Hoa Sinh nghiến răng, vung ngang kiếm chặn lại, Phùng Anh đâm xéo một kiếm, quát: “Đi!” Hai kiếm hợp lực, Quế Hoa Sinh cảm thấy một luồng lực lớn dồn tới, bất đồ lại thoái lui hai bước, đang lúc tính mạng gặp nguy, chợt thấy một bóng trắng từ chân núi lướt lên như điện chớp, chỉ nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Hiểu Lan ngừng tay!” Hai người Phùng Đường ngạc nhiên nhìn nhau, hai thanh kiếm vẫn không buông lỏng, trong khoảnh khắc này, bóng trắng ấy hạ xuống ở giữa, chỉ nghe keng một tiếng, ba thanh bảo kiếm chạm vào nhau, bị người vừa rồi hất ra. Quế Hoa Sinh vừa kinh vừa mừng, khi mở mắt ra nhìn chỉ thấy có một thiếu nữ đứng mỉm cười kéo hai kẻ địch của mình qua một bên, lại một bóng người nữa lướt tới, kêu: “Tam đệ, sao còn chưa mau tạ ơn cứu mạng của Lữ nữ hiệp?”


Quế Hoa Sinh ôm kiếm ngoái một cái, nói: “Té ra là Lữ Tứ Nương trong Giang Nam bát hiệp?” Mạo Quảng Sinh nói: “Đúng thế!” Quế Hoa Sinh nói: “Từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh, quả nhiên tiếng đồn không ngoa!” Lữ Tứ Nương cười rằng: “Các người đều là người một nhà, đánh nhau đã lâu như thế mà vẫn chưa nhận ra sao?” Đường Hiểu Lan chợt chảy nước mắt kêu lên: “Lữ tỷ tỷ xin thứ lần này đệ không thể nghe lời tỷ tỷ được, Liễu Thanh đã bị bọn chúng giết rồi!” Lữ Tứ Nương cả kinh: “Cái gì, Dương Liễu Thanh đã bị hại!” Quế Hoa Sinh vội thanh minh: “Dương cô nương tự rơi xuống khe núi, bị nước cuốn vào hồ, tôi cứu không kịp!” Lữ Tứ Nương nói: “Hiểu Lan, đệ có nhìn rõ hay chưa? Dương Liễu Thanh chết thế nào?”


Lúc nãy Đường Hiểu Lan té xuống đất, khi đứng dậy thì Dương Liễu Thanh đã bị nước lũ cuốn đi, chàng chỉ thấy Quế Hoa Sinh từ trên không trung đảo ngược trở về, bởi vậy mới nghi rằng chính là y đã bức tử nàng, nghe y thanh minh như thế, giờ đây không dám đoán bừa, hỏi: “Lâm muội! Chuyện lúc nãy muội có thấy rõ không?”


Phùng Lâm tuy ghét Dương Liễu Thanh, trong lòng cũng lấy làm cảm động vì lúc nãy nàng đã liều mạng cứu người, thế rồi nói: “Dương cô cô tuy không bị y giết, nhưng vì liều mình cứu thúc thúc cho nên bị nước lũ cuốn đi, truy ra nguồn gốc, nói bị y giết cũng không oa. Y và lão tặc này đều là kẻ bức tử Dương cô cô!” Đường Kim Phong nổi giận nói: “Các người truy cứu hung thủ bức tử Dương Liễu Thanh, vậy ta làm sao truy cứu kẻ giết hại con rể của ta? Được, hôm nay các ngươi ỷ người đông, Đường lão nhị này cũng không tính sẽ sống trở về Tứ Xuyên nữa, Đường gia sẽ có người đến báo thù cho ta!”


Lữ Tứ Nương nhìn dòng nước lũ chảy cuồn cuộn, thở dài nói: “Người chết đã xong, người sống cũng phải giải mối oan thù! Hai bên đều có người chết, chi bằng hãy chấm dứt ở đây. Hiểu Lan, có đệ không biết lai lịch của vị huynh đài này”. Thế rồi nói rõ nguồn gốc của hai bên. Đường Hiểu Lan thấy Dương Liễu Thanh thật sự không phải do Quế Hoa Sinh giết, thở dài nói: “Thương thay cho Liễu Thanh bạc mệnh!” Quế Hoa Sinh áy náy nói tiếng xin lỗi, Đường Hiểu Lan nói: “Đôi bên đều vô ý gây lỗi, thì thôi vậy!” Đường Kim Phong thấy đối phương đã chấp nhận hòa giải, cũng khuyên con gái mình: “Thôi được, ta cũng đành chịu vậy!” Rồi dắt con gái xuống núi. Mạo Quảng Sinh cũng dắt đệ đệ vội vàng rời khỏi.


Bọn Đường Kim Phong đã đi, Đường Hiểu Lan thẫn thờ, mắt ngấn lệ, nhìn nước hồ trào dâng mà chẳng nói thành lời. Chàng tuy không yêu Dương Liễu Thanh, nhưng thấy áy náy vì nàng đã liều thân cứu mình. Lữ Tứ Nương nói: “Dương lão tiền bối đã chết, nhà họ Dương chẳng còn ai, vậy đệ phải chủ trì tang sự, đệ cũng nên vớt xác của Liễu Thanh lên”. Hiểu Lan khóc như mưa, khẽ gật đầu. Phùng Anh nói: “Dương công công còn gửi bức thư cho huynh!” Đường Hiểu Lan lau nước mắt, mở thư ra xem, trong thư viết rằng: “Chúng ta có duyên làm thầy trò hơn mười năm, tình như cha con, nay ta tuổi già sức yếu, không đợi được nữa, tiểu nữ Liễu Thanh từ nhỏ đã mất mẹ, tính tình ngang ngạnh, khó sánh cùng quân tử, con nhịn được thì nhịn, không thì chọn người khác, cứ xem Liễu Thanh như tiểu muội, ở dưới suối vàng ta cũng nhắm mắt”.


Bức di thư của Dương Trọng Anh vốn là thủ pháp lấy lùi làm tiến, Đường Hiểu Lan xem xong càng thấy áy náy. Một hồi sau, chợt kéo tay Phùng Anh, bước đến bên khe suối, nhìn nước lũ trào dâng, khẽ nói: “Anh muội, trải qua biến cố này, suốt đời huynh chẳng còn lòng dạ nào nói đến hôn sự nữa, muội có thể thứ lỗi cho huynh không?” Tấm lòng trong sáng như vầng trăng của Phùng Anh tựa như bị che phủ bởi một lớp mây mờ, tuy nàng chưa bao giờ nghĩ đến việc cưới gả nhưng trong lòng cũng cảm thấy bẽ bàng. Thế rồi nàng rơi nước mắt mà nói: “Chúng ta tương giao lấy lòng đau lòng, vốn không cần giống như người trong chốn thế tục, nói đến chuyện cưới gả. Dương cô cô vì thúc thúc mà chết, suốt đời thúc thúc không nghĩ đến hôn sự cũng là phải lẽ. Anh nhi làm sao trách được. Không những là thúc thúc, suốt đời này Anh nhi cũng chẳng kết hôn!”


Đường Hiểu Lan thấy mắt nàng lóng lánh lệ, muốn khuyên nhưng lại không mở lời được, chỉ đành thở dài thườn thượt.


Bọn Đường Hiểu Lan và Lữ Tứ Nương trở về nhà họ Dương, chôn Dương Trọng Anh ở chân núi Đông Bình, tang sự xong, nước lũ cũng rút. Bọn Đường Hiểu Lan lại đến hồ vớt xác, tìm kiếm nữa ngày vẫn chẳng phát hiện gì, thuê những người bơi giỏi lặn xuống đáy xem cũng chẳng tìm thấy xác, chỉ thấy trong hồ nhỏ này có đường thông ra Kim Hà, những người lặn xuống nước đoán rằng có lẽ xác đã bị nước lũ đẩy vào hồ Kim Hà.


Chính là:


Đến chết mới nhớ người, khi sống lắm chuyện lo.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 45

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 45 Cùng đấu quyền mưu tướng quân buồn thất thế Tự tìm đường chết, trưởng lão đuổi hung đồ


Dương Liễu Thanh bị nước lũ cuốn đi, cả xác cũng không tìm ra, Đường Hiểu Lan càng áy náy hơn, an táng xong Dương Trọng Anh thì cùng bọn Lữ Tứ Nương tới Mang Sơn, tuy có Phùng Anh sớm tối đi cùng nhưng trong lòng vẫn không vui.


Lúc này Ung Chính đã ngồi vững trên ngai vàng, y dùng nghiêm hình thống trị thiên hạ, nghĩa sĩ trong dân gian đều mai danh ẩn tích.


Những người có liên quan đến vụ án Lữ Lưu Lương may được Cam Phụng Trì thông báo sớm nên quá nửa đều đã thoát, chỉ có Châu Kính Hưng ở Thanh Châu, Hoàng Bổ Am ở Tương Thành cùng những người in sách cho họ Lữ và những người cất giữ sách của họ Lữ đều bị tội liên lụy. Nửa năm sau mọi việc mới tạm lắng.


Lữ Tứ Nương rất tức giận, ngày nọ cùng bàn với Cam Phụng Trì, muốn đến Kinh Thành ám sát Ung Chính. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội là nữ trung hào kiệt, lẽ nào không nghe câu quân tử trả thù mười năm chưa muộn. Giờ đây thấy Ung Chính đang thịnh, chúng ta phải kiên nhẫn mà đợi thời cơ”. Lữ Tứ Nương chép miệng: “Lẽ nào muội không biết điều này, chỉ là thấy Ung Chính ngày càng ngang ngược, lạm sát kẻ vô tội, quả thật không thể kiềm chế được cơn gận trong lòng”.


Cam Phụng Trì nói: “Hiện giờ kinh thành canh phòng rất nghiêm ngặt, chúng ta khó mà xâm nhập vào”.


Mấy ngày sau, quần hùng ở Mang Sơn đã bàn xong kế hoạch, Lý Trị và Phùng Lâm đến Tứ Xuyên, Cam Phụng Trì đến vùng Giang Nam. Cha con Ngư Xác và Bạch Thái Quan ra biển, liên lạc lại với các thủy trại còn sống sót. Đường Hiểu Lan vẫn chưa hết đau lòng, nhưng lại muốn cùng Phùng Anh trở về Thiên Sơn một chuyến.


Quần hùng trên Mang Sơn đã đi hết một nửa, chỉ còn lại Lữ Tứ Nương canh giữ phần mộ của Độc tý thần ni, xuân đi thu đến, bất giác đã hai mùa ấm lạnh, trong hai năm này, Lữ Tứ Nương sớm tối luyện kiếm, không những luyện Huyền Nữ kiếm pháp đến mức xuất thần nhập hóa mà còn tham khảo những biến hóa của Thiên Sơn kiếm pháp và Đạt Ma kiếm pháp rồi cải thiện thêm, giờ đây nàng còn lợi hại hơn cả Độc tý thần ni năm xưa.


Thời gian hai năm chớp mắt trôi qua, nhưng bên ngoài xảy ra nhiều biến cố rất lớn lao. Ngày nọ, Cam Phụng Trì trở về, mừng rỡ nói với Lữ Tứ Nương: “Từ nay về sau chúng ta chỉ cần đối phó với Ung Chính”. Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đã trừ Niên Canh Nghiêu rồi sao?” Cam Phụng Trì nói: “Vẫn chưa bị giết, nhưng cũng đã rất thê thảm. Y từ nhất Đẳng công kiêm Xuyên Thiểm tổng đốc bị gián chức thành một tên lính giữ cửa thành” Lữ Tứ Nương tuy đoán được Ung Chính sẽ không thể nào chấp nhận nỗi Niên Canh Nghiêu nhưng không ngờ rằng sự việc diễn ra nhanh như thế, mà Niên Canh Nghiêu bị gián chức thành lính canh cửa càng không thể tưởng tượng nổi!


Cam Phụng Trì nói: “Đối với Niên Canh Nghiêu, bị giáng chức như thế còn khó chịu hơn cả bị giết. Nhưng y cũng chẳng còn cách nào cả, binh quyền của y đã bị tước đoạt”. Thế rồi Cam Phụng Trì mới kể cho Lữ Tứ Nương nghe chuyện của Niên Canh Nghiêu.


Từ sau khi Niên Canh Nghiêu tây chinh Thanh Hải trở về, được phong làm Nhất đẳng công, vẫn kiêm nhiệm Xuyên Thiểm tổng đốc, thanh oai rất thịnh. Niên Canh Nghiêu cũng rất thông minh, tự biết công cao hơn chủ, muôn lần không thể buông binh quyền, bởi vậy không muốn ở Bắc Kinh, từ sau khi Hoàng đế uỷ đạo ba quân, không bao lâu y đem quân trở về Xuyên Thiểm. Nào ngờ Ung Chính còn thông minh hơn y, âm thầm nâng đỡ phó thủ của y là Nhạc Chung Kỳ, Nhạc Chung Kỳ lôi kéo các thuộc hạ dần dần nắm thực quyền trong tay, không lâu sau mượn cớ dân ở Tây Lệ nổi loạn, ra lệnh cho Nhạc Chung Kỳ cầm binh dẹp loạn, vì sợ Niên Canh Nghiêu bất mãn, giải thích với y rằng giết gà không cần dao mổ trâu. Vì lâu nay Nhạc Chung Kỳ vẫn nghe lời Niên Canh Nghiêu, y không ngờ Nhạc Chung Kỳ đã bội phản mình. Y xây dựng tòa phủ đệ tựa như cung điện ở Tây An, lại có thê tử đẹp như hoa ở bên cạnh, thánh chỉ kêu đích danh Nhạc Chung Kỳ, nên y chỉ biết ở Tây An hưởng phước.


Nhạc Chung Kỳ dắt một bộ phận binh lực đến Tây lệ, liên tục bị bại trận, văn thư cấp báo bay về như tuyết, Ung Chính lại đưa một cánh quân của Niên Canh Nghiêu đến cứu viện. Tiền tuyến cần tăng viện, Niên Canh Nghiêu không dám chống Thánh chỉ, với lại là cứu thuộc hạ của mình, bởi vậy mới mau chống phát binh. Sau mấy lần tăng viện, binh lực của Niên Canh Nghiêu chỉ còn lại một hai phần. Niên Canh Nghiêu ở trong phủ đô đốc hàng ngày cứ mắng Nhạc Chung Kỳ là đồ vô dụng, suýt nữa đã dâng sớ tự tiến cử, đích thân ra tiền tuyến đốc sư.


Nào ngờ đó chính là kế hoạch của Ung Chính và Nhạc Chung Kỳ, bại trận chỉ là cái cớ. Sau khi binh lực của Niên Canh Nghiêu bị điều đi đến Tây Lệ hết tám chín phần, lập tức chuyển bại thành thắng, Ung Chính lại ra lệnh cho Nhạc Chung Kỳ tạm thời trấn giữ Tây Lệ, không cần phải trở về nữa.


Đáng buồn cười là văn võ cả triều đều không biết đó là ý thực sự của Ung Chính, khi tin bại trận truyền về liên tục, nhiều người lại vạch tội Nhạc Chung Kỳ, bảo y không có tài của đại tướng, xin Ung Chính điều Niên Canh Nghiêu đi. Ung Chính đã nhiều lần giáng chỉ trách cứ Nhạc Chung Kỳ, thật ra y làm thế là để cho Niên Canh Nghiêu xem.


Văn võ cả triều đều không biết Niên Canh Nghiêu đã thất thế, không ai muốn hạch tội y. Thật ra lúc đó có một đại thần tên là Điền Văn Kính, bị đẩy ra ngoài làm tổng đốc Hà Đông, y và Ngạch Nhĩ Thái, Lý Mẫn Đạt, đại thần được Ung Chính sủng kính, là bằng hữu tri giao. Khi Điền Văn Kính đi lãnh nhiệm vụ, Lý Mẫn Đạt giới thiệu một sư gia họ Ô cho y, giúp y coi sóc việc văn thư. Điền Văn Kính cũng rất coi trọng sư gia học Ô này. Nói ra cũng lạ, phàm là những tấu sớ qua tay Ô sư gia ít khi bị Hoàng đế từ chối, bởi vậy Điền Văn Kính càng coi trọng Ô sư gia hơn.


Ngày nọ, Ô sư gia hỏi Điền Văn Kính: “Minh công có muốn làm một danh thần không?” Điền Văn Kính rất lấy làm lạ, đáp rằng: “Ai mà không muốn thế!” Ô sư gia nói: “Minh công muốn làm một danh thần, tôi cũng muốn làm một danh mộ”. Điền Văn Kính hỏi: “Vậy ông muốn thế nào?” Ô sư gia nói: “Xin chúa công để tôi làm một việc, nhưng không được hỏi đến”. Điền Văn Kính nói: “Tiên sinh muốn làm việc gì?” Ô sư gia nói: “Tôi định thay chúa công viết một bản tấu chương, nhưng chúa công không được đọc một chữ nào trong tấu chương này. Hễ tấu chương trình lên, chúa công sẽ trở thành một bậc danh thần!”


Điền Văn Kính nghe nói thế, thế là để ông ta làm thử. Đêm ấy phòng của Ô sư gia thắp đèn đến sáng, Điền Văn Kính cũng suốt đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau Ô sư gia bỏ tấu chương vào phong thư, dùng sơn đỏ phong kín lại, bảo Điền Văn Kính đưa đến tổng đốc Hà Đông, Điền Văn Kính nói: “Ta không được xem tấu chương, nhưng tiên sinh có thể tiết lộ chút ít hay không?”


Ô sư gia chợt nổi giận nói: “Chúa công không dám tin tôi, thì thôi vậy, tôi đi đây!” Điền Văn Kính vội nói: “Tiên sinh đừng đa nghi, nếu không thể tiết lộ, tôi sẽ đóng dấu”. Sau khi đóng dấu, lập tức dùng khoái mã đưa thẳng lên kinh đô.


Sau khi tấu chương đưa đi, Điền Văn Kính lo được lo mất, nhiều lần muốn hỏi Ô sư gia nhưng lại không dám, trong lòng rất hối hận vì đã đem công danh lợi lộc ra đánh cược, nhưng tấu chương đã được đưa đi, không thể lấy về nữa, chỉ đành âm thầm ra lệnh cho lính giám sát Ô sư gia, đề phòng y bỏ chạy, đợi sau khi có kết quả, nếu không có chuyện gì thì thôi, nếu có việc xảy ra thì trước tiên sẽ giết Ô sư gia.


Ô sư gia thì không lộ thanh sắc, vẫn như bình thường. Bảy ngày sau, quan báo từ kinh đô truyền đến, Điền Văn Kính mở ra xem, sợ đến nỗi chết ngất, xem xong lại vui mừng ra mặt, hầu như ngỡ mình đang nằm mơ!


Té ra bản tấu chương đó đã vạch tội hai người nắm quyền bính nghiêng ngã triều can, danh tiếng lẫy lừng. Một người là Niên Canh Nghiêu, một người là quốc cựu Long Khoa Đa! Nếu Điền Văn Kính mà biết được điều này, dù y gan to bằng trời cũng không dám đóng dấu lên tấu chương!


Ung Chính xem xong tấu chương, lập tức hạ lệnh tước phong hiệu nhất đẳng công của Niên Canh Nghiêu, giao cho Nhạc Chung Kỳ tạm thay chức phủ viễn đại tướng quân kiêm xuyên thiễm tổng đốc. Nhưng Hoàng đế cũng lo Niên Canh Nghiêu còn có một ít binh lực ở Thiễm Tây, không dám lập tức giết ngay, cho nên thánh chỉ lại bảo niệm tình y có chút công lao nên sai y về Hàng Châu luyện binh. Còn Long Khoa Đa được giao cho thuận thừa quận vương Tích Bảo thẩm vấn, trước tiên tước tất cả phong hiệu, nhốt vào đại lao. Lại truyền chỉ khen ngợi Điền Văn Kính, rằng “có lòng son vì nước, không sợ quyền quý, mạnh dạn dám nói, được thăng làm Lưỡng Quảng tổng đốc”.


Điền Văn Kính vừa kinh vừa mừng, một lúc sau tay chân vẫn còn run lẩy bẩy, lúc này Ô sư gia mới cười bước vào, nói: “Chúc mừng chúa công thăng quan, nguyện vọng làm danh thần của chúa công đã đạt, tôi cũng cáo từ đây”. Điền Văn Kính vội vàng níu giữ, Ô sư gia mỉm cười nói: “May mà Hoàng thượng xem bản tấu chương này không trách tội, trái lại còn khen thưởng, nếu không tôi cũng không thể bước ra khỏi nha môn”. Điền Văn Kính sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, liệu rằng Ô sư gia đã biết hành động của mình, lại không tiện bày tỏ nên rất áy náy. Ô sư gia lại cười nói: “Điều đó cũng chẳng trách chúa công, nếu chẳng phải tôi mượn danh nghĩa của chúa công, trên thiên hạ chẳng có quan viên nào dám hạch tội Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa!”


Lúc này Điền Văn Kính mới biết Ô sư gia chắc chắn là người phi thường, vừa đáp tạ vừa hỏi dò: “Tiên sinh có tài như thế, Điền mỗ khâm phục vô cùng. Không biết trước đây tiên sinh làm việc ở đâu, làm sao có thể đoán được ý bề trên, làm những điều mà người khác không dám làm?” Ô sư gia cười lớn nói: “Ngài đã được thăng quan như mong muốn, cần gì phải hỏi lai lịch của tôi? Biết lai lịch của tôi chẳng tốt cho ngài. Sau này chúng ta sẽ gặp lại, tôi xin cáo từ”. Điền Văn Kính là kẻ già giặn ở quan trường, lúc này trong lòng đã hiểu ra, biết rằng Ô sư gia chắc chắn là thân tín của Hoàng đế cho nên vội vàng lấy ra ba trăm lượng vàng tặng cho y chứ không dám hỏi han gì nữa.


Niên Canh Nghiêu bị tước hết chức vụ, Nhạc Chung Kỳ lập tức từ Tây Lệ trở về Tây An, thu nhận ấn tín, Nhạc Chung Kỳ tỏ vẻ thông cảm, một mặt dùng lời an ủi, lại còn chọn một trăm thân binh đưa y về miền Nam. Niên Canh Nghiêu cố nén cơn giận, cười lớn nói: “Lão đệ, đệ hãy cẩn thận đấy, đừng đi vào vết xe đỗ của ta! Ta một đời binh mã, nam chinh bắc phạt cho Hoàng thượng, may mà không rơi vào cảnh da ngựa bọc thây, nay có gì đáng lo? Lần này ta trở về, nếu có nguy hiểm gì đệ cũng chẳng thể nào bảo vệ được cho ta, ta xin nhận lãnh tấm thận tình của đệ!” hai mắt trừng trừng, oai ngày trước vẫn còn, Nhạc Chung Kỳ không dám nói nhiều, vội vàng lui ra.


