Lạ thế! Khi đã vào cuộc rồi, mọi cái hỗn mang đều vất lại đằng sau hết, trong đầu chỉ phừng lên ngọn lửa quyết chiến xen lẫn hận thù tàn bạo. Đêm thứ hai, hệt một con thú bị thủng ruột, say máu, liếm máu, chính tôi dẫn hai tay súng nữa ra đi.
Lần này có khá hơn một chút ở giai đoạn đầu. Nhưng rồi cái kết cục bi thảm vẫn không thể tránh khỏi. Sắp vào đến hàng rào chót cùng, tức là sắp sờ được vào gan ruột phổi phèo của nó để chuẩn bị thọc dao kết liễu thì bất ngờ người lính bò đầu bật ho lên một tiếng. Trời ơi, giữa đêm khuya vắng lặng, nằm sát ngay chân thằng gác, chỉ cần sôi bụng, đánh rắm lên một cái cũng đủ bỏ mạng huống chi đây lại là ho! Lạnh quá mà ho, yếu quá sinh ho hay kiệt sức, chán đời, mệt mỏi quá mà ho lên một tiếng rồi chết đi cho đỡ khổ? Chưa ai đoán chắc được điều gì và cũng có thể có tất cả mọi điều, chỉ hay rằng, lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất. Ở giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!
Tôi gằn giọng nói vào mặt ông tham mưu phó tuy hai đêm vừa rồi có đi theo nhưng không quyết định được điều gì:
- Ông thấy cả rồi chứ, ông trung tá? Nữa hay thôi?
- Tuỳ! - Ông ta trả lời như người bị mộng du bệnh hoạn.
- Tuỳ hả? - Tôi bấu chặt tay vào hai đùi để tránh một hành động bột phát không kiềm chế được - Vậy thì đồng chí có thể báo cáo thẳng lên trên, tôi, Lê Văn Hùng, đội trưởng đội đặc nhiệm quyết định huỷ bỏ mục tiêu. Rút!
Đi sau cái cáng tử sĩ trên đường về cứ, cái bóng gầy guộc của ông ta cứ ngã lên ngã xuống, thỉnh thoảng lại làu bàu: “Cái cậu này... Cái cậu này... Đã có gì đâu mà dữ vậy...”.
Rất may là hai đêm nay không có Sương đi theo - Cô ấy đang lên cơn sốt rét - Nếu không, bằng cái nhìn nhức nhối không thể hiểu nổi của em, bằng sự mệt mỏi, chán ngán đến tận kẽ răng và bằng cái nỗi đau hai sinh mạng đi tong không nguyên cớ, tôi dám quay lại xách cổ ông ta dậy quẳng mạnh về phía trước lắm. Nhưng một khi đã không quẳng thì lại thấy thương. Nói cho cùng ông ta cũng chỉ là chi tiết máy trong một guồng máy chiến tranh không thể cưỡng được. Nghĩ vậy, tôi lui lại, giúi vào tay ông ta cái đèn pin và không muốn nói thêm một lời nào nữa.
***
Năm 73 là năm xấu chơi của kẻ thù, là năm trục trặc nếu không muốn nói là bất hạnh của dân tộc, cũng là năm quá đỗi nhọc nhằn của riêng tôi, tất nhiên đối với kiếp lính thì năm nào chả nhọc nhằn, ê ẩm.
Mười ngày sau cái đêm ho hen ấy, cậu bé giao liên nhanh nhẹn và sống dai nhất trong màng lưới giao liên toàn địa bàn đã làm một cú cắt rừng tuyệt vời để đến được nơi tôi với cái lệnh triệu tập khẩn không mấy tuyệt vời trên tay. Cùng được triệu tập lên trên với tôi, cậu ta cho hay còn có Ba Sương và ông Ba Tiến.
Cuối cùng cậu ta ghé tai tôi nói nhỏ: “Bình tĩnh nghe anh Hai!... Em nghe xì xào kỳ này mấy chú ở trên tính mần thịt anh đó. Anh Hai tính sao thì tính nhưng ráng giữ cái đầu cho ngon nhen! Em cũng nghe người ta nói, không có anh Hai chịu chơi thì ba cái cụm rừng giáp ranh này sức mấy mà giữ được. Em phục lắm. Cánh giao liên ngang dọc tụi em cũng phục lắm. Cho nên không ai muốn anh Hai gặp khó dễ trong vụ này đâu”. Tôi ôm ghì lấy cậu bé, thơm vào má nó một cái rõ kêu mà lòng dạ trào lên cái mùi vị cay đắng xen lẫn chút bùi ngùi. Tới đây, dù số phận tôi có hẩm hiu như thế nào, dù còn sống hay chết, song ít nhất tôi cũng có một số đông bạn bè hiểu tôi, thương tôi và tin cậy ở tôi. Cậu bé giao liên đáng yêu này tên là Quân, mười bốn tuổi, cha mẹ đều chết hết trong phong trào đồng khởi. Sau lần này, Quân được trên cho đi học văn hoá ở đâu không biết, tôi không có dịp gặp lại nữa.