Niên Canh Nghiêu trị quân nhiều năm, đương nhiên có một số tướng lĩnh thân tín nhất, những người này có ăn có chịu với Niên Canh Nghiêu, hy vọng ngày sau Niên Canh Nghiêu có thể quật dậy nên đua nhau từ chức theo y xuống miền nam. Nhạc Chung Kỳ cũng không giữ lại, phê chuẩn tất cả. Niên Canh Nghiêu dắt theo mấy mươi thuộc hạ cùng ba trăm binh lính già cả đến Hàng Châu. Ngày nọ đến Nghĩa Huy thuộc bờ bắc Trường Giang, Nghĩa Huy có hai đường thủy bộ, từ đường thủy xuống miền nam có thể đến Hàng Châu, từ đường bộ lên miền bắc có thể tới Bắc Kinh. Niên Canh Nghiêu nghĩ bụng mình đã từng dốc hết sức cho Ung Chính, nay bị tước hết binh quyền, Ung Chính có thể yên lòng, nếu gặp mặt xin xỏ, có lẽ có thể làm được một chức quan nhỏ chứ không đến nỗi phải tới Hàng Châu viện binh, bởi vậy dâng tấu chương cầu kiến, trong tấu chương có hai câu: “Nghĩa Huy thủy lục phân trình, thần ở đây đợi tin”. Đó chẳng qua là muốn Hoàng đế hồi tâm chuyển ý, cho phép y vào kinh gặp mặt. Nào ngờ Ung Chính lại bảo y có lòng tạo phản, muốn cầm binh đánh thẳng vào Bắc Kinh, một mặt giao tấu chương của Niên Canh Nghiêu cho lại bộ xử lý, một mặt đích thân hạ lệnh cho lục bộ đại thần rằng: “Khi trẫm mới lên ngôi, coi Long Khoa Đa và Niên Canh Nghiêu là kẻ tâm phúc, chẳng hề đề phòng. Trẫm coi bọn chúng là trung thần, mong bọn chúng đáp ơn. Nào ngờ bọn chúng có hai lòng. Nay trẫm không thể tha được. Nếu những ai đã từng kết bè kết đảng với chúng thì hãy mau mau hối lỗi. Nếu vẫn cứ che giấu, một khi phát giác sẽ trị tội nghiêm”.


Các đại thần xem tờ chỉ dụ này, biết Hoàng đế không tha cho Niên Canh Nghiêu, thế là hè nhau dâng tấu vạch tội Niên Canh Nghiêu, Ung Chính nhận được nhiều tấu chương, cuối cùng bảo rằng Niên Canh Nghiêu có mười tám tội lớn, cứ mỗi tội thì bị giáng một cấp, vì thế giáng Niên Canh Nghiêu đến mười tám cấp, từ một đại tướng quân đã hạ xuống thành một tên lính giữ cửa thành!


Còn Long Khoa Đa vì có em gái cầu xin, Ung Chính chỉ ghét y là ngày trước đã theo bợ đỡ Niên Canh Nghiêu, lại lo y biết chuyện mình đoạt ngôi nhưng cũng liệu rằng y không thể tạo phản cho nên mới phán y bị giam vĩnh viễn, vợ con gia sản thì được tha. So với Niên Canh Nghiêu, y may mắn hơn nhiều.


Lữ Tứ Nương nghe Cam Phụng Trì kể chuyện Niên Canh Nghiêu, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thỏ chết chó cũng vào nồi, Niên Canh Nghiêu có ngày hôm nay, chúng ta cứ mặc kệ y. Thất ca, muội đã luyện kiếm pháp hai năm, ngộ ra được rất nhiều điều. Lần này huynh không nên cản muội vào kinh nữa”. Cam Phụng Trì biết ý nàng, cười rằng: “Muội ở trên núi đã hai năm, cũng nên đi xuống xem thử sự tình. Nhưng vào kinh vẫn phải chờ đợi một thời gian nữa”.


Hôm sau Lữ Tứ Nương cùng Cam Phụng Trì và Thẩm Tại Khoan xuống núi.


Lại nói Niên Canh Nghiêu bị đưa đến Hàng Châu giữ thành, vừa khéo tướng giữ thành Hàng Châu chẳng phải ai khác mà là Lục Hổ Thần. Năm xưa Niên Canh Nghiêu giết đề đốc Phú Sơn, Lục Hổ Thần vào can ngăn, suýt nữa đã bị giết, sau đó bị phạt phải canh đêm. Ung Chính đẩy Niên Canh Nghiêu đến Hàng Châu thực ra là có ý muốn Lục Hổ Thần làm khó y.


Niên Canh Nghiêu biết Lục Hổ Thần trấn thủ Hàng Châu cũng không để trong lòng. Ba ngày sau, Niên Canh Nghiêu đứng trước cửa thành sưởi nắng, trong ngoài cửa thành chẳng có ai ra vào. Té ra người Hàng Châu sợ sát khí của Niên Canh Nghiêu, biết y canh cửa bắc nên không hẹn mà đều tránh xa. Lúc này các thuộc hạ của Niên Canh Nghiêu đều đã bỏ đi cả, chỉ có một người lính già vẫn còn theo bên cạnh. Người lính này thấy ba ngày đều như nhau, nói với Niên Canh Nghiêu: “Hôm nay tướng quân tuy bị làm nhục, nhưng mừng vì oai phong vẫn còn, quan dân đều không dám khinh thường tướng quân”. Niên Canh Nghiêu thở dài nói: “Chính vì như thế Ung Chính càng không thể tha cho ta”.


Khi đang nói chợt nghe tiếng thanh la mở đường, Niên Canh Nghiêu cười nói: “Người làm nhục ta sắp đến rồi đấy!” rồi bảo người lính già lách qua một bên, chỉ thấy Lục Hổ Thần ngồi trên một thớt ngựa cao lớn, cùng đám sĩ tốt tiền hô hậu ủng ra thành. Niên Canh Nghiêu mỉm cười, vẫn người xếp bằng vươn vai sưởi nắng.


Lục Hổ Thần thấy Niên Canh Nghiêu phách lối, chợt cả giận, có lòng muốn làm nhục y, bước tới trước mặt, lạnh lùng cười: “Niên Canh Nghiêu, ngươi có nhận ra tay không?” Niên Canh Nghiêu liếc mắt nói: “Té ra là ngươi, làm tướng quân Hàng Châu chắc khỏe hơn làm canh phu cho ta chứ gì? Chả trách nào ngươi đắc ý đến thế!” Lục Hổ Thần bị y nhắc đến chuyện cũ, tìm không được mắng rằng: “Niên Canh Nghiêu, ngươi đã nhận ra ta, tại sao không đứng dậy nghênh đón!” Niên Canh Nghiêu nghe xong lại mỉm cười nói: “Lục Hổ Thần, ngươi muốn ta đứng dậy ư? Điều đó không khó, nhưng ta đứng dậy thì ngươi phải quỳ xuống đấy!” Lục Hổ Thần cười ha hả: “Ta đường đường là tướng quân Hàng Châu, chả lẽ phải quỳ trước một tên lính giữ cửa thành như ngươi?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi quỳ trước ta không biết đã bao nhiêu lần, giờ đây tuy ta không thể bảo ngươi quỳ xuống nữa, nhưng ngươi thấy Hoàng thượng hoặc gặp vật đại diện cho Hoàng thượng, chắc là phải quỳ xuống chứ?” Lục Hổ Thần cười lạnh nói: “Đương nhiên, nhưng ngươi không phải là khâm sai đại thần, làm sao đại diện cho Hoàng thượng?”


Niên Canh Nghiêu thong thả đứng dậy, cởi áo ngoài, chỉ thấy y mặc bên trong một bộ đại quải có thêu hai con rồng vàng, Lục Hổ Thần sửng sốt, chỉ thấy Niên Canh Nghiêu lấy ra một tấm Vạn tuế bài có khắc con rồng năm móng, đặt trên cái ghế rồi kêu lớn: “Lục Hổ Thần, quỳ xuống!” Lục Hổ Thần mặt tái xanh, đành phải quỳ xuống trước vạn tuế bài, cung kính hành lễ ba quỳ chín lạy.


Té ra Bàn long quải và Vạn tuế bài là do Ung Chính ban cho Niên Canh Nghiêu khi y chinh tây. Những người lập được đại công mới được mặc bàng lông quải. Còn vạn tuế bài là vật đại diện cho Hoàng đế, thấy mảnh bài này tựa như thấy Hoàng thượng. Trước đây khi Niên Canh Nghiêu tây chinh, Ung Chính vì muốn lôi kéo y cho nên ban cho y tấm bài này để y ra lệnh cho quan viên các nơi mà không cần phải xin phép. Nhưng trước đây Niên Canh Nghiêu tiếng tăm hiển hách, chưa bao giờ phải dùng đến tấm bài này. Lần này Ung Chính không cho Niên Canh Nghiêu vào cung, giáng y liền mười tám cấp, nhưng vẫn chưa thu lại những thứ đã ban lúc trước. Lần này Niên Canh Nghiêu lấy ra để làm nhục Lục Hổ Thần. Lục Hổ Thần ôm hận về phủ nha, suốt đêm viết biểu dâng tấu, vạch tội Niên Canh Nghiêu ngày càng ngang ngược, đại nghịch bất đạo.


Khi Lục Hổ Thần nghênh ngang đến cửa bắc, thị dân trong thành liệu rằng chắc chắn sẽ có trò vui, tuy không dám tới gần mà xem nhưng có thể đứng từ xa nhìn, đến khi Lục Hổ Thần bị làm nhục, tức giận trở về phủ nha, dân chúng mới tản đi. Niên Canh Nghiêu thấy thế cười nhạt, chẳng hề quan tâm đến cảnh huyên náo ở bên ngoài. Y liếc mắt nhìn chợt thấy có một bóng dáng thiếu nữ thấp thoáng trong đám người. Bóng dáng này rất giống Phùng Lâm, Niên Canh Nghiêu bất giác ngẩng ra.


Niên Canh Nghiêu vốn yêu Phùng Lâm, sau đó biết chuyện tốt khó thành nên mới cưới con gái của phiên vương Mông Cổ là Giai Đặc cách cách, Giai Đặc cách cách tuy xinh đẹp như hoa nhưng dẫu sao cũng không thể văn võ song toàn, thông minh lanh lợi được lòng người như Phùng Lâm. Lúc này, Niên Canh Nghiêu dõi mắt nhìn theo bóng dáng nàng thiếu nữ, bất giác nhớ lại thời còn bé. Y ngẩng đầu nhìn trời, nén không được tiếng thở dài, lòng thầm nhủ: “Nếu năm xưa mình không nhường cho Hoàng thượng, tuy không có được công danh sau này nhưng người ngọc đã là của mình. Cùng nàng phiêu bạt giang hồ há chẳng hơn công hầu khanh tướng hay sao?” nhưng ý nghĩ ấy chỉ lướt qua trong đầu, rồi lại cười mình rằng: “Nếu đại trượng phu không để lại tiếng thơm cho muôn đời sau cũng là tiếng thối đến vạn năm. Mình có hôm nay, không luận thành bại, sử sách sẽ lưu danh, có gì đáng tiếc!” rồi phất ống tay áo cười khì, ngồi xuống chiếc ghế gãy sưởi nắng.


Nhưng lòng muốn yên mà chẳng được, Niên Canh Nghiêu tuy không hối hận, nhưng bất đồ vì thế mà nhớ đến thê tử, y rất lo lắng cho đứa con đang gửi cho Tăng Tịnh, lo rằng nếu mình chết, Tăng Tịnh không thể đáng tin, e rằng không thể tìm được trong đám thuộc hạ cũ người nào có thể chăm sóc cho con mình, nghĩ đến đấy, dù là bậc anh hùng một đời cũng không khỏi rầu rĩ. Y cứ ngồi nghĩ ngợi, bất giác vầng dương lặng xuống phía tây, ánh nguyệt mọc lên từ đằng đông, màn đêm len lén kéo tới.


Cửa bắc thành Hàng Châu xưa nay vắng vẻ. Trong bóng tối mịt mùng, Niên Canh Nghiêu ngồi một mình trên thành lâu, chỉ nghe tiếng sóng sông Tiền Đường vỗ oạp oạp, trong thành văng vẳng tiếng reo ca, y chợt nhớ hai ngày nữa là trung thu, lòng càng cô quạnh hơn. Người lính già vốn là một gia đinh của nhà họ Niên, khi Niên Canh Nghiêu bơ vơ trơ trọi, chỉ có ông ta là không chịu bỏ đi, lúc này đứng trong canh lâu kêu: “Tướng quân hãy vào nghỉ ngơi, lão nô canh đêm cho ngài”. Niên Canh Nghiêu than rằng: “Không cần, có không ít người được ta nâng đỡ, không ngờ đêm nay chỉ có hai chúng ta bầu bạn với nhau”. Nói vừa dứt lời, chợt nghe có người cười lạnh: “Niên Canh Nghiêu, không cần than thở nữa, còn có ta đến thăm ngươi đây”.


Niên Canh Nghiêu ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy một bóng người đã đứng trước mặt mình, đó chính là Phương Kim Minh. Phương Kim Minh trước đây là vệ sĩ tâm phúc của Thập tứ bối lạc Dận Đề. Chỉ nghe Phương Kim Minh cười lạnh: “Niên Canh Nghiêu, không ngờ ngươi cũng có ngày hôm nay! Nhớ năm xưa, ngươi dĩ hạ phạm thượng, giành ngôi dùm cho Dận Trinh, mưu hại Thập tứ bối lạc, ta tưởng ngươi từ đây đường mây thênh thang, không thể làm gì được ngươi. Không ngờ hôm nay Dận Trinh đối xử với ngươi như thế này, ha ha!” Phương Kim Minh trung thành với Dận Đề, hôm nay muốn đến làm nhục Niên Canh Nghiêu, sau khi cười lạnh thì lại bật cười lớn, nói ra những chuyện hiểm độc của Niên Canh Nghiêu.


Niên Canh Nghiêu nghe y nói mà chẳng hề nổi giận, đợi nói xong mới cười ha hả rằng: “Tên ngốc nghếch, ngươi tưởng Thập tứ bối lạc không nham hiểm thâm độc sao? Y chỉ dùng một chút ơn nghĩa lôi kéo ngươi, khiến cho ngươi bán mạng cho y đến chết vẫn không quên? Ha ha!” rồi tiện miệng nói ra những thủ đoạn hiểm độc của Dận Đề, chẳng hạn như làm cách nào bố trí quân bát kỳ giám sát quân Hán, làm thế nào liên lạc với các bối lạc, mưu đoạt đế vị, có rất nhiều điều bí mật trong đó mà Phương Kim Minh không hề biết, Phương Kim Minh nghe thế ngẩng ra, nhưng vẫn cứng miệng mắng rằng: “Chúa công ta dù thế nào cũng tốt hơn ngươi nhiều”. Niên Canh Nghiêu cười ha hả, chợt thở dài nói: “Ngươi nói không sai, Dận Đề vẫn còn có một tên võ sĩ cao minh trung thành với hắn, còn ta chỉ có một tên lính già vô dụng, chỉ điểm này y giỏi hơn ta nhiều. Được lắm, đưa đao của ngươi cho ta!” Phương Kim Minh thoái lui một bước, quát: “Cái gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi đến đây chẳng phải để giết ta sao? Niên mỗ từng là chủ soái của trăm vạn đại quân, cái đầu này không xứng cho ngươi chém xuống, niệm tình ngươi đối với Dận Đề một lòng ngu trung, Niên mỗ giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện, đưa cái đầu này cho ngươi!” Phương Kim Minh cười lạnh, đột nhiên nhảy bổ tới vung chưởng tát vào mặt Niên Canh Nghiêu.


Niên Canh Nghiêu không hề có ý tự vẫn, chẳng qua y dùng trò lừa bịp để Phương Kim Minh thông cảm, dù không gạt được, Phương Kim Minh cũng không phòng bị đối với y, nếu khi Phương Kim Minh đưa đao tới, y sẽ đấm cho Phương Kim Minh ngã xuống trút giận. Nào ngờ Phương Kim Minh chẳng có ý giết y, chỉ là muốn làm nhục y, bởi vậy mới tát cho Niên Canh Nghiêu một bạt tai.


Điều đó khiến Niên Canh Nghiêu bất ngờ, nhưng dẫu sao y cũng là đệ tử danh gia, cao thủ Thiếu Lâm, chân xoay một cái, người lướt mấy bước, đang định phản đòn, chợt có một bóng đen xuất hiện trên tường thành, cao giọng nói: “Phương Kim Minh, ngươi quên cái hẹn ngày trước với ta rồi sao? Ngươi dám tự tiện ra tay làm hại đại tướng của triều đình, đừng trách kiếm của kẻ làm huynh đệ này vô tình!”


Té ra đó chính là Xa Tịch Tà. Hai người nay năm xưa rất thân thiết nhau, sau khi Dận Đề bị Niên Canh Nghiêu ám toán, Phương Kim Minh vẫn trung thành với chủ cũ, Xa Tịch Tà thì đầu thuận vua mới, bởi vậy đôi bên mới không gặp nhau nữa. Phương Kim Minh nói “Chỉ cần ngươi không đến bắt ta, ta sẽ không động thủ với ngươi”, nhưng Xa Tịch Tà vì bán bạn cầu vinh, cuối cùng ác đấu với Phương Kim Minh. May mà Phương Kim Minh được Quan Đông tứ hiệp cứu đi mới thoát chết.


Việc đã trải qua nhiều năm, hôm nay gặp lại, Phương Kim Minh nghe Xa Tịch Tà nhắc đến chuyện xưa, bất giác cả giận, cười lạnh nói: “Uổng cho ngươi còn mặt dày nhắc đến chuyện này, chúng ta đã tuyệt tình, nếu ngươi đến ngăn cản, đừng trách ta không nương tay!” Xa Tịch Tà rút soạt thanh kiếm, đến chắn trước mặt Niên Canh Nghiêu nhưng chẳng nói gì cả. Phương Kim Minh bước chân phải tới trước, người vươn ra đánh một đòn song phong quán nhĩ, hai quyền đấm xéo ra, Xa Tịch Tà quát: “Ngươi muốn chết?” rồi xoay mũi đao, trở tay đâm lại, Phương Kim Minh phân hai chưởng ra, vai trầm xuống, chân phải đá vào cổ tay cầm kiếm của y, tay trái vươn ra đấm vào ngực của y. Xa Tịch Tà lanh lẹ vô cùng, y đột nhiên lách người, vẫy ra một đóa kiếm hoa rồi đâm tới.


Hai người này kẻ tám lạng người nửa cân, trong chớp mắt đã đấu đến ba mươi chiêu, không phân thắng bại. Niên Canh Nghiêu đứng một bên, mặt lộ nụ cười chứ không đến giúp. Phương Kim Minh chợt nhớ đến mục đích của mình, đấm hờ ra một quyền, khẽ nói: “Tịch Tà, nghe ta nói đây”. Xa Tịch Tà tay trái nắm kiếm quyết, kiếm thế tựa thu tựa phát, chằng kiếm ở trước ngực, nghe Phương Kim Minh nói: “Ngươi cầu công danh, ta vì cố chủ, mỗi bên có chí khác nhau, ta cũng không muốn ép ngươi theo ta. Nhưng hôm nay, Niên Canh Nghiêu đã đến đường cùng, ngươi còn bảo vệ cho y làm gì?” Xa Tịch Tà cười lạnh, nói: “Chim sẻ làm sao biết chí của chim hồng?” Phương Kim Minh lại nổi lửa giận, đang định tấn công. Niên Canh Nghiêu cười ha hả: “Phương Kim Minh, ngươi trung với Dận Đề, y trung với ta, đúng là hiếm có. Ngươi hỏi y tại sao bảo vệ ta, nếu y hỏi ngươi, ngươi trả lời thế nào?” Phương Kim Minh chưng hửng, chợt nhảy ra khỏi vòng chiến, quay lưng bỏ đi, Xa Tịch Tà cười lạnh đút kiếm vào bao.


Niên Canh Nghiêu mỉm cười, bước lên vỗ vai Xa Tịch Tà: “Trong lúc hoạn nạn mới thấy chân tình, rốt cuộc ngươi vẫn còn một chút tình nghĩa!” không ngờ Xa Tịch Tà hích vai, đẩy Niên Canh Nghiêu té nhào một bên, cười lạnh nói: “Ngươi là tội nhân khi quân phạm thượng, ai có tình nghĩa với ngươi? Ngươi tưởng hôm nay ta đến cứu ngươi? Ha ha! Nói thực cho ngươi biết, đương kim Hoàng thượng bảo ngươi đáng ghét, muốn từ từ hành hạ ngươi, cho nên mới giáng ngươi làm lính giữ thành, để cho mọi người xem thử bộ dạng đại tướng quân của ngươi. Thánh thượng minh xét ngàn dặm, ngài liệu rằng ngươi sẽ có nhiều kẻ thù, e rằng ngươi bị người ta giết thì có lợi cho ngươi nên mới căn dặn ta âm thầm bảo vệ, đến lúc nguy hiểm mới đuổi những người ấy đi. Thánh thượng lại nói, chuyện thống khó nhất trong thiên hạ là nhìn kẻ mà mình căm ghét đi đến bước đường cùng, muốn chết không được muốn chết không xong. Ngươi tưởng rằng Hoàng thượng không lập tức giết ngươi là vẫn còn coi trọng ngươi? Ngươi coi Xa mỗ này còn là nô bộc của ngươi sao? Ha ha! Ngươi thật không biết tự lượng sức!” Niên Canh Nghiêu nghe xong, tức đến nỗi suýt trào máu họng!


Xa Tịch Tà mỉa mai mắng chửi Niên Canh Nghiêu một hồi. Niên Canh Nghiêu cố nén cơn giận, hỏi: “Tịch Tà, ta đối với ngươi không tệ, ngươi đã dưới trướng của ta không đầy ba năm mà ngươi đã được thăng làm thị vệ tứ phẩm, chả lẽ không có chút tình nghĩa gì sao?” Xa Tịch Tà bĩu môi, làm ra vẻ khinh khỉnh, nói: “Ta làm quan cho Hoàng thượng chứ đâu phải làm quan cho ngươi, chả lẽ ta phải tạ ơn ngươi? Giờ đây là đã là vệ sĩ tam phẩm, so với tên tiểu tốt giữ thành nhà ngươi ít nhất cũng cao hơn mười mấy cấp, ta không buộc ngươi dập đầu trước ta đã là tình nghĩa lắm, ngươi còn muốn gì nữa?” Niên Canh Nghiêu chợt cười ha hả nói: “Hay lắm, hay lắm! Người đi về nơi cao, nước chảy xuống chỗ thấp, khi dứt khoát thì cần phải dứt khoát, vô độc bất trượng phu. Là đại anh hùng thì phải như thế. Tịch Tà, không uổng ngươi theo ta bao nhiêu năm nay, ngươi đã học được của ta nhiều lắm!” Xa Tịch Tà chưng hửng, đang định mỉa mai, chợt nghe lại có tiếng động, vội vàng nhảy qua một bên, nấp vào xó tối.


Niên Canh Nghiêu cười nhạt, nói: “Lại là bằng hữu nào nữa đây? Niên mỗ chỉ có một thân này, muốn trả thù hãy mau ra tay!” nói chưa dứt lời, trên thành có thêm năm người, kẻ đi đầu là Ấn Hoằng hòa thượng của phái Thiếu Lâm, phía sau là Quan Đông tứ hiệp.


Niên Canh Nghiêu mặt biến sắc, chỉ nghe Ấn Hoằng hòa thượng chỉ tay mắng: “Niên Canh Nghiêu nhà ngươi cũng có ngày này sao? Chùa Thiếu Lâm chúng ta đối với ngươi ân nghĩa như núi, ngươi ra tay hại sư phụ của ta, lại còn đốt chùa, ta hỏi ngươi, lòng dạ của ngươi làm bằng thứ gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Muốn giết cứ giết, không cần nhiều lời!” Ấn Hoằng hòa thượng tiếp tục mắng: “Sư phụ của ta Bản Vô đại sư từng truyền võ công cho ngươi, ngươi giết ngài, suýt nữa ta cũng bị ngươi hại chết. Theo lẽ ta dù phanh thay ngươi ra muôn mảnh cũng không đủ giải mối hận trong lòng! Nhưng hôm nay ta không muốn ngươi chết nhanh, máu của ngươi cũng không đáng làm nhơ dưới đao của ta, ta sẽ để cho Hoàng đế của ngươi giết ngươi, thế mới khiến cho người trong thiên hạ khoái trá”. Niên Canh Nghiêu nói: “Vậy ngươi làm gì?” Ấn Hoằng nói: “Một là đến xem oai phong của đại tướng quân nhà ngươi hôm nay, hai là ta muốn hỏi ngươi, năm xưa tờ giấy mà Dận Trinh cầm trong chùa có phải là thật không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Là giả đấy, thế nào? Chính ta đã bắt chước nét chữ của Bản Không đại sư, khiến Thiếu Lâm các người mãi mãi có một phản đồ không thể nào tiêu diệt được, trở thành một trò cười cho võ lâm”. Ấn Hoằng nói: “Hay lắm, hôm nay ngươi đã nói thật”. Niên Canh Nghiêu lộ nụ cười gian xảo, nói: “Chùa Thiếu Lâm các người biết thì thế nào? Chùa Thiếu Lâm các người có thể làm gì Hoàng thượng?” lúc này y chịu nói thực là vì đã căm hận Ung Chính, cố ý dùng lời khích bác, muốn tăng nhân chùa Thiếu Lâm ám sát Ung Chính.


Ấn Hoằng nói: “Được, hôm nay ta không giết ngươi, nhưng sẽ để dấu ấn trên người ngươi”. Rồi tung người bước tới, hai tay xỉa thẳng vào mắt của Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu đánh một đòn Thiết môn thiểm hóa giải thế đánh của ông ta. Ấn Hoằng nói: “Ngươi còn dám dùng thủ pháp của chùa Thiếu Lâm đối phó với ta?” Trần Nguyên Bá trong Quan Đông tứ hiệp kêu: “Theo ta thấy, hãy giết y cho xong, Ấn Hoằng sư huynh, để tôi dùng thủ pháp phân thân thác cốt thu thập y!” rồi không đợi trả lời đã vung tay chụp vào xương tỳ bà của Niên Canh Nghiêu!


Huyền Phong đạo trưởng kêu: “Cẩn thận!” chợt nghe bốp một tiếng, một mũi xà diệm tiễn bay tới, nổ trên đầu Trần Nguyên Bá, Trần Nguyên Bá lộn người xuống đất, suýt nữa té xuống tường thành, chỉ nghe có người kêu ha hả: “Thánh thượng minh xét muôn dặm, quả nhiên có di nghiệt của chùa Thiếu Lâm cùng đồng đảng đến đây, các ngươi tìm Niên Canh Nghiêu trả thù, chúng ta cũng sẽ giăng lưới mời ngươi vào chum!” kẻ lên tiếng chính là Hàn Trọng Sơn, còn Thiên Diệp Tản Nhân đang chặn Huyền Phong!


Huyền Phong gầm lớn một tiếng, đường kiếm vẫy ra, cây gậy sắt quét một cái, hai tay cầm hai món binh khí đồng thời đánh ra, Thiên Diệp Tản Nhân xoay người, đánh vù vù hai chưởng, khiến Huyền Phong chấn động, Lang Nguyệt thiền sư hớp một ngụm rượu lớn trong hồ lô, phun rượu ra thành vòi nhưng bị chưởng phong quét bay tứ tán. Hàn Trọng Sơn phất tay, phóng ra hai món ám khí, một món là hồi hoàn câu đánh về phía Liễu Tiên Khai, một món là thiết liên tử phóng vào huyệt đạo của Trần Nguyên Bá, Liễu Tiên Khai phóng người né tránh liên tục mấy lần, nhưng hồi hoàn câu có thể bay ngược trở về, Liễu Tiên Khai cũng không phá được móm ám khí này. Trần Nguyên Bá kinh kông kém hơn, bị thiết liên tử đánh trúng, may mà ông ta mình đầu da sắt, tuy huyệt đạo cảm thấy đau nhưng chẳng hề gì.


Bọn Hàn Trọng Sơn có võ công cao hơn Quan Đông tứ hiệp nhiều, Quan Đông tứ hiệp có Huyền Phong chặn chiêu số của bọn họ, ba người còn lại chẳng sáp đến gần được. Ấn Hoằng kêu: “Những điều chúng ta muốn hỏi đã hỏi xong, cần gì phải giằng co nữa, chi bằng đi thôi!” Huyền Phong đánh ra mấy kiếm, hiểm hộ cho đồng bọn rút lui, Trần Nguyên Bá nhảy xuống thành, Lang Nguyệt thiền sư phun ra hai vòi rượu, nhảy theo Ấn Hoằng, Huyền Phong đánh một chiêu Cử Hỏa Thi Thiên, cây gậy hất lên, chặn cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn rồi tung mình nhảy xuống. Thiên Diệp Tản Nhân phóng vọt người lên, dùng thủ pháp cơ ưng phóc thố, vung tay chụp tới, chợt nghe trên đỉnh đầu kêu vèo một tiếng, Thiên Diệp Tản Nhân vội vàng lộn ngược trở lại, chợt nghe tiếng cười ha hả, Liễu Tiên Khai lướt qua đầu y phóng xuống tường thành.


Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Đuổi theo!” rồi cùng Hàn Trọng Sơn nhảy xuống, chỉ trong khoảnh khắc, hai bên đã đi xa. Xa Tịch Tà lại từ xó tối chui ra, Niên Canh Nghiêu nói: “Hoàng thượng căm giận di nghiệt của Thiếu Lâm, tại sao ngươi không nhân lúc này mà lập công?” Xa Tịch Tà cười lạnh nói: “Ta còn phải canh ngươi nữa chứ!”


Niên Canh Nghiêu nhíu mày nói: “Đa tạ tấm chân tình!” rồi chợt làm ra vẻ trầm tư, một lúc sau mới chậm rãi nói: “Tịch Tà, ta có một việc muốn thương lượng cùng ngươi”. Xa Tịch Tà nói: “Ngươi muốn ta thả ngươi? Trong thiên hạ này đã không có chỗ cho ngươi dung thân nữa. Ngươi đừng nói thì hơn”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ta nào làm khó ngươi. Ta nói thật cho ngươi biết, ta có một báu vật quý giá muốn tặng cho ngươi”. Xa Tịch Tà cười lạnh nói: “Ngươi mà cũng có lòng tốt như thế sao? Ta có ơn gì đối với ngươi? Ngươi làm sao chịu tặng báu vật cho ta?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ta không tặng suông cho ngươi. Thật không dám giấu, ta liệu rằng sẽ có ngày hôm nay cho nên đã gửi tiểu nhi cho một người bằng hữu, ta sớm muộn gì cũng chết, gia sản chắc chắn sẽ chẳng còn, sau này tiểu nhi lấy gì mà sống? Cho nên ta muốn dùng báu vật liên thành tặng cho ngươi, mong ngươi bán ra sau đó đưa một nửa cho người bằng hữu của ta để tiểu nhi ngày sau được no ấm”.


Xa Tịch Tà giật mình, thầm nhủ: “Khi mình ra khỏi kinh, Hoàng thượng đã tịch thu gia sản của Niên Canh Nghiêu, lúc đó không thấy con trai của y, Hoàng thượng nói diệt cỏ tận gốc, lại còn bảo mình âm thầm điều tra. Chắc là Niên Canh Nghiêu đang nói thực. Chi bằng mình cứ giả vờ chấp nhận, lừa y nói ra chỗ để bảo vật, há chẳng phải sẽ lập công cho Hoàng thượng lại vừa có được báu vật hiếm có hay sao”. Thế rồi mới nói: “Chuyện nhỏ này Xa mỗ có thể làm chủ”. Niên Canh Nghiêu nói: “Thật không?” Xa Tịch Tà nói: “Không hại cho người mà có lợi cho mình, dại gì không làm? Ngươi cứ nói chỗ của người bằng hữu ấy ra”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi nói như thế ta đã tin, nhưng tai vách mạch rừng, báu vật lại không thể để lộ, ngươi kề tai đến đây!” Xa Tịch Tà quả nhiên bước đến gần Niên Canh Nghiêu, nghiêng tai lắng nghe. Không ngờ Niên Canh Nghiêu trở tay chụp một cái, thi triển thủ pháp của phái Vô Cực chụp mạch môn của y, Xa Tịch Tà toàn thân vô lực, Niên Canh Nghiêu mắng: “Tên khốn kiếp này dám bức hiếp ta! Ta phạm mười tám tội lớn, có phạm thêm một tội nữa cũng chẳng hề chi”. Rồi vung tay xỉa vào be sườn của Xa Tịch Tà, điểm vào tử huyệt của y, Xa Tịch Tà kêu thảm một tiếng rồi đứt hơi.


Niên Canh Nghiêu cười lạnh, chỉ nghe tiếng trống canh vang lên, lúc này đã đến canh bốn, xung quanh yên tĩnh đến rợn người, thầm nhủ: “Đêm nay có nhiều kẻ thù đến, chắc là lão binh ấy đã sợ đến chết rồi! Tại sao không nghe tiếng của lão? Hôm nay chỉ có một tàn binh già yếu chấp nhận theo mình, coi như là mình đã xui xẻo!” định lên tiếng gọi, nhìn thấy cái xác của Xa Tịch Tà nằm vắt ngang trên tường thành, mắt cứ mở trừng trừng trông gớm chết, Niên Canh Nghiêu tung cước đá xuống tường thành, chợt nghe bên tai có tiếng: “A di đà Phật”, Niên Canh Nghiêu mở mắt ra nhìn thì sợ đến nỗi hồn bay phách tán, té ra đó là giám tự trước kia của chùa Thiếu Lâm, nay là chủ trì của chùa Thiếu Lâm, Hoằng Pháp đại sư! Hoằng Pháp đại sư cùng vai vế với Thiếu Lâm tam lão, ghét ác như thù, Niên Canh Nghiêu thầm nhủ: “Thiếu Lâm tam lão lần lượt qua đời, nay Hoàng Pháp chủ trì, y nhất định sẽ dùng gia pháp Thiếu Lâm trừng trị mình”. Y nhớ đến thuật phân thân thoát cốt, bế huyệt thương tàn của chùa Thiếu Lâm, những thủ pháp này còn đau khổ hơn cả tùng xẻo giết mổ, bất giác lạnh người!


Hoằng Pháp đại sư nhìn Niên Canh Nghiêu hỏi: “Niên đại tướng quân, ngươi có còn nhận ra lão nạp hay không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đệ tử biết tội!” Hoàng Pháp gằng giọng nói: “Ai là sư tôn của ngươi? Ngươi là đệ tử của ai? Chùa Thiếu Lâm không để cho ngươi làm nhơ bẩn, phái Vô Cực cũng không nhận một tên phản đồ như ngươi!” Niên Canh Nghiêu cúi đầu nói: “Mong đại sư từ bi ban cho tôi được toàn thây!” Hoằng Pháp đại sư mặt lạnh như băng, trầm giọng nói: “Triều đình của ngươi đã có hình phạt, cần gì lão nạp phải ra tay. Ta đến gặp ngươi là vì có hai việc, ngươi hãy nghe đây, việc thứ nhất là Thiếu Lâm tam lão từng truyền võ công cho ngươi, coi như đã gián tiếp giúp ngươi làm ác, đó là lỗi của chùa Thiếu Lâm, lão nạp đến đây chuộc tội cho chủ trì tiền nhiệm, thu lại võ công của ngươi”. Nói đến đó, đột nhiên vung tay vỗ vào đầu của Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu võ công cao hơn nữa cũng chẳng tránh được, bị ông ta vỗ một cái, chỉ thấy trời xoay đất chuyển, một lúc sau mới tỉnh dậy, tứ chi bủn rủn yếu ớt. Hoằng Pháp đại sư thở dài nói: “Nay thu lại võ công của ngươi đã muộn, nhưng coi như cũng đã kết thúc một công án, giữ quy củ muôn đời cho chùa Thiếu Lâm”.


Hoằng Pháp đại sư ngừng một lúc rồi lại nói: “Ngoại trừ việc này, ta còn phải thanh lý môn hộ cho phái Vô Cực. Chuyện này lẽ ra Dịch lão tiền bối của phái Thiên Sơn sẽ làm, nhưng người không rãnh đến Trung Nguyên, đã sai người báo với lão nạp, nhờ lão nạp làm giúp”. Nói đến đó, hai hàng chân mày dựng lên, gằng giọng quát: “Chung Vạn Đường dốc hết tâm huyết, dạy ngươi thành tài, tại sao ngươi dẫn Tát thị song ma đến hại chết ông ta? Hành vi như ngươi có còn dung thứ được hay không?” Niên Canh Nghiêu đã biết Hoằng Pháp đại sư không chịu ra tay giết mình, cho nên đánh liều im lặng. Hoằng Pháp đại sư tiếp tục nói: “Nhớ năm xưa PhóThanh Chủ lão tiên sinh lập ra phái Vô Cực biết bao gian nan, không ngờ dạy ra được một tên phản đồ như ngươi, suýt nữa phái Vô Cực đã tiêu tan vì ngươi. May mà phái Vô Cực còn có một truyền nhân, nếu không Phó Thanh Chủ và Chung Vạn Đường đều chết không nhắm mắt”. Niên Canh Nghiêu chợt hỏi: “Phái Vô Cực còn có truyền nhân nào?” Hoàng Pháp nói: “Ngươi không cần hỏi, ta được Dịch lão tiền bối nhờ đến nói cho ngươi biết, ta và Dịch lão tiền bối đã thông cáo võ lâm đồng đạo, thay phái Vô Cực thanh lý môn hộ, truyền người khác, đuổi ngươi ra khỏi sư môn!” Niên Canh Nghiêu thản nhiên nói: “Nay mạng ta còn không giữ nỗi, muốn tranh chấp cái gì nữa?” Hoằng Pháp đại sư lắc đầu, tức giận nói: “Nghiệt súc, nghiệt súc, đến chết mà không hối cãi!” rồi rút xoạt thanh đao, Niên Canh Nghiêu thất kinh, nhưng chỉ cảm thấy ánh hàng quang lóe lên, đao không vun vút, thanh đao cứ chém loang loáng trước mặt mình, chỉ nghe Hoằng Pháp đại sư nói bên tai: “Chẳng biết liêm sĩ, hổ làm kẻ tu mi, chỉ trừng phạt nhẹ để cảnh cáo”. Đao phong dừng lại, khi Niên Canh Nghiêu mở mắt ra nhìn thì Hoằng Pháp đại sư đã biến mất.


Niên Canh Nghiêu đưa tay sờ, chỉ thấy nhẵn thín, té ra râu ria và chân mày đều bị cạo sạch. Niên Canh Nghiêu bình sinh chưa bao giờ bị nhục thế này, bất giác vung quyền mắng: “Lão tặc Hoàng Pháp làm nhục ta quá thể!” vừa đánh ra đã thấy đuối sức, rồi bất giác thở dài, tiu nghỉu ngồi xuống đất.


Lúc này đã đến canh năm, trời hửng sáng, Niên Canh Nghiêu khẽ ho mấy tiếng kêu: “Vương lão tam, Vương lão tam!” Vương lão tam là tên của người lính già ấy, gọi mấy tiếng mà chẳng nghe trả lời, đang lấy làm lạ, chợt thấy người lính già từ hành lâu bước ra, tay cầm ngọn đèn lồng.


Niên Canh Nghiêu nói: “Vương lão tam, ngươi làm sao thế?” người lính già vái Niên Canh Nghiêu một cái rồi buồn bã nói: “Xin thứ cho lão binh vô dụng này không thể hầu hạ ngài nữa!” Niên Canh Nghiêu biết ông ta đã nghe những lời mình vừa nói Phương Kim Minh, vội vàng nói: “Lão tam, ông đừng đa tâm...” Vương lão tam cắt lời: “Đừng nói nữa, hôm nay tôi đã hiểu tất cả mọi thứ! Tiểu Niên, uổng cho ta trông ngươi từ nhỏ đến lớn, nhưng chưa bao giờ biết ngươi là một kẻ vong ân phụ nghĩa như thế này! Suốt đời lão chủ nhân chưa bao giờ làm chuyện gì ác, sao lại bị báo ứng thế này, sinh ra một đứa nghịch tử bại gia diệt tộc. Ta thật đau lòng cho tổ tiên nhà họ Niên!” lão binh ấy nói rất xúc động, Niên Canh Nghiêu giận đến nỗi mặt tái xanh, suýt nữa đã đánh chết ông ta, nhưng nghĩ lại lão binh này cũng biết vài đường quyền cước mà võ công của mình bây giờ đã mất, vừa mới vung quyền lên thì thu về.


Người lão binh lại thở dài, nước mắt rơi lả chả, nói: “Ta đã hầu hạ cha ngươi nhiều năm, lại cũng từng hầu hạ ngươi, theo ngươi trường chinh muôn dặm, vào sinh ra tử, chưa bao giờ được thăng quan, chưa bao giờ được phát tài, coi như cũng đã hết tình với nhà họ Niên. Hôm nay xin cáo từ!” nói xong thì vái Niên Canh Nghiêu đến sát đất, rồi bước xuống bậc cấp, đi được mấy bước chợt quay đầu lại nói: “Quần áo hôm qua của ngươi ta đã giặt sạch sẽ phơi khô, ngươi hãy tự thu lấy, cơm sáng ta đã chuẩn bị xong, từ rày về sau ngươi hãy tự học làm lấy, lão bọc vô dụng này xin cáo từ!” rồi bước xuống từng bước, không lâu sau đã mất dạng trong áng bình minh.


Niên Canh Nghiêu đứng sửng ra như trời trồng, trán tuôn đầy mồ hôi, lúc này mới thực sự nếm được mùi vị bơ vơ trơ trọi, chỉ cảm thấy trời đất tuy rộng lớn nhưng cũng chẳng có chỗ nào cho mình dung thân, biển người mênh mông nhưng cũng không còn một người thân, lại nghĩ từ rày về sau mình phải làm những chuyện nấu cơm giặt giũ, càng cảm thấy đúng là anh hùng mạc lộ.


Niên Canh Nghiêu bước vào thành lâu, quả nhiên thấy có nồi cơm nóng, lúc này mới phát giác mình đã đói đến mềm ruột, thế là ngồi ăn hết nồi cơm, thử vận động tứ chi, biết võ công của mình tuy đã mất nhưng vẫn còn sức lực như người bình thường, nhìn mấy hòn đá kê làm bếp lò cười khổ một hồi, lẩm bẩm nói: “Còn may, nếu cả sức nấu cơm cũng không có há chẳng càng hỏng bét sao?” Niên Canh Nghiêu chưa bao giờ biết nấu một nồi cơm, bởi vậy rất rầu rĩ.


Lúc này trời đã sáng, lại phải xuống canh cửa thành. Niên Canh Nghiêu bước ra thành lâu, mới ngày hôm qua vẫn còn người lính già đi cùng, sáng nay chỉ còn một mình, càng cảm thấy thê lương cô tịch, bao nhiêu chuyện đã làm hiện qua trong đầu, ý niệm hối hận bất giác nảy sinh, nhưng trong nhất thời lại bị tâm trạng phẫn hận thay thế, y hận không hủy diệt được cả vũ trụ này cùng với mình.


Niên Canh Nghiêu bước xuống tường thành, mở cửa thành, gió buổi sáng phả vào mặt, chợt vang lên một tràng cười trong trẻo, chỉ thấy một nàng thiếu nữ đứng ngoài cửa thành, Niên Canh Nghiêu mở cửa thành, nàng liền nói: “Niên đại tướng quân, xin chào!”


Niên Canh Nghiêu thất kinh, trong khoảng sát na ấy y cứ ngỡ mình nằm mơ, y dụi mắt, quả nhiên đó là Phùng Lâm. Niên Canh Nghiêu nhếch mép cười rồi phẫn nộ nói: “Phùng Lâm, ngươi đến đây là để mỉa mai ta?”


Hai năm qua Phùng Lâm và Lý Trị đến Tứ Xuyên, trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, liên lạc được với một số người, sau đó nghe nói Niên Canh Nghiêu đã thất thế, hai người mới quay về tìm Lữ Tứ Nương. Giữa đường nghe Niên Canh Nghiêu bị giáng đến mười tám cấp, lại bị đẩy đến Hàng Châu làm lính giữ cửa thành, lúc này Phùng Lâm tuy đã hai mươi tuổi nhưng vẫn còn tánh trẻ con, nhớ lại chuyện lúc nhỏ cùng Niên Canh Nghiêu chơi đùa, Niên Canh Nghiêu lại lừa gạt nàng, tặng nàng cho Ung Chính. Thế là nàng đến Hàng Châu xem thử Niên Canh Nghiêu có đúng đã trở thành tên lính giữ cửa thành hay không. Lý Trị không cản được nàng, chỉ đành đứng bên ngoài cửa canh chừng cho nàng.