Lần này có khá hơn một chút ở giai đoạn đầu. Nhưng rồi cái kết cục bi thảm vẫn không thể tránh khỏi. Sắp vào đến hàng rào chót cùng, tức là sắp sờ được vào gan ruột phổi phèo của nó để chuẩn bị thọc dao kết liễu thì bất ngờ người lính bò đầu bật ho lên một tiếng. Trời ơi, giữa đêm khuya vắng lặng, nằm sát ngay chân thằng gác, chỉ cần sôi bụng, đánh rắm lên một cái cũng đủ bỏ mạng huống chi đây lại là ho! Lạnh quá mà ho, yếu quá sinh ho hay kiệt sức, chán đời, mệt mỏi quá mà ho lên một tiếng rồi chết đi cho đỡ khổ? Chưa ai đoán chắc được điều gì và cũng có thể có tất cả mọi điều, chỉ hay rằng, lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất. Ở giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!
Tôi gằn giọng nói vào mặt ông tham mưu phó tuy hai đêm vừa rồi có đi theo nhưng không quyết định được điều gì:
- Ông thấy cả rồi chứ, ông trung tá? Nữa hay thôi?
- Tuỳ! - Ông ta trả lời như người bị mộng du bệnh hoạn.
- Tuỳ hả? - Tôi bấu chặt tay vào hai đùi để tránh một hành động bột phát không kiềm chế được - Vậy thì đồng chí có thể báo cáo thẳng lên trên, tôi, Lê Văn Hùng, đội trưởng đội đặc nhiệm quyết định huỷ bỏ mục tiêu. Rút!
Đi sau cái cáng tử sĩ trên đường về cứ, cái bóng gầy guộc của ông ta cứ ngã lên ngã xuống, thỉnh thoảng lại làu bàu: “Cái cậu này... Cái cậu này... Đã có gì đâu mà dữ vậy...”.
Rất may là hai đêm nay không có Sương đi theo - Cô ấy đang lên cơn sốt rét - Nếu không, bằng cái nhìn nhức nhối không thể hiểu nổi của em, bằng sự mệt mỏi, chán ngán đến tận kẽ răng và bằng cái nỗi đau hai sinh mạng đi tong không nguyên cớ, tôi dám quay lại xách cổ ông ta dậy quẳng mạnh về phía trước lắm. Nhưng một khi đã không quẳng thì lại thấy thương. Nói cho cùng ông ta cũng chỉ là chi tiết máy trong một guồng máy chiến tranh không thể cưỡng được. Nghĩ vậy, tôi lui lại, giúi vào tay ông ta cái đèn pin và không muốn nói thêm một lời nào nữa.
***
Năm 73 là năm xấu chơi của kẻ thù, là năm trục trặc nếu không muốn nói là bất hạnh của dân tộc, cũng là năm quá đỗi nhọc nhằn của riêng tôi, tất nhiên đối với kiếp lính thì năm nào chả nhọc nhằn, ê ẩm.
Mười ngày sau cái đêm ho hen ấy, cậu bé giao liên nhanh nhẹn và sống dai nhất trong màng lưới giao liên toàn địa bàn đã làm một cú cắt rừng tuyệt vời để đến được nơi tôi với cái lệnh triệu tập khẩn không mấy tuyệt vời trên tay. Cùng được triệu tập lên trên với tôi, cậu ta cho hay còn có Ba Sương và ông Ba Tiến.
Cuối cùng cậu ta ghé tai tôi nói nhỏ: “Bình tĩnh nghe anh Hai!... Em nghe xì xào kỳ này mấy chú ở trên tính mần thịt anh đó. Anh Hai tính sao thì tính nhưng ráng giữ cái đầu cho ngon nhen! Em cũng nghe người ta nói, không có anh Hai chịu chơi thì ba cái cụm rừng giáp ranh này sức mấy mà giữ được. Em phục lắm. Cánh giao liên ngang dọc tụi em cũng phục lắm. Cho nên không ai muốn anh Hai gặp khó dễ trong vụ này đâu”. Tôi ôm ghì lấy cậu bé, thơm vào má nó một cái rõ kêu mà lòng dạ trào lên cái mùi vị cay đắng xen lẫn chút bùi ngùi. Tới đây, dù số phận tôi có hẩm hiu như thế nào, dù còn sống hay chết, song ít nhất tôi cũng có một số đông bạn bè hiểu tôi, thương tôi và tin cậy ở tôi. Cậu bé giao liên đáng yêu này tên là Quân, mười bốn tuổi, cha mẹ đều chết hết trong phong trào đồng khởi. Sau lần này, Quân được trên cho đi học văn hoá ở đâu không biết, tôi không có dịp gặp lại nữa.