Chính là:


Ân oán tự trôi theo dòng nước biếc, hôm nay gặp lại đã khác xa.


Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.


Xem tiếp hồi 46 - 47

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 46 – 47 Cùng đường hết lối công danh theo nước chảy Núi hoang chùa cổ kiếm khí bắn hàn tinh


Phùng Lâm cười khanh khách: “Không phải ta mỉa mai ngươi, chính là bản thân ngươi tự mỉa mai mình. Làm người phải biết hối hận, lẽ nào ngươi không hiểu câu này? Ngươi tự làm tự chịu, giờ đây vẫn còn chưa hối hận sao?” Niên Canh Nghiêu trầm ngâm không nói, Phùng Lâm đổi sắc mặt, chợt nghiêm nghị nói: “Nếu có thể nhớ bài học của Chung ân sư, ngươi không có ngày hôm nay!” Niên Canh Nghiêu bất giác ngẩng ra, chỉ nghe Phùng Lâm tiếp tục nói: “Ta đã biết chuyện trước kia, nhà họ Niên đã từng nuôi dưỡng ta, điều này ta không quên”.


Niên Canh Nghiêu chưng hửng nói: “Ngươi đã nhớ lại?” Phùng Lâm nói: “Tuy lúc nhỏ ngươi ngang tàng bá đạo nhưng đối với ta cũng không tệ”. Niên Canh Nghiêu mừng rỡ nói: “Đúng thế! Ta xưa nay coi ngươi như thân muội, đối xử với ngươi tốt hơn hết cả mọi người. Đa tạ ngươi đến thăm ta, dù sao này Niên Canh Nghiêu tan xương nát thịt, có một tri kỷ cũng không hề tiếc nuối”. Phùng Lâm chợt cười lạnh, rồi trầm giọng nói: “Nhưng ngươi càng lớn càng hư, hư đến mức không sửa đổi được! Hừ, ngươi có còn nhớ hay không, ngươi muốn tặng cho Hoàng đế để giữ công danh cho mình? Ta không chịu nghe theo, ngươi âm thầm hảm hại ta, nếu không nhờ Lý Trị ca ca ra tay cứu chữa, cái mạng này đã không giữ được nữa. Thân muội cái gì? Ngươi nói thế không sợ ta buồn nôn hay sao?”


Niên Canh Nghiêu mặt lúc xanh lúc đỏ, gục đầu nói: “Ta biết”. Phùng Lâm nói: “Ngươi đối với ta không tốt, chẳng hề gì. Nhưng ân sư đã dốc hết tâm lực dạy dỗ ngươi thành tài, ngươi dẫn sói vào nhà hại chết người! Nếu chẳng phải ngươi may mắn thoát chết, hôm nay ta đã trừng trị gian đồ cho bổn môn!”


Niên Canh Nghiêu chợt ngẩng đầu lên nhìn: “Ồ, té ra truyền nhân của phái Vô Cực là ả nha đầu nhà ngươi”. Phùng Lâm nhíu mày nói: “Thế nào, ta không xứng sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi cứ yên tâm mà làm. Công danh phú quý của ta đều đã mất cả. Chả lẽ ta còn tranh với ngươi cái chức Chưởng môn nhỏ bé ấy?” Phùng Lâm nhíu mày, lắc đầu nói: “Ta thật chưa bao giờ thấy người đã sắp chết tới nơi còn không chịu tỉnh ngộ, mở miệng ra là phú quý, đóng miệng lại là công danh, ngươi bảo không quan tâm nhưng thực sự thì ngược lại. Lữ tỉ tỉ từng nói ngươi coi như cũng là một bậc nhân tài, nhưng bị hai chữ danh lợi kiềm chế. Trước đây ta không hiểu, nhưng giờ đây thấy chẳng sai chút nào”.


Hai người nói chuyện một hồi, sắc trời đã sáng, Lý Trị đứng từ xa huýt một tiếng sáo dài, Phùng Lâm nói: “Ta phải đi đây!” Niên Canh Nghiêu dõng tai lên nghe, chợt nói: “Ai đến đây cùng ngươi?” Phùng Lâm nói: “Ngươi hỏi điều đó làm gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Có phải là tên tiểu tử Lý Trị hay không?” Phùng Lâm tức giận nói: “Cái gì mà tiểu tử? Chàng còn tốt hơn ngươi nhiều!” rồi cao giọng trả lời: “Lý Trị ca ca, muội đến đây!”


Niên Canh Nghiêu lộ vẻ mặt kỳ dị, chợt hỏi: “Lâm cô nương, ngươi có còn nhớ hay không, trong vườn chúng ta lúc trước có một cái ao, trong ao có nuôi một đôi vịt, khi ngươi còn nhỏ, ta đã bế ngươi ra xem đôi vịt ấy giỡn nước”. Phùng Lâm giật mình, sầm mặt nói: “Ngươi cứ nói những lời vô bổ ấy làm gì?”


Niên Canh Nghiêu nói: “Nhớ lại chuyện lúc nhỏ, ta thực sự hối hận vô cùng”. Phùng Lâm trầm giọng nói: “Hối hận cũng đã muộn!” Niên Canh Nghiêu thở dài, làm ra vẻ muốn nói gì đấy nhưng lại thôi, Phùng Lâm nói: “Có việc gì ngươi nói mau lên! Ta phải đi đây”. Lời lẽ đã mềm dịu hơn nhiều, Niên Canh Nghiêu nói: “Ta vốn mong có thể cùng ngươi ở bên nhau. Lúc nhỏ ta đọc binh thư, ít nhiều cũng hiểu đến đạo hành quân, nếu ngày sau các ngươi dấy binh, ta nguyện tự tiến cử”. Phùng Lâm giật mình, thầm nhủ: “Niên Canh Nghiêu là một tướng tài, nếu y thành tâm thành ý, có lẽ cũng nên suy nghĩ lại. Chi bằng để mình bàn với Lý Trị ca ca xem thử thế nào!” Phùng Lâm cúi đầu suy nghĩ, Niên Canh Nghiêu lại nói: “Ngươi không tin ta sao?” Phùng Lâm ngẩng đầu lên, tiếp xúc với ánh mắt của Niên Canh Nghiêu, nàng chợt giật mình, chỉ cảm thấy trong mắt của Niên Canh Nghiêu tựa như chứa đầy sự gian trá, chẳng hề khiến cho người ta tin cậy. Niên Canh Nghiêu lại thở dài nói: “Ngươi thật không tin ta sao?” Phùng Lâm nói: “Ngươi có thể hối hận thì tốt, nhưng việc này ta không thể làm chủ, để ta gặp Lữ tỉ tỉ rồi mới tính”. Niên Canh Nghiêu nói: “Nói thế cũng bằng thừa”. Phùng Lâm dậm bước toan bỏ đi, Niên Canh Nghiêu lại kêu: “Lâm cô nương, còn có một việc nhỏ nữa”. Phùng Lâm quay người nói: “Việc gì, nói mau!” Niên Canh Nghiêu nói: “Chẳng phải ngươi đã làm Chưởng môn của phái Vô Cực rồi sao? Vậy hãy cầm kiếm của ngươi đi thôi, đó là bảo kiếm của Phó sư tổ năm xưa sử dụng, ta đã bị đuổi ra khỏi sư môn, thanh kiếm này không thuộc về ta nữa”. Lời lẽ của y rất thành thật, Phùng Lâm thầm nhủ: “Đúng thế, mình vốn đến đây lấy di vật của sư tổ, sao lại quên bén mất!” nàng bước tới trước mặt Niên Canh Nghiêu, đưa tay nhận kiếm. Không ngờ khi nàng đưa tay ra, trước ngực mở rộng, Niên Canh Nghiêu chợt vung chỉ điểm vào huyệt Toàn Cơ trước ngực của nàng, huyệt Toàn Cơ là một trong nhưng tử huyệt, nếu bị điểm trúng chắc chắn sẽ chết.


Té ra Niên Canh Nghiêu tự biết rằng sẽ chết, chẳng còn hy vọng, đã sắp nổi điên, y hận khôn gthể giết hết tất cả mọi người trên đời này, nhất là nghe Phùng Lâm hai lần nhắc tới “Lý Trị ca ca”, y vừa căm hận vừa đố kỵ, thầm nhủ: “Tiểu cô nương đẹp như hoa như ngọc thế này, nếu không thuộc về mình, mình củng không đế nàng thuộc về người khác. Công phu của mình tuy mất, nhưng thủ pháp điểm huyệt vẫn còn nhớ, chi bằng giết nàng rồi vung kiếm tự sát”.


Nào ngờ Phùng Lâm bị điểm trúng huyệt đạo nhưng người chỉ lảo đảo mấy cái, chứ không ngã xuống chết như ý muốn của y. Té ra công phu điểm huyệt cần phải có kình lực trên đầu ngón tay, lực dồn vào đầu ngón tay mới có thể khiến cho khí huyết của người ta ngừng cạn. Võ công của Niên Canh Nghiêu đã không còn, chỉ có thế lực của người bình thường mà nội công của Phùng Lâm đã có tiến bộ, nếu gặp phải cao thủ, chắc chắn nàng sẽ mất mạng, nay bị điểm trúng huyệt đạo tuy đau nhói nhưng cũng chẳng có chuyện gì lớn.


Phùng Lâm bị Niên Canh Nghiêu bất thần điểm trúng một chỉ, nàng chưng hửng rồi lập tức hiểu ra, tức giận vung tay vỗ bốp bốp hai bạt tai khiến Niên Canh Nghiêu té xoài xuống đất. Niên Canh Nghiêu mắt lộ hung quang, nôn ra một ngụm máu tươi, trong máu có lẫn hai cái răng cửa. Phùng Lâm tức tới nỗi không nói ra lời, một lát sau mới nói: “Ngươi...ngươi đúng là người độc ác nhất trong thiên hạ!” Rồi nàng rút thanh bảo kiếm của Niên Canh Nghiêu, vừa mới rút được một nửa lại nghe tiếng huýt sáo thúc giục của Lý Trị.


Phùng Lâm trừng mắt nhìn Niên Canh Nghiêu, gằng giọng nói: “Ta không giết ngươi, ngươi cũng chẳng sống được lâu nữa!” Rồi phóng người đuổi theo Lý Trị, Lý Trị nói: “Sắc trời đã sáng, mặt trời sắp mọc, mà còn chưa đi, ở đằng kia đã có người rồi!”


Phùng Lâm buồn bã không lên tiếng, theo Lý Trị phóng như bay ra khỏi thành. Chờ mạch ra đến ngoại ô, Lý Trị nói: “Không phải huynh không muốn cho muội nói nhiều với y, huynh nghĩ Niên Canh Nghiêu bị đày đến mức này, không chừng Ung Chính sẽ phái cao thủ âm thầm theo dõi”. Phùng Lâm chậm bước, chợt nói: “Lý Trị ca ca, huynh có thể tha thứ cho muội không?” Lý Trị cười nói: “Nếu huynh là người lòng dạ hẹp hòi cũng không để muội nói chuyện riêng với y”. Phùng Lâm đỏ mặt, khẽ nói: “Không phải điều này. Muội muốn nói, muốn nói là... sáng nay khi gặp Niên Canh Nghiêu, muội còn có chút tiếc nuối...” Lý Trị không đợi nàng nói xong liền cười bảo: “Y vốn là một nhân tài, đi nhằm vào nẽo tà, tự chuốt lấy khổ, huynh cũng tiếc nuối cho y, chuyện đó đâu có gì đáng nhắc!” Phùng Lâm nói: “Nhưng lúc này muội không còn cảm thấy tiếc nuối gì cả!” Khi nói sắc mặt của nàng rất nghiêm túc, khác hẳn với vẻ nghịch ngợm thường ngày, nàng tựa như đã trưởng thành, hiểu được rất nhiều chuyện. Lý Trị ngạc nhiên nhìn nàng, như hiểu màkhông hiểu lời lẽ của nàng, y khẽ gật đầu chứ không nói gì nữa.


Phùng Lâm bỏ đi, Niên Canh Nghiêu bưng nửa bên mặt, gắng gượng đứng dậy, lúc này trong lòng y trống trải, đầu óc đờ đẩn. Gió lạnh buổi sáng thổi tới, Niên Canh Nghiêu rùng mình, hai tay ôm đầu ngửa mặt cười lớn nói: “Cái đầu này tốt quá, nếu bị chém rơi há chẳng phải đáng tiếc hay sao! Tây Sở bá vương vung kiếm tự vẫn ở Ô Giang là anh hùng! Ta há không bằng ông ta! Ngày nay trời cao hại ta, ta còn sống làm gì để chịu nhục!” rồi hai tay ôm đầu lao vào cửa thành!


Chợt có người ôm chặt y lại. Niên Canh Nghiêu không vùng vẫy được, khi mở mắt ra nhìn thì ra đó là Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân, chỉ thấy hai người này mặt mũi sưng vù, bộ dạng trông rất khó coi. Té ra bọn chúng đuổi theo Ấn Hoằng và Quan Đông tứ hiệp, gặp phải Hoằng Pháp đại sư, thế là bị ông ta nện cho một trận.


Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân thấy bộ dạng Niên Canh Nghiêu càng khó coi hơn, Hàn Trọng Sơn nói: “Này, râu và chân mày của ngươi bị ai cạo thế? Ai đã đến đây?” Thiên Diệp Tản Nhân nhìn xác Xa Tịch Tà, cũng hỏi: “Ai giết thế? Là ngươi hay là kẻ địch?” Niên Canh Nghiêu cười ha hả, kêu lớn: “Chết sạch cả rồi!” Hàn Trọng Sơn cười lạnh: “Hoàng thượng không cho ngươi chết!” Niên Canh Nghiêu kêu lớn: “Các người không cho ta làm Sở bá vương? Chao ôi! Cả Sở bá vương mà ta cũng không bằng!” rồi y vung tay múa chân, lời lẽ chẳng đầu chẳng đũa, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Niên Canh Nghiêu điên rồi!” Hàn Trọng Sơn khẽ đầy nhẹ, Niên Canh Nghiêu chẳng hề có sức phản kháng, té nhào xuống đất. Hàn Trọng Sơn thất kinh: “Cả võ công cũng chẳng còn!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Niên Canh Nghiêu đã ra nông nỗi này, chi bằng chúng ta cứ mau áp giải y về kinh sư”. Hàn Trọng Sơn khẽ gật đầu, rồi ngày hôm ấy dùng khoái mã tám trăm dặm phi báo với Hoàng đế, hôm sau áp giải y vào kinh, có hai người áp giải, Niên Canh Nghiêu muốn tự sát cũng không được. Chỉ có điều trên đường cứ kêu la om xòm, lúc thì gọi tên con, lúc thì gọi Phùng Lâm.


Khi Niên Canh Nghiêu nổi điên, Phùng Lâm đã rời thành Hàng Châu sáu mươi dặm, Phùng Lâm không ngờ y nổi điên, nhớ lại bộ dạng đáng ghét, vẫn còn cảm thấy buồn nôn.


Lý Trị và Phùng Lâm muốn từ Triết Giang vào An Huy rồi đến Hà Nam để về Mang Sơn. Hai người đi rất nhanh, mặt trời chưa xuống núi đã đến vùng núi Thiên Mục, đang bước vào đường núi, chợt nghe dưới sơn cốc có tiếng hú quái lạ, tiếng ám khí rít trong gió, Phùng Lâm kêu: “Huyết Trích Tử!” Lý Trị lên tảng đá cao nhìn, nói: “Té ra Quan Đông tứ hiệp đang bị bao vây!” Phùng Lâm vừa nhìn thì nói: “Ồ, còn có cả Phương Kim Minh và Trần Đức Thái, chúng ta đến cứu họ”. Hai người rút kiếm lướt xuống như bay.


Té ra Hoằng Pháp đại sư trừng trị Niên Canh Nghiêu, trên đường trở về lại đánh bọn Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân bỏ chạy, Ấn Hoằng hòa thượng vốn đi cùng Quan Đông tứ hiệp, nhưng nay mọi việc đã xong nên cùng chụ trì trở về Thiếu Lâm ở Phúc Kiến, Quan Đông tứ hiệp đến Mang Sơn tìm Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương.


Còn Phương Kim Minh và Trần Đức Thái lại gặp nhau giữa đường, hai người này sau khi dưỡng thương ở Tuyết Hồn cốc đã trở thành một đôi hảo hữu. Lần này Phương Kim Minh tìm Niên Canh Nghiêu là để trả thù cho cố chủ, Trần Đức Thái không cản được, chỉ đành theo tiếp ứng, Phương Kim Minh bị Xa Tịch Tà đuổi đi, rầu rĩ ra khỏi thành Hàng Châu. Rồi hai người lại gặp Quan Đông tứ hiệp, thế là cả bọn cùng nhau quyết định kéo đến Mang Sơn, không ngờ Ung Chính bố trí rất nghiêm ngặt, ngoại trừ phái Hàn Trọng Sơn, Thiên Diệp Tản Nhân và Xa Tịch Tà đi giám sát Niên Canh Nghiêu, còn phái Cáp Bố Đà dắt theo một đám Huyết Trích Tử tuần tra ở các con đường dẫn đến Hàng Châu, thế là hai bên gặp nhau, Quan Đông tứ hiệp bị bọn người ấy đẩy xuống sơn cốc, tình thế giờ đây rất nguy hiểm.


Hai bên đang quần thảo ác liệt, chợt nghe trên núi có tiếng quát, Lý Trị và Phùng Lâm vung kiếm xông tới, Cáp Bố Đà vừa kinh vừa mừng, kêu lên: “Lâm quý nhân!” rồi ném Huyết Trích Tử về phía Huyền Phong, sau đó đảo ngược người vung Lưu Tinh trùy đánh tới Phùng Lâm. Phùng Lâm cười: “Ngươi cũng muốn bức hiếp ta?” rồi nàng vung tay phóng ra một mũi phi đao, mũi phi đao bay tới như điện xẹt, chạm phải các Huyết Trích Tử của Cáp Bố Đà, cả hai cùng rơi xuống, trước tiên giải thế nguy cho Huyền Phong rồi đến nghênh chiến Cáp Bố Đà.


Phùng Lâm vung cây bảo kiếm đánh một chiêu Lực Hoạch Hồng Câu, lia thành một đường vòng cung bạt Lưu Tinh chùy ra, Cáp Bố Đà thất kinh, y vùng tay quét ngang cái Lưu Tinh chùy, Phùng Lâm kéo kiếm vào bên trong chặn lại, lại giải được thế công hung mãnh của Cáp Bố Đà, Cáp Bố Đà càng kinh dị hơn, dùng một truỳ hộ thân, một chùy nghênh địch, đánh gấp về phía Phùng Lâm.


Thực ra công lực của Phùng Lâm không bằng Cáp Bố Đà, nàng tiếp hai chùy, cánh tay đã tê rần, may mà nàng sử dụng thanh bảo kiếm của Phó Thanh Chủ, tuy không bằng du lông kiếm nhưng cũng là loại kiếm quý, không đến nỗi bị đầu chùy chặt gãy, nếu không đã chẳng chống nổi những đòn tấn công mãnh liệt của Cáp Bố Đà. Trong khi đó Cáp Bố Đà vừa đánh vừa thủ, hợp với lộ số của Phùng Lâm, Vô Cực kiếm pháp của Phùng Lâm cương nhu tương tề, thủ rất nghiêm ngặt, lại thêm nàng thông hiểu các loại võ công bàng môn tả đạo, có rất nhiều chiêu thức, trong vòng năm bảy mươi chiêu, Cáp Bố Đà chẳng làm gì được nàng.


Lúc này Lý Trị đã nhảy vào vòng chiến, sau mấy chiêu đã đâm bị thương hai tên Huyết Trích Tử, bọn Huyền Phong phấn chấn tinh thần, quát lớn đồng loạt phản công!


Cáp Bố Đà bị Phùng Lâm chặn lại, bọn Huyết Trích Tử mất đầu não, không chặn được kẻ địch, Huyền Phong tay trái cầm kiếm, tay phải cầm gậy quét ngang bổ dọc, trong lúc kịch chiến đã hạ được hai tên Huyết Trích Tử, Lang Nguyệt thiền sư cũng dùng vòi rượu phun mù mắt một tên Huyết Trích Tử, bọn Huyết Trích Tử hè nhau tháo chạy.


Cáp Bố Đà thấy không xong, vội vàng buông Phùng Lâm kêu lớn: “Phá toán ám khí!” trong khoảng khắc chỉ thấy khí cầu bay khắp trời, phát ra tiếng kêu tu tu, Phùng Lâm kêu: “Thật lợi hại!” rồi hai tay vung ra, mỗi tay phát sáu mũi phi đao, đánh rơi mười hai trái Huyết Trích Tử, còn vài trái đã bị bọn Huyền Phong đánh rơi, lúc này bọn Cáp Bố Đà mới lui ra khỏi cửa cốc.


Thế là bọn Huyền Phong cùng Phùng Lâm cùng kéo nhau lên Mang Sơn.


Lại nói Đường Hiểu Lan trải qua biến cố to lớn, trong lòng rất u uất, sau khi về đến Thiên Sơn trầm mặt chẳng nói, chỉ dốc hết lòng luyện kiếm, Dịch Lan Châu rất lấy làm lạ, mới hỏi Phùng Anh, Phùng Anh không dám giấu kể hết tất cả mọi chuyện. Dịch Lan Châu là người từng trải, cũng không khuyên Đường Hiểu Lan mà chỉ dốc lòng truyền võ nghệ cho chàng, Đường Hiểu Lan sống ở Thiên Sơn hơn một năm, đã học hết võ công của phái Thiên Sơn.


Ngày nọ, Dịch Lan Châu kêu Đường Hiểu Lan, nói: “Con đã học được hết võ công của phái Thiên Sơn, nay ta chính thức nhận con làm đệ tử”. Đường Hiểu Lan cả mừng khấu tạ, Dịch Lan Châu nói: “Đời nào của phái Thiên Sơn cũng là bậc anh kiệt, con đang tuổi tráng niên, không nên quy ẩn. Ngày mai hãy cùng Anh nhi xuống núi giúp Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì”. Đường Hiểu Lan tuy không nỡ nhưng nghe sư phụ nói rất có lý, mười mấy hôm sau cùng Phùng Anh bái biệt sư phụ xuống Thiên Sơn.


Hai người trở về Trung Nguyên. Đường Hiểu Lan tuy không u uất như hai năm trước nhưng vẫn kiên dè, không dám nói chuyện trai gái với Phùng Anh.


Hơn ba tháng sau, bọn họ lại trở về Hà Nam, trên đường nghe người ta nhắc chuyện Niên Canh Nghiêu thất thế, cũng không biết thật hay giả, hai người càng nôn hơn, hận không lập tức gặp Lữ Tứ Nương.


Hôm nay họ đi ngang qua Tung Sơn, Tung Sơn trải qua một trận hỏa hoạn, cây cối đã bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Đường Hiểu Lan mười phần cảm khá, ngâm rằng: “Cây khô gặp xuân lại nảy mầm, giang sơn gặp nạn còn sầu mới. Cây như thế, người ra sao?” Phùng Anh nói: “Trời đã tối, chi bằng lên Tung Sơn nghỉ ngơi một đêm, muội cũng muốn thăm lại cảnh chùa xưa”.


Đường Hiểu Lan và Phùng Anh lên Tung Sơn, chỉ thấy một đống đổ nát hoang tàn, Đường Hiểu Lan than rằng: “Chùa cổ ngàn năm trải qua kiếp nạn, thật đáng tiếc đáng hận!” Phùng Anh cười chỉ mảng cỏ xanh mọc trước sân: “Cỏ xanh chẳng cháy hết, xuân đến lại nảy mầm, cần gì phải buồn?” Hai người đi một vòng quanh chùa, phát hiện có một gian chỉ bị cháy phân nửa, Đường Hiểu Lan nói: “Chúng ta hãy nghỉ ngơi ở đây, Tung Sơn và Mang Sơn cách nhau không quá ba trăm dặm, đi hai ngày nữa sẽ tới”.


Hai người nhảy vô bức tường, lần dò vào trong điện, chợt có người hỏi: “Các người là ai?” giọng nói run rẫy gấp gáp, rõ ràng trung khí không đủ nhưng cũng rất uy nghiêm. Đường Hiểu Lan đẩy cửa bước vào, chỉ thấy bên đống lửa đỏ có một người đang nằm, sắc mặt như bị bệnh, nhưng hai mắt mở to, sắc rất có thần.


Đường Hiểu Lan nói: “Chúng tôi chỉ là người qua đường, tiên sinh là ai?” người này nhỏm ngồi dậy, nhìn hai người rồi lại nằm xuống, chẳng thèm để ý đến Đường Hiểu Lan. Phùng Anh hỏi: “Tiên sinh bị bệnh gì thế?” người ấy đảo mắt rồi nói: “Ta đang buồn ngủ, các người đừng quấy rầy”. Phùng Anh nói: “Nếu có bệnh, chúng tôi có mang theo một ít thuốc, có lẽ dùng được”. Người ấy nói: “Đã bảo các ngươi đừng lôi thôi, sao các ngươi thích lo chuyện bao đồng thế?” rồi kéo tấm chăn trùm đầu. Phùng Anh thấy y chẳng thèm để ý đến mình, không nói nhiều nữa. Đường Hiểu Lan lưu ý thấy trên đỉnh đầu của y có nhiệt khí bốc ra, thất kinh thầm nhủ: “Nội công của người này thâm hậu, chắc đã bị thương, giờ đang dùng nội công trị thương, mình không nên quấy rầy y”. Rồi kéo Phùng Anh ngồi xuống góc điện nghỉ ngơi.


Một hồi sau, người ấy đã ngáy pho pho, bên ngoài lại có tiếng cười nói, Đường Hiểu Lan nhìn ra, chỉ thấy hai người vượt tường nhảy vào, bất giác kêu lên, cùng Phùng Anh đứng dậy.


Té ra hai người này là Đường Kim Phong và Đường Trại Hoa. Họ vốn muốn đến trấn Chu Tiên lấy hài cốt của Vương Ngạo, định mang trở về Tứ Xuyên ang táng, hôm nay đi ngang Tung Sơn, không có khách điếm nên tìm đến đây nghỉ ngơi.


Đường Hiểu Lan thấy cha con họ thì rất áy náy, cung kính hỏi: “Đường lão tiến bối, ông khỏe chứ?” Đường Kim Phong hừ bằng giọng mũi nói: “Khỏe!” Đường Trại Hoa trừng mắt nhìn họ, tay sờ vào túi ám khí, Đường Kim Phong khẽ nói: “Đại trượng phu nói lời phải giữ, bọn chúng không có ác ý, con đường lắm chuyện”. Tuy nói là thế nhưng Đường Kim Phong cũng làm mặt lạnh với hai người Phùng Đường, chẳng thèm để ý đến họ, tựa như không muốn nói chuyện với họ. Đường Trại Hoa nói: “Cha, ở đây còn có một người nữa”. Phùng Anh nói: “Ông khách này bị bệnh, đang ngủ say, đừng đánh thức ông ta”. Đường Trại Hoa bĩu môi, quay mặt đi, lẩm bẩm: “Ai thèm nói chuyện với ngươi!” Phùng Anh bực dọc, cũng chẳng thèm nói gì. Đường Kim Phong khẽ nói với con gái: “Tiểu nha đầu này nói cũng có lý, đừng quấy rầy người ta”. Rồi đưa mắt nhìn người bệnh, mặt lộ vẻ kinh ngạc.


Đường Trại Hoa khẽ hỏi: “Cha, cha đã nhìn thấy gì ư?” Đường Kim Phong nói: “Người này thân mang tuyệt kỹ, chẳng phải hạng tầm thường”. Đang nghĩ cách làm quan, chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân, chỉ nghe một đứa trẻ nói: “Tôi không ở ngôi chùa hoang này đâu”. Rồi nghe bốp một tiếng, hình như có người vỗ vào mông đứa trẻ, mắng lớn: “Ngươi còn giở trò thiếu gia. Có chùa hoang cho ngươi ở đã tốt, chả lẽ ngươi muốn ở cung điện?” một người nói: “Muốn ở cung điện không khó, nhưng đáng tiếc ngươi chẳng ở được lâu”. Người ấy đá cánh cửa kêu bình một tiếng, đột nhiên phát giác bên trong có người nên đứng sửng sốt.


Ánh mắt của mọi người bên trong đều nhìn ra ngoài, chỉ thấy có hai người bước vào, một người mặc đồ xanh eo mang phác đao, ăn mặc như kiểu võ sĩ, dắt một đứa trẻ trông rất sang trọng, đứa trẻ này khoảng bốn năm tuổi, mắt thanh mày tú rất dễ thương nhưng môi cứ mím chặt tựa như đang chịu ấm ức.


Một võ sĩ mặc áo xanh quát: “Ai trong đó?” Đường Hiểu Lan đáp: “Khách qua đường”. Đường Kim Phong lạnh lùng nói: “Núi hoang chùa cổ, ai cũng có thể ở nhờ, ngươi cứ mặc kệ bọn ta là ai!” hai tên võ sĩ quét mắt nhìn y, Đường Kim Phong cười lạnh ngạo nghễ, trừng mắt ra nhìn lại, hai tên võ sĩ này thấy y mặt hồng hào tóc bạc, tinh thần tráng kiện, hai mắt sáng quắc có thần, rõ ràng là nội công thâm hậu, cả hai đưa mắt nhìn nhau rồi khẽ mắng: “Hay cho lão già già mồm!” nhưng cũng không dám đa sự.


Ngạch Âm Hòa Bố cả giận, vận đủ một nội lực phát ra liên tục mấy chưởng, Đường Hiểu Lan tuy trong màn kiếm quang nhưng cũng bị chấn động đến lắc lư không ngừng, kiếm pháp vẫn không hề lơi lỏng, trong lúc gấp gáp, Ngạch Âm Hòa Bố chẳng làm gì được chàng.


Phùng Anh thoái lui, mũi chân điểm xuống đất, phóng vọt người tới lướt qua đầu bọn lính, nàng đang mặc nhuyễn giáp nên ám khí bắn vào người nàng, rơi xuống lả tả, trong chớp mắt đã hạ xuống bên cạnh cha con Đường Kim Phong.


Bọn lính thấy ám khí chẳng làm gì được nàng, bất giác kinh ngạc, Đường Kim Phong liếc nàng, khẽ gật đầu tựa như rất cảm kích. Phùng Anh không sợ ám khí, thế là múa cây bảo kiếm thành một đường ngân hồng, chặn trước mặt Đường Kim Phong, đánh rơi ám khí của kẻ địch. Đường Kim Phong dùng Táng môn đinh phóng vào huyệt đạo của kẻ địch, thế là bọn lính lại thoái lui thêm mấy bước, đôi bên vẫn giằng co với nhau.


Đường Hiểu Lan một mình đấu với Ngạch Âm Hòa Bố chỉ có thể phòng thủ chứ không thể tấn công, Ngạch Âm Hòa Bố thở phào liên tục phóng ra mấy chưởng, đẩy Đường Hiểu Lan thoái lui mấy bước, y đột nhiên vọt tới, hai chưởng đẩy xéo ra, ám khí đều bị chưởng lực của y đánh rơi, Phùng Anh thất kinh, cây đoản kiếm trở tay đâm lại, Đường Kim Phong cũng biến sắc, dùng thuyết cật loe phóng ra nhưng chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố hơi lách người, đã lướt tới bên cạnh họ, lao bổ về phía người bệnh nằm dưới tượng Phật. Té ra Ngạch Âm Hòa Bố không phải đến bắt cha con Đường Kim Phong, y lướt tới là bắt người bệnh kia.


Đống lửa dưới tượng Phật đã tắt, khói bốc lên mù mịt, Ngạch Âm Hòa Bố cười lạnh nói: “Bối lạc gia, cần gì phải vất vả thế, hãy theo nô tài về cung!” rồi đưa tay giở tấm mền của người bệnh, chợt nghe bốp một tiếng, Ngạch Âm Hòa Bố đã trúng một đòn trên mặt đau nhói. Ngạch Âm Hòa Bố trở tay chụp vào cổ tay của người ấy, người ấy ngồi bật dậy, nói: “Được, ta đã thừa biết Dận Trinh không buông tha cho ta. Ngươi đến đây có phải là vì ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Hoàng thượng có thành ý mời bối lạc về kinh”. Người ấy nói: “Đã thế, người hãy thả cha con họ đi thôi!”


Lúc này mọi người đều bất ngờ, cuộc giao phong bằng ám khí giữa hai bên đã tạm thời ngừng lại. Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn lại, chỉ thấy người bệnh kia tuy vẻ mặt tiều tụy nhưng vẫn còn uy nghi, chợt nhớ ra rằng, người ấy chính là Cửu bối lạc Dận Đường.


Chỉ nghe rắc một tiếng, Ngạch Âm Hòa Bố đã bóp gãy cổ tay của Dận Đường, khóa hai tay của y lại, khom người nói: “Chỉ cần chúng không làm khó nô tài, nô tài sẽ tuân lệnh”. Số là sau khi Ung Chính đang ngồi vững trên ngai vàng, bước đầu tiên là cắt bỏ vây cánh của các bối lạc, bước thứ hai là mượn cớ giết từng người đã tranh đoạt ngôi vua với mình, trong đó Cửu bối lạc Dận Đường và Thập bối lạc Dận Nga tinh thông võ công, hai người này nghe tin phong phanh đã bỏ trốn. Ngạch Âm Hòa Bố vốn là đuổi theo Dận Đường chứ không phải đi bắt bọn Đường Hiểu Lan. Ngạch Âm Hòa Bố thầm nhủ: “Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan và Phùng Anh tinh diệu lạ thường, ám khí của lão già cũng rất lợi hại, nếu có giằng co nữa e rằng sẽ có chuyện bất ngờ” cho nên khi Dận Đường đề nghị bảo thả bọn họ đi, Ngạch Âm Hòa Bố cũng liền thuận nước đẩy thuyền.


Đường Kim Phong rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Té ra đương kim Hoàng đế lại vô tình đến thế, cốt nhục mà cũng tương tàn huống chi là người ngoài. Trước kia mình cho Vương Ngạo làm công sai, đã đoán được chẳng có kết cuộc tốt”. Y nhìn kỹ lại, chỉ thấy Dận Đường đau đến nỗi mồ hôi tuôn xuống ròng ròng, nhưng vẫn cố nghiến răng chịu đựng, không rên một tiếng. Ngạch Âm Hòa Bố lại khom người nói: “Không còn sớm nữa, xin mời bối lạc lên đường!”


Dận Đường chợt cười thảm, lớn giọng nói: “Các người đã thấy rồi đấy, đời đời kiếp kiếp không nên sinh ra ở chốn hoàng gia!” Đường Hiểu Lan nghe thế, tay đè lên thanh kiếm định xông ra. Phùng Anh khẽ nói với chàng: “Huynh đã không còn là người trong hoàng gia nữa, bọn chúng cũng không coi huynh là bối lạc, cái hận thân thế huynh quên sớm đi thôi, chứ như người này tranh giành ngôi báu với Dận Trinh, cũng chẳng phải thứ tốt lành gì, huynh cần gì phải liều mạng vì y?” Đường Hiểu Lan thở dài nói: “Huynh không phải muốn cứu y... huynhh...” lúc này tâm trạng của chàng rất phức tạp, rất khó giải thích.


Ngạch Âm Hòa Bố kéo Dận Đường chậm rãi bước ra chợt có một tên lính chỉ vào Niên Thọ, nói: “Bẩm đại nhân, đây là con của Niên Canh Nghiêu. Hai người lúc nãy là vệ sĩ tâm phúc của Niên Canh Nghiêu”. Đường Kim Phong càng kinh hãi hơn, nhìn đứa trẻ, chỉ thấy đứa trẻ mặt trắng bệt, kêu: “Công công cứu con, con không đi, con không đi!” Ngạch Âm Hòa Bố cười ha hả: “Thật là một cơ duyên tốt!” rồi đưa mắt nhìn Đường Kim Phong, quát: “Lão già kia, ngươi là người thế nào của Niên Canh Nghiêu?” Đường Kim Phong nói: “Chẳng thế nào cả”. Ngạch Âm Hòa Bố quát: “Thế thì được, trao đứa trẻ cho ta, ta tha chết cho ngươi!” Niên Thọ khóc òa lên, Đường Trại Hoa vội nói: “Cha, đừng!”


Ngạch Âm Hòa Bố chợt nổi giận, bỗng nghe tiếng chuông leng keng bên ngoài vọng vào, tiếp theo là mấy tiếng kêu thảm, Phùng Anh cả mừng: “Võ lão tiền bối đã đến!” Ngạch Âm Hòa Bố cả giận nhảy vọt ra cửa chùa, dưới ánh trăng chỉ thấy một lang trung giang hồ tay phải cầm một cây gậy, tay trái lắc cái chuông đồng bước thẳng về phía mình, bọn lính canh ở ngoài đều bị người ấy đánh ngã.


Ngạch Âm Hòa Bố trừng mắt quát: “Ai? Đứng lại!” té ra người đó là Võ Thành Hóa, chỉ thấy ông ta cười lạnh nói: “Phách lối thật! Ngươi muốn hỏi ta là ai? Ta là sứ giả chiêu hồn cho ngươi!” rồi lắc cái chuông kêu lên leng keng. Ngạch Âm Hòa Bố cả giận đẩy vù ra một chưởng, Võ Thành Hóa không hề nhúc nhích, cười ha hả giơ cây gậy đánh tới, Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần cuộn trúng cây gậy của ông ta nhưng vẫn bị ông ta đẩy lui hai bước. Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, ngầm vận nội lực kéo sang một bên; Võ Thành Hóa cũng thất kinh, tuy cây gậy không vụt ra khỏi tay nhưng ông ta cũng không thể đánh tới được. Hai người đều ngầm vận nội lực hạ nhau.


Phùng Anh lướt tới, kêu: “Võ tiền bối, người đến thật đúng lúc!” Võ Thành Hóa nói: “Có phải tên này cậy người đông bức hiếp ngươi không?” Phùng Anh cười nói: “Y làm gì có bản lĩnh ấy!” rồi quay mặt sang nhìn Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Ngươi có muốn đấu nữa không?” Ngạch Âm Hòa Bố thâu cây phất trần, nhảy vọt qua hai bước, nói: “Được, chúng ta dừng tay, sau này gặp lại ta sẽ không tha cho ngươi”. Phùng Anh cười nói: “Vậy chờ sau này hẳn tính”. Võ Thành Hóa quét mắt nhìn Ngạch Âm Hòa Bố rồi nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Đáng tiếc thế này!” Võ Thành Hóa nói: “Chả lẽ ngươi không biết kết cuộc của Liễu Ân?” Ngạch Âm Hòa Bố nghe thế giật mình, giơ cao cây phất trần, Võ Thành Hóa nói: “Có phải còn muốn đánh với ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nói lời nào, quay mình dắt bọn lính đi nhanh xuống núi. Dận Đường bị vặn gãy xương cổ tay, đau đến nỗi ngất đi, cũng được bọn lính cõng xuống núi.


Võ Thành Hóa cười nói: “Ta nghe nói các người lại xuống Thiên Sơn, biết thể nào cũng đến tìm Lữ Tứ Nương nhưng không ngờ gặp ở đây. Sư phụ của ngươi khỏe không?” Phùng Anh nói: “Chúng ta khoan nói chuyện này, xem thử Đường Kim Phong đã thế nào!” Võ Thành Hóa nói: “Đường Kim Phong là ai?” Phùng Anh nói: “Là một tiền bối võ lâm, ám khí thiên hạ vô song”. Võ Thành Hóa nói: “Ồ, thế là người của Đường gia tứ xuyên rồi, làm sao các ngươi quen y?”


Họ vừa đi vào trong miếu, chỉ thấy Đường Kim Phong vẫn ngồi xếp bằng, sắc mặt tái nhợt. Đường Trại Hoa bế Niên Thọ, mặt đầy vẻ lo lắng, khẽ hỏi: “Cha, thế nào rồi?” Đường Kim Phong mỉm cười nói: “May mà vẫn còn giữ được mạng của đứa trẻ. Ta không xong rồi. Con hãy bế nó về. Ta nhận nó làm cháu ngoại”. Đường Trại Hoa rơi nước mắt như mưa, nói: “Cha, có phải cha đã bị thương rất nặng không? Chúng ta mang theo toàn là thuốc tốt”. Đường Kim Phong cười khổ nói: “Thuốc tốt chẳng ích gì, ta bị chưởng lực của tên ấy chấn động, lại khổ chiến một hồi, sức cùng lực kiệt, tựa như đèn khô dầu cạn, làm sao có thuốc nào chữa nỗi!” Phùng Anh chợt nói: “Thuốc của tôi có thể cứu nỗi”. Đường Trại Hoa cả mừng, không màng đến thù hận trước kia, vội nói: “Vậy xin cô nương hãy mau cứu!” Đường Kim Phong có vẻ không tin, hỏi: “Thuốc gì?” Phùng Anh lấy ra một cái bình bạc nhỏ xíu, đổ ra ba viên thuốc màu xanh lục, lập tức hương thơm xông vào mũi, tinh thần sảng khoái, Phùng Anh đưa viên thuốc cho Đường Kim Phong nói: “Đây là Bích linh đơn được bào chế từ Thiên Sơn tuyết liên, bổ khí ích huyết, trị thương giải độc đều có hiệu quả. Lão tiền bối có căn cơ vững chắc, được nó cố bản bùi nguyên, không những chẳng lo đến tính mạng mà võ công cũng không đến nỗi giảm sút”.


Đường Kim Phong nuốt ba viên Bích linh đơn, chỉ cảm thấy một luồng khí mát mẻ dâng lên đang điền, cười rằng: “Thiên Sơn tuyết liên quả nhiên danh đồn không oa, đúng là linh đơn diệu dược”. Niên Thọ mở mắt nhìn Đường Kim Phong, Phùng Anh nói: “Cậu bé, ngươi đã thoát chết, ngươi biết có nên đáp tạ ai không?” Niên Thọ rất ngoan ngoãn, bước tới quỳ xuống đất, dập đầu ba cái truớc Đường Trại Hoa, kêu một tiếng “mẹ”. Đường Trại Hoa mừng rỡ nói: “Con ngoan, con ngoan”. Niên Thọ lại dập đầu trước Đường Kim Phong ba cái kêu: “Công công”. Đường Trại Hoa cười nói: “Phải kêu là ngoại công”. Đường Kim Phong cười ôm cậu bé vào lòng.


Đường Hiểu Lan nói: “Đứa bé này rất thông minh, giống như cha nó”. Phùng Anh nói: “Cũng mong nó không hoàn toàn giống cha”. Võ Thành Hóa nhìn sắc trời, thấy đã hơi hửng sáng, cười nói: “Chúng tôi phải đi trước một bước, ông cứ ngồi đã tọa một lúc, khí lực sẽ hồi phục ngay, xin thứ chúng tôi không thể đi cùng”. Đường Trại Hoa nói lời tạ ơn với Phùng Anh, giờ đây mối thù hận giữa cha con họ Đường với chị em họ Phùng đã tiêu biến.


Võ Thành Hóa và hai người Phùng Đường xuống Tung Sơn, Võ Thành Hóa nói: “Có phải các ngươi lên Mang Sơn không?” Phùng Anh nói: “Đúng thế. Mẹ của vãn bối đang ở Mang Sơn, người có biết không?” Võ Thành Hóa cười nói: “Mẹ của ngươi đã không còn ở Mang Sơn nữa. Ngươi có muốn gặp bà ta không?” Phùng Anh kinh hãi hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Võ Thành Hóa cười nói: “Vốn là xảy ra chuyện nhưng giờ không hề gì nữa. Tên tiểu tử Ung Chính này thật độc ác, sau khi tước binh quyền của Niên Canh Nghiêu, lùng bắt các chí sĩ càng nghiêm ngặt hơn, y biết ở Mang Sơn có anh hùng hào kiệt tụ hội liền phái đại quân bao vây, may mà Lữ Tứ Nương biết được tin này đã đưa mọi người đến Thiên Sơn”. Đường Hiểu Lan nói: “Sắp xếp rất tốt, nửa đời họ gặp hoạn nạn, cũng nên an hưởng tuổi già. Võ tiền bối, ông gặp Lữ Tứ Nương ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Ở gần kinh thành. Lữ Tứ Nương muốn vào kinh ám sát Ung Chính nhưng trong cung canh gác nghiêm ngặt, chẳng có cơ hội ra tay. Ta vốn muốn đi tìm Lý Trị, gặp Lữ Tứ Nương mới biết họ đã đi Tứ Xuyên”. Phùng Anh nói: “Vậy mẹ của vãn bối lúc này ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Họ chia nhau lên đường, ta đi trước dò đường, đêm qua đi ngang qua Tung Sơn, họ đang ở một nơi dưới chân núi”. Phùng Anh cả mừng, lập tức cùng Đường Hiểu Lan đến gặp mẹ.


Lại nói Lý Trị và bọn Quan Đông tứ hiệp đi được hơn một tháng đến Mang Sơn, nhưng thấy trên núi là một đống đổ nát hoang tàn, ai nấy đều trợn mắt há mồm, tưởng rằng Mang Sơn cũng bị hỏa thiêu như chùa Thiếu Lâm, Phùng Lâm và Lý Trị càng lo hơn, chợt nghe trong đám cây xum xuê um tùm chim chóc bay lên, trong chớp mắt nghe tiếng vù vù, chỉ thấy hai con chim đại bàng một trắng một đen dang cánh chao lượn trên đầu họ, Huyền Phong kêu: “Đây là hai con chim đại bàng của Độc tý thần ni, không ngờ đến nay vẫn còn sống”. Hai con chim đại bàng lượn một hồi rồi bay xuống núi. Mọi người chạy theo hướng chim bay, đi qua nơi góc hẹp, chợt thấy rộng rãi, trước mắt toàn là hoa dại, trên núi đối diện có dòng thác buông xuống, Huyền Phong nói: “Từ nơi này đi tiếp chính là mộ địa của Độc tý thần ni. Chắc là nơi này thấy núi hiểm yếu, bọn quan quân không thấy ai vả lại chẳng thấy nhà cửa nên không phóng hỏa”. Khi đang nói chợt nghe một tràng cười dài, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã xuất hiện, cười rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là các vị”. Đường Hiểu Lan cũng bước ra gặp gỡ mọi người, ai nấy đều mừng rỡ.


Lữ Tứ Nương nói: “Tháng trước Mang Sơn đã bị hỏa thiêu, bọn quan quân thấy trên núi không có ai, sau khi phóng hỏa đã bỏ đi. Lăng mộ sư phụ tôi vẫn nguyên vẹn, đúng là may mắn. Tôi liệu rằng Phùng Anh sẽ trở về nên một mình lên Mang Sơn đợi mọi người, không ngờ Hiểu Lan và Phùng Anh đến trước”.


Mọi người trò chuyện một hồi, Huyền Phong hỏi: “Nữ hiệp vừa từ kinh thành trở về, chắc có tin tức gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tin tức thì có nhưng chắc là mọi người đã đoán ra”. Huyền Phong nói: “Có phải Niên Canh Nghiêu bị xử tử không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau khi Niên Canh Nghiêu bị áp giải về kinh, tấu chương vạch tội của tướng quân thành Hàng Châu Lục Hổ Thần cũng được dâng lên, đúng là dậu đỗ bìm leo, các đại thần trong triều đều dâng sớ hạch tội Niên Canh Nghiêu, tính ra y có chín mươi hai tội!” Phùng Lâm lè lưỡi kêu: “Ồ, nhiều đến thế ư!” Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đích thân ra chỉ dụ, bảo rằng y có năm tội đại nghịch, chín tội khi quân, mười sáu tội lạm quyền, ba mươi tội cuồng vọng, sáu tội ngang ngược, mười tám tội tham ô, sáu tội đố kỵ, mười lăm tội đục khoét, bốn tội tàn nhẫn, vì thế Ung Chính đã ra lệnh xử trảm Niên Canh Nghiêu”.


Sau khi giết Niên Canh Nghiêu, Ung Chính sợ có thích khách hành thích, không những cho canh phòng nghiêm ngặt hơn mà còn cấm ngặt cả những hoạt động trong cung, hàng đêm phải thay đổi chỗ ngủ, lúc nào cũng lo lắng đề phòng.


Nhưng là một Hoàng đế như thế thật đau khổ. Hơn nửa năm sau, Ung Chính thấy yên bình chẳng có việc gì nên định cấm thả lỏng, thời gian qua mau, đông đi thu đến, đã đến ngày tết, trong chớp mắt lại đến tết nguyên tiêu, mẹ ruột của Ung Chính vốn là một phi tử của Khang Hy, nay đã là thái hậu. Nửa năm qua ngồi bó gối trong cung, rất khó chịu, nhân lúc nguyên tiêu sắp đến lại liền bỏ Ung Chính bỏ lệnh cấm. Ngoài các nhạc sư cung đình, có thể gọi thêm cao thủ giáp vườn bên ngoài vào diễn, lại còn cho phép các bối lạc thân cận đến góp vui. Ung Chính nghĩ, những người có thể đối chọi với mình đều đã bị trừ, những kẻ còn lại không dám hai lòng, thế là bỏ lệnh cấm. Tin tức này rất bí mật, đến trước đêm nguyên tiêu mới báo cho các bối lạc biết. Điều đó khiến một người mừng hơn.


Người này chính là thân vương Dận Anh, con thứ mười sáu của Khang Hy. Y là huynh đệ cùng cha cùng mẹ với Ung Chính, trong số các bối lạc, tuổi tác nhỏ nhất, cho nên khi Khang Hy còn sống, y không tranh giành ngôi báu cho nên giữ được mạng.


Dận Anh trẻ tuổi thích chơi bời, cũng thích luyện võ, một tháng trước, có người tiến cử một võ sư cho y, người võ sư này thân hình bình thường, mặt mũi không có gì lạ, Dận Anh không tin y có bản lĩnh, nhất thời nổi hứng tỉ thí với y, quyền cước vừa mới chạm vào người y đã bị y quật ngã. Người ấy tự xưng là Đường Long, không những tinh thông võ công mà còn giỏi các tạp nghệ, Dận Anh rất thích, giữ luôn y trong phủ. Ung Chính bỏ lệnh cấm, Dận Anh hỏi Đường Long có trò gì hay không, Đường Long đáp: “Có, có!” rồi lập tức trổ tài. Dận Anh thích lắm, Đường Long lại bảo phải mời thêm vài trợ thủ, Dận Anh cũng chấp nhận.


Trong đêm nguyên tiêu, cấm thành treo đèn kết hoa, cực kỳ náo nhiệt, trong ngự hoa viên đã dựng hí đài, các hoàng thân quốc thích ngồi xung quanh, bên hí đài còn bắt một khán đài, Ung Chính và các phi tần cùng thái hậu ngồi trên đài thưởng thức.


Thái hậu rất thích các loại tạp kỹ, hễ thấy trò nào hay là thưởng tiền, đến khi đám người của Dận Anh lên đài, thái hậu càng vui hơn, cười nói với Ung Chính: “Tiểu đệ của con xưa nay thích bày trò, xem thử hắn có gì hay?”


Chỉ thấy đám người ăn mặc lòe loẹt lên đài, thái hậu hỏi: “Diễn tuồng gì mà ăn mặc kỳ quặc đến thế?” Dận Anh trả lời: “Không phải diễn tuồng mà là tạp kỹ”. Ung Chính giật mình, nhưng thấy hai người đứng trên đài, kéo tay so vai, một người nhảy lên, hai chân đạp lên hai vai của hai người này, một người nữa lại nhảy lên vai của người lúc nãy, Ung Chính nói: “Công phu của bọn người này thật giỏi...” nói chưa dứt lời, chỉ thấy một hán tử người thấp bé cuối cùng nhảy vọt lên, trên đầu đặt một cái bát nước, hai tay cũng cầm hai cái bát nước, y hơi nghiêng người, nước trong ba cái bát sánh ra ngoài, chứng minh trong bát chứa đầy nước. Chỉ thấy y vung hai tay, hai cái bát nước bay lên không trung, lại ném vù ra hai sợi dây màu cuộn lấy bát nước trên không trung, không những bát nước trên đỉnh đầu chẳng rơi ra giọt nào mà cả hai bát nước trên không trung cũng hạ xuống đất không vãi ra một giọt nước.


Trong tiếng reo hò, người ấy lại múa sợi dây, hai bát nước bay lượn, càng lúc càng nhanh, thái hậu cao giọng khen hay, người ấy buông tay. Bát nước quay hai vòng trên đỉnh đầu của y, y lại đưa tay chụp đoạn giữa của sợi dây màu, vừa múa sợi dây vừa xoay bát nước, thái hậu khen liền miệng. Ung Chính ngưng thần nhìn kỹ, không hề reo hò, chợt hỏi Dận Anh: “Những người này vốn là trong phủ của đệ phải không?” Dận Anh đang ngưng thần xem, không kịp trả lời, chỉ thấy sợi dây chợt chuyển hướng trên không trung, xếp thành bốn chữ “Thiên hạ thái bình”, thái hậu mừng rỡ nói: “Đúng là thần kỹ, thưởng tiền!” thái giám liền vãi hai nắm bạc trên sân khấu, Ung Chính chợt kêu lên: “Bắt những kẻ này xuống tra hỏi!”


Bạc bay như mưa lên hí đài, người xem bên dưới lại reo hò ỏm tỏi, tiếng hét của Ung Chính khiến mọi người đều thất kinh, tiếng reo hò ngừng lại, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy hán tử người thấp bé vung sợi dây kêu vù một tiếng, hai luồng bạch quang bay tới như điện xẹt lướt vào mặt Ung Chính. Té ra trong sợi dây màu có giấu hai mũi trủy thủ.


Ung Chính đã đề phòng trước, sau khi quát một tiếng thì người đã lách vào trong đám phi tần, hai mũi trủy thủ đâm vào xương vai của hai ả phi tần, đột nhiên tiếng kêu kinh hãi vang lên, hoàng thái hậu bất tỉnh, các phi tần phát hoảng dồn vào nhau. Trong khoảng sát na này, hán tử lại vọt người lên, lao bổ lên khán đài như một con chim, ba bát nước đều tạt vào người Ung Chính, Ung Chính chẳng mở mắt ra nỗi, chỉ thấy một luồng hàn phong quét tới, khí lạnh căm căm, một thanh đoản kiếm bén ngót đã chạm vào lưng.


Nhưng trái lại Ung Chính rất lanh lẹ, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, y co hai tay kéo hai ả phi tần đẩy ra sau lưng mình, hán tử rút tay không kịp, thấy hai người phụ nữ yếu ớt đổ máu, vừa kinh vừa giận, quát lớn một tiếng rút kiếm lao bổ tới, Ung Chính đã phóng người lên lan can lầu.


Hán tử chính là Cam Phụng Trì. Chàng lẫn vào trong phủ Dận Trinh, khó khăn lắm mới chờ được cơ hội, nào có thể bỏ qua, biết rõ cực kỳ nguy hiểm nhưng cũng đuổi theo không rời.


Bốn người đi cùng Cam Phụng Trì chẳng phải ai khác mà chính là Đường Hiểu Lan, Lý Trị, Bạch Thái Quan và Ngư Xác. Họ chậm một bước, đã bị bọn lính dưới hí đài chặn lại, Cáp Bố Đà múa cây trùy Lưu Tinh, Hàn Trọng Sơn rút cây tị vân trợ, trong lúc gấp gáp, bọn họ chẳng thể nào xông ra được.


Đường Hiểu Lan nóng lòng, lia cây Du Long kiếm một vòng, kêu một tiếng, ánh lửa tóe ra, cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn đã bị chặt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, té ra là ngươi, phản nghịch thật lớn gan!” tuy Đường Hiểu Lan có kiếm bén nhưng công lực lại không đủ, bị y đẩy lùi hai bước. Một tên lính phía sau múa hỗn nguyên thiết bài bổ xuống đầu chàng, chợt bị Lý Trị đâm xéo một kiếm, cái thiết bài vọt khỏi tay bay ra, đánh trúng một tên khác.


Lý Trị lại múa tiếp thanh kiếm, đâm thêm hai tên lính nữa. Cáp Bố Đà múa chùy nghênh địch, Lý Trị dùng đoản kiếm nên không áp sát vào được, bị hai cái chùy Lưu Tinh của y dồn ép nên không thể thi triển thân thủ.


Bạch Thái Quan thấy Cam Phụng Trì đã phóng lên Thưởng âm các rồi mất dạng, cũng không nghe thấy tiếng chém giết, lại không thấy bóng người nên càng lo hơn. Chàng phóng ra mai hoa trâm, tuy đả thương được vài người nhưng Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới, vận chưởng lực dồn ép chàng. Đang lúc căng thẳng tột độ, chợt nghe thấy một tiếng kêu, chỉ thấy từ Thưởng âm các có người nhảy ra như sao sẹt, ngã xuống dòng Ngự Hà.


Bạch Thái Quan kinh hoảng kêu: “Không xong, thất ca bị hại!” chỉ nghe trên lầu vang lên tiếng cười ha hả, Ung Chính lại bước ra, cao giọng quát: “Cam Phụng Trì hôm nay đã bị giết, trẫm mở lượng khoan thứ, những kẻ phản nghịch còn lại nếu bỏ binh khí đầu hàng có thể miễn tội”. Ngư Xác cả giận quát: “Ai tin lời ngươi!” rồi vung đao chém tới, chặt một tên lính thành hai đoạn, khi vung tiếp đao thứ hai thì đã bị Hàn Trọng Sơn vung trợ chặn lại.


Ung Chính cười ha hả, kêu lớn: “Giết chết bọn phản nghịch cho trẫm!” chỉ nghe một tiếng “lãnh chỉ” trong Thưởng âm các lại có một người phóng ra, tay múa cây phất trần từ trên không đánh xuống, phất trần vừa triển khai, lập tức đã cuộn cây đao của Ngư Xác kéo lên không trung, Đường Hiểu Lan thất kinh, vẫy nhẹ cây Du Long kiếm, sử dụng tuyệt chiêu Đại Mạc Lưu Sa trong Thiên Sơn kiếm pháp, chỉ thấy khắp người toàn là kiếm quang, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của chàng lợi hại không dám đánh tới mà lướt ra phía sau Bạch Thái Quan thi triển đòn sát thủ!


Bạch Thái Quan xoay bước lướt qua một bên, chợt trở tay phóng tới một nắm Mai Hoa châm, ánh ngân quang loang loáng, toàn bay vào mặt của Ngạch Âm Hòa Bố, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần lên một vòng, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, toàn bộ số mai hoa trâm đã bị y cuộn mất.


Lý Trị thấy thế không xong, vung kiếm đâm vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần, nào ngờ kiếm của Lý Trị rõ ràng là đâm vào bên trái nhưng chợt xoay một vòng đâm sang bên phải, Ngạch Âm Hòa Bố khom người mới tránh được. Lý Trị vung kiếm đâm tiếp, Thiên Diệp Tản Nhân bất ngờ phóng ra đẩy hai chưởng như sấm sét, Lý Trị bất đồ thoái lui hai bước, Ngạch Âm Hòa Bố vươn người quét phất trần đánh vù một tiếng chụp xuống đầu chàng.


Đang lúc nguy cấp, chợt nghe một tiếng quát trong trẻo từ trên không vọng xuống, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Thượng nhân cẩn thận, ả tiện tì lại tới!” nói chưa dứt lời, ở góc ngự hoa viên lại có mấy người nữa phóng ra, nhìn kỹ lại thì ra đó là ba thiếu nữ, quần áo của các nàng phấp phới tựa như thiên tiên. Ba người này chính là Lữ Tứ Nương, Phùng Anh và Phùng Lâm.


Ngạch Âm Hòa Bố kêu mộ tiếng không xong, chạy đến chặn lại, Đường Hiểu Lan đã kêu lớn: “Ung Chính đang ở Thưởng âm các”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân phóng vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lao lên lan can lầu, nhảy vào trong các, nhưng chẳng thấy ai, nàng vừa vào bên trong đã đánh một chiêu Dạ Chiến Bát Phương, lập tức đảo người vọt trở ra, tên bay tới như mưa nhưng vẫn bị nàng chặt gãy cả.


Phùng Anh và Phùng Lâm đi sau một bước, vừa vặn chạm phải Ngạch Âm Hòa Bố, Phùng Anh lia cây đoản kiếm nhanh như điện chớp, một chiêu hai thức, vừa điểm vào mặt, vừa đâm vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố xoay người theo kiếm thế, cây phất trần đánh xéo ra, tay phất trần chụp tới, y ra tay đến mức khó hình dung. Phùng Anh không hề lo lắng, nàng chỉ lấy tĩnh chế động, chỉ hơi lách người, kiếm quang chợt tỏa ra, liên tục dùng hai chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Phi Vân Ma Điện, cây kiếm của nàng đâm xuyên qua màng lướt của phất trần, xỉa vào huyệt Kỳ Môn dưới hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh thông như thế, phất trần vừa thu, chưởng lực đã phát ra ngoài, chỉ thấy ánh ngân quang lướt tới kêu lên vù vù, Phùng Anh liên tục dùng kình lấy nhu chế cương, cắt đứt một đoạn phất trần của Ngạch Âm Hòa Bố nhưng cũng bị chưởng lực của y đánh lảo đảo.


Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Anh múa kiếm đâm vào huyệt Mệnh Môn của Ngạch Âm Hòa Bố. Ngạch Âm Hòa Bố thấy thế thất kinh, vội vàng vận nội gia chân lực đánh ra một chưởng hoành giá kim lương, toan đánh vỡ xương cổ tay của Phùng Lâm, nào ngờ Phùng Anh vừa đứng vững thì đã quét kiếm tới, nội công của Phùng Anh cao hơn Phùng Lâm, trong tay nàng lại có thanh bảo kiếm, Ngạch Âm Hòa Bố không dám đánh liều, chỉ đành vận chưởng đánh ngược về phía Phùng Anh, nội công của y cao hơn Phùng Anh, Phùng Anh cũng không dám tiếp, chỉ lách người lướt bước nhảy qua một bên, Ngạch Âm Hòa Bố đã định đuổi theo, Phùng Lâm lại đâm vào huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy của y, Ngạch Âm Hòa Bố tức đến nỗi kêu lên oai oái, nhưng chẳng làm cách nào, chỉ đành thu phất trần rút chưởng phòng thủ huyệt đạo.


Lúc này Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi Thưởng âm các, thấy Ngạch Âm Hòa Bố đang giằng co với chị em họ Phùng, liền múa kiếm xông vào bọn lính, lớn giọng quát: “Chạy mau, Ung Chính đã thoát”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp...” Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca đã mất tích, hôm nay chúng ta coi như thất bại”. Ngư Xác lúc này đã cướp được một cây hoa thương, lao về phía trước nói: “Được, giết được tên nào hay tên ấy, chúng ta báo thù cho Cam đại hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca chưa chắc gặp bất trắc. Chúng ta phải xông ra trước”. Nàng vừa nói vừa lia kiếm, bọn lính áp sát với nàng đều bị gãy chân què tay, đầu rơi máu chảy!


Hàn Trọng Sơn cả giận nhảy lên đánh ra một chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh bổ xuống đầu Lữ Tứ Nương, nàng lia xéo thanh kiếm dẫn cây trợ của Hàn Trọng Sơn ra ngoài, rồi trầm cổ tay xuống, kiếm chiêu lại phát ra, Cáp Bố Đà kêu: “Không xong!” rồi vội vàng múa cây truỳ đánh tới, nào ngờ Lữ Tứ Nương nhanh đến khó hình dung, chùy của Cáp Bố Đà rõ ràng là đã bổ vào đầu nàng, không ngờ nàng lại lách qua, cổ tay trầm xuống, thanh kiếm lướt xéo lên kêu soạt một tiếng, chém đứt hai ngón tay của Hàn Trọng Sơn, cây tị vân trợ bay ra trúng vào một tên lính, tiện đứt đôi người y.


Lúc này công lực của Lữ Tứ Nương đã cao hơn Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn không biết tưởng rằng nàng cũng như trước, thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương dù kiếm pháp tinh diệu, nhưng công lực cũng kém mình”. Nào ngờ y tính sai, phòng thủ sơ hở cho nên vốn có thể đánh được năm mươi chiêu, nào ngờ trong vòng ba mươi chiêu đã bị thương. Cáp Bố Đà thấy Hàn Trọng Sơn bị thương cả kinh xoay người bỏ chạy. Thiên Diệp Tản Nhân không dám ham đánh, chỉ đành hiểm hộ Hàn Trọng Sơn lui xuống.


Bọn Cáp Bố Đà vừa lui, bọn lính cũng chẳng dám đuổi theo, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh lao ra, Ngạch Âm Hòa Bố một tay khó vỗ nên kêu, cũng không dám đuổi theo, vội vàng bảo bọn lính cứu chữa những kẻ bị thương còn mình thì vào cung gặp Ung Chính.


Lúc này Ung Chính đã nấp trong mật thất, số là y phòng bị cực kỳ cẩn thận, đã sớm bày binh bố trận ở Thưởng âm các, lại sắp đặt cơ quan, đào địa đạo thông vào cung, còn bảo bọn Ngạch Âm Hòa Bố mai phục ở đây. Cam Phụng Trì trong lúc nóng lòng đã đuổi vào Thưởng âm các, trúng ám toán còn Ung Chính thì chạy ra khỏi địa đạo.


Ngạch Âm Hòa Bố vào trong gặp Ung Chính, khấu đầu thỉnh tội. Ung Chính nói: “Ngươi cứu giá có công, có đáng tội gì? Trẫm chỉ hận tên tiểu súc sinh Dận Anh dám cho người đến ám toán trẫm”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Tiểu thân vương chưa chắc có ý này”. Ung Chính nói: “Dù y hữu ý hay vô ý, không thể không phạt. Giờ đây thái hậu vẫn còn đang hôn mê, ngươi hãy mau đi gọi tên tiểu súc sinh đến, nếu không thái hậu tỉnh dậy lại ngăn cản”. Ngạch Âm Hòa Bố kêu vâng một tiếng, đang định lui ra, Ung Chính lại nói: “Ngươi hãy cho người đến Ngự Hà tìm kiếm, xem thử Cam Phụng Trì đã chết hay chưa!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Y đã bị trúng tên, lại trúng một chưởng của nô tài, rơi xuống Ngự Hà dù không chết cũng không thể vận nội công, lúc này trời đang lạnh có lẽ y không chống chọi được”. Ung Chính nói: “Tuy nói thế nhưng thấy xác trẫm mới yên lòng”. Ngạch Âm Hòa Bố lại vâng một tiếng, nói: “Hoàng thượng còn có dặn dò gì không?” Ung Chính nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Dù có tìm được xác của Cam Phụng Trì hay không, ngươi cũng phải cho người phao tin Cam Phụng Trì đã bị chúng ta bắt sống”.


Sau một đêm, sáng mai Ung Chính hạ lệnh tra xét ở chín cửu vào thành Bắc Kinh, đồng thời phòng bị nghiêm ngặt hơn, cuối cùng chẳng bắt được một kẻ phản nghịch nào. Ung Chính đang lấy làm lạ, đến chạng vạng tối chợt có một tên nội giám vào báo: “Hầu Tam Biến xin gặp Hoàng thượng”.


Ngạch Âm Hòa Bố đứng một bên, nghe nói y cầu kiến thì chưng hửng, Ung Chính nói: “Gọi y vào”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Chỉ e có gian trá”. Ung Chính cười nói: “Trẫm đang muốn tương kế tựu kế, sợ gì gian trá”. Rồi hỏi nội giám: “Y thế nào rồi?” tên nội giám báo: “Y tự trói tay, xin gặp nội đình tổng quản, bảo rằng có việc cơ mật muốn bẩm với Hoàng thượng. Y còn mang theo một người bịt mặt, nghe nói bí mật là ở người này. Tổng quản không dám làm chủ, xin Hoàng thượng ra lệnh”. Ung Chính cười ha hả nói: “Gọi tất cả vào đây”.


Một lúc sau nội giám dắt Hầu Tam Biến và người che mặt vào, Ung Chính gằng giọng quát: “Hầu Tam Biến, ngươi còn có gan đến gặp ta sao?” Hầu Tam Biến dập đầu nói: “Nô tài đã biết lỗi, xin lấy công chuộc tội”. Ung Chính ừ một tiếng rồi nói: “Hay lắm! Trẫm xưa nay rộng lượng, nếu ngươi đã hối hận, trẫm sẽ cho ngươi một con đường sáng, nói đi!” Hầu Tam Biến nói: “Xin Hoàng thượng cho tả hữu lui ra”. Ung Chính cười lớn nói: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi sao?” Hầu Tam Biến nói: “Nếu Hoàng thượng nghi ngờ, xin hãy đâm thủng xương tỳ bà của nô tài”. Ung Chính nói: “Ngươi đã mau mắn như thế, ta cũng không cần đâm thủng xương tỳ bà của ngươi để ngươi khỏi tàn phế. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy phế võ công của hai người này!” Ngạch Âm Hòa Bố vâng một tiếng, lấy ra một cây kim dài khoảng một thước, ánh ngân quang loang loáng, y chẳng nói chẳng rằng đâm lên người Hầu Tam Biến và người che mặt ba mũi châm, rồi lập tức bóp vào lưng của mỗi người một cái, Hầu Tam Biến loạng choạng suýt nữa ngã xuống, người che mặt cũng lảo đảo, trên trán hai người đều toát mồ hôi, Ung Chính mỉm cười nói: “Được, giờ đây các ngươi tuy tạm thời chịu khổ, nhưng miễn khỏi tàn phế, từ rày về sau các người sẽ sống yên phận. Các người thấy trẫm có rộng lượng hay không?” Hầu Tam Biến khấu đầu nói: “Nô tài t

Khách vi

Anonymous
Khách viếng thăm

Hồi 48 Tam nữ giết rồng cuối cùng giải đại nạn Một phen bôn ba mỗi nhà kết lương duyên


Mọi người đánh lui bọn lính, vượt qua Cảnh Sơn, chạy như bay ra ngoại ô Bắc Kinh, đến lúc trăng lặng sao mờ, bóng đêm dần lui, họ đã lên đến Tây Sơn, nghỉ ngơi một hồi mọi người mới nhìn kỹ lại té ra Lữ Tứ Nương xách cái đầu của Hàn Trọng Sơn. Huyền Phong đạo trưởng chảy nước mắt, khóc không thành tiếng, Lữ Tứ Nương cũng im lặng rầu rĩ. Liễu Tiên Khai nói: “Thật đáng tiếc, tứ đệ đã chết. Tuy đã giết được tên này nhưng không đủ giải mối hận”. Lữ Tứ Nương nói: “Đáng tiếc tôi đến muộn một bước”. Đường Hiểu Lan càng thêm trách mình, nói: “Nếu chẳng phải tôi đã bị thương, Trần đại hiệp đã không dùng thân đẩy tấm sắt ngàn cân”. Lang Nguyệt thiền sư nói: “Nguyên Bá đã liều mình vì nghĩa, cũng không uổng danh hiệp khách. Chi bằng chúng ta hãy báo thù cho y”.


Té ra Trần Nguyên Bá tuy có sức mạnh trời sinh nhưng vì Hàn Trọng Sơn đè cái then xuống, cuối cùng chịu không nỗi, đã bị cánh cửa sắt sụp xuống đứt thành hai đoạn.


Đường Hiểu Lan nói: “Ung Chính thật nham hiểm độc ác, Trần đại hiệp hy sinh, Cam đại hiệp thì không biết sống chết ra sao, mối thù này không biết ngày nào mới trả được đây!” Lữ Tứ Nương nhìn lên trời hú dài một tiếng, rồi lại phát ra mấy mũi hưởng tiễn, Đường Hiểu Lan nhận ra đó là tín hiệu gọi đồng môn của Lữ Tứ Nương, hỏi: “Bạch Thái Quan ở đâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Họ đều ở đây. Chiều ngày hôm qua thất ca đã thoát hiểm trở về, tuy bị thương không nhẹ nhưng chẳng hề chi”. Đường Hiểu Lan trong lúc đau đớn, nghe tin mừng, bất giác nhảy bật lên: “Có thật không?” Lữ Tứ Nương chỉ tay nói: “Đệ nhìn xem”. Chỉ thấy ở lưng chừng núi, có hai người đang bước lên, đó chính là Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan.


Mọi người gặp nhau, Đường Hiểu Lan mới biết té ra Cam Phụng Trì rất cảnh giác, ngày hôm ấy vừa bước chân vào Thưởng âm các đã biết có điều khác lạ, lập tức vận chưởng lực đánh vỡ một góc, dù như thế nhưng vẫn trúng mấy mũi tên, sau lưng còn trúng một chưởng của Ngạch Âm Hòa Bố.


Cam Phụng Trì nói: “Chưởng lực của Ngạch Âm Hòa Bố thật kinh khủng, tôi trúng một chưởng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, suýt nữa đã ngất, sau khi rơi xuống dòng Ngự Hà, gặp phải nước lạnh nên tỉnh trở lại. May mà không ai đuổi theo”. Ngư Xác nói: “Lúc đó chúng tôi đang hỗn chiến trong vườn”.


Cam Phụng Trì nói tiếp: “Tôi tinh thông thủy tính, nhưng lúc đó xương cốt rã rời, chẳng có sức bơi ra, may sao có mang theo Trường Bạch sâm, tôi nhai một cây sâm, nằm nấp trong đám lau sậy, vận khí hành huyết, tự trị thương cho mình. Một canh giờ sau khí lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục nhưng đã có thể bơi dưới nước”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngự Hà thông ra ngoài hay sao? Dưới nước chả lẽ không có gì ngăn cản, đại hiệp làm sao bơi ra được?” Cam Phụng Trì nói: “May mà được một cung nữ chỉ đường”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Một cung nữ làm sao có bản lĩnh xuống nước cứu huynh?”


Cam Phụng Trì cười nói: “Không phải nàng cứu tôi mà tôi cứu nàng. Nàng vốn chẳng có bản lĩnh gì cả, khi tôi phát hiện nàng đã sắp chết”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên hỏi: “Có nghĩa là sao?” Cam Phụng Trì nói: “Tôi vốn định lặng xuống nước, nhưng bơi ra đến bên ngoài thì thấy dưới nước có mười mấy lớp lưới sắt, tôi biết bên trong chắc chắn có chứa cơ quan, đang lo lắng chợt thấy một cái xác trôi tới. Tôi bơi qua nhìn, chỉ thấy đó là một nàng cung nữ lớn tuổi, tôi nghĩ nàng trượt chân ngã xuống nước, bởi vậy mới kéo nàng vào, thấy nàng vẫn còn ấm cho nên dùng thuật Thôi Cung Quá Huyệt giúp nàng hô hấp, khi lúc mới tỉnh dậy nàng còn tưởng tôi là thị vệ trong cung, cho nên hoảng quá xin tôi ban cho toàn mạng. Tôi nói rõ thân phận cho nàng biết, bảo nàng không cần sợ. Hỏi nàng tại sao rơi xuống nước, té ra nàng vào cung đã hơn hai mươi năm, chưa từng gặp qua Hoàng đế”. Huyền Phong nói: “Có chuyện đó nữa sao?” Cam Phụng Trì nói tiếp: “Cung nga này đã hơn bốn mươi tuổi, theo lệ cũ trong cung đình, lẽ ra đã được thả cho về, để nàng tự tìm người gá nghĩa, nhưng nàng không có tiền cho thái giám quản sự, chẳng ai để ý đến nàng, để nàng tự sinh tự diệt. Nàng đã lớn tuổi, thường bị bức hiếp, không chịu khổ nỗi nên nhảy xuống nước tự sát. Tôi lại hỏi có cách gì ra ngoài không, nàng chợt nhớ hai mươi năm trước khi còn trẻ tuổi xinh đẹp, rất thân thiết với một tiểu thái giám. Trong cung cũng có người chuyên quản lý Ngự Hà, tiểu thái giám chính là người coi sóc Ngự Hà. Nàng còn nhớ y đã cho nàng biết một chuyện, đó là trong Ngự Hà có một nơi cho nước bên ngoài vào, bên dưới có một chỗ khuyết, không có lưới sắt ngăn chặn, được đóng mở bằng cửa sắt, mỗi sáng cửa sắt mở một lần, họ thường chui qua nơi ấy ra ngoài cung, nhưng không biết giờ đây thế nào. Chúng tôi thử xem, tôi đưa nàng bơi về phía trước, nằm yên chờ đợi, đến thời khắc thì lặn xuống nước, quả nhiên tấm cửa sắt mở ra đúng giờ, chúng tôi dễ dàng thoát ra. Tôi nhân lúc sắc trời chưa sáng, đến nhà phú hộ đánh cắp một bộ quần áo, lại trộm một ít bạc cho nàng, để nàng tự chạy thoát. Chuyện sau này bát muội đều biết”.


Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó thất ca đến tìm chúng tôi, y tuy bị thương nhẹ nhưng nguyên khí đã tổn thương, võ công chưa hồi phục, bởi vậy tôi kêu ngũ ca đưa y lên Tây Sơn, sau đó vào cung cứu các người”.


Phùng Lâm nghe thế, vỗ tay khen rằng: “Vậy chúng ta lại lẻn vào cung bằng đường ấy!” Lữ Tứ Nương lắc đầu: “Ung Chính rất lợi hại! Y đã phát hiện thất ca mất tích trong Ngự Hà, chắc chắn sẽ tra xét. Vả lại dù có lẻn được vào bên trong cũng không biết Ung Chính nấp ở đâu. Chúng ta lại không thể ở trong cung chờ đợi cơ hội, chỉ lẻn vào được một hai lần có ích gì!”


Phùng Lâm lẩm bẩm: “Không thể ở trong cung?” rồi reo lên: “Muội có cách!” Lữ Tứ Nương nói: “Muội có cách gì thế?” Phùng Lâm nói: “Thiên cơ không thể lộ, muội đã nghĩ được một cách, tỉ kề tai qua đây”. Lữ Tứ Nương nghe nàng thì thầm bên tai, lúc đầu thì hừ một tiếng, sau đó lại gật đầu: “Giỏi lắm!” Mọi người thấy nàng mỉm cười, đều ngạc nhiên.


Sau chuyện ấy, Ung Chính càng thêm lo lắng, nghe báo lại bọn người Lữ Tứ Nương đã xông ra khỏi thành nên mới yên lòng, có điều vẫn canh phòng cẩn mật hơn.


Nửa năm trôi qua, sóng yên gió lặng, Ung Chính thầm nhủ: “Chắc đám người này biết lợi hại không đến nữa. Trẫm thân là thiên tử, vì sợ thích khách nên không dám xuất hiện ở chỗ đông người, cả trong cung cũng không dám tự do đi lại, làm Hoàng đế như thế có ý nghĩa gì nữa”. Y thấy chẳng có việc gì xảy ra nên mới yên tâm, bắt đầu tự đi lại trong cung.


Theo lệ cũ của triều đình, cứ mỗi ba năm thay một tốp cung nga, nhận tốp mới bù vào tốp cũ, những cung nga mới được chọn vào cung gọi là tú nữ. Sau khi được chọn vào cung, tú nữ sẽ được chia cho các phi tần, gọi là cung nga, nếu Hoàng đế thấy hợp ý mới phong làm quý nhân, rồi được thăng làm quý phi, nhưng cung nga vô số, đâu phải ai cũng có thể gặp được Hoàng đế.


Một buổi tối nọ, Ung Chính rãnh rỗi chẳng có chuyện gì, nhớ lại ba tháng trước đã từng chọn một đám tú nữ, không biết trong đó có ai xinh đẹp hay không liền bảo nội giám đưa danh sách và hình vẽ của tú nữ lên cho mình xem, y chợt thấy có một tú nữ tướng mạo rất giống Phùng Lâm, giật thót mình, khi nhìn kỹ lại tên họ quê quán mới biết là con gái của một nhà bình thường ở Nam Xương, tên gọi là Lâm Chỉ, bất giác thầm cười: “Tú nữ được các châu huyện chọn lựa, lại được các khâm sai kiểm tra, cuối cùng mới được tổng quản nội vụ trong cung sát hạch mới được cho vào cung, làm sao có thể là giả! Quả là ả tú nữ này tuy giống Phùng Lâm nhưng làm sao bằng nàng?” Ung Chính ngồi trầm ngâm, nhớ lại chuyện năm xưa, bóng dáng yêu kiều của Phùng Lâm như hiện ra trước mắt, bất giác thở dài nói: “Một mỹ nhân xinh đẹp như thế, đáng tiếc đối chọi với trẫm”. Nhìn lại bức tranh vẽ nàng tú nữ tên gọi Lâm Chỉ, bên dưới có chú thích rằng: “Ban cho Lưu quý nhân Thúy Hoa cung sử dụng”. Ung Chính trầm ngâm một lúc, gấp bức tranh lại rồi bảo Cáp Bố Đà cùng mình đến cung Thúy Hoa.


Nơi ở của các quý phi được gọi là cấm uyển, thị vệ trong cung chỉ có thể canh bên ngoài, nếu không có lệnh của Hoàng đế không được vào trong. Ung Chính kêu Cáp Bố Đà đứng chờ mình bên ngoài, còn mình thì tự vào trong cung.


Cung Thúy Hoa được xây dựng sau khi Ung Chính lên ngôi, trong sân cây cối lưa thưa, còn có một hồ sen, lãnh cung trước đây nằm bên phải của Thúy Hoa cung, sau khi được cải tạo cũng xếp vào cung Thuý Hoa. Ung Chính chậm rãi bước tới, chỉ thấy ánh trăng mờ ảo, gió thổi hương sen tới, thơm đến tận gan ruột. Y bước đến gần hồ sen, chợt nghe có tiếng thở dài, chỉ thấy bên hồ sen có một bóng người mảnh khảnh. Ung Chính khẽ bước tới gần, hạ giọng hỏi: “Ngươi có phải là tú nữ mới vào hay không, tại sao thở dài?” ả cung nga quay đầu lại, Ung Chính giật mình, hỏi: “Ngươi có phải là Lâm Chỉ không?” so với bức tranh nàng đẹp hơn nhiều, nhưng vẫn không bằng Phùng Lâm, trên mặt còn có một nốt ruồi đen. Ung Chính thầm nhủ: “Quả nhiên là giống, nếu không có nốt ruồi này trẫm cứ tưởng nàng là Phùng Lâm”. Nàng tứ nữ đưa mắt nhìn lại, mỉm cười nói: “Nô tì chính là Lâm Chỉ, đã làm phiền Hoàng thượng bận lòng”. Nàng mỉm cười, bên má trái xuất hiện một lún đồng tiền.


Ung Chính giật mình, thoái lui hai bước rồi mới bước tới trước, đưa tay nắm tay nàng cười nói: “Nàng đúng là giống một người”. Té ra Ung Chính rất tinh tế, từ nhỏ Phùng Lâm lớn lên trong phủ của y, y để ý khi Phùng Lâm cười, bên má phải xuất hiện một lún đồng tiền, nhưng nàng tú nữ này lại có lún đồng tiền bên trái.


Tú nữ hỏi: “Giống ai?” khi Ung Chính đưa tay ra, nàng đột nhiên trở tay chụp cổ tay của y, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tay phải của nàng điểm vào hai mắt của y. Chiêu này là Cầm Nã thủ phối hợp với thuật điểm huyệt.


May mà Ung Chính được Thiếu Lâm tam lão truyền võ công, sau khi làm Hoàng đế cũng cố gắng rèn luyện, cho nên trong lúc nguy ngập đã sử dụng chiêu thức cứu mạng của La Hán thần quyền, y rút cánh tay về phía sau rồi hụp người xuống tránh đòn, Ung Chính biến chiêu thật nhanh, nàng tú nữ ấy chụp không được, trái lại bị y kéo về phía trước hai bước, Ung Chính quát lớn, quyền trái đấm ra nhanh như sấm sét, không ngờ quyền phong nổi lên, bóng người đẹp mất dạng. Khinh công của nàng thiếu nữ đã lên đến mức lưu hỏa thuần thanh, nhân lúc quyền phong nổi lên, nàng đã lướt người ra, người đang ở trên không trung thì kiếm đã rút ra khỏi vỏ, từ trên không trung vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm xuống. Ung Chính la lớn: “Cáp Bố Đà mau cứu giá!” rồi thi triển quyền cước, vừa đánh vừa lui, chỉ trong chớp mắt đã tránh được ba chiêu, kiếm pháp của nàng tú nữ lợi hại lạ thường, trong vòng mấy chiêu chưa đắc thủ nhưng kiếm quang cứ loang loáng tựa như tiên nữ rãi hoa, hoàn toàn chặn đường rút lui của Ung Chính.


Nàng tú nữ này chính là Phùng Anh, nàng và Phùng Lâm, Lữ Tứ Nương giả mạo làm tú nữ lẻn vào cung. Té ra sau lần đại náo hoàng cung, Phùng Lâm nghe Cam Phụng Trì kể chuyện nàng cung nữ nhảy xuống nước tự sát, nàng chợt nghĩ ra một diệu kế. Cứ ba năm chọn tú nữ một lần, năm nay chính là lúc chọn lựa, nhà có con gái không luận giàu nghèo đều tìm cách trốn tránh, hoặc lập tức gả chồng hay mua chuộc quan lại đã nhờ người mạo danh thay thế. Bọn Lữ Tứ Nương giả thành con gái nhà nghèo, ngồi đợi chọn lựa, với nhan sắc của họ, đương nhiên được chọn ngay.


Họ lại dùng thuật dị dung thay đổi gương mặt của mình, vào cung lại cố ý mua chuộc họa sư, nhờ họa sư đừng vẽ họ quá giống với mặt thật. Ung Chính đang lo sợ bị ám sát nên họ vào cung cả ba tháng mà cũng chưa gặp Hoàng đế. Không ngờ hôm nay thần sai quỷ khiến, Ung Chính tự dẫn xác đến cung Thúy Hoa gặp phải Phùng Anh.


Cáp Bố Đà đứng bên ngoài nghe Ung Chính kêu cứu, lật đật nhảy qua tường chạy vào cứu giá, chợt thấy có một bóng người lướt tới, té ra đó là một cung nga. Y định ném chùy Lưu Tinh ra, chợt nghe tiếng u u vang lên, ả cung nga vung tay, một luồng ô quang bay xẹt tới. Đó chính là Đoạt Mệnh thần đao của Phùng Lâm.


Cáp Bố Đà lách người, hai chùy múa tiếp đánh rơi hai mũi phi đao.


Nhưng tuy là vậy, đà lao tới của y đã bị chặn lại. Phùng Lâm lập tức rút kiếm đâm vào cổ họng của y. Cáp Bố Đà xoay người như cơn gió lốc, hai chùy đánh ra liên hoàn, nhưng không ngờ thân pháp của Phùng Lâm lanh lẹ lạ thường, chỉ thấy nàng xoay người theo kiếm, rồi hụp người xuống lướt qua hai trùy, đâm xoạt xoạt hai kiếm vào bụng của y. Cáp Bố Đà cả kinh, không ngờ võ công của Phùng Lâm lại tiến bộ nhanh đến thế, thế là tay trái quét chùy trên không trung đánh ra một chiêu Tuyết Hoa Cái Đỉnh, tay phải quét xuống đất đánh ra một chiêu Khô Thụ Bàn Căn, bảo vệ toàn thân. Kiếm pháp của Phùng Lâm tuy tiến bộ nhiều nhưng công lực rốt cuộc chẳng bằng y, bởi vậy chẳng áp sát tới được.


Nhưng Cáp Bố Đà bị nàng chặn lại, trong nhất thời cũng không thoát ra được. Chỉ nghe Ung Chính liên tục kêu cứu, đã nghe văng vẳng tiếng kiếm phong. Cáp Bố Đà nôn nóng, múa hai cây trùy, đột nhiên ném chùy trái ra đánh vù một tiếng, Phùng Lâm vội vàng lách người thoái lui, Cáp Bố Đà lấy ra hai trái cầu tròn đen thui phóng lên không trung, phát ra tiếng kêu quái dị, Phùng Lâm biết đó là tín hiệu gọi bọn Huyết Trích Tử, liệu rằng Phùng Anh chắc chắn đã gặp phải Hoàng đế, nếu không Cáp Bố Đà không nôn nóng như thế, vì thế không đợi Cáp Bố Đà xông lên đã lập tức chạy về phía nơi Ung Chính kêu.


Khinh công của Cáp Bố Đà không bằng Phùng Lâm, trong lúc vội vàng đã phóng ra hai cái Huyết Trích Tử, Phùng Lâm không thèm quay đầu, trở tay phóng ra hai mũi phi đao đánh rơi Huyết Trích Tử. Đang lúc đắc ý, chợt nghe tiếng cười ha hả, một bóng người từ trên cây nhảy xuống, chợt thấy đó là một Phiên tăng mặc áo cà sa màu đỏ, người đó chẳng phải ai khác mà chính là Ngạch Âm Hòa Bố, y phất ống tay áo đánh lui Phùng Lâm ba bước. Cáp Bố Đà cả mừng, kêu: “Đây là người Hoàng thượng cần bắt, đừng buông tha cho ả”. Y biết võ công của Ngạch Âm Hòa Bố cao cường, Phùng Lâm không thể thoát khỏi tay y nên một mình đi cứu Ung Chính.


Nhưng nào ngờ võ công của Phùng Lâm tuy không bằng Ngạch Âm Hòa Bố nhung nàng thông hiểu các loại võ công tà phái, nàng biết yếu huyệt của y, Ngạch Âm Hòa Bố liên tục tấn công ba chiêu, nàng đều né tránh, cây bảo kiếm đâm ra liên tục, bên trên đâm vào huyệt Ly Hỏa, bên dưới đâm vào huyệt Khảm Thủy, Ngạch Âm Hòa Bố kiên dè nên trong nhất thời chẳng làm gì được nàng. Nhưng võ công của Phùng Lâm dẫu sao cũng kém y, tuy thông hiểu phương pháp đánh huyệt của Hồng giáo Tây Tạng nhưng cũng không thể tiến tới gần.


Trong cung Thúy Hoa, cây kiếm của Phùng Anh tựa như con ngân xà chặn Ung Chính, kiếm này hết kiếm khác tựa như cứ gâm Ung Chính lên vách tường. Cáp Bố Đà phóng tới, quét cái chùy Lưu Tinh đánh keng một tiếng, trúng vào thanh kiếm của Phùng Anh, lửa bắn ra tung tóe. Cái độc chùy của Cáp Bố Đà bị chém làm đôi, nhưng Phùng Anh cũng thoái lui ba bước. Cáp Bố Đà liều mình múa chùy đánh tới, lúc này võ công của Phùng Anh chẳng kém gì Cáp Bố Đà, khinh công lại trên y, nhưng nàng muốn lấy mạng Ung Chính nên không rảnh giằng co với y, mũi kiếm chuyển qua đánh hờ một chiêu, đột nhiên nàng lướt người lên, Cáp Bố Đà quét tới một trùy, thấy người nàng lơ lửng trên không trung chân đạp vào chùy nhẹ như lá liễu, mượn lực phản kích của trái chùy lướt lên không trung, kiếm quang từ trên đâm thẳng xuống đầu Ung Chính.


Ung Chính lộn xuống đất một vòng, Phùng Anh lướt người tới, đâm ra xoạt xoạt hai kiếm. Nhưng Ung Chính cũng chẳng phải tay vừa, y né tránh đòn tấn công từ trên không đánh xuống của Phùng Anh, lập tức vung quyền phản công, Cáp Bố Đà quát lớn vung chùy đánh lên, chặn đường của Phùng Anh. Phùng Anh một mình địch hai, uy lực giảm xuống, Ung Chính cười ha hả định nhảy ra, Phùng Anh cười lạnh nói: “Ngươi còn muốn chạy? Nhìn xem ai đến đây!” Ung Chính dõng tai lắng nghe, bên ngoài có tiếng người ồn ào, trong tiếng người có tiếng hú dài, đó là tiếng hú của Thiên Diệp Tản Nhân, Ung Chính cười lớn: “Là người của trẫm, ngươi buông kiếm quy thuận, trẫm sẽ tha chết cho ngươi, nói không chừng sẽ phong ngươi làm quý nhân”. Phùng Anh lại cười lạnh: “Ngươi đúng là chết đến nơi mà không biết. Ngươi hãy nhìn xem người đó có phải là thị vệ của ngươi không?” trong đám cây um tùm, chợt phát ra một tiếng hú dài, một thiếu nữ áo trắng lướt xuống tựa như cưỡi gió, Ung Chính vừa nhìn đã hồn bay phách tán.


Té ra người đó chính là Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương rút kiếm ra khỏi bao, chặn đường Ung Chính, ngẩng mặt cười lớn nói: “Cha, hôm nay con gái báo thù cho cha đây!” tiếng cười nghe rất thê lương, Ung Chính thấy dựng cả tóc gáy, Cáp Bố Đà sợ đến nỗi luống cuống chân tay. Phùng Anh cầm kiếm bước dấn tới từng bước, Cáp Bố Đà cầm đồng chùy đứng bên cạnh Ung Chính, người cứ run bần bật, còn Ung Chính thì đứng sững sờ, lòng nghĩ cách thoát thân, khinh công của Lữ Tứ Nương cao hơn y rất nhiều, nếu y mạo hiểm bỏ chạy sẽ càng chết nhanh hơn.


Lữ Tứ Nương cầm kiếm bước dấn tới từng bước, Phùng Anh cũng kiếm ngưng thần, giúp Lữ Tứ Nương chặn đường rút lui của Ung Chính. Chợt nghe Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Lữ Tứ Nương khoan ra tay, ngươi nhìn đây là ai?” Phùng Anh kinh hãi kêu lên một tiếng, nhưng Ngạch Âm Hòa Bố đã bắt Phùng Lâm, lúc này nàng hai tay xụi lơ, đầu gục trên vai kẻ địch, hai mắt nhắm tịt, tựa như đã bị Ngạch Âm Hòa Bố điểm trúng huyệt đạo.


Lữ Tứ Nương thở dài một tiếng, mấy tháng qua nàng đã nhẫn nhục làm ả tì nữ chờ đợi cơ hội này, khi sắp trả được nợ nước thù nhà, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố đã chiếm trước tiên cơ, bắt Phùng Lâm làm con tin.


Ung Chính cười lạnh nói: “Lữ Tứ Nương nhà ngươi muốn gì? Có còn muốn phân cao thấp với trẫm nữa không?” Lữ Tứ Nương chĩa mũi kiếm xuống, tức giận nói: “Thả người của ta, ta tha chết cho ngươi”. Ung Chính nói: “Được, Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi đưa bọn chúng ra khỏi cung. Ha ha, Lữ Tứ Nương, trẫm không thể chiều theo!” rồi nháy mắt với Cáp Bố Đà, phất ống tay áo đang định dậm bước, Phùng Anh chợt kêu: “Khoan đã!” Ung Chính liếc mắt nhìn nàng, cười nói: “Ngươi còn muốn gì? Trẫm biết các ngươi là tỉ muội, ngươi không muốn giữ mạng cho muội muội của ngươi sao?” Phùng Anh nói: “Các ngươi quỷ kế đa đoan, ta không tin, ta phải xem trước muội muội của ta có phải đã trúng độc thủ hay không. Lữ tỉ tỉ, hãy trông chừng tên cẩu hoàng đế này”. Ung Chính nói: “Được, ngươi cứ việc xem”. Phùng Anh chậm rãi bước từng bước về phía Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố cười lớn: “Ngươi có phải là đệ tử của Dịch Lan Châu hay không, chả lẽ không biết cả thuật điểm huyệt? Ả đâu có bị thương gì!” Phùng Anh tới trước mặt Phùng Lâm, Phùng Anh chợt quát lớn một tiếng chưởng kiếm đều đẩy ra!


Điều đó khiến ai nấy đều bất ngờ, Lữ Tứ Nương muốn lướt tới chặn cũng không kịp. Chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố giở Phùng Lâm chặn lên phía trước, một luồng thanh quang từ cổ Phùng Lâm đâm xuyên qua, tiếp theo bốp một tiếng, một chưởng đã vỗ lên người Phùng Lâm. Lữ Tứ Nương kêu lên lạc giọng, chợt nghe Ngạch Âm Hòa Bố gầm lớn một tiếng, người Phùng Lâm bay lên không trung như một mũi tên, nhát kiếm của Phùng Anh đã đâm xuyên qua cổ họng của Ngạch Âm Hòa Bố, lập tức máu tuôn thành vòi. Ngạch Âm Hòa Bố giẫy giụa mấy cái rồi té xuống hồ sen.


Té ra Phùng Lâm thông hiểu các thủ pháp điểm huyệt của Hồng giáo Tây Tạng, vì đối phó với Ngạch Âm Hòa Bố cho nên hai tỉ muội đã luyện tập trước, Phùng Anh vừa nhìn thì biết ngay bảy huyệt Nhuyễn Ma của Phùng Lâm đã bị Ngạch Âm Hòa Bố điểm trúng, muốn giải huyệt không khó nhưng Phùng Lâm đang ở trong tay của một người võ công cao cường, muốn giải từng huyệt cho nàng không phải chuyện dễ. Phùng Anh vốn không dám mạo hiểm, nhưng vì nghĩ đến nợ nước thù nhà, khó khăn lắm mới có được cơ hội tốt thế này, nếu bị y kiềm chế há chẳng phải công cốc hay sao? Trong Thiên Sơn kiếm pháp có một chiêu gọi là Thất Tinh Tụ Hội, có thể trong chớp mắt liên tục đâm vào bảy huyệt đạo, nhưng như thế cần phải có nội công thượng thừa nhất, có thể dồn chân lực nội gia vào mũi kiếm, khi gặp cơ hội là có thể ra tay. Hai năm qua Phùng Anh khổ luyện ở Thiên Sơn, chiêu này cũng đạt được bảy thành hỏa hầu. Trong lúc cực kỳ nguy hiểm, nàng không còn thời gian nghĩ ngợi, lập tức biến thủ pháp dùng mũi kiếm đâm huyệt thành phương pháp dùng ngón tay giải huyệt, kiếm chiêu vẫn là chiêu số trong chùy phong kiếm pháp. Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ Phùng Anh dám mạo hiểm như thế, trong lúc luống cuống đã giơ Phùng Lâm lên đỡ, thế là mắc lừa Phùng Anh, nhát kiếm của Phùng Anh tựa như gió, trong khoảnh khắc như chớp mắt, đã lướt qua cổ của Phùng Lâm, đâm thẳng vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, đang lúc kịch biến xảy ra, Ngạch Âm Hòa Bố cúi đầu xuống, dùng hai tay dẫn vào thân kiếm đẩy bảo kiếm của Phùng Anh ra ngoài; nhưng vì đối phó với đòn đột kích của Phùng Anh, ánh mắt của Ngạch Âm Hòa Bố đã bị che lại, trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt ấy, Phùng Anh đã giải huyệt đạo cho Phùng Lâm. Phùng Lâm vừa được giải huyệt đạo, võ công đã được hồi phục. Nàng vốn gục đầu trên vai của Ngạch Âm Hòa Bố, hai tay buông xuôi xuống, nơi ngón tay chạm phải chính là huyệt Khảm Thủy Ly Hỏa của Ngạch Âm Hòa Bố, nàng lập tức thừa cơ điểm vào, phá khí công của Ngạch Âm Hòa Bố rồi phóng lướt người lên. Phùng Anh bồi thêm một kiếm, thế là đệ nhất cao thủ của Hồng giáo Tây Tạng hồn lìa khỏi xác.


Ung Chính thấy Phùng Anh tấn công bất ngờ, Lữ Tứ Nương kêu hoảng, lập tức phóng người vọt đi. Không ngờ Phùng Lâm hạ xuống trước mặt Ung Chính, thừa thế đẩy ra hai chưởng. Ung Chính trầm vai xuống lách người qua, Phùng Lâm chưa kịp ra tay y đã thừa thế vặn cánh tay nàng, định bắt nàng làm con tin như Ngạch Âm Hòa Bố, chợt nghe một tiếng kêu thảm vang lên, nghĩ bụng chắc là Cáp Bố Đà đã chết dưới kiếm của Lữ Tứ Nương, y run lên bần bật, chỉ cảm thấy gió lạnh lướt tới, ánh ngân quang lóe lên, Lữ Tứ Nương đã lướt tới trước mặt, Ung Chính buông tay Phùng Lâm, định xuất chiêu tấn công, nhưng nào kịp nữa, Lữ Tứ Nương đã ra tay nhanh như điện chớp, chụp trúng mạch môn của y, khiến y chẳng thể động đậy nỗi, ngay lúc này, bọn thị vệ bên ngoài cung Thúy Hoa đã chạy vào, kẻ đi đầu là Thiên Diệp Tản Nhân.


Lữ Tứ Nương bắt được Hoàng đế, lớn giọng quát: “Tên bạo quân này đáng cho các ngươi bán mạng sao? Niên Canh Nghiêu có kết cuộc như thế nào? Vậy những kẻ bên cạnh y có được mấy kẻ thoát chết? Chả lẽ các ngươi không biết những điều này sao? Khi y còn sống, các ngươi có thể sẽ sợ y, nhưng nay y đã sắp đầu rơi khỏi cổ, chết chẳng nhắm mắt, chẳng thể làm oai làm phúc được nữa, các ngươi cần gì phải chịu chết vì y?”


Lữ Tứ Nương nói xong, ngửa mặt cười lớn: “Gia gia, cha, tất cả những chiến sĩ chết vì tên hung quân này, hôm nay Lữ oánh trả thù cho các người!” rồi kiếm quang lia lên, cắt phăng đầu của Ung Chính, Thiên Diệp Tản Nhân kêu hoảng định chạy tới, Lữ Tứ Nương đã gằng giọng nói: “Ai muốn chôn cùng tên hung quân này, xin mời đến thử kiếm! Hừ, Thiên Diệp Tản Nhân, ngươi là tông chủ của một phái nhưng tham công danh phú quý, bán mạng cho hung quân, không biết hỗ thẹn hay sao? Nghĩ tình ngươi bình sinh chẳng làm điều chi đại ác, hãy về núi mau, ta tha chết cho ngươi. Nếu ngươi muốn động thủ, hãy xem thử võ công có bằng Ngạch Âm Hòa Bố và Cáp Bố Đà hay không!”


Thiên Diệp Tản Nhân chùn bước, có mười tên Huyết Trích Tử không biết sống chết phóng ra ám khí, mười trái cầu bay tới, Phùng Lâm kêu: “Giỏi lắm!” rồi vung tay phát ra mười hai mũi phi đao đánh rơi hết số Huyết Trích Tử. Mỗi trán Huyết Trích Tử đều có mười hai mũi phi đao, lúc này phi đao đã bay ra như mưa. Lữ Tứ Nương cười lạnh, lướt người lên phóng vào màng mưa phi đao, chỉ trong chớp mắt đã chụp được mười mấy mũi trủy thủ bắn ngược trở về, khi nàng lướt người lên rồi hạ xuống đất, đã liên tục phóng ra mười mấy mũi phi đao, giết chết toàn bộ bọn Huyết Trích Tử. Bọn thị vệ ù té chạy ra, Thiên Diệp Tản Nhân cũng chạy mất dạng. Lữ Tứ Nương cưới lớn rồi cùng Phùng Anh và Phùng Lâm phóng lên mái ngói chạy ra ngoài cung. Lúc này trời đã sắp sáng.


Mười ngày sau, ở miền Sơn Đông có xuất hiện bốn người nam và ba người nữ, ba người nữ chính là tam nữ hiệp danh chấn giang hồ Lữ Tứ Nương, Phùng Anh, Phùng Lâm. Bốn người nam là Cam Phụng Trì, Thẩm Tại Khoan, Đường Hiểu Lan và Lý Trị. Sau khi ba nữ hiệp giết chết Ung Chính, quần hùng tụ tập trên Bát Đạt Lĩnh đợi tin tức, khi Lữ Tứ Nương thành công trở về mới tản đi. Trong đó Quan Đông tam hiệp ra quan ngoại, cha con Ngư Xác và Bạch Thái Quan dong buồm ra biển, Lộ Dân Đảm cùng Lý Minh Châu quy ẩn điền viên, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì trở về Mang Sơn, nhưng Đường Hiểu Lan vẫn chưa hết tâm sự, đến Sơn Đông, định rằng sau khi tế mộ Dương Trọng Anh sẽ trở về Thiên Sơn. Lữ Tứ Nương và chàng tình như tỉ đệ, khi lúc chia tay cũng không nỡ rời nên mới cùng chàng đi một chuyến.


Lúc này đang là tháng chín mùa thu trời mát mẻ, bao nhiêu chuyện ân thù đã giải quyết xong, cả bọn đang phóng ngựa lao về phía trước, không biết từ lúc nào Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan đã lọt ở phía sau.


Đường Hiểu Lan và Cam Phụng Trì quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan chậm rãi dong ngựa đi bên nhau trông rất âu yếm. Cam Phụng Trì mỉm cười, bảo mọi người kiềm cương ngựa đi chậm lại.


Thẩm Tại Khoan chờ đợi mười năm, lúc này đang lòng hoa nở rộ, mừng đến nỗi chẳng biết nói gì. Lữ Tứ Nương nhoẽn miệng cười, khẽ nói: “Huynh đang nghĩ gì thế?” Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh thấy giờ đây mình thật hạnh phúc”. Lữ Tứ Nương bật cười, trông nàng rạng rỡ như hoa mùa xuân, Thẩm Tại Khoan nhìn mà ngất ngây.


Đường Hiểu Lan thấy Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan âu yếm nhau, nghĩ đến chuyện tình cảm của mình, bất giác đau lòng. Chàng vốn yêu Phùng Anh, nhưng vì có chuyện Dương Liễu Thanh nên chẳng dám tiến thêm. Phùng Anh hồn nhiên vô tư, tuy không nghĩ đến tình nam nữ thế tục nhưng thấy chàng như thế cũng rất lo.


Lữ Tứ Nương thúc ngựa lên phía trước cười nói: “Tiểu đệ, đệ đang nghĩ gì thế?” Đường Hiểu Lan nói: “Không, đệ chỉ nghĩ đến tình nghiệt lúc trước”. Lữ Tứ Nương nói: “Chuyện gì đã qua thì cứ cho nó qua. Người chết không thể sống lại, sao đệ phải phụ một tấm lòng?” Đường Hiểu Lan nói: “Tình duyên này đã trôi theo dòng nước, làm sao nhìn người mới mà nhớ người cũ? Đệ và Dương Liễu Thanh tuy không có chân tình nhưng nàng vì đệ mà chết, đệ làm sao có thể quên nàng? E rằng suốt đời khó trút bỏ được tâm sự này. Nếu cứ như thế mà đệ đến với Phùng Anh, chẳng phải đệ có lỗi với nàng sao?” Lữ Tứ Nương thở dài, tâm bệnh khó trị, đúng là không lời nào có thể giải nỗi.


Cam Phụng Trì ho một tiếng, chỉ ra nói: “Nhìn xem, chúng ta đi thật mau, đã sắp tới Dương gia trang!” mọi người nhìn chỉ thấy trên con dốc nhỏ, có tòa nhà ẩn hiện dưới rặng liễu, cảnh vật vẫn như năm xưa, có điều cha con Dương Trọng Anh đã không còn nữa.


Đường Hiểu Lan thấy sóng mũi cay cay, cùng mọi người buộc ngựa rồi lên sườn núi, chỉ thấy dưới chân núi có một cái hồ nhỏ, nước hồ phẳng lặng nhưng cảnh Dương Liễu Thanh bị lũ cuốn xuống hồ như hiện ra trước mắt chàng. Cam Phụng Trì kêu ồ một tiếng, nói: “Trước cửa trông rất sạch sẽ, chả lẽ bên trong có người?” Phùng Anh cũng lấy làm lạ, kéo Đường Hiểu Lan nói: “Vào xem thử ai đã quét dọn nơi này?” Đường Hiểu Lan lau nước mắt, lặng lẽ đẩy cửa, chợt thấy có một thiếu phụ bước ra, Đường Hiểu Lan bất giác mặt biến sắc.


Thiếu phụ này chính là Dương Liễu Thanh, nàng vừa gặp Đường Hiểu Lan cũng không khỏi đổi sắc mặt, cả hai người đứng ngẩng ra, vừa kinh vừa mừng, rất lâu sau mới nói nên lời. Dương Liễu Thanh chợt mỉm cười nói: “Hơn ba năm không gặp, huynh khỏe chứ! Còn Phùng Anh cũng cao thế nay rồi ư!” rồi bước tới nắm tay Phùng Anh, thần thái trông vừa phóng khoáng vừa thân mật. Đường Hiểu Lan không khỏi ngạc nhiên, chẳng ngờ nàng đã hoàn toàn thay đổi! Phùng Anh mừng rỡ nói: “Cô cô, ngày hôm ấy cô cô bị nước lũ cuốn đi thật khiến chúng tôi lo lắng, giờ đã tốt rồi, các người...” Phùng Anh thấy Dương Liễu Thanh còn sống, trong lòng thực sự vui mừng, lúc này nàng hoàn toàn gác tình riêng sang một bên, đang muốn chúc mừng nàng và Dương Liễu Thanh gặp lại nhau, nhưng không biết mở lời thế nào, mặt đỏ ửng, Dương Liễu Thanh chợt cười nói: “Hiểu Lan, ở đây còn có một người bằng hữu của huynh”. Rồi cao giọng nói: “Tích Cửu, hài nhi hãy ra đây!” có người bước ra, đó chính là trâu Tích Cửu, người đã cầu hôn Dương Liễu Thanh năm xưa, y đang bế một đứa bé gái khoảng hai tuổi.


Té ra cái hồ ở phía sau nhà Dương Liễu Thanh thông ra sông Lạc ở bên ngoài, ngày hôm ấy Dương Liễu Thanh bị nước lũ cuốn đi đẩy ra sông Lạc, chính là lúc Tháp Dực Thần Sư Châu Minh cao và con trai của ông ta Trâu Tích Cửu vì nghe tin Dương Trọng Anh bị tàn phế nên chèo thuyền đến thăm, nhờ thế cứu được nàng,


Lần đó Dương Liễu Thanh bị trọng thương, đến khi khỏi bệnh, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh đã trở lại Thiên Sơn.


Bao nhiêu năm qua, Trâu Tích Cửu vẫn giữ mãi hình bóng Dương Liễu Thanh trong lòng, bởi vậy y chăm sóc nàng rất tận tâm. Dương Liễu Thanh ngẫm nghĩ thấy trước giờ mình chỉ yêu đơn phương chứ Đường Hiểu Lan nào có tình ý gì với mình. Lâu ngày, nàng và Trâu Tích Cửu nảy sinh tình cảm.


Đường Hiểu Lan không ngờ mọi chuyện đã thay đổi, mối gút mắc trong lòng đã tháo gỡ, chàng nắm tay Trâu Tích Cửu, chân thành chúc mừng cho họ.


Mọi người ở nhà họ Dương vài ngày rồi ai đi đường nấy. Phùng Anh, Phùng Lâm, Lý Trị và Đường Hiểu Lan trở lại Thiên Sơn, Lữ Tứ Nương cùng Thẩm Tại Khoan lên Mang Sơn ẩn cư, rèn võ luyện văn, hưởng hạnh phúc nhân gian. Cam Phụng Trì trở thành một bậc tôn sư võ học, truyền dạy nhiều đệ tử. Giang hồ tam nữ hiệp tuy trải nhiều cam go trắc trở nhưng cuối cùng đều có kết cuộc tốt. Chính là:


“Tự thủy nhu tình, như hoa mỹ quyến, thiên thu giai thoại nhân tranh tiễn, y nhân yến tử hựu quy lai, thương tang biến liễu, nan nhân biến.


Liễu tự khinh phiêu, xuân phong phất diện, từ tiên bất tả Văn Quân oán, Giang Nam Tái Ngoại nhất ban đồng, bích ba thâm xứ uyên ương kiến”.


Tạm dịch:


“Tình này như nước, nghĩa như hoa, giai thoại ngàn năm người thèm nghe, theo người chim én bay về tổ, bãi bể nương dâu lòng chẳng thay.


Tơ liễu đưa nhẹ, gió xuân vờn, lời từ khôn tả Văn Quân oán, Giang Nam Tái Ngoại khác gì nhau, non xanh nước biếc uyên ương đùa”


---- Theo điệu “Đạp sa hành”


HẾT

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 2 trong tổng số 2 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